TỤC NHẤT THIẾT KINH ÂM NGHĨA

Yên Kinh – chùa Sùng Nhơn – Sa-môn Hy Lâm soạn.
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

QUYỂN 5

Quyển này âm nghĩa các quyển sâu đây:

– Tục Âm Tân Dịch Nhân Vương Hộ Quốc Bát-nhã Ba-la-mật-đa Kinh hai quyển.

– Đại Oai Lực Ô Khu Sắc Ma Minh Vương Kinh ba quyển.

– Kim Cang Đảnh Chân Thật Đại Giáo Vương Kinh ba quyển.

– Kim Cang Đảnh Tu Tập Tỳ-lô-giá-na Tam-ma-địa Pháp một quyển.

– Kim Cang Khủng Bố Tối Thắng Tâm Minh Vương Kinh một quyển.

– Bất Động Sứ Giả Đà-la-ni Bí Mật Pháp một quyển.

– Phổ Biến Trí Tạng Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm Kinh một quyển.

– Quán Tự Tại Đa-la Bồ-tát Kinh một quyển.

– Nhất Tự Kỳ Đặc Phật Đảnh Kinh ba quyển.

– A Lợi Đa La A Lỗ Lực Kinh một quyển

– Kim Cang Đảnh Du Già Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát Kinh một quyển

– Để Rị Tam-muội Da Bất Động Sứ Giả Niệm Tụng Kinh một quyển.

– Đại Phương Quảng Quán Thế Âm Bồ-tát Thọ Ký Kinh một quyển.

– Bồ-đề Tràng Sở Thuyết Nhất Tự Đảnh Luân Vương Kinh năm quyển.

– Thập Nhất Diệu Quán Tự Tại Bồ-tát Bí Mật Nghi Quỉ Kinh ba quyển.

– Xuất Sanh Vô Biên Môn Đà-la-ni Kinh một quyển.

– Đại Cát Tường Thiên Nữ Vô Cấu Đại Thừa Kinh một quyển.

– Đại Cát Tường Thiên Nữ Thập Nhị Danh Hiệu Kinh một quyển.

– Nhất Thiết Như Lai Kim Cang Thọ Mạng Đà-la-ni Kinh một quyển

– Kim Cang Đảng Du Già Thập Bát Hội Chỉ Qui một quyển.

– Du Già Niệm Châu Kinh một quyển.

– Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán một quyển.

– Đại Tập Địa Tạng Bồ-tát Vấn Pháp Thân Tán một quyển.

– Kim Cang Đảnh Lý Thú Bát-nhã Kinh một quyển.

Cả hai mươi bốn kinh trên gồm ba mươi bảy quyển đều trong một quyển này.

 

TÂN DỊCH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT-NHÃ BA-LA-MẬT-ĐA KINH

QUYỂN 1

– Hoàng hỷ – Hoàng là lớn, cứu cho chánh. Hoàng hỷ là lớn lao chánh đại thay

Miên lạc – trải lưới, bao gồm hết (?) La trạo – lưới bắt chim bắt cá.

Vĩnh mạt – Vĩnh là lặn đi. Mạt là bơi trên mặt nước, là bơi lặn.

Ngũ thủy – khí tượng chưa phân gọi là Thái dịch, nguyên khí mới tan gọi là Thái sơ, đầu mối khí tượng gọi là Thái thủy, hình biến thật có gọi là Thái tố, chất hình đã đủ gọi là Thái cực là năm thủy (năm cái bắt đầu).

Triệt chẩm – triệt là trừ bỏ kéo ra. Chẩm là cái gối – bỏ gối.

Át khấu – ngăn giặc, ngăn bạo ác.

Trứ tinh thần – Chư Dịch nói: Trứ minh là nhật nguyệt, trứ mà không dứt là trời, trứ mà không động là đất. Trứ minh là lập, thành Tinh là là các sao, hai mươi tám sao, bảy sao đến một ngàn bốn trăm sáu mươi bốn (1). Thần là sao Bắc đẩu. Ý phù – là than ôi.

Miễn tầm – là suy tìm. Ba Tư, tức vua Ba-tư-nặc nói tắt, gọi đúng là Bát-la-tdê-na-thệ-đa, dịch là Thắng Quân tức người thỉnh Phật nói pháp, là người nội hộ ngoại hộ.

Vĩnh khư – là rút bỏ mãi. Nãi tân – là bến.

Để du – Đề là màu hồng (đỏ vàng) du là dầu, tức lụa màu hồng để ghi việc. Khiên thường – vén áo.

Đại lộ – Các xe to, tượng trưng cho Thiên tử. Ốc trẩm – tốt đẹp mua lòng ta.

Sắc chuế – đòi hỏi liên tục. Tập dư – nói theo ta – liệm ta.

Chi lại – là ông tiêu, lớn thì có hai mươi bốn ống dài một thước bốn tấc, nhỏ thì có mười sáu ống dài một thước hai tấc, có hai đáy. Hoặc nói là tiêu ba lỗ.

Loan cức – cây loan gai – gai cây loa. Bậc ngã – giúp đỡ tôi.

Lương Bí – là tên một vị Tăng. Thường cổn – tên họ một hàn lâm học sĩ.

Ốc tạm – Cái bảng mỗi bề hai thước để ghi việc. Thúy trách – sâu xa.

Giảo (giác) nhiên – so sánh mà biết. Câu sách – tìm tòi, nhắt lấy.

Niếp kim – đuổi theo vàng, đạp giẫm lên vàng.

– Oán võ – giấu hận trong lòng mà vỗ đánh.

– Chiên mông tuế. Thái tuế ở ngày ất chiên mông ở ngày tỵ thì Thái hoang rơi. Đại Tông Hoàng đế năm Quảng Đức ba Giáp thìn đổi năm đầu Vĩnh Thái thành năm thứ hai tức là năm Chiên Mông vậy. Đến nay là năm Thống Hòa năm Đinh hợi được hai trăm hai mươi ba (223) năm vậy.

Mộc cẩu vinh nguyệt – cây cận (cây dâm bụt) giống cây lý, có hoa như thục quì màu tía sáng nở tối tàn. Hoa này mùa Hạ tháng 0 mới rộ – Nhân Vương Bát-nhã Niệm Tụng Nghi Quỉ có ghi tháng 04 mùa Hạ ở Đào viên dịch kinh này.

Thứ phong – là núi Linh thứ (trên ngọn có nhiều chim Thứu) tiếng Phạm gọi là Kỳ-xà-quật hoặc Cật-lật-đà-la-cự-tra, ở bên thành Vương xá.

Thất-la-phiệt – là nước Xá-vệ, gọi đúng là Thất-la-phiệt-tất-để dịch là Hiểu đạo hoặc Văn vật tức chỗ vua Ba-tư-nặc ở đầu tiên.

– Kỹ nghệ – tài năng, tài nghệ, nghề khéo.

– Tỳ-kheo – tiếng Phạm gọi là Bí-sô, có năm Mục-liên là Bố ma, Khất sĩ, Tịnh mạng, Tịnh giới, Phá ác. Tỳ-kheo ni tức bí-sô nữ.

– Ưu-bà-tắc – tiếng Phạm gọi đúng là Ổ-ba-sách-ca. Ổ-ba dịch là cận, ca dịch là sự, sách dịch là nam. Tức cận sự nam là người nam thọ giới gần gũi phụng sự Tam bảo.

– Ưu-bà-di – gọi đúng là Ổ-ba-tư-ca, tư là nữ, tức cận sự nữ, là người nữ thọ giới gần gũi phụng sự Tam bảo.

Thiệm bộ châu – hoặc gọi Thiệm phù, Diêm-phù-đề, Diêm-phùlợi, gọi đúng là tiềm mô? – Lập thế A-tỳ-đàm Luận nói có cây Thiệm bộ sanh ở bờ Bắc châu này ở bờ Nam sông Nê-dân-đà-la, tư trung tâm châu này đến bờ Bắc, ở dưới đáy cây này có vàng ròng Thiệm bộ, cây nhân vàng mà được tên, châu nhân cây mà được tên là Thiệm bộ châu.

Na-dũ-đa – hoặc gọi na-do-tha là số đếm, tức là ức ở cõi này.

 

TÂN DỊCH NHÂN VƯƠNG HỘ QUỐC BÁT-NHÃ

BA-LA-MẬT-ĐA KINH

QUYỂN 2

Sửu giới – là gông cùm (cùm tay là sửu, cùm chân là giới).

Già tỏa – gông cùm xiềng xích, ống khóa.

Kiểm hệ – là kiểm xét, bó buộc, cột trói.

Ma-ha-ca-la – Ma-ha dịch là lớn, ca-la dịch là hắc. Kinh gọi Maha-ca-la là Đại Hắc Thiên Thần. Thần này sắc mây xanh đen, số vô lượng tuổi, có tám tay cầm binh khí khác nhau, xỏ đầu lâu làm chuỗi, dáng điệu giận dữ, dưới có thần đất và nữ thiên hai tay nâng chân.

Sang vưu – ghẻ nhọt ung bướu.

Nhật nguyệt thất (mất) độ – Sầm Tử nói: mặt trời một năm một vòng, mặt trăng một tháng một vòng. Kim Quỉ kinh nói: mặt trăng chủ tai họa, mặt trời chủ phước đức. Lấy ngày Đông chí ở đấu hai mươi mốt độ bốn phần một độ. Ngày Xuân phân ở (?) mười bốn độ, ngày Hạ chí ở Đông tỉnh là hai mươi sáu độ, ngày Thu phân ở Giác hai độ bốn phần một độ. Sau với đây là mất độ.

Bạc thực – là nguyệt thực và nhật thực (mặt trời mặt trăng bị che khuất).

Tuệ tinh – là sao chổi cũng gọi Bột tinh.

Mộc tinh – có sắc xanh, tánh là nhân đi xuôi thì phước, đi nghịch thì tai ương, mười hai năm hết một vòng. Phàm 83,7 năm là hết bảy vòng.

Hỏa tinh – sắc đó, tánh là lễ, chấp pháp. Sáng thì quốc thái dân an, tối thì có binh ngoài xâm nhập. Hai năm đi hết một vòng bảy trăm tám mươi (780) một lần thấy. Bảy 79,37 năm đi hết mười hai vòng.

Kim tinh – là sao Thái bạch, sắc trắng, tánh mạnh mẽ, tượng dũng tướng quân, một năm đi một vòng, hai trăm hai mươi bốn (2) ngày thấy nó hiện ở phương Tây.

Thủy tinh – sắc nó đen, tánh là trí, bốn mùa đều thấy. Sáng nhuận thì trúng mùa dân vui, không thế thì hạn hán.

Thổ tinh – sắc nó vàng, tánh là tín, tượng nữ chủ, đi thuận và sáng

thì có phước, đi loạn sắc đỏ trắng thì thiên hạ có binh đao. Hai mươi chín năm đi nửa vòng, ba trăm bảy mươi tám (378) ngày thấy một lần. 9,17 năm thì hết một vòng, thấy nó ở phương Đông.

Phiếm trướng – phù phiếm, trôi nổi, nước dâng tràn.

Khang dương – Dương cao tột, có hạn hán. Ký tịch – ghi sổ sách. Giáng chú – mưa phải thời. Hàm thạnh – đầy chật.

 

ĐẠI OAI LỰC Ô KHU SẮC MA MINH VƯƠNG KINH

QUYỂN 1

Ma-hê-thủ-la – Đại Tự Tại Thiên Vương là chủ cõi trời Sắc giới.

Ủy trì – đi quanh co, tràn đầy.

Ô-xu-sắc-ma – hoặc Ô-xu-sa-ma dịch là dơ dáy, bất tịnh mới dịch là trừ dẹp giận dữ. Theo Du già thì hiện hai thân mà nhiếp hóa, là một thân đoan nghiêm, và một thân giận dữ khiến sợ.

Tuyến binh – chang dây đo thẳng. Tần túc – buồn rầu.

Quan kiện – cây gài cửa, đóng cửa.

Trịch trục diệp – tên là cây thuốc có độc, tháng ba hái hoa sắc vàng hoặc năm sắc, dê lầm ăn vào đi quanh quẩn mà chết. Dụng diệp – Bạch Điệp Tây Vức rất chuộng (điệp: áo kép?) Ban ngân – vết sẹo. Tuần hình – ẩn hình, trốn mất.

Diệp quả – quả là bọc bọc, diệp là lá đồng vàng bạc – mặc áo bằng lá đồng vàng bạc cán mỏng ra.

Chế đế – hoặc gọi Chi đề, dịch là chứa nhóm, tức là tháp miếu có nghĩa là nôi Phật Niết-bàn hay thuyết pháp… mà xây tháp miếu thì nơi ấy là chỗ chứa nhóm phước đức của trời người khiếm mọi người chứa nhóm phước đức.

Tử cảnh – là tên cây thuốc, lấy vỏ cây và lá nấu làm thuốc.

Sảo đạo – là lúa gạo. Ma tra: cây mè gai, vải gai dệt áo.

Cổ dương – con dê đen – cái đùi dê. Giao nha – răng nanh.

Niết xỉ – mòn răng – cắn. Hổ bì quẩn – cái quần da cọp.

Mộc thuyết – cái cọc, cái chốt cửa.

Sách lượng – hủy bỏ, lấy tay nâng vật lên.

Huyễn phích – bịnh sình bụng – kết khối trong bụng.

Nha sí – chim nha, màu toàn đen không đút mồi ngược cho cha mẹ là con nha, đút mồi ngược là con quạ. Lổ thổ – mỏ muối, đất mặn.

 

ĐẠI OAI LỰC Ô KHU SẮC MA MINH VƯƠNG KINH

QUYỂN 2

Xà thuế – vỏ rắn lột. Thấp-phệ-đế – tiếng Phạm vô nghĩa.

Hảm hảm – khí từ rún phát ra thành tiếng – ơ?

Tập-phả (cập phụ) – tiếng Phạm vô nghĩa. Sắc giảm – chiết mặn, kiềm.

Bác nga (?) hoặc gọi Bạt-già-phạm, Bạt-già-bạn tức Thế Tôn.

Bác nga (?) dịch là Tự Tại Xí Thạnh Đoan Nghiêm.

Đạo cốc cối – là (?). niên bỉ – lấy tay chỉ vật, cầm nắm vật

 

KIM CANG ĐẢNH CHÂN THẬT ĐẠI GIÁO VƯƠNG KINH

QUYỂN 1

Tăng phan – cờ phướn bằng tơ lụa. Hàm – tiếng Phạm vô nghĩa.

Ốt-đà-nam – là kệ tụng.

Bạt-chiết-la – hoặc Phiệt-xà-la, gọi đúng là Vãn-mục-la tức Kim cang.

La nhạ – dịch là Vương (vua). Tài phát – mới phát, vừa phát?

 

KIM CANG ĐẢNH CHÂN THẬT ĐẠI GIÁO VƯƠNG KINH

QUYỂN 2

Ứng binh – bắt bẻ, công kích. Điền sức – cái Điền báu làm đồ trang sức. Ác, tiếng chân ngôn, vô lượng.

 

KIM CANG ĐẢNH CHÂN THẬT ĐẠI GIÁO VƯƠNG KINH

QUYỂN 3

Mạn-trà-la – hoặc gọi Mạn-tra-la, Mạn-noa-la dịch là chỗ các Thánh tập hội, nay gọi là Đàn tràng vậy.

Tâm ức – lồng ngực. Tiên-giá-mâu-hàm – tiếng Phạm, vô nghĩa.

Trở hoại – (?) (trở, tự, thư) là hư nát.

Xô trịch – ném đẩy, tay chơi gậy Kim cang.

Tiêu xí – cờ xí nêu lên. Nhược mâu (?) hộc – tức là móc Kim cang có treo khóa chuông chiếp chủng trí.

Nốc-kheo – tiếng Phạm vô nghĩa. Xế-na – tiếng Phạm vô nghĩa.

 

KIM CANG ĐẢNH TU TẬP TỲ LÔ GIÁ NA TAM-MA-ĐỊA PHÁP

Át-già – tiếng Phạm, tức chén đựng đầy nước thơm.

Mạt-lặc-đa – tiếng Phạm, vô nghĩa (Bạt-lặc-đa?).

Thượng ngạc – trên nóc họng. Sa cốc giống lụa mà nhẹ hơn.

Táo khê – chữ chú, vô nghĩa. Cử-đảng, tiếng Phạm là hương thoa.

 

KIM CANG KHỦNG BỐ TỐI THẮNG TÂM MINH VƯƠNG KINH

Cổ độc – chất độc giết người. Tảo quán – tắm rửa, cái chậu tắm?

Yêu thao – dây cột eo, dây cột ủng. Hoa an – chống, vật trong nước.

Sầm việt – mũi nhọn, cái búa bén.

Phủ sóc – dao búa, cái giáo dài.

Tam điềm – là ba thứ tốt lành ngọt ngào tức là Nhũ – Tô – Lạc, Tây Vức rất chuộng.

Cơ trữ – là cái máy dệt vải.

 

BẤT ĐỘNG SỨ GIẢ ĐÀ LA NI BÍ MẬT PHÁP

Ác thú – thú dữ. Long Tưu – Long là rồng, Tưu là tên Thần nước.

Độc tự – Độc là con trâu nghé, Tự là con trâu cái, cũng là thương nuôi.

Bê giảo – Bê là cây tre, giảo là lấy tay khuấy động.

Chỉ phách – ngón tay cái chân cái. Kiếm bả – cầm kiếm, đeo kiếm.

Giải cấu – gặp nhau.

 

PHỔ BIẾN TRÍ TẠNG BÁT NHÃ BA LA MẬT TÂM KINH

Linh thứu – núi Linh thứu, tức núi Kỳ-xà-quật, trên đỉnh có nhiều chim thứu

Tổng trì – Tổng là họp, đều, khắp, đông. Trì là cầm giữ – tiếng Phạm là Đà-la-ni, dịch là tổng trì: nắm giữ hết.

 

QUÁN TỰ TẠI ĐA LA BỒ TÁT KINH

Miệt-lệ-xa – gọi đúng là Tất-lật-tha dịch là giống hèn hạ, thích nghiệp cấu uế chẳng biết lễ nghĩa cúng tế quỉ thần giết hại lẫn nhau.

Tịnh sái – rải nước rửa sạch chỗ đất dơ xấu.

Tát-đà-ba-luân, dịch là Thường Đề.

Nguyệt Yểm – Nguyệt Yểm là tên của Sát Thần. Tháng giêng kiến Dần thì Nguyệt Yểm ở Tuất, ngược đây tháng 12 thì Nguyệt Yểm ở Hợi.

Tổ chức – họp nhau lại để làm một việc. Khoang hoãn mười hai thước là mười hai tháng, rộng ba thước là Thiên, Địa, Nhân tam tài. La bặc – cây củ cải trắng.

 

NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH KINH

QUYỂN 1

Mạt-sư-ca-hoa – hoặc gọi Bà-sư-ca-hoa, gọi đúng là Mạt-thâmsa-ca dịch là Vũ thời hoa. Hoa này sanh vào mùa Hạ, hoa trắng lớn rất thơm, sanh vào giữa mùa Hạ.

Hàm lỗ – nước, đất muối mặn. Mỏ muối.

Cương thạch – Đá giống củ gừng nhưng cứng. Lũ điệp – áo kép bằng tơ lụa.

Ngẫu ty – hoa sen rễ nó có tơ, tơ ngó sen.

Kết lỗ – có nhiều tơ. Phù dung – chưa nở gọi là là phù dung, nở rồi gọi là hạm đạm (hoa sen?).

Niên tiên – nối mối tơ, dệt tơ.

Miến mạch – bột gạo, sợi gạo (miến). Phích lịch – sấm sét.

Hoa bì – Da cây hoa ở nơi rừng tối có hai màu đỏ, trắng, ở Tây Vức rất ưa dùng. Ngật rị đa, tiếng vô nghĩa. Nha sai – răng so le, chân răng.

 

NHẤT TỰ KỲ ĐẶC PHẬT ĐẢNH KINH

QUYỂN 2

Thiện phùng – may vá, sửa sang.

Tam khuyết – ba cây cọc, ba cây chốt cửa. Chiêm đổ – nhìn thấy.

Lổ-địa-la – tiếng Phạm dịch là máu. Tể tất – xương đầu gối?

Một-lặc-đa – là tiếng Phạm dịch là tử thi.

Ma-nổ-sa – là tên chung của mọi người.

Tử cảnh (?) – là tên cây thuốc. Tây Vức lấy vỏ, lá cây và nhựa cây nấu lên thành thuốc.

Điếm tỏa – khúa cửa không mở.

 

A RỊ ĐA LA A LỖ LỰC KINH

Giác thắng – đấu sức thắng. Phôi oản – ly chén bình bằng đất chưa nung. Du thạch – giống vàng mà không phải vàng Tây Vức dùng thuốc luyện vàng có hai thứ Du thạch thiện và ác không đồng nhau. Ác thì tro trắng tách ra, thiện thì vàng vàng tách ra. Cũng gọi là Chân du không mua vàng là đó.

Niết sóc – nhồi nắn. Tất mễ – lúa gạo tẻ.

Oản đậu – các loại đậu

 

KIM CANG ĐẢNH DU GIÀ VĂN THÙ SƯ LỢI BỒ TÁT KINH

Một cu-chi – tiếng Phạm là tiếng đếm, dịch là ức. Huỳnh Đế có hai mươi ba số đếm, số ức ở thứ mười bốn. Tức từ vạn trở đi có ba bậc là Thượng, Trung, Hạ tức mười vạn, trăm vạn, ngàn vạn đều gọi là ức.

Tiêu xí – cờ xí, cờ hiệu phang phướng. Yêu bạc – xương bả vai.

Oánh triệt – sáng suốt, thấu suốt, mổ cắt năm tạng dê trâu. Hoa nhụy – nhụ hoa.

 

ĐỂ RỊ TAM MUỘI DA BẤT ĐỘNG SỨ GIẢ NIỆM TỤNG KINH

Để-rị – là tiếng Phạm, dịch là ba. Tức trong kinh này nói ba thứ Tam-muội là Kim cang, Liên Hoa và Phật bộ.

Trách khai – mở banh ra, xé xác. Tiên loan – lấy thế cong (?) Phược phác – buộc và đánh. Biện phát – kết tóc, bện tóc.

Túc mi – cấp bách, buồn rầu nhíu mày?

A xệ (huyền) – tên khác của con nha, chim lạ, con cú mèo. Kiểu linh – lông chim kiểu để làm mũ (?)

 

ĐẠI PHƯƠNG QUẢNG QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT THỌ KÝ KINH

Tạm thuấn – tạm nháy mắt. Hy di – vui hòa, vui mừng.

 

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

QUYỂN 1

Mục Kiền Liên – Hoặc gọi Mục Kiện Liên, gọi đúng là Ma-ha Mục-đặc-già-la, dịch là Đại Thái Thục Thị hoặc gọi Lục Đậu Tử, mẹ là Thái (?) đậu do Tiên nhân trồng. Từ mẹ mà được tên. Từ cha mà gọi là Cu-lợi-ca.

Ổ-ba-tắc-ca – tức Ưu-bà-tắc, Ổ.

Hình quả – mắc cá chân

Ba-sách-ca dịch là cận sự nam – người gần gũi phục vụ Tam bảo. Tản cái – tàng lọng, dù che.

Mô-hồ-luật-đa – hoặc gọi Mâu-hô-thám-đa dịch là phần. Cu-xá luận nói một trăm hai mươi sát-na là một đát-sát-na. Sáu mươi đát-sátna là một lạp-phược, ba mươi lạp-phược là một Mâu-hô-thám-đa là một ngày đêm.

Đoàn loa – hình tròn. Cân mạch – gân cốt và mạch máu

 

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

QUYỂN 2

Sa (tha) lủ – sờ nắn tơ lụa. Chức điệp – dệt áo kép, áo bông.

San hô – san hô sanh trong biển sắc đỏ có nhánh không lá.

Quyên hộc – quyên là lụa mềm, hộc là giống lụa mà thưa.

Mãng xa – là rắn rất lớn. Ải trách – chật hẹp.

Thủy điệt – con muỗi – con đĩa. Đà lư – con lạc đà.

Nghị sắt – kiến và chấy rận. Văn manh – ruồi muỗi.

 

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

QUYỂN 3

Nhân-mãng-bà – tiếng Phạm dịch là thịt người chưa hư thúi.

Bạc tiệp – (?). Chùy đồng – quả chùy bằng đồng.

Giáp xạ – con thú có xạ hương, con xạ (giống nai mà nhỏ hơn). Vi tranh – bức họa vẽ khai trương. Đế hy – vui hòa, vui vẻ.

 

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

QUYỂN 4

Tất khỏa – xương mắt cá. Như loa – con ốc sên.

Vô hà – ngọc tốt không có tỳ vết. Mộc hoạn – tên cây hoạn.

Hương đảng – người dẫn dắt một nhóm đông người, người cùng một hàng, mười hai ngàn năm trăm (1200) nhà gọi là một hương, đảng trưởng.

Linh vẫn – khiến mất, khiến rơi = sao rơi như mưa.

Tác phược – trói cột. Diệc tịch không biết là con gì đúng – thằn lặn – con chuồn chuồn – con sam.

 

BỒ ĐỀ TRÀNG SỞ THUYẾT NHẤT TỰ ĐẢNH LUÂN VƯƠNG KINH

QUYỂN 5

Ty thấp – nơi thấp nước thấm ướt. Thông toản – hành và tỏi.

* Kim Cang Đảnh Du Già Phân Biệt Thánh Vị Kinh một quyển

Cảnh giác – báo cho biết trước, đề phòng trước

Năng luy – làm cho gầy ốm, yếu kém. Ứ nê – nơi ứ nước.

 

THẬP NHẤT DIỆU QUÁN TỰ TẠI BỒ TÁT BÍ MẬT NGHI QUỈ KINH

Tài thọ – ít, tạm, loài thỏ xảo quyệt (?). Châu chứ – bến nước, cái đảo ở giữa nước.

Loa lịch – bịnh tràng nhạc, nhiều mục ghẻ liền nhau như xâu lục lạc ngựa.

– Thược-vam – chữ Phạm vô nghĩa.

– Ô-sô-sa-ma – hoặc gọi Ô-sô-sắc-ma, dịch là uế tịnh, bất tịnh Khiết Kim Cang tục gọi là Hỏa Đầu Kim Cang.

Linh Đạc là chuông và mỏ (Đạc là cái chuông lớn cái lưỡi bằng gỗ)

Xa lộ – cái xe to là xe của Thiên tử đi.

Tất dịch – tiếng vô nghĩa. Hoán lạn – rất sáng, rất nóng.

Hồng nhi – cầu vòng đực gọi là Hồng, cầu vòng cái gọi là Nhi. (?) Để lược – liếm lấy.

 

XUẤT SANH VÔ BIÊN MÔN ĐÀ LA NI KINH

Khắc gia sa – cát sông Hằng, cát sông Khắc già. Lạp hiết, chữ vô nghĩa

Do dự – dụ dự chẳng quyết định.

 

ĐẠI CÁT TƯỜNG THIÊN NỮ VÔ CẤU ĐẠI THỪA KINH

Tỳ-xá- hoặc gọi Phệ xá dịch là giàu có nhiều tiền giao thiệp bậc cao quí gọi là Trưởng giả.

Thủ-đà – tiếng Phạm, gọi đúng là Tuất-đạt-la là dòng họ nông phu cày cấy trồng trọt giàu có

 

ĐẠI CÁT TƯỜNG THIÊN NỮ MƯỜI HAI DANH HIỆU KINH

(1 quyển)

 

NHẤT THIẾT NHƯ LAI KIM CANG THỌ MẠNG ĐÀ LA NI KINH

Hung ức – lồng ngực, bụng dạ

Cự địch – Cự là chống cự, trái nghịch – địch là luôn tự chủ.

 

KIM CANG ĐẢNG DU GIÀ MƯỜI TÁM HỘI CHỈ QUI

(1 quyển)

Tiêu xí – cờ xí, cờ hiệu, phong phướng để tiêu biểu cho vật gì.

Ma-hê-thủ-la – là tiếng Phạm dịch là Đại Tự Tại, tự tên của Thiên Vương Đại Tự Tại trên cõi Sắc Cứu Cánh.

– Du Già Niệm Châu Kinh một quyển.

– Phổ Hiền Hạnh Nguyện Tán một quyển.

– Đại Tập Địa Tạng Bồ-tát Vấn Pháp Thân Tán một quyển.

– Kim Cang Đảnh Lý Thú Bát-nhã Kinh một quyển.

(Bốn quyển trên không có chữ ân nghĩa).

 

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10