TỨ PHẦN LUẬT SAN PHỒN BỔ KHUYẾT HÀNH SỰ SAO
Sa-môn Thích Đạo Tuyên trụ Chùa Sùng Nghĩa, ở Kinh Triệu soạn Thuật
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

BÀI TỰA TỨ PHẦN LUẬT SAN PHỒN BỔ KHUYẾT HÀNH SỰ SAO

Sa-môn Thích Đạo Tuyên trụ Chùa Sùng Nghĩa, ở Kinh Triệu soạn Thuật.

Giới đức khó nghĩ hết được, nó vượt ngoài các pháp, là quỹ đạo của năm thừa, là thuyền bè của Tam bảo. Công đức y theo giáo pháp kiến tu định tuệ, công chẳng có gì bằng. Trụ trì Phật pháp các sách từ đây mà khởi xướng. Từ khi Đại sư truyền bá rộng sách này ở thế gian. Cho đến tứ y để lại phong thái không gì thay thế được. Đến thời Tượng quý càng nhiều ngoa ngụy, thật là miệng lưỡi sắc bén, đánh trống luận bàn việc vô hình, cho nên làm rung chuyển truyền giáo, chín đời đều nghe. Vượt ngoài loại tri thuật mà thôi. Muốn làm sáng tỏ hành nghi, để giúp nhiếp tượng giáo, lưu truyền phép tắc này để dạy bảo người học đời mạt pháp. Buộc lại giềng mối nhiệm mầu đã dứt, dựng day ngọn cờ cao đã ngã, có thể hiểu rõ mà phê bình, đâu chẳng nhờ vào sự đổi dời luống dối để thanh hình. Việc khuôn phép để khó hiển bày sự tinh khiết. Cho nên trước tu phải nương vào Luật tạng, chỉ sự vạch văn mà dùng, thì đối với văn tin tưởng ghi chép thật. Và nhờ duyên lành có sự ràng buộc nhiều hơn lại nữa cái học chẳng phải tinh ròng rộng lớn nói theo tuồng bụng thí càng nhiều, mà chọn loại thì ít thảo luận. Bình thường thì các chấp khác lạ gom nhóm thành tập nầy này, cho đến làm cho bội phần tách bộ phận khinh trọng, các giềng mối giữ gìn, đồng khác phân biệt. Tự chẳng phải sự hưng phế của ý thống giáo. Khảo xét về sự hư thật của các thuyết, ai có thể khai mở lớp nghi ngờ để thông suốt sự hệ lụy. Bao gồm di ký bộ chấp giải thích hành tướng, thường hận chỉ luận văn sớ các sự đời trước, phép tắc để lại, do phế lập hỏi đáp yếu sao, cho đến bày rõ việc lưu hành ở đời để cậy nhờ. Trăm quyển không còn một. Bấy giờ, có Nhuệ Hoài Hành sự, mà văn thì ở nghĩa tập. Hoặc lại bày nhiều từ ngữ hay mà hợp cơ chưa đủ. Hoặc đơn đề yết-ma thành tướng mà chẳng tuyên bày. Y văn sử dụng thì không bàn việc trước, đồng thời nói rõ, muôn sự muôn vật rối loạn, chưa thể chia sẽ xem xét, cho nên người tìm cầu không chứa nhóm sự học thì không biết. Người lãnh hội chẳng tinh luyện thì không thấu suốt, tôi nhân nghe những điều hay, lúc rảnh rỗi đọc các thiên sách, thấu suốt những điều chẳng thuộc về ý, đều có tâm hơn kém. Rõ ràng có động cơ thẳng bút hoải mái. Bao gồm dị bộ thành văn tổng quát gồm các kinh tùy thuyết. Và sự để lại của bậc hiền Thánh cõi Tây, phong văn của bậc tiên đức cõi này, tìm tòi bác bỏ đồng khác, đồng thời đều nghiên cứu tột cùng. Mãi thấy chắc chắn ghi chép để phụ vào sự biết rộng. Nói rộng chắc chắn xét dùng làm ý chung. Hoặc văn rườm rà để nói lên sự dụng. Hoặc bày sơ lược để so sánh chỉ theo nhau, hoặc cắt văn để nghĩa liền lạc, hoặc tìm từ vá mượn để hỏi. Như thế từ đầu đến cuối soi sáng qua lại, ẩn hiển lẫn nhau. Đồng thời thấy các việc đúng sai về thực hành yết ma, đạo tục chánh nghi, xuất gia tạp pháp, và name rõ là cái thấy của tông này, phí công để cứu người mới học. Nhưng đồng với ta thì đã kích đại tiết này. Thuyết khác thì bác bỏ văn rườm rà, văn rườm rà không ai thích, là do sự không nắm được, vì sao? Vì nếu lược bớt chọn lấy điều then chốt, dụng sự hằng có không đủ, chắc chắn bình ngang lời nói không vội. Đối với sao bèn thành điều cấm kỵ. Nay suy tính về việc chọn lấy gồm tỉnh ước, giúp đỡ được đầy đủ tốt đẹp, ghi thành ba quyển.

Nếu suy nghĩ không đủ về thời sự, cố nhiên có thiếu sót về giải thích, thì lược nêu ý chỉ để làm rộng ra ở sau.

Nhưng văn nghĩa toàn bộ chia làm ba quyển.

– Quyển thượng gồm các việc thành dụng có khuôn phép

– Quyển trung vâng theo giới thể trì phạm để lập sám

Quyển hạ tùy cơ yếu hành, nương vào sự mà khởi

Đồng thời như văn theo đầy đủ, tưởng không rối ren, nhưng cảnh sự thật nói nắm khó phán đoán. Nay lấy vật loại theo nhau để nêu danh đứng đầu. Cho đến hợp lại giềng mối ấy, sợ dòng nhánh chưa lớn mạnh, lại dùng mười môn bao gồm điều lệ mới hiển bày rõ ràng sâu xa.

Thiên thứ nhất Nêu tông bày đức

Thiên thứ 2 Tập Tăng thông cục

Thiên thứ 3 Túc số chúng tướng (phụ pháp riêng chúng)

Thiên thứ 4 Thọ dục đúng sai

Thiên thứ 5 Nói chung về yết-ma

Thiên thứ 6 Phương pháp kiết giới

Thiên thứ 7 Đại Cương về giềng mối của Tăng

Thiên thứ 8 thọ giới duyên tập (phụ pháp xả giới sáu niệm)

Thiên thứ 9 Thầy trò thuộc nhau

Thiên thứ 10 Thuyết giới chánh nghi

Thiên thứ 11 An cư sách tiến tu hành (phụ pháp thọ nhật)

Thiên thứ 12 Tự tứ tông yếu (Phụ pháp y ca-hy-na)

Thiên thứ 13 Thiên tụ danh báo

Thiên thứ 14 Tùy giới thích tướng

Thiên thứ 15 khuôn phép Trì phạm

Thiên thứ 16 Pháp sám sáu tụ

Thiên thứ 17 Nhị y chung riêng

Thiên thứ 18 Bốn thứ thuốc Thọ tịnh

Thiên thứ 19 Bát khí chế thính (phụ pháp phòng xa ngũ hành điều độ các dụng cụ)

Thiên thứ 20 Đối thí hưng trị

Thiên thứ 21 Hành nghi đầu-đà

Thiên thứ 22 Tăng Tượng trí kính

Thiên thứ 23 Kế thỉnh lập bày khuôn phép

Thiên thứ 24 Đạo Tục hóa phương

Thiên thứ 25 Chủ khách đối đãi nhau (phụ pháp bốn nghi)

Thiên thứ 26 Săn sóc bệnh, lo lắng mọi việc lúc qua đời

Thiên thứ 27 các hành tạp yếu (pháp tỳ kheo xuất thế chánh nghiệp nương tựa)

Thiên thứ 28 Sa-di biệt pháp

Thiên thứ 29 Ni chúng biệt hành

Thiên thứ 30 Các bộ biệt hành

1. Thứ nhất là tựa, giáo hưng khởi ý, hễ là bậc chí nhân làm hưng thịnh thế gian, lợi ích muôn vật. Có nơi tùy cơ nói giáo, lý không truyền trao suông. Y vào môn đại từ nói về Tỳ-ni, cho nên luật nói: Vì Thế Tôn từ bi mà nói pháp.

2. Thứ hai: vì đối với ngoại đạo tự hiển bày Phật pháp, người tôn trọng bậc cao đức. Cho nên chế giới này. Xem trọng luật, hễ những điều chế lại hoài bão dị thuật. Cho nên văn nói: Nếu không soạn phép tắc, kiết giới thì làm ngoại đạo lắm lời.

3. Vì đối với dị tông, tông thì có nhiều sự khác nhau. Lại như Bộ-Tát-bà-đa nói: Giới bổn rườm rà lược chỉ thể chứa viên dung. Y cứ vào tục khải định ở thời số, ngự pháp lệ thông đối cớ không chuẩn. Nay bộ Đàm-vô-đức nhân pháp có tựa, quỹ tắc được nhiều nơi dùng, đề khởi thấu suốt chỉ tồn tại thiện sinh, lập giáo ý để hiển bày điều ước.

Trên thế thông minh giáo hưng khởi. Nay y cứ vào tông đương thời để giải thích. Giáo không sinh khởi, tự nhiên nhất định phải có người làm nguyên nhân. Nhân (người) đã không đồng thì giáo cũng chẳng phải một, cho nên nhiếp thâu hoằng thệ quỹ tắc dùng nhiều, quý ở chỗ được bổn thuyên kia, thật khó suy xét đầu mối ấy. Cho nên y cứ vào khai để chế nghiệm; chỉ hiển bày trì phạm cho người, ý rõ ràng còn không lỗi. Nay hạn chế một Luật tạng dùng năm lệ phân thì giáo hưng khởi, ý có thể thấy.

1. Dùng già tánh thường phần tánh ác, thì chung ở hóa chế, già giới do lỗi mà sinh khởi. Nhưng văn của tánh giới thong thả mà nghĩa vội vàng, nghĩa là tùy các giới trọng mà có khai văn. Văn tuy là khai, khai thật kết phạm, dù cho thành trì.

Trì giữ thật khó. Như dâm thì ba thời không vui, hủy báng thì đầu cuối từ cứu. Đã là căn bản tham sân, làm sao có thể cấm tâm không buông lung. Cho nên biết nghĩa còn cấp hộ. Giá giới thường chế chỉ có lợi ích mới khai. Khai nó lỗi phát khởi rồi lại chê. Há chẳng phải là còn hóa tục, sợ đọa khổ đau. Bậc Đại Từ lập giáo ý chỉ xét lỗi. Cho nên luận Tỳ-ni Mẫu lập hai nghi nhanh chậm để tìm nó, chung cho mong cầu.

2. Để khai chế thường trưng cầu, Giác thì chung cho hai đời, cho nên văn dưới nói: Thế Tôn là bậc Nhất Thiết Trí, chế rồi lại khai, khai rồi lại chế. Ở đây chung cho cả giáo đời vị lai.

Như luật Ngũ Phần chép: Tuy những điều chế của ta đối với phương khác chẳng phải người thanh tịnh thì không ứng dụng.

Tuy chẳng phải điều ta chế ở phương khác thì nhất định người nên thực hành, chẳng được không thực hành. Điều này là khi Như lai còn tại thế. Nhưng hai giáo dung nhau, bao gồm tất cả.

3. Vì ứng báo có mạnh có yếu. Giáo cũng trọng về nghe, thì chế là phần phòng ngừa hạn chế. Y cứ vào hành thì núi đời khác nhau.

4. Lấy cơ ngộ làm đầu, giác môn khinh trọng dẫn đến cách xa, năm bộ đi chấp há không vậy hay sao?

5. Vì sự pháp đối nhau. Pháp chỉ có cách thức, trái yếu chỉ thì sự không thành. Sự thông, tình tánh cho nên tùy cảnh mà chế ra sự được mất ấy. Hoặc nhờ duyên của ba tánh, hoặc tùy thời cơ mà sinh khởi. Lại lược dẫn các sự điều biết cạn mới đến. Tổng nhiếp gồm nêu, không ai chẳng tiếp nhận, tâm người thường âm ấp câu nệ, do đó mà hưng giáo.

Cho nên văn chép:

Vì sao Đức Thế Tôn lại chế thêm giới học?

Vì điều phục ba độc. Sao gọi là Học? Vì cầu bốn quả.

1. Trong các môn ở dưới những điều thuật chế ý chỉ tùy sự trước làm cho người sau tiến tìm điều trị bổn.

2. Là Ý chế giáo khinh trọng, hai ý khinh trọng cắt đứt thật khó. Vì sao? Vì vốn giáo kia có thể thi hành, người của giáo chủ cùng có. Lại suy nghĩ những việc làm này, mọi người chỉ ứng với bình thuốc. Cho nên thuốc và bình khớp nhau, lợi nhuần thấm khắp nơi. Há có thể tình đoạn, đâu lại dùng lời luận bàn. Tuy nhiên, lại suy xét về mục tiêu sâu xa ấy, thật được con cháu đời sau ở nơi văn tự hiển bày, đâu nhờ chứng thành. Nay đại lược này, tựa gồm có bảy loại:

a. Hưng yếm tiệm đốn

b. Kết chánh nghiệp khoa

c. Quả báo khác nhau

d. Nhiếp các đường hơn kém

e. Khởi tình hư thật

f. Khai chế dựng lẫn nhau

g. Ước hành chương dị

Như hai nghi thức về nghị tĩnh, các trường hợp này, bổn hoài của việc chế giáo y cứ theo Tông thể để đoán.

3. Ý nghĩa đối sự ước giáo phán xứ. Từ khi Phật pháp truyền về phía Đông sáu trăm năm, các sư xuyên tạc, cắt xén đúng sai, đua nhau đầy sự đồng khác, không thể xưng nói. Do đó, người tìm thảo luận không biết tông chỉ. Người hành sự mê mờ nơi hướng đi. Cho nên phải học sự nhất định, y cứ về hành thì xa, chấp giáo nhất định khâm phục văn chân chánh, việc gì mà bị hủy báng, há lại bị cười trách. Nay san định trì phạm, lại y cứ vào thọ thể này. Thể đã bốn phần mà thọ, lại chỉ bày phần ấy ngang bằng. Nghĩa là đem sự học của mình san định sự trì phạm của người. Thoát là diễn mất, điều này chỉ có kẻ ngu si không học, nay lập chung định cách cùng thành khá chuẩn, vừa vạch ra điều lãnh, thích nhiên đại quán.

4. Ý dùng văn của các bộ, đều nói rõ Luật tạng. Bổn thật một văn. Nhưng vì cơ ngộ khác nhau dẫn đến làm cho các sự tính toán được đứng vững. Cho nên, tùy theo sự ưa thích mà thành lập tông mình, đua nhau chọn số đông, văn dụng tập điển của một nhà, cho nên có thế khác về khinh trọng. Trù phạm chia rõ, có sự phát xuất vô cùng, phế hưng cùng hiển. Nay lập bốn phần làm gốc. Nếu khi hành sự nhất định phải dùng các bộ, chẳng thể không dùng. Cho nên luật Thiện Kiến chép: Tỳ-ni có y pháp, các Đại đức có thần thông sao để cho người biết.

a. Bổn nghĩa là tất cả Luật tạng

b. Tùy bổn

c. Pháp sư ngữ nghĩa là Phật trước nói bổn.

Năm trăm vị A-la-hán phân biệt lưu thông rộng rãi, tức là luận chủ, bốn ý dụng nghĩa là dùng ý phương tiện độ dụng và Ba tạng để nói rộng khắp. Trước xem căn bản, kế là cú nghĩa, sau quán lời Pháp sư, dùng với câu văn. Bất đẳng nghĩa là chẳng lấy. (pháp luật sư nói rộng trong quyển 6). Chánh văn như thế, nhưng việc hành tàng thật khó. Nghĩa lấy bỏ chẳng dễ. Lại nói về sự giải thích ấy để trình không mê hoặc. Nghĩa là văn nghĩa trong tông này đều viên dung y cứ vào sự không thiếu, bộ đương thời tự đủ, đâu nhờ tìm bên ngoài. Ngoài ra, còn có văn của luật không hiểu, Sư còn bỏ nghĩa trước thì không có văn, không có văn thì có sự. Như các lệ này chọn lấy tông bên ngoài để thành một bộ này. Lại điều dẫn bộ loại nhất định, chọn sự tương quan về thế nghĩa có thể dùng chứng thành. Nhất định loại chậm nhanh, nặng nhẹ, đúng sai điều y cứ theo luận không chọn lấy.

Cho nên văn bày ra bốn thuyết để so sánh.

Thập Tụng mặc ấn nghĩa cũng đồng.

Như thể để làm rõ thì tâm cảnh chiếu nhau. Đồng hợp với quy cách, rườm rà, lược bỏ trong sự chọn lựa, lý đâu tối tăm. Nếu không xem rõ các bộ thiên chấp một lãnh vực, liên quan đến Sự, sự thì không khắp. So văn thì văn khó có y cứ. Lòng sư cảm thấy mỗi người đua nhau phải quấy, cũng chỉ vì mê, thật do không có giáo. Nếu Tứ phần san văn có hạn thì sự không thể thông hành. Lại dùng văn của bộ khác để thành sự của bộ khác. Hoặc văn nghĩa trong hai bộ luật đều rõ thì không do đâu mà lấy bỏ, bèn đều phát xuất ra chánh pháp. Tùy ý tìm dụng nhưng hành dụng chánh giáo tự mình mở xem vì sợ truyền nghe lạm chân.

Lại trong thế gian, trì luật lược có sáu:

1. Chỉ chấp một bộ Tứ phần, không cần tông ngoài

(Như trì y thuyết dược, văn không chỉ bày nhưng tùy trì mà thôi)

2. Đương bộ khuyết văn chọn bên ngoài để trích dẫn sử dụng

(Tức là loại dùng Thập Tụng trì y và thuốc)

3. Đương tông có văn nghĩa không rõ. (nghĩa là loại cuồng điên, đui điếc đủ số)

4. Bộ này văn nghĩa đều rõ mà bị dị tông bác bỏ

(như xả tịnh địa, nói thẳng thuyết giới)

5. Gồm chọn năm tạng thông hội Luật tông

(như trong văn trường hàng không lạnh mà thử ngoại đạo).

6. Rốt cuộc trở về Đại thừa cao tột

Như Lăng-già, Niết-bàn, tăng phòng không lửa, cấm đoán rượu thịt, năm thứ rau cay, tám thứ bất tịnh tài.

Sáu loại này, mỗi người chấp vào chánh ngôn không trái yếu chỉ của bậc Thánh. Nhưng do hai sự thấy biết thông cục cho nên có dùng tham giải khác nhau. Những tông ý của sao này còn trong quyển thứ ba và thứ sáu. Ngoài ra cũng tìm hiểu mà chọn, được mất tùy cơ, vì biết thời cơ.

7. Năm là y văn nghĩa quyết chung. Phàm lý bổn mất tên, cho nên đặt tên để nêu tông ấy. Danh tùy sự hiển, cho nên đối với sự mà có văn này. Xong, xét Luật tạng này ngôn sự đều khắp. Nhưng vì niên đại quá xa, sắt thái chẳng tìm, pháp vì thời chuyển, sự nhiều thiếu sót.

Hơn nữa, năm Sư thu thập tình kiến khác nhau, lại do phiên dịch mất đi yếu chỉ, vọng sinh tạo lập. Lại vì viết nhầm nên truyền thừa nhau có lạm, cho đến việc tra cứu rối ren rất nhiều. Nay tổng hội để thông sự thấy biết lớn lao ấy. Nếu văn nghĩa bị thiếu, thì có thể nêu một để ví nhiều. Hoặc lý có mà thành thành sự trước, hoặc văn tuy đủ mà nghĩa lại thiếu, nên dùng nghĩa định nó, vì vậy luận nói: vì lấy lý làm chính. Hoặc nghĩa tuy nhất định lập đương bộ không văn, thì đều đóng gấp các bộ lại để dứt sự phỉ báng. Nhưng văn nghĩa quyết thông thật khó phế lập. Tự chẳng phải rõ sâu về luật tướng thông đạt khai giá. Không như vậy thì lụy đến tự tâm, cố nhiên không lợi ích đến cảnh khác.

Cho nên luật nói: Văn nghĩa đều đồng, văn đồng nghĩa khác, văn khác nghĩa đồng, văn nghĩa đều dị, thoải mái tiến chỉ không nhọc sắp xếp giải thích. Xong quyết bỏ đúng sai nhất định đều thông yếu chỉ Luật tạng, đồng thời biết văn tùy kính. Như điều thấy biết của sáu sư trên mới nghiên cứu được tông tích của giáo này.

Cho nên Luật Thập Tụng chép:

Tỳ-kheo có ba việc quyết định biết tướng Tỳ-ni:

  1. Bổn khởi
  2. Kiết giới
  3. Tùy kiết

Phải suy nghĩ quán sát hai bộ giới luật và nghĩa giải Tỳ-ni Tăng Nhất, khai già khinh trọng, như sắc năm đại là ngăn bất tịnh, phi sắc tịnh không ngăn. Như thế đồng thọ lượng gốc ngọn đã dùng.

Luận Minh Liễu cũng chép: Tỳ-kheo có thể biết năm tướng danh giải Tỳ-ni, không xem mặt khác, văn lược đồng với trên, rộng như kia nói.

1. Ý giải thích về giáo, văn của thuyên giáo, rất là sáng rõ, toát yếu đại thú ấy, chỉ rõ trì phạm. Nhưng cảnh trì phạm, chung cho trong ngoài. Trong nghĩa là sự kết nghiệp của hành tâm. Ngoài nghĩa là sự thuận nghịch của tình sự. Nhưng làm cho giáo hành vâng theo, hoàn toàn không phạm ấy là Trì. Nếu sinh ra không học, đối với pháp không nghe, tạo ra nghĩa thiện ác bao gồm phước tội. Nay muốn buộc tội, nhưng làm cho tương ứng với giáo, bất luận sự tình, hư thật đều gọi là Phạm, ở đây gọi chung là trì phạm.

Nếu kết thiên chánh tội, cùng các trị phạt thì nhất định buộc phương tiện làm thành nghiệp quả, làm cho suy lường y cứ suy xét về thật tình, khinh trọng được về lý giáo, thì cắt đứt sự ngay thẳng. Làm sao là lạm dụng, ở đây tên khác là trì phạm.

2. Ý đạo tục bảy bộ giáo thông cục, hiển giáo về lý mới có nhiều lối, mà có thể lấy tính cầu, chia ra hai loại:

a/ Hóa giáo: Đây thì chung cho đạo tục. Nhưng nói rộng về nhân quả, thấu suốt chánh tà, phán đoán hành nghiệp sâu kín khó biết, hiển bày lại báo rõ suốt và dễ thuật.

b/ Hành giáo: chỉ hạn cục trong các định lấy bỏ lập ra cương yếu, hiển rõ trì phạm, giải quyết về sự ngưng trệ, chỉ cho nghĩa cong, tuyên văn không lớp lang. Kết tội đoán rõ về sự có tội xét lại. Như hai giáo tuần hoàn chẳng phải không lạm nhau. Nêu tông để phán lý tự rõ, nghĩa là nội tâm thuận nghịch lấy lý làm tông thì y theo sự hóa giải. Bên ngoài dùng thi hành nhất định thân miệng liền y vào hành giáo. Nhưng người phạm vào hóa giáo chỉ thọ một báo nghiệp đạo.

Người trái với hành giáo lại tăng thêm tội về điều chế của bậc Thánh. Cho nên kinh nói: Người thọ giới tội nặng, người không thọ tội nhẹ. Văn rộng tự rõ cho nên lại phân, sợ mê vào tông thể của hai giáo, vọng nói phải quấy về nghiệp hành. Cho nên lập một môn mãi dùng phân biệt rõ.

8: Ý hai bộ tăng ni hành sự thông bít nhưng hai bộ đồng giới thì sự pháp đồng nhau. Hành dụng nghi thức xếp loại y cứ vào Pháp Tăng, đủ ở các môn. Tùy sự rõ dụng, nếu biện thành tướng phạm, giới bổn tự phân, điều ẩn mà khó biết đủ ở tướng theo. Ngoài ra giới y cứ vào vị trí. Nghĩa là nặng nhẹ khác nhau, có không cùng thiếu, phạm đồng mà duyên khác. Bởi vậy đương đời thạnh hành, chủng tướng khó biết và biệt hành các hạnh, pháp bình đẳng bày ra, ni có hành pháp riêng. Ở đây chỉ phân ra tông hiển. Còn chưa hiển bày giải thích, các ý có sự khác nhau đầy đủ trong đại sớ.

9. Ý dưới ba chúng, tùy hành dị đồng khác. Đại chúng sa-di nếu y cứ vào giới thể đồng với đại tăng không làm. Chọn bổn này chỉ hiển ở mười, ngoài ra tùy hành, loại nhiều như cát bụi. Kết tội ở thiên thứ , tựu vị ở đầu các giới. Tự ngoài hành pháp không đồng, lấy bỏ có khác. Mỗi mỗi phân biệt thiên đều rõ. Thức-xoa-na-na sáu pháp là học tông ấy. Giới thể lại không phát lại. Ngoài ra tùy hành đối trị đồng các ba chúng, nhất định có sự khác nhau, đủ như chỗ hiển bày pháp riêng của Ni.

10. Nói rõ về sao, ý trích dẫn chánh văn, bỏ đi sự truyền lạm suy xét đúng.

Trước nói rõ trích dẫn chánh kinh, kế nói rõ sự nói ngoa trong đời. Sau cùng nói rõ làm sao hưng khởi bổn ý.

Trước nói về chánh bổn, luật Tăng-kỳ, là bộ căn bản, ngoài ra là Năm bộ như bộ Đàm-vô-đức, luật Tứ phần, v.v… Thế nào là sở tông? Tát-bà-đa là luật Thập tụng. Bộ Di-sa-tắc là luật Ngũ phần. Bộ Cadiếp-di là luật Giải thoát, có giới bổn. Bộ Bà-Lộc-Phú-La, luật bổn chưa đến. Đây là y vào Đại tập, Luận Tỳ-ni Mẫu, Luận Thiện Kiến, luận Ma-đắc-lặc-già. Luận Tát-bà-đa đều truyền Luật Tỳ-nại-da, Luận Minh Liễu giải thích Chánh Lượng Bộ. Và Tam Tạng Chân Đế, Ngã Bách vấn Pháp Xuất yếu Luật nghi, Lương Vô Đế Chuẩn Luật Tập.

Ngoài ra các bộ khác văn rộng không trình bày. Lại kinh Đại Tiểu thừa và Nhị Luận tương ứng với luật, tên tùy kinh luật, đồng thời đủ vào Chánh lục. Như trong khai Hoàng Tam bảo Lục mười lăm quyển của Phí Trường Phòng. Kế nói rõ dị chấp của các sư: Luật sư Pháp Thông, Luật Sư Phục, trích trong quyển sáu. Luật Sư Quang hai lần trích sớ, ba sư Lý, Ẩn, Lạc mỗi vị trích trong sao. Tôn Thống Sư sớ quyển tám, Uyên Luật Sư có sớ; Ba sư Vân, Huy, Nguyện mỗi vị tự trích sớ sao; Hai sư: Hồng, Thắng có sao.

Luật Sư Thủ có sớ mười hai quyển, Luật Sư Lệ có sớ mười quyển.

Luật sư Cơ có sớ. Ngoài ra, các sư như: Đàm Vận, Tăng Hựu, Linh Dạ xuống Giang Biểu, Quan Nội, Hà Nam, Thục được lưu truyền. Đồng thời bao gồm nghĩa sao nhất như.

Kế nói về kinh ngụy ở đời. Kinh Chư Phật Hạ Sinh, kinh Lục Dật Tịnh Hạnh Ưu-bà-tắc mười quyển, Luận Độc giác, Kinh Kim Quan.

Kinh Cứu Bịnh, Kinh Tội Phước Quyết Nghi, luận Tỳ-ni quyết chánh, Luận Ưu-ba-ly luân Phổ Quyết, A-nan thỉnh giới luật luận, luận Cadiếp vấn, luận Đại oai nghi thỉnh vấn, kinh Ngũ Tân, Luận Bảo Man. Duy Thức Phổ Quyết Luận, Kinh Sớ giáo, Kinh Tội báo, Kinh Nhật Luân cúng dường, Kinh Nhũ quan, kinh ứng cúng hạnh, kinh phước điền báo ứng, kinh Bảo ấn, kinh Sa-di, Văn thù thỉnh vấn yếu hành luận, kinh Đề vị. Như thế những người soạn kinh luận gồm có hơn năm trăm bốn mươi quyển, đời này đời khác dần dần trích ra, văn nghĩa hạn cục phần nhiêu phụ thuộc vào tình thế, tùy triều đại lâu rồi đốt bỏ, ngu si hợp lại dường như lạm dụng. Lại thuật tương ưng với luật, như đã trình bày ở trước. Ngoài ra văn còn lược. Sau, nói rõ làm sao hưng khởi bổn ý. Phàm bộ sao cố nhiên phải toát yếu chánh văn bao gồm các ý. Trí tôi cạn hẹp, lượng nông cạn đâu dám khinh chê mà nói, động thành hý luận. Tuy nhiên, học có chỗ thừa, thừa chắc chắn biết gốc, thường trích dẫn và chọn lấy. Đối với một sự ý phế lập nhiều, các Sư còn bị tình kiến buộc ràng. Nay đồng thời san lược chỉ còn văn chứng. Và giáo thông với luân lý khác khó biết nhau. Tự đủ như tập nghĩa sao đã hiển bày. Mà sao lược chứng văn phần nhiều không đầy đủ, nhưng lấy văn nghĩa để vào Tông. Văn từ ngoài không cùng tận, ắt muốn tìm hiểu, biết cho tường tận, chẳng phải ý dựa trong sao. Cho nên văn nói: Các Tỳ-kheo muốn không nói đủ câu văn Phật dạy cho. Luận Tỳ-ni Mẫu nói: Phật làm cho dẫn ra yếu ngôn từ hay bày thẳng về nghĩa ấy. Ngõ hầu để cho người sơ cơ có dụng không đợi hỏi người khác, ngay nơi sự là hành, há lại nghi ở tội phước, còn sợ đời sau thêm các việc bất cập tăng thêm trong đó, làm cho Chân tông xen tạp uế hạnh, dẫn đến mê như chim chuột, lại còn ở ngày nay.

Mười đều này tổng hết các môn, phân tách các lệ khóa. Nếu thu thập bất tận từ luận khác, thân nhà biển Phật, vị cơm dòng pháp, hình tăng lẫn lộn năm hạnh chỉ còn ba vị. Nên tôn trọng chánh giới, hiểu sâu trì phạm, thì trong quyển trùng thể tướng đủ rồi. Tự hành đã thành đức bên ngoài sáng dụng thì trong quyển thượng cương lãnh còn vậy, mình ta hai đức thành nhiều đường, thì trong quyển hạ mao mục hiển bày rồi.

Ba điều này nói rõ hành vô hành không thâu nhận ba quyển nhiếp văn, không có văn thì không được, nhưng sự loại lường khó suy lường. Nếu đường dài, giải thích tân mạn thì ít thảo luận. Ắt tùy tương khúc phần, lỗi ở rườm rà. Nay tùy nghi uế lược, kết chung chỉ quy, để nên đề cương, lông mày tự chỉnh, vừa duỗi vừa xem, tùy việc tùy y cứ.

 

TỨ PHẦN LUẬT SAN PHỒN BỔ KHUYẾT HÀNH SỰ SAO

QUYỂN THƯỢNG

(PHẦN 1)

Thiên một: Nêu Tông bày đức

Thiên hai: Tập Tăng thông cục

Thiên ba: Túc số chúng tướng

Thiên bốn: Thọ dục đúng sai

Thiên năm: Nói chung về yết-ma

Thiên sáu: Phương pháp kiết giới

Thiên bảy: Tăng cương Đại cương

Thiên tám: Thọ giới duyên tập

Thiên chín: Thầy trò nhiếp hóa lẫn nhau

Thiên mười: Thuyết giới chánh nghi

Thiên mười một: An cư sách tấn tu hành Thiên thứ mười hai: Tự tứ Tông yếu

****

THIÊN THỨ NHẤT: NÊU TÔNG BÀY ĐỨC

(Trước nêu ra tông thỉ, sau dẫn văn thành đức).

Nói về biển luật, sâu xa thông suốt muôn tượng. Tuy biển cả bao la không bờ mé mà nó không dung chứa thây chết. Gò cao mây sóng mà trào không quá hạn. Cho nên hễ người dự vào cửa huyền thì phải tu giới cấm thanh tịnh, không dung chứa điều sai trái, gởi tâm nơi dòng nước đạo. Cung kính xuất yếu, không nhiễm thế gian. Cho nên có thể đức càng sáng tỏ đối với thời gian, vượt ngoài cương yếu trần thế. Bởi vậy, phi pháp không thể dùng soi sáng nghi ấy, Phi đạo không thể hiển bày đức ấy, mà tưới vào dòng thức cạn biết thấp. Tuy danh tham mặc áo tu mà học kinh không đến nơi đến chốn, hành không y theo luật, có điều lành gì, tinh đã thô lỗ, làm sao nghiên cứu chân yếu, ôm ấp giữ gốc, chí dứt mong cầu, tâm hạn cục nói không đến. Ý tuy luận đạo, mà không khác thế tục, cùng với dòng đời, sự trái hướng chân, nghiên cứu học tập nhiều năm mà còn mê tôi, huống gì luận đời. Ai có thể thể hội điều đó. Bởi vậy để đưa đến sự lạm dụng làm loạn pháp, tùy ý buông lung, chuyên làm điều tàn bạo, còn chẳng phải là điều thế tục cho phép, có khó gì đâu đạo nghi còn mất. Dẫn đến làm cho người mới học lúng túng vụng về. Luật yếu bặt dứt, nội sự kiềm chế.

Lúc đó chánh pháp huyền cương đâu không che lấp, đọa lạc ư? Cho nên biết hưng khởi thay thế ở người. Người tôn sùng hộ pháp thì lo gì mặt trời Phật không sáng soi, bánh xe pháp không xoay ư? Nay lược chỉ tông thể hành tường, giúp cho người sau tiến hưng, khởi lập có chỗ cậy nhờ.

Giới lấy tùy khí làm công, hạnh lấy lãnh cương làm hướng đi, có thể khéo tịnh thân tâm xứng duyên mà thọ, mới tương ứng với đạo. Nếu tình không xa lìa sai hướng đi mảy may trưng cầu, thì chính là bọn nhiễm dòng pháp, sẽ lấy gì làm tịnh khí của đạo, nghĩa ruộng tốt của đời vị lai đâu còn.

Bởi vậy, hễ muốn tịnh thân hành thì phải xa lìa nói mong đạt kết quả viên dung. Không nên vọng lập, phải chuyên tâm nhiếp ý làm cho khế nhập không trì trệ.

Cho nên kinh chép: “Tuy không có hình sắc mà có thể hộ trì”, Văn này nói rõ rồi. Vì sao? Nhưng giới tướng nhiều đường, chẳng phải chỉ một nẻo. Tâm có phần hạn, chấp trước khác nhau. Nếu theo cảnh rõ danh mới có vô lượng. Lại y cứ vào then chốt lược nêu có bốn loại:

  1. Giới pháp
  2. Giới thể
  3. Giới hạnh
  4. Giới tướng

1. Nói về giới pháp là nói pháp mà nói không hạn cục phàm Thánh. Nói rõ thẳng pháp này chắc chắn có thể vâng theo hành đạo xuất ly.

Muốn làm cho người nhận tin biết là có, tuy là phàm Thánh nhưng có chung pháp này, nay những điều thọ nhận. Chính đã thành lời gọi là Thánh Pháp (pháp của bậc Thánh). Nhưng làm cho trái lại sự sinh tử kia, đón nhận Tăng đồ lẫn lộn. Lập chí phải mong kết quả, sao dính líu bên ngoài. Nhất định sẽ nuôi lớn tâm này, làm cho theo người mà thành tựu, mới có thể theo Thánh Pháp, hoài bão học Thánh hạnh (hạnh của bậc Thánh), để nuôi thân cho nên gọi là hạnh tùy pháp.

2. Nói rõ về giới thể: Nếu y theo thông luận, nói rõ nghiệp thể về sự phát sinh, nay có thể hiển bày thẳng ngay tâm tướng có thể lãnh hội. Nghĩa là hai đế pháp giới và trần sa đồng là pháp lấy điều quan trọng của mình mong tạo phương tiện, khéo tịnh tâm khí, nhất định không làm ác, suy lường tuệ sáng suốt thì hội được pháp. Đem sự quan trọng này mong tâm tương ưng với pháp mầu kia. Đối với pháp kia, có nghĩa duyên khởi lãnh nạp tâm nên gọi là Giới thể.

3. Nói về Giới hạnh. Đã thọ đắc giới này ở trong tâm, nhất định phải rộng tu phương tiện, suy xét việc làm về oai nghi của thể khẩu, giữ chí chuyên tôn sùng kính mến bậc Tiên Thánh, giữ tâm sau đó khởi nghĩa thuận như trước gọi là giới hạnh. Cho nên kinh nói: tuy chẳng phải là độc đồi, khéo tu phương tiện mới được thanh tịnh, văn thành hiệu nghiệm.

4. Nói rõ về giới tướng, hành oai nghi thành, tùy điều mình làm điều xứng với pháp, đức tốt sáng tỏ. Cho nên nói là giới tướng.

Bốn điều này đều y vào gốc của xuất đạo, đông cực của thành quả. Cho nên nêu ở sau biểu thị để gởi tâm có chỗ, biết thân tâm mình hoài bão khâm phục pháp của bậc Thánh. Dưới là ruộng phước sáu đường, trên là hạt giống nhân của ba thừa. Ngoài ra, làm hạt giống Phật hưng khởi là pháp tràng. Công đức không thể nghì bàn, đâu chỉ luận bàn mà hết được. Dẫn thẳng lời Thánh thành chứng, làm cho bậc cao sĩ trì pháp rõ ràng tường tận. Tóm lại có hai, ban đầu nói rõ sẽ thuận giới thì Tam bảo trụ trì, làm việc Tỳ-kheo.

Nói rõ trái giới che diệt chánh pháp, lật các nghiệp khổ. Nhưng các kinh luận than giới văn nhiều, tùy bộ đều thoải mái, tướng cũng khó hết. Nay gồm chung quát nhất hóa, chánh văn nói trong phần đầu chia làm hai, trước y cứ vào hóa giáo, sau thì chế môn, phần đầu lại chia làm bốn.

1. Kinh Tiểu thừa: Nhưng Kinh Bát Nê-hoàn nói Đức Phật sắp diệt độ, thế gian không có thầy, A-nan khải thỉnh. Phật bảo: Nếu Tỳkheo vâng theo giới luật ấy là thầy, nếu ta ở đời cũng chẳng khác. Các kinh Di giáo đều đồng với sự khai thị này. Nhưng phát tâm hướng về muôn hạnh thì giới là Tông chủ. Cho nên kinh nói muốn sinh lên cõi trời thì nhất định phải giữ giới đầy đủ. Lại như mặt đất có khả năng sinh thành muôn vật. Cho nên kinh nói: Nếu không giữ tịnh giới thì các công đức lành không thể sinh. Lại nói vì có giới này mà có được định tuệ. Lại kinh nói: giới là hành căn trụ trì, tức là dụ như đất, có thể sinh thành trụ trì.

2. Luận Tiểu thừa: như luận Thành Thật nói: Lầu quán đạo phẩm lấy giới làm cột trụ, thành tâm thiền định lấy giới làm quách, vào nhân lành phải khâm phục giới. Bởi vậy, trì phải tôn trọng giới, trong luận Giải Thoát Đạo phần nhiều khen ngợi, văn rườm rà không bỏ phải xem, giới thì không ràng buộc. Tỳ-Ba-Sa chép: Giới Cụ túc, giới gọi là Thila, cũng gọi là hành, cũng gọi là Thủ tín, cũng gọi là khí, Thi-la là hạnh không phá giới, là nóng vi ba đường ác nóng. Cũng gọi là thiện mộng. Vì trì nó thì được mộng đẹp. Cũng gọi là Tập, vì khéo học giới pháp, cũng gọi là Định, nếu người trụ giới tâm dễ được định. Cũng gọi là trì (ao) vì là chỗ các bậc Thánh tắm. Cũng gọi là Kinh, vì giới thanh tịnh. Vì không có bóng ta hiện. Lại gọi là Uy thế, vì Như lai ở đời có oai lực, ấy là năng lực của thi-la, ngoài ra như việc đuổi rồng, năm trăm A-lahán không thể đuổi ra, có một vị la-hán, nhờ năng lực giữ gìn giới nên đuổi ra được, lấy khinh trọng đẳng trì. Lại gọi là đầu tư, có thể thấy các sắc của khổ đế, cho đến biết về sắc ấm của pháp. Vì có thể khéo giữ nên nói thư tín. Vì có thể đến thành niết-bàn nên nói là hành sở y của công đức gọi là Khí. Tôn giả Cù-sa nói: Nghĩa không phá là nghĩa Thila. Như người không què chân có thể đi đến mọi chỗ. Vì hành giả không phá thi-la nên sẽ đến được niết-bàn.

3. Kinh Đại Thừa Hoa Nghiêm chép: thọ trì uy nghi giới pháp đầy đủ, hành sáu pháp kính, đại chúng đức độ, tâm không lo buồn, lời dạy của Đức Phật trong ba đời về chánh Pháp không trái lời dạy của Chư Phật. Có thể làm cho Tam bảo không dứt mất, pháp được còn mãi.

Kinh Đại Tập nói: Bồ-tát ở các thế giới mười phương thỉnh Phật, vì chúng sinh ăn năm thứ rau cay nồng mà chế ra giới cấm.

Như cõi Phật khác vì pháp còn mãi nên về sau Phật cho pháp, liền chế giới cấm.

Tát già Ni-kiền nói: Nếu không giữ giới thì dù cho ngàn thân ghẻ lở còn không đước huống chi được thân công đức. Kinh Nguyệt Đăng Tam-muội chép: Dù có sắc tộc và đa năng nhưng nếu không có giới trí thì giống như cầm thú, tuy ở chỗ thấp hèn ít thấy nghe mà tinh trì giới thì gọi là cõi cao quý.

Kinh Niết-bàn chép: Muốn thấy Phật tánh, chứng đại niết-bàn thì thân tâm phải tu trì tịnh giới. Nếu trì kinh này mà hủy tịnh giới thì người đó là quyến thuộc của ma, chẳng phải là đệ tử ta, ta cũng không cho thọ trì kinh này. Kinh Hoa Nghiêm chép: “Giới là gốc vô thượng bồ-đề, nên phải trì tịnh giới đầy đủ. Nếu kiên trì tịnh giới, thì được Như lai khen ngợi”, cho nên lại dẫn ra để thâm nhập vào tâm.

1. Luận Đại thừa

Trí Luận chép: “Nếu cầu lợi lớn thì phải giữ giới bền chắc, nguồn gốc của tất cả công đức, là việc quan trọng của người xuất gia. Như người quý vật báu, như giữ gìn thân mạng”. Bởi vậy, giới là trụ xứ của tất cả pháp lành. Lại như không có chân mà muốn đi, không có cánh mà muốn bay, không có thuyền mà muốn qua sông, điều đó không thể được. Nếu không có giới mà muốn được kết quả tốt cũng không thể được. Nếu bỏ giới này, thì tuy ở núi khổ hạnh, uống nước suối, mặc áo cỏ, mặc y ca sa, thọ các khổ hạnh, cũng không thể đắc. Người tuy nghèo cùng mà trì giới luật, thì hương thơm bay khắp mười phương, danh tiếng bay xa, trời người cung kính, muốn gì được nấy. Người trì giới khi qua đời thì gió đao cắt thân, gân mật dứt đoạn, tâm cũng không sợ hãi.

Kinh Địa Trì chép: Muốn được năm việc lợi ích, phải thọ trì luật này, năm việc đó là:

  1. Dựng lập Phật pháp
  2. Làm cho chánh pháp còn mãi
  3. Không ham muốn, có nghi tinh thì hỏi người khác.
  4. Tăng ni phạm tội làm chỗ nương cho họ.
  5. Muốn đi giáo hóa các nơi không có trở ngại, đó là năm điều lợi của người thiện nam dốc tin.

 

  1. Giới phẩm vững chắc.
  2. Khéo chiến thắng các kẻ thù
  3. Ở trong chúng quyết đoán không sợ.
  4. Người có nghi tình thì có khả năng khai giải .
  5. Khéo trì Tỳ-ni làm cho chánh pháp còn mãi.

Lại được mười lợi ích, như được tăng nhiếp thủ, v.v…

Luật Thập tụng chép: Hỏi Phật pháp còn ở đời đến bao giờ? Phật đáp: Tùy theo Tỳ-kheo thanh tịnh thuyết giới pháp không hoại, gọi là pháp trụ thế. Cho đến chư Phật ba đời cũng vậy. Trong nhị y Luật luận, luận Minh hiễu giải thích: bổn âm Tỳ-nại-da, đây lược gọi là Tỳ-ni có năm nghĩa:

  1. Có công năng sinh ra các thứ lợi ích thù thắng, nghĩa là sinh ra điều lành thế gian và xuất thế gian.
  2. Có khả năng dạy hai nghiệp thân, miệng thanh tịnh và ngay thẳng.
  3. Có thể diệt tội chướng
  4. Có thể trích dẫn thắng nghĩa
  5. Người tại gia dắt dẫn họ giúp cho họ xuất gia, cho đến dẫn họ đến phạm trụ, thánh trụ, niết-bàn vô dư.

Người làm năm điều thắng này gọi là người tối thắng, là Phật, Độc giác và Thanh Văn là người tối thắng đều đi trong đó. Nếu phàm phu thực hành cũng gọi là thắng nhân, mới có khả năng làm việc này.

Bồ-tát Bà-đa nói: Tỳ-ni có bốn nghĩa: các kinh khác không có 1. Giới là Phật pháp bình địa, ruộng muôn điều thiện sinh trưởng.

  1. Tất cả đệ tử Phật đều y vào giới mà trụ, tất cả chúng sinh do giới mà có.
  2. Cửa đầu tiên hướng đến niết-bàn.
  3. Phật pháp anh lạc có thể trang nghiêm Phật pháp, đủ bốn nghĩa này, công mạnh ở kia.

Luật Thiện Kiến chép: Phật bảo A-nan: sau khi ta diệt độ có năm pháp làm cho còn mãi.

1. Tỳ-ni là thầy của các thầy.

2. Dù chỉ có năm người trì luật ở đời.

3. Mười người ở Trung quốc (nơi trung tâm văn hóa) năm người ở biên địa đúng như pháp thọ trì.

4. Dù chỉ có hai mươi người đúng như pháp xuất tội.

5. Vị luật sư trì luật, cho nên Phật pháp trụ thế năm ngàn năm. Bộ Ngũ Bách Vấn nói: Phật sắp niết-bàn. A-nan thương xót khóc than. Phật hỏi vì sao khóc? Cho đến Phật nói: Sau chính ta diệt độ, nửa tháng một lần. Lại nói: Phật có hai thân, nhục thân tuy bỏ, nhưng pháp thân còn ở đời. Nếu người kính pháp, niệm pháp thì kính Phật niệm Phật. Nếu giữ năm giới thì thấy pháp thân. Nếu người hộ pháp chính là hộ Phật, như uống nước có sát trùng. Lại như nửa tháng nói giới tức là thấy ta.

Bộ Tát Bà-đa nói: Vì sao khi luật mới kết tập thì thù thắng, thì bí mật? Vì bí mật như các khế kinh, không chọn thời, xứ, người nói thì được gọi là Kinh; Luật thì không như vậy, chỉ có Phật tự nói cốt yếu ở trong tăng cho nên thù thắng.

Lại như luận phân biệt công đức chép: vì thù thắng, bí mật, vì người thế tục chẳng thể thực hành, nên không cho thấy.

Luận Đại Trang Nghiêm chép: kẻ ngu si thấp hèn không chịu hộ trì giới này.

2. Nói rõ trái giới pháp diệt. Lại y cứ vào hai giáo mà rõ lẫn lộn.

Luật Thập Tụng chép: Thời Tượng pháp có năm pháp diệt.

  1. Tỳ-kheo hơi đắc tâm liền cho mình là bậc Thánh
  2. Người tại gia sinh lên cõi trời, người xuất gia vào địa ngục
  3. Có người bỏ nghiệp thế gian mà xuất gia phá giới
  4. Người phá giới được nhiều người giúp đỡ .
  5. Dù cho bậc la-hán cũng bị đánh mắng

– Lại có năm thứ sợ hãi:

  1. Tự không tu thân giới, tâm tuệ lại độ người, làm cho không tu thân giới pháp
  2. Nuôi Sa-di
  3. Y chỉ người khác
  4. Sa-di cũng ở với người thanh tịnh không biết ba tướng, nghĩa là đào đất, chặt cây cỏ, tưới nước.
  5. Tuy tụng Luật tạng, nhưng trước sau lẫn lộn

– Trong Tứ Phần nói có năm loại làm cho chánh pháp mau diệt:

1. Có Tỳ-kheo không biết mà nhận tụng luật, thích vọng y cứ lại dạy người khác, văn đã không đủ, nghĩa ấn có thiếu.

2. Vì trong Tăng, Thượng tọa thắng nhân của một nước mà phần nhiều không trì giới, nhưng chỉ tu bất thiện. Đời sau bắt chước buông bỏ giới hạnh.

3. Có Tỳ-kheo trì pháp trì luật ma-di, không dạy đạo tục, thì khi người ấy qua đời làm cho chánh pháp dứt mất.

4. Lại có Tỳ-kheo khó dạy bảo, không nghe lời hay, còn Tỳ-kheo thiện bô qua một bên.

5. Chửi bới lẫn nhau, tìm khuyết điểm của nhau, thì chánh pháp mau diệt.

Luật Thập Tụng nói: Các Tỳ-kheo phế học Tỳ-ni, mà đọc tụng tu đa la, a-tỳ-đàm, Đức Thế Tôn rất quở trách, cho đến nhờ có Tỳ-ni thì Phật pháp mới trụ thế. Phần đông có Tỳ-kheo Trưởng lão, Thượng tọa học luật.

Kinh Tạp A-hàm nói: Nếu Trưởng lão Thượng tọa trung niên, thiếu niên nhỏ tuổi không thích giới không trọng giới, thấy người khác thích giới, không tùy thời khen ngợi, thì ta không khen ngợi, vì sao? Vì sợ người khác thấy vậy chịu khổ trong đêm dài.

– Kinh Trung A-hàm nói: Phạm giới có năm thứ suy hao:

1. Cầu tài không toại ý, dẫu được cũng suy hao, chúng không kính ưa.

2. Tiếng xấu đồn vang, chết vào địa ngục.

Trong kinh niết-bàn nói: Do các Tỳ-kheo không trì giới chứa tám bất tịnh tài, nói là Phật cho. Người này như vậy lưỡi sao không cuốn lại, rộng như kinh kia nói.

Kinh Ma-da chép: Thích y phục đẹp, buông lung vui chơi, làm Tỳ-kheo nô, Tỳ-kheo-ni tỳ, không thích quán bất tịnh, hủy báng Tỳ-ni, ca-sa biến thành mầu trắng, không chịu nhuộm hoại sắc, tham dùng vật của Tam bảo, ấy là tướng pháp diệt.

Trí luận luận: Người phá giới không được người cung kính, chỗ ở như gò mả, lại mất đi các công đức. Thí như cây khô, ác tâm không sợ thí như La-sát, người không dám đến gần. Như người bệnh nặng, khó có thể ở chung, thí như rắn độc, tuy là cạo đầu xuất gia nhưng so đo tính toán thật chẳng phải Tỳ-kheo.

Như mặc pháp y, ấy là lá sắt nóng, bình nước đồng. Phàm ăn thì ăn sắt nóng, uống thì uống nước đồng sôi, chính là người của địa ngục. Lại thường lo sợ, ta là giặc của Phật thường sợ chết đến. Các thứ tướng phá giới như thế không thể nói hết. Người thực hành nên phải nhất tâm trì giới.

Hỏi. Có người nói: Tôi không tội không được gọi là giới, vì sao?

Đáp: Chẳng phải gọi là tà kiến thô tâm nói là không tội.

Nếu thâm nhập các pháp tướng, hành tam-muội không, dùng tuệ nhãn quán cho nên nói tội không thật có.

Nếu cái thấy của nhục nhãn thì chẳng khác gì trâu dê.

Nay người tụng lời Đại thừa, tự lực đã yếu, không kham giới này, tự thẹn uế hạnh phần nhiều không học theo. Có dẫn đây làm y cứ không hiểu bổn văn, cong vạy sơ xuất, rộng như trong quyển thứ 1.

Tứ Phần nói: Phá giới có năm lỗi:

(1) Tự hại, (2) bị người trí quở trách, (3) tiếng xấu đồn vang, (4) lúc qua đời sinh hối hận, (5) chết đọa địa ngục.

Trong Thập Tụng có mười pháp:

(1) Chánh pháp mau diệt, (2) có Tỳ-kheo vô dục độn căn, tuy tụng cú nghĩa nhưng không thể chánh thọ, (3) lại không hiểu rõ, (4) không thể làm cho người thọ có oai nghi cung kính, (5) cho đến không thích pháp a-luyện-nhã, (6) lại không theo pháp dạy, (7) không kính Thượng tọa. (8) Người không oai nghi làm cho hàng hậu sinh không chịu học Tỳ-ni, (9) dẫn đến làm cho buông lung, mất các pháp lành. (10) thích làm văn tụng, trang nghiêm chương cú, thích pháp thế gian. Cho nên chánh pháp mau diệt thật đáng sợ hãi.

****

THIÊN THỨ HAI: TẬP TĂNG THÔNG CÚ

Tăng lấy hòa hợp làm nghĩa. Nếu không cùng tập tướng có trái ly ngự pháp thì công không quyết thành, bị việc nhất định y cứ vào vị trí sai trái. Cho nên lập đề trước, làm pháp tắc của tập tăng, sau đó nói rõ thông cục của xứ.

Văn Tứ Phần nói: phải trải tòa, đánh kiền-chùy cùng nhóm họp một chỗ.

Ngũ Phần nói: Các Tỳ-kheo khi bố tát, nhóm không đúng lúc ngăn ngại hành đạo. Phật bảo: nên xướng lên chờ đến. Nếu đánh kiền-chùy, như đánh trồng, thổi ống loa thì để cho tịnh nhân sa-di cận trụ đánh, không được đánh nhiều, nên đánh ba hồi, thổi ống loa cũng vậy. Từ cây độc đen, cây đồng sắt phàm đánh cho làm. Nếu xướng hai thời đến cũng sai tịnh nhân, sa-di xướng. Trụ xứ phần nhiều không được nghe khắp. Nên ở chỗ xa mà xướng.

Còn nếu không biết nhóm họp thì nói với nhau biết, nếu không có Sa-di thì Tỳ-kheo cũng được đánh.

Trong Thập Tụng: Cư Sĩ thỉnh Tăng ở trong chùa đánh chùy cho đến lúc bạn ngày đến, người nữ đem thức ăn cũng tự đánh chùy. Buổi trưa thí thực cũng vậy.

Kinh Tăng nhất A-hàm chép: A-nan lên giảng đường đánh Kiềnchùy đây là trống tin của Như lai.

Trong luật Thập Tụng nói: bấy giờ, trong tăng phòng có người biết thời hạn, khi xướng cho đến đánh kiền-chùy. Lại không có người rưới quét bàn sửa sang chỗ ăn ở giảng đường, không có người tiếp tục phụ giúp, và dạy người rửa sạch trùng trong thức ăn, rau quả, lúc uống ăn không có người hành thủy, chúng nói loạn, bấy giờ không có người búng ngón tay. Phật bảo lập duy-na, luân phiên làm thứ lớp, nghĩa là thứ lớp làm Tri sự, tương truyền nói là Duyệt chúng.

Nếu trong tập văn, bảy thứ tập pháp, nếu lượng bóng, phá trúc làm tiếng, làm khói thổi, đánh trống, đánh kiền-chùy. Nếu xướng các Đại đức bố tát thuyết giới thời đến, cũng không nói Tỳ-kheo làm; Xuất yếu luật nghi dẫn Thành luận lật chùy. Đó gọi là cái khánh, cũng gọi là chuông, Văn trình bày đủ ở trên, nay cần nghĩa thiết lập. Phàm việc thí pháp, trước so lượng dùng tăng bao nhiêu, y vào sớ mà trải chiếu. Sau đó, y theo văn mà hô chuông, đây đủ như trong pháp nhóm tăng. Tuy người đều làm vậy, nhưng phần nhiều không có cách thức. Nếu y theo Kinh Tam Thiên Oai nghi, thì phần nhiều có cách về khoa yếu rất nhiều tiết giải, nhưng thời đồng phế bỏ, tuy dễ mà khó. Nay thông lập một pháp tổng thành đại chuẩn. Nghĩa là y cứ tăng nhiều ít thì việc nhanh chậm lượng thời mà dùng. Nếu tầm thường mà hành, bắt đầu sinh nhất định dần dần phát tiếng, dần dần ít, dần dần lớn. Cho đến tiếng dứt mới đánh một tiếng, như thế đến ba hồi. Khi Phật ở đời chỉ có ba hồi, cho nên Ngũ phần nói:

Đánh ba hồi, sau đó do người khác thỉnh mới có đánh dài.

Sinh khởi đánh dài lúc đầu cũng đồng ba hồi, trung gian bốn tiếng, chùy dứt mới đánh. Như thế dần dần đánh dồn nhỏ dần cho đến hết, mới lại sinh chùy đồng ba hồi như trước.

Đây các vị sư thời xưa dùng kinh luật tham cứu cùng lập pháp này. Cũng có tịnh chúng vẽ kiểu chuông. Nhưng lúc đầu muốn hô, phải y vào kinh luận lập tâm nêu làm tất yếu có sự đồng cảm, phải đến đổ chuông lễ Tam bảo xong, đầy đủ oai nghi đứng niệm. Tôi hô chuông này là với chúng tăng mười phương, có người được nghe, đều nhóm họp cùng đồng hòa lợi. Lại có các chúng sinh chịu khổ đường ác đều được thoát khỏi. Cho nên trong truyện Phó Pháp Tạng nói Kế nị tra vương bị giết hại, sau khi chết làm con cá ngàn đầu, bị vòng kiếm vây quanh thân chặt ra từng khúc rồi sống lại. Nếu nghe tiếng chuông vòng kiếm đều buông. Nhân duyên như thế làm cho tin hiểu, khiến đánh dài làm cho ta dứt khổ.

Kinh Tăng Nhất A-hàm nói: Nếu khi đánh chuông tất cả các khổ trong đường ác đều dứt trừ, đầy đều là tường nhân duyên vời, lý tự nhiên không mất. Tôi đích thân thừa sự, có người đều niệm bị quỷ thần đựa nhập. Đời có người lạm dụng tiếng chuông. Đây chẳng phải là lời Thánh. Các Kinh luận chỉ nói:

Đánh kiền-chùy, bất lời nói tịnh không chung với thế tục, cho đến tự làm, sớm phải phế bỏ.

1. Nói rõ chỗ đến thông cục, lúc đầu nói rõ phần bằng xứ

2. Nói rõ thông cục về dụng, trong phần đầu ý về giới. Khai chế khác nhau như trong phần kiết giới nói. Nay nói về hai thứ khác nhau ấy, nếu làm giới pháp thì có ba thứ khác nhau:

Có bốn giới trường chỗ nhóm họp tăng, mỗi người đều được hành sự.

  1. Ở giới trường
  2. Ở chỗ trống
  3. Ở đại giới
  4. Ở ngoài giới

Nếu không có giới trường, hai chỗ mỗi chỗ đều nhóm họp.

Nếu tiểu giới đã không lập tướng chỉ thẳng chỗ ngồi, không ngoài có thể nhóm họp. Nếu nói tự nhiên, tùy chỗ xa gần thì có bốn thứ khác nhau. Nghĩa là xóm làng lan-nhã nói giới hành thủy, đều không là vật tạo. Tùy chỗ ở của người mà có phân cục, cho nên nói tự nhiên. Đương luật không văn, các bộ dùng rõ. Lúc đầu trong xóm làng có hai, nếu người phân biệt được, Thập Tụng nói: ở trong xóm làng không có phòng tăng, lúc đầu làm phòng tăng chưa kiết giới, tùy giới xóm làng, là giới Tăng phòng (Văn dưới đều đi đến chỗ, ở đây chế phạm vi. Tứ phần nói: giới xóm làng lấy tướng chùa viện). Trong đây không được riêng chúng.

Hỏi: Chỗ lan-nhã có tăng phòng, muốn kết giới thì nhóm tăng ở đâu?

Đáp: Thập Tụng nói tùy xóm làng tức là giới tăng phòng. Nay vòng khắp tường viện, và tướng xóm làng không phân, không cân phải năm dặm nhóm họp người. Cho nên văn dưới lan-nhã xóm làng mới khởi tăng phòng bèn nói là giới một câu-lô. Cho nên biết trước có tăng phòng, tứ đồng với giới thôn xóm. Trong luật bốn tướng thôn tăng, hai giới không biệt, ất tướng viện không khắp mới có thể y vào lan-nhã mà nhóm tăng. Nếu xóm làng có tăng thì không thể biết. Trong luật Tăngkỳ nói; nếu thành ấp xóm làng phạm vị không thể biết thì dùng loại cây năm khuỷu tay, bảy khuỷu tay bằng bảy cây cách nhau, làm cho chúng khác thấy nhau, không phạm lỗi riêng chúng, mỗi pháp được thành tựu. Y theo tướng mà thông tín, bảy cây sáu gian được sáu mươi ba bước. Không đồng giải trước bảy gian bảy mươi ba bước rưỡi. Như nghĩa sao phế lập. Hai là nói rõ lan-nhã. Nói về lan-nhã thì có nhiều loại: Nghĩa là đầu-đà gởi y giới ăn trộm, giới Tăng, giới y, việc khó lại nói rõ về tăng giới, còn ở dưới tùy nói rõ, một giới lan-nhã các bộ không định, phần nhiều nói giới tăng đều là một câu-lô-xá. (Luận Minh Liễu sớ nói: khoảng một tiếng trống).

Trong Tạm Bảo Tạng nói là năm dặm. Truyền nhau dùng đây làm cố định, nếu có nạn.

Như Thiện Kiến nói: giới A-lan-nhã là bảy bàn-đà hình tròn vuông rất nhỏ, một bàn đà là hai mươi tám khuỷu tay. Nếu người không đồng ý ở bên ngoài được làm pháp sự, tính có một trăm chín mươi sáu khuỷu tay, một khuỷu tay là thước tám tấc, tổng cộng có năm mươi bốn bước bốn thước tám tấc.

1. Giới đạo hành: Bộ Tát-bà-đa nói: Khi Tỳ-kheo du hành ở bất cứ chỗ nào, dù giới rộng có một câu-lô-xá. Trong đó, không được ăn riêng, Bố-tất riêng, cũng không nói rõ lớn nhỏ, luận giải Thập Tụng này. Văn luật nói: sáu trăm bước là một câu-lô-xá.

2. Nói rõ thủy giới (giới trên mặt sông)

Luật Ngũ Phần nói: Giới tự nhiên trên nước, nếu đi trên nước, trong chúng người có sức mạnh toé nước đến chỗ nào thì giới đến chỗ đó.

Bộ Thiện Kiến nói: nếu tóe nước, hoặc vung cát, ngoài ra Tỳkheo không ngại. Lấy nước chỗ thường chảy, sâu cạn đều được làm tự nhiên, nước thủy triều không được. Nếu bố tát trên thuyền, phải hạ neo, không được buộc dính bờ và gốc cây trong nước, nghĩa là cho giới lục địa nối liền nhau. Nếu đá cây ở trong nước thì là giới trên mặt sông, nghĩa là lìa lục địa. Nay lại luận thể chung của hai giới. Nếu ba loại tác pháp, tùy chỗ hạn cục, không y cứ gốc vuông. Nếu nói về tự nhiên thì có bất định. Nếu giới trong xóm làng thì có thể biết. Tùy phạm vi cũng không vuông tròn, không thể phân biệt người hiểu khác nhau.

Hỏi: là bốn mặt của thân, mỗi mặt lấy sáu mươi ba bước, hay là một mặt thân lấy ba mươi mốt bước rưỡi?

Đáp: Bốn mặt mỗi mặt lấy sáu mươi ba bước, cho nên văn kia nói: giữa bảy cây chúng khác thấy nhau mà không phạm tội riêng chúng, hai chúng này nhìn nhau không nói về giới tướng.

Hỏi: Hai bên đều bỉnh yết ma, tự nhiên định lượng là rộng hay hẹp?

Đáp: Các thuyết khác nhau. Nay giải tất cả hai chúng, mỗi mặt có ba mươi mốt bước rưỡi. Chung thì hai chúng có sáu mươi ba bước.

(Tự nhiên này thường có, bất luận bỉnh pháp thì không bỉnh pháp giới hằng tùy định). Cho nên trong luật Tăng-kỳ nói chúng khác nhìn thân hai Tỳ-kheo hai chỗ. Nay nếu ngoại giới không có người thì mặt thân mỗi mặt ba mươi mốt bước rưỡi, là tùy phần tự nhiên. Nếu có người, thì chỉ làm cho giới khác tự nhiên còn, ra ngoài giới tự nhiên, qua không lầm, đồng thời thành pháp sự. Nay nhà hành sư sợ có riêng chúng, nhưng vì phóng sâu, về các mặt thì mỗi mặt hơn một nửa. Thật mà nói mỗi mặt một nửa giảm là đúng. Cho nên Tát-bà-đa chép: Tỳkheo tùy trụ xứ du hành, có giới tự nhiên dù rộng.

Hỏi: Giới tự nhiên là vuông hay tròn?

Đáp: Xưa nói nhất định vuông, nay giải không. Nếu giới vuông bốn bề có khác, thì không dạy cũng có thể chuẩn. Nay nói: Trong giới tự nhiên không nhất định vuông hay tròn.

Nêu bốn mặt bốn phía mỗi phía không có giới khác thì giới này nhất định tròn. Nếu có giới khác thì khéo nhọn không định. Cho nên luật Thập Tụng nói: Vuông mỗi mặt một câu-lô-xá.

Nghĩa phương hướng đến thân mặt, chẳng gọi là giới hình vuông. Văn nói: Đệ tử theo thầy, về mặt du hành có thể cũng không được bốn phía.

Luật Ngũ Phần cũng nói: Cách thân một câu-lô-xá

Luật Thiện Kiến cũng nói: “Giới vuông tròn bảy bàn-đà”. Văn tự rõ ràng. Cho đến kết đại giới lấy ba do-tuần làm hạn lượng.

Luận Minh Liễu chép: “Hợp lượng gốc lấy ba do-tuần”. Cho nên rộng dẫn thành chứng, nhất định vuông phải bỏ.

Hai nói rõ dụng Tăng phạm vi, tông này có bốn thứ luận Tăng, nói rộng về nghĩa Tăng. Lại lấy bốn người trở lên có thể ngự Chánh pháp, làm được việc trước, nên gọi là Tăng.

Nếu người cuồng loạn ngủ nghỉ về việc làm chung cho tướng năng sở có trái xa, không vào tăng số. Thông mà biện tăng thì có bảy loại. Bắt đầu từ một người đến hai mươi người, mỗi người có thành bại khác nhau, rộng ra nữa như sớ sao khác. Trước nói rõ tăng bốn người tức là sự dụng về thuyết giới, kiết giới.

Kế, Tăng năm người là pháp thọ giới tự tứ ở biên địa.

Nếu theo Tăng-kỳ, xả đọa sám hối thuộc về tăng năm người.

Nghĩa là thọ sám hối chủ tác bạch và tăng, vì lượng khác không thuộc về tăng số. Nay vì đương tông không rõ, lấy Tăng-kỳ để định.

– Tăng mười người: là thọ giới ở thành phố.

– Tăng hai mươi người: là khi xuất tội Tăng tàn.

Bốn thứ tăng trước, nếu lấy danh nghĩa Tăng có thể bỉnh pháp.

Bốn người thực biện tất cả yết ma, nay theo sự dụng cho nên phải ba điều biệt. Lại bốn người ở trước nếu y cứ tự làm vì thành tăng thể lại cần thanh tịnh. Vì phạm tôi nhỏ không cần yết-ma. Nếu nói về các pháp thì có hai điều khác. Nếu là thuyết giới, sám hối, diệt tội cần phải thanh tịnh. Vì có người phạm, không được nghe giới, không được sám hối trước người phạm giới. Người phạm không được nhận giải tội cho người khác. Như trong môn sinh khéo về thọ giới chỉ lấy tướng thanh tịnh, mới chịu đủ số. Người trước kính ngưỡng liền thành pháp sự. Cho nên khai đình chỉ hành pháp Tăng tàn. Hòa-thượng phạm giới, nhưng làm cho không biết việc thọ giới. Tát-bà-đa chép: không được dùng thiên nhãn, thiên nhĩ để biết pháp ác của người, chỉ dùng nhục nhãn, nhục nhĩ để thấy nghe. Nói rộng ra như trong pháp đủ số.

THIÊN THỨ BA: CÁC TƯỚNG ĐỦ SỐ

Trên đã nói rõ nhóm họp, mà dụng tăng phải biết ứng pháp, nếu nhờ sự không trái. Tuy chẳng phải tăng thể mà thành tăng dụng. Nhất định đối với duyên khác nhau. Không ngại thanh tịnh thuộc về Phi Tăng, vì hai đường lối này, nên phân biệt làm cho hai sự khác nhau, đúng sai, lấy bỏ tự phân.

Tóm lại có bốn:

1. Trước nói rõ thể là ứng pháp, vì đối với sự có trái, cho nên không đủ số.

2. Thể cảnh đều trái, dù nhờ duyên cũng không đủ số.

3. Thể chẳng phải tăng dụng, đối với duyên thành đủ.

4. Y cứ theo duyên có ngăn ngại, không ngại thành pháp, chút phần không đủ.

Trước nói về tịnh tăng trái nhau, cho nên không đủ.

Tứ phần nói không đủ số việc làm là người yết-ma. Có thần túc, ở trên hư không, ẩn mất, lìa chỗ thấy nghe, biệt trụ, giới tường. Sáu người trên, ngoài ra đều là nghĩa này.

Cho nên trong xả giới, người điên cuồng, câm ngọng, người chết, người ngu, tự nói với những người này thì không thành xả, nghĩa là không đủ số. Nay lấy bộ khác nói rõ văn chứng thành.

Trong luật Thập Tụng chép: Tỳ-kheo ngủ say, nếu nghe bạch rồi ngủ, thì được thành tẫn xuất, người chưa bạch ngủ trước thì không thành số.

Người loạn ngữ, người rối loạn, người nhập định người câm, người điếc, đủ hai người, người cuồng, người loạn tâm, người tâm bệnh hoạn, Tỳ-kheo ở trên cây, mười hai loại người, người bệnh ma-đắc-lặc-già, người biên địa, người si đốn, v.v… đủ chúng tự tứ, tất cả không thành, ngoài ra đồng với Thập Tụng.

Trong Tăng-kỳ, người gởi dục, nếu cách chướng, nếu nửa che nửa lộ, trung gian cách chướng. Hoặc nửa che nửa lộ duỗi tay không tới, chỗ trống duỗi tay không tới cho đến thực hành tác yết ma tọa thì thành khác, đi đứng ngồi nằm đều làm. Nói rộng ra như trong phần biệt chúng. Người say tự nói không hiểu, điên đảo nói ở trước người, người không luyện không hiểu giải, là không đủ nhiếp. Tóm lại, ẩn tướng khó biết, tùy theo ban đầu giải phân tích. Trước nói việc làm yết ma, vì người này là người xin pháp bị tăng lượng không xếp vào hạn tăng. Nếu thông trong bốn người sẽ nhập vào số tăng không đủ bốn người khi xướng yết-ma, cho nên điệp nhân không vào Tăng dùng. Nếu bốn người thọ nhật bốn tăng không khác, cũng sẽ đắc thành.

Việc làm một người đáp ba chẳng phải tăng. Cho nên không thể bỉnh pháp văn không bày ra sự đồng năm người đều là việc làm. Cho nên tăng bốn người có thể bỉnh bạch. Không đồng việc làm thuyết giới, kiết giới thì không phải tác pháp đúng, vì tăng làm.

Thần túc, ở trên hư không: Tỳ-ni Mẫu nói: “vì trên hư không chẳng có phạm vi, khác với mặt đất, ẩn mất nghĩa là vào trong đất, có tăng bay lên nhà là riêng, chẳng đủ số”.

Lìa thấy nghe; trong Tăng-kỳ nói nghĩa là chỗ đồng che, lìa thấy nghe.

Tướng ấy như nói ngủ trong thất, đó gọi là lìa chỗ thấy nghe không lấy sư thuyết giới, người yết-ma thấy nghe.

Như nghĩa sao nói biệt trụ.

Xưa nói đồng một giới không nhóm đủ, nay gọi là Tỳ-kheo, ngoài giới lạm đem vào số, chẳng gọi là mắt thấy ở ngoài giới.

Vì phần giới không biết, tối tăm ở ngoài tác pháp không thành, cho nên nói không đủ.

Về giới trường, do ngoại giới trước không thành, nghĩa là nói ở trong thì được. Hai giới này đồng giới tự nhiên, không đồng một tướng. Là vì biệt giới, ngủ say, nói mớ, rối loạn nhập định, v.v… do bổn vô tâm đồng bỉnh pháp.

Trong Thập Tụng chép: Chứng người khác thọ giới, mỗi mỗi nhập định, nói mớ, v.v… không biết thì yết-mà có thành không?

Phật dạy: Đều không thành, y cứ theo đây số tăng nhất định phải nhiều, cũng cho thành tựu. Dù người ở trong phòng ngủ say, nói mớ lý cũng khai cho thành. Ngoài ra đồng như trong pháp yết-ma nói.

Người điếc, câm, v.v… ba người do căn không đủ nên không thành chứng, Đại đức tăng nghe, vị nào không chấp nhận thì nói, đồng thời đều thiếu hai cho nên không đủ.

Già Luận chép: Nếu nghe tiếng nói lớn thì được thành pháp sự, ba người như cuồng, v.v… do tâm không nhớ cho nên không đủ.

Nếu y cứ vào luật nói người thường nhớ thường đến, không nhớ không đến, hai người này đã không đắc pháp. Người đầu thành dụng, người sau không đủ. Nếu nhớ lại quên đến không đến chưa được yết-ma không được thọ riêng.

Nếu được yết-ma dù để cho người bệnh sai thì chung cho không đủ. Người đau đầu (não) tâm loan đều đồng với ba người cuồng, v.v… Người bệnh nặng, do tâm hôn mê không thích vô tình duyên pháp

Người biên địa nói cũng không hiểu, người trung quốc cũng không đủ biện. Phải sau khi biết nói cả hai thông đủ số.

Người si độn không biết nói nghĩa chưa tỏ phải trái, thì chẳng đoạn hoại, phải nói yết-ma cùng văn mà thôi. Cũng khai thành đủ. Người gởi dục tâm đồng thân trái. Nói cách che nghĩa là đồng che lấp mà cách riêng không thành tướng đồng. Hoặc nói chỗ trống mà cách một nửa, che ở giữa ngăn. Nếu duỗi tay không đến gọi là một nửa dưới nhà tăng, một nửa dưới thêm tăng. Trung gian thí cách. Hoặc lại không ngăn, duỗi tay không đến, đây nói là hiển bày. Chỗ che không phải chỗ trống, pháp phải tiếp nhau.

Sư thuyết giới yết-ma đều ở trong một tầm của Tăng, để duỗi tay ra cho tới. Người làm việc tuy chẳng phải hạn số, cũng phải ở trong hai nguyên do đầy đủ cả hai, chẳng phải nhờ duyên không đủ. Các yết-ma, lấy đủ số Tỳ-kheo-ni, thức-xoa ma-na, sa-di, sa-di-ni. Người mắc mười ba nạn bị người nêu ba lần, diệt tẫn người đáng diệt tẫn hai mươi hai loại.

Hỏi: Mười tám người phạm biên tội và bốn người trong ni là tự nói cho nên không đủ hay thể không đủ?

Đáp: Giải ra có nhiều cách, ở đây đồng thể đã chẳng phải tăng.

Nếu tăng đồng biết cho nên không đủ số. Người không biết thì thành đủ. Như trong giới ‘dữ dục’ thì khác nhau.

Trong môn trước biết và không biết đều không đủ số.

Cho nên giữa Hòa-thượng không trì giới bốn câu lược bỏ, ba câu trước do không biết cho nên được thành.

Câu thứ bốn do biết theo người này thọ giới không được cho nên không đủ số, cho nên trong văn và Thập Tụng đều nói. Người xưa vì thể không hợp cho nên không đủ, tức xếp Hòa-thượng phá giới nằm ngoài mười người, đây chẳng phải chánh giải, vì sao? Nếu không biết phạm thì không được bèn dùng bộ khác. Vì Tứ Phần chê tăng mười người. Nếu biết người kia phạm, yết-ma mà không được điệp, vì thật biết chẳng phải Tỳ-kheo.

Trong Thập Tụng chép: Thêm một người tại gia, cũng không vào số. Trên nói rõ tướng tăng, đồng thời hình đồng xuất gia, vì tướng có lạm được cùng pháp sự, ắt mặc y phục thế tục, hình tướng rõ biết cũng không đồng nghĩa về pháp.

Trong Thập Tụng nói: Bạch y nghĩa là vốn thọ giới không được, cũng có người thọ giới sau đó nạn duyên phải mặc y phục thế tục, cũng phải đồng pháp. Do vốn là tăng liền biết khi tắc pháp.

Hỏi: Người thế tục đối với giới có người từng thọ giới cụ túc mà không xả hay không?

Đáp: Không, mới không biệt chúng.

Người ba lần nêu, nghĩa là không thấy, không sám ác tà không xả, nói rộng như trong các chương.

Diệt Tẫn nghĩa là phạm trọng giới đã nêu đến trong tăng bạch tứ dứt bỏ. Người nên diệt tẫn cũng phạm trọng đã cử đi đến đi tăng có nạn khởi chưa được thêm pháp. Cho nên luật gọi là vào trong thuyết Ba-ladi, như tuy phạm trọng, tăng chứa xét biết, mà trong người khác biết, chưa bị cử. Hoặc không tự nói tăng không biết một người trong chúng phạm trọng biết thì chẳng phải là số tăng, lại xếp vào trong đáng diệt tẫn. Thứ ba thể tuy chẳng phải tăng nhờ duyên thành dụng, tức người trong môn trước. Y cứ theo trước khi chưa tự nói, cùng tăng làm pháp, sự, thảy đều thành tựu. Như tuy nói xong khó có ngươi biết cũng thành dụng tăng. Do đối với tướng không trái thì được biện sư. Cho nên trong luật nói Hòa-thượng phạm giới do không biết được thành pháp sự, cho đến biên tội đều đâu phải như đã nói.

Nhục nhãn biết người khác trì hay phạm.

Người phạm trọng tội, trộm cướp trá làm Tỳ-kheo, vốn khi người tại gia, người phá giới v.v… như trước nói có lỗi này thì làm yết ma không thành. Nếu không nói thì tất cả đều thành tựu.

Tát-bà-đa nói vì có người dùng thiên nhãn không nói xấu người cho đến như cho dùng thiên nhãn nhìn tăng tịnh hay uế. Người mà không lỗi nhưng có lớn hay nhỏ, không đến thì không thấy. Nếu khai nói thì ngại loạn sự rất nhiều, vì thế không cho nói. Tự nói: nghĩa là nói với người rằng:

Tôi phạm loại dâm, trộm, bốn thể tuy phạm pháp được thành tăng sự.

Trong Tứ Phần nói quở trách, tẫn xuất y theo cấm ngăn không đến nhà người tại gia cùng bốn người, phải yết-ma tất cả nhưng mà tăng trị, cho nên không được quở trách.

Phú tàng bổn nhật trị sáu đêm xuất tội đồng bốn người. Trong Thập Tụng nói hành phú tàng xong, bổn nhật xong, sáu đêm xong, hợp bảy người không đủ yết-ma về Tăng tàn, v.v… không ngại phải ngoài pháp sự, kế nói rõ ba(t chúng.

Nghĩa là đồng một giới trong trụ tường có hoa khác với tăng pháp.

Cho nên nói biệt chúng, có hai:

Trước nói rõ biệt tướng, sau nói rõ thành không

1. Trong phần đầu, Tứ Phần nói biệt chúng là người nên đến mà không đến, là thân miệng tâm đều không nhóm họp.

2. Nên gởi dục : Không mang dục đến là thân tâm không tập trung

3. Hiện tiền được quở trách người đáng quở trách, nghĩa là tâm miệng không nhóm tập. Trái với ba loại này thì thành hòa chúng, nghĩa là người đầu ba nghiệp đều nhóm họp, người kế tâm miệng đều nhóm họp, người sau, thân miệng nhóm họp mà tâm không nhóm họp, im lặng ngồi không quở trách cũng gọi là hòa hợp. Cho nên văn nói: người đáng quở trách mà không quở trách. Lại nói: Xá- lợi-phất thấy chúng tăng gia pháp yết-ma mà tâm không đồng, nên mặc nhiên là đúng như pháp. Lại nhóm Tỳ-kheo sáu vị chỗ thuyết giới không ngồi, Phật nói là Phi pháp.

Trong Ngũ Phần nói quay lưng thuyết giới yết ma ngồi nằm, v.v… là biệt chúng.

Trong Tăng-kỳ nói: Đi mà làm yết-ma ngồi thì biệt chúng.

Bốn nghi qua lại là mười hai loại người, biệt chúng nhiều tướng, lý phải rõ ràng, nhưng với trong không đủ số, giao thiệp qua lại. Lại chia làm hai, nếu thân không đến trong tăng thì xếp vào biệt chúng. Tuy đến trong tăng nhưng không đủ số người khác thì không đủ số. Nhưng người không đủ gọi chung là hai người tịnh uế.

(Tịnh tăng ngủ định thân, không đến tăng cũng không đủ).

Gọi là biệt chúng chỉ y cứ vào một sắc thanh tịnh, nghĩa bày bốn câu chọn lựa như khác.

Nếu nói về học hối là không đủ hạn, ắt không hiểu pháp cũng khai bỉnh. Biệt cũng không lỗi, chính là người trung gian, kế giải thành không: Nếu riêng phạm bốn thiên dưới là xếp vào biệt chúng. Biệt phạm vào thiện đầu dù gọi là tịnh tưởng cũng thành pháp sự, cuối cùng là thể hoại hết sức đồng trụ.

Văn nói: Không có Tỳ-kheo có tưởng, yết mà thành mà phạm tội.

Vì tâm khác nhau, xem biết có phạm, tùy ý mà riêng người mười ba nạn, ni đồng với bốn người ba lần nêu, ba loại người cuồng cúng điếc câm. Hoặc chẳng phải Tăng, hoặc giữa đường bị phạt hình sai, bệnh báo duyên ngại cho nên khai. Phàm những người này chưa luận đủ biệt. Nếu đối thủ tác pháp trước cảnh lạm chân, lệ lấy trong tăng. Nay hành sự phần nhiều có tướng riêng, lại hiển rõ điều đó. Chúng lấy oai nghi đồng nhau, không dùng tâm thuận. Nói về oai nghi, như trong Tăng-kỳ nói: Đi làm Pháp Sự, ngồi thì phi pháp.

Luật Ngũ Phần nói: Bệnh nhân quay lưng yết-ma, Phật nói biệt chúng.

Luật Tứ Phần nói: Nhóm Tỳ-kheo sáu vị không ngồi, Phật quở trách lý chẳng phải là tướng hòa.

Trong phần biệt chúng nói: Như khi hành ăn cơm, đứng thì phạm, túc tướng đồng. Tăng-kỳ nói: Hai tâm hư thật nhưng làm cho tướng thuận tâm trái cũng thánh chứng pháp.

Văn nói: Người hiện tiền đáng quở trách mà không quở trách.

Lại nói: Thấy đúng như Pháp yết-ma mà tâm khác nhau.

Những điều trình bày như trước, nếu khi tác pháp hỏi tăng rằng:

Nay Tăng hòa hợp để làm gì?

Đáp: Yết ma việc…

Lại đợi người đáp, ngồi xong mới bắt đầu tác bạch.

Rộng ra có phế lập như nghĩa trong sao. Đến trong tăng ngồi thì cho đứng, trừ người bị trị. Cho nên người làm yết-ma. Không đủ số tăng. Ngoài ra việc làm ngồi, xin đúng như Pháp. Văn nghĩa có nói rõ. Người bỉnh yết-ma trong đó trừ hai loại người.

1. Uy nghi sự lập bỉnh đơn bạch, là bị tăng sai không được ngồi ngay.

2. Khai lập thuyết giới là làm cho chúng nghe, ngoài ra tất cả đều phải ngồi bỉnh (nếu có duyên khác thì đi, nằm cũng được).

****

THIÊN THỨ TƯ: THỌ DỤC ĐÚNG SAI

Việc xảy ra không như ý pháp xuất sinh hằng tình, cho nên đối với tình mà sinh tâm ấy. Tâm thuận thì pháp không mất, nên gọi là Dục.

Nhưng tình và sự trái nhau, cho nên lập pháp để chọn.Chọn thì có sự sẽ rõ, nêu rõ cho nên đối môn mà giải thích:

Trước nói về duyên, sau nói về pháp Dục.

Trong phần duyên có ba thứ:

  1. Chế ý thích danh rõ thể
  2. Có khai già
  3. Định duyên đúng sai.

Trong phần đầu là chế ý, phàm tác pháp sự thì phải thân tâm đều nhóm mới thành hòa hợp. Nếu có duyên không khai tâm tập thì cơ giáo chẳng khác nhau. Lấy gì cứu tế, cho nên truyền bằng tâm miêng, phải tăng tiền sự mới biện đủ kia đây, duyên nay cho nên khai gởi dục.

Thích danh: Hễ nói về dục thì phải lấy sự mong muốn làm nghĩa. Dục nói rõ Tăng làm pháp sự ý quyết đồng nhóm họp.

Nhưng do duyên sai không toại tình nguyện, làm cho tiếng tâm đạt, tăng biết không trái. Cho nên Ma-Đắc lặc già chép: Sao gọi là Dục? Dục là làm việc vui tùy hỷ, cộng đồng đúng như pháp tăng sự. Thập Tụng chép: Dục gọi là phát tâm, việc Tăng đúng pháp gởi dục, gọi là Dục pháp.

Biện thể: những điều về dục cần có hai:

1. Tự có Tăng riêng đồng cần, như thuyết giới, tự tứ. Vì Phật chế có thời hạn tất cả đồng vâng theo, nếu phân thì có tội. Tự cần có tăng riêng, như thọ giới, xả sám. Tăng cần ta hòa, ta không phải cần, Phật không chánh chế.

2.Nói rõ khai già

Trong luật nói: Chỉ trừ kiết giới, ngoài ra đều khai, tuy văn chẳng rõ, cho nên chẳng chế.

3. Duyên thị phi: nếu có người phạm giới sự duyên phi pháp mà gởi dục, do sự việc sai cho nên không hợp, không thành.

Nếu y cứ theo trong văn, chỉ nói tháp Phật Pháp Tăng, chăm sóc người bệnh, sáu việc là duyên. Văn trình bày đủ đúng. Mà nhóm Tỳkheo sáu vị may y thuyết dục. Tuy chẳng phải chánh chế, tăng nhận thực hành, Tỳ-kheo phần nhiều chê bai pháp không suy nghĩ đến nghiệp, vọng thực hành pháp của bậc Thánh. Nghĩa là không bệnh nói bệnh, bất tịnh nói tịnh, không dục nói dục, làm cho người khác nói dối, đối chúng mà truyền điều này. Nhưng nói tùy tăng bao nhiêu mỗi người biên tội bà tội ba-dật-đề.

Người huyễn biết mà nói mỗi ba tội, nghiệp ác không nhẹ vì sao tự lười biếng?

Ba nói rõ pháp dục, tựu trung chia làm ba:

Trước nói về gởi pháp, hai là nói về mất pháp, ba là nói gặp duyên thành không.

Phần đầu phân làm hai

Trước nói về giới pháp

Hai là nói về nói pháp

Trong phần đầu văn của bộ Tứ Phần không đủ rõ

Nghĩa Thiết nói: Đại đức nhất tâm niệm, Tỳ-kheo mỗ giáp đúng như pháp tăng sự gởi dục thanh tình, vừa nói bèn thôi. Theo bộ Tăng-kỳ nói ba lần thì thành tựu

Nay y cứ vào văn của bộ Tứ Phần chỉ nói liền thành văn, đều không kết lược. Ba lần nói thành pháp mới nói lần thứ hai, lần thứ ba cũng nói như thế.

Y theo pháp như thuyết thanh tịnh bạch hai lần yết ma, y văn trực thành, không cần lấy ngoại bộ khác.

Hỏi: Trong từ dục này không xưng việc Phật, pháp, tăng

Giải rằng: Xưng là người nói, không xưng là chánh bổn, hỏi nói không xưng dục pháp có thành không?

Đáp: Thành.

Vì trong Yết-ma không nhắc lại, duyên thuyết dục này. Trong luật nói, nếu không nhớ họ tên, thì phải nói tướng mạo Nếu không nhớ thì phải nói tôi và nhiều Tỳ-kheo thuyết dục. Hỏi: Dục và thanh tịnh là đồng hay khác, vì sao?

Đáp: Dục phải yết-ma, thanh tịnh phải thuyết giới

Nếu khi thuyết dục lại cần hai điệp, do văn chánh chế, không đồng với Tăng-kỳ còn hành phế giáo.

Nói việc Tăng đúng như pháp. Đối với việc phi pháp không cần dục.

Nếu duyên phi pháp như trong các chương ở đây chỉ nói đúng như pháp thì làm cho các pháp sự của tăng đều thông, làm cho không chướng, trên nói về tự nói, nay nói gồm người khác.

Nghĩa là thọ dục rồi chợt có duyên ngại, dục chuyển gởi cho người khác

Tỳ-ni mẫu chép: được ngang bảy lần.

Thuyết từ nói: Đại đức Nhất tâm niệm! Tôi Tỳ-kheo… nhận dục thanh tịnh của Tỳ-kheo mỗ giáp. Người kia và tôi việc tăng chúng như pháp gởi dục và thanh tịnh, nói xong.

Hỏi: Tưởng gởi dục thì có thành không?

Đáp: Trong Tứ Phần nói: Chỉ có người bịnh nói pháp dục. Nhưng Văn có đủ thức, vì bệnh có nặng nhẹ.

Văn nói: Nếu nói tôi thuyết dục, hoặc nói cho tôi thuyết dục. Nếu nói vì tôi mà thuyết dục. Hoặc hiện thân tướng, nếu thuyết dục rộng ra trong năm loại này, bốn loại trước chỉ cho người bệnh nặng, thuyết dục rộng ra thì người bệnh, người mạnh đều dùng.

Phần đoán sự ở Ngũ Phần, trong văn thuyết dục đứng dậy đi luật nói rộng như thế tương tự, lại không lược văn.

Tất cả người hành sự, hoặc người có duyên, hoặc dặn và nói sa-di sai truyền đến người khác. Hoặc có việc chẳng phải duyên, nói thẳng là tôi thuyết dục, lượng sợ không thành.

Cho nên trong luật Tứ Phần nói về người bệnh, nếu miệng không nói, không hiện thân tướng đều không thành.

Nay người mạnh dùng pháp người bệnh thật không nhất định, chỉ hỏi: Hiện tướng nếu là y như Ngũ Phần, người bệnh không thể miệng nói, cho nên tướng gởi dục thanh tịnh.

Nếu đưa tay, đưa tay lắc đầu cho đến mắt ra hiệu được gọi là Dục thanh tịnh. Văn luật như thế, mà người lấy dục phải biết tướng đồng hay khác mới được thành tựu. Nếu trái tâm không đồng mà hiện tướng, tuy nhận không thành đều thành biệt chúng.

Nói về đối tăng nói pháp, nên đến trước tăng, người yết-ma nói người không đến thuyết dục.

Tức đầy đủ tu hai nghi nói rằng: Đại đức tăng nghe tôi Tỳ-kheo… nhận dục thanh tịnh của Tỳ-kheo kia, Tỳ-kheo kia việc tăng đúng như pháp gởi dục thanh tịnh.

Nếu nhiều Tỳ-kheo thì người có thể nhớ cùng nói một lúc. Nếu nhận dục của người khác, thì có duyên sự đối trước tăng mà nói. Đại đức tăng xin lắng nghe! Tôi Tỳ-kheo… nhân duyên bệnh hoạn, Tỳ-kheo mỗ giáp có nhân duyên Tăng sự, tôi nhận dục thanh tịnh của Tỳ-kheo ấy, Tỳ-kheo ấy và tôi thân việc tăng đúng như pháp gởi dục thanh tịnh, nói xong liền ra. Nếu tự có duyên sự muốn nói giao Phó cho tăng, phải tự đến trong tăng nói rằng: Đại đức tăng nghe! Tôi Tỳ-kheo v.v… việc Tăng đúng như pháp gởi dục thanh tịnh. Trong Tứ Phần không có văn.

Luật Tăng-kỳ nói: Tỳ-kheo bệnh gởi dục cho Tỳ-kheo mà Tỳ-kheo không nhận thì tự vào trong tăng, ở trước Thượng tọa nói:

Phật nói khéo làm đúng như Pháp, nhưng người không nhận dục bị tội.

Hỏi: Đến trong tăng thuyết dục, việc ấy thế nào?

Đáp: Hành pháp khác nhau, hoặc một lúc đến trước tăng, lễ xong thưa, hoặc thẳng đến trước tăng, mỗi việc nói. Hoặc ở trước Thượng tọa một lúc nói, hoặc hạ tọa mỗi việc nói. Y cứ theo văn đều thành. Nếu lấy ý nghĩa, trong luật khai thành do có quên lầm, hoặc lại vì bị tội, có thành văn nếu không chánh duyên thì không được thông dụng. Y cứ theo ngoại tông mỗi việc nói là đúng.

Luật Ngũ Phần nói: Sai đến trong tăng đúng như pháp vì tôi mà xưng danh tự nói và cấm cái thẻ. Nếu không như thế thì mỗi việc đều không thành.

Luật Tăng-kỳ nói: Không được hướng về người gởi dục và chịu có thể trì dục vào trong tăng nói, người nhận phải tự suy nghĩ mình có thể truyền dục được không.

Nghĩa Bình nói: Người nhận dục e có riêng chúng. Không nhóm họp sai họ tống tâm tăng biết không trái mới được gia pháp. Nay một lúc đều nói, ngôn từ náo loạn, đâu được ủy biết người không đến nhóm họp. Văn nói rõ trong Tăng-kỳ và Ngũ Phần, sai ở trước thượng tọa xưng danh tự nói: ý cũng không thấy.

Văn Tứ Phần nói: phải biết rõ có người đến, không đến. Lời này hiển bày rộng.

Nói rõ (mất) pháp, nghĩa là (nhận) dục rồi gặp duyên liền mất, không thể có chỗ của người bệnh ở trong tăng, nay nói rõ mất pháp.

Tứ Phần nói có hai mươi bảy loại, nhận dục của người khác rồi tự nói, tôi là người mười ba nạn, ba lần cử, hai lần diệt, mười tám loại người. Do tự trình bày cho nên chẳng phải tăng dùng. Nếu không tự nói, trong tướng đồng thuận. Như trong túc số. Luật Ngũ Phần nói: tự nói tội người không gọi là trì dục, trái với trên thì thành. Thập Tụng nói người nhận dục thanh tịnh, thì mới nhận, nếu nhận xong tự nói: Tại gia sa-di, chẳng phải Tỳ-kheo, cho đến mười ba nạn, đều gọi là dục thanh tịnh, không thành không đến chỗ tăng. Lại có bảy loại.

Nếu qua đời, hoặc đi chỗ khác, hoặc thôi tu, hoặc vào trong chúng ngoại đạo, hoặc vào bộ chúng khác, hoặc lên giới trường, hoặc mặt trời mọc.

Nói đi chỗ khác nghĩa là ra ngoài đại giới, đi đường khác. Xưa giải rằng: nhận dục xong, đi trong chùa, phòng khác thì mất Dục. Đây chẳng 36 giải. Tự tứ, văn nói rõ không đi chỗ khác, đổi thành: nếu ra ngoài giới.

Mặt trời mọc nghĩa là sau đêm nhận dục yết-ma đến lúc mặt trời mọc, cho nên mất dục.

Hỏi: Luật này, túc dục không thành. Nếu minh tướng chưa rõ, yết-ma đã xong, mà thuyết giới tự tứ chưa xong, thì có được qua sáng không?

Đáp: không thành.

Cho nên trong luật Tăng-kỳ nói: nếu bảy vạn tám vạn người tự tứ, sợ minh tướng xuất (mặt trời mọc) phải giảm chúng tự tứ ngoài giới.

Trong Tứ Phần chép: Nếu minh tướng sắp xuất hiện mà khai lược thuyết giới. Nên biết túc dục không được làm việc.

Tứ phần lại có ba loại: Nghĩa là thần túc ở trên không, ẩn mất, lìa chỗ thấy nghe.

Hỏi: là đều lìa mất hay lẫn lìa nhau mất?

Đáp: Đều lìa mất, vì xen lẫn thì không nhất định.

Trong văn nói nếu các tiếng lớn, nhỏ không nghe thuyết giới. Sai đứng trên tòa cao chuyển luân nói. Đây thì thấy mà không nghe. Lại như nhiều người nói giới làm sao được thấy mặt người tác pháp. Đây thì nghe mà không thấy. Lìa hai người này thì gọi là mất dục, ắt lìa nhau có mất. Y cứ vào duyên cách chướng trước nói lìa thấy nghe mất, thông vọng nhìn chỗ ngồi gần dần dần lìa. Như trong Ngũ Phần giải thích: Nghĩa là đồng che lấy lìa nhau, tuy nói không thành.

Luật Tăng-kỳ nói có năm loại, nghĩa là che lấp, v.v… như trong phần túc số nói. Trong Ngũ Phần nói. Khi đoán sự, nếu ở trong thất, tùy cơ qua lại. Nếu ở chỗ trống cách tăng một tầm đều mất. Nếu phòng nhỏ không nhận tăng, cho ngồi ở trước sau dưới nhà trong đình, hễ không nghe yết ma thì được thành.

Lại có bảy người, bốn người ni, ba người cuồng đều không thành Dục.

Luật Tăng-kỳ nói có nhiều loại:

  1. Gởi dục ở ngoài giới.
  2. Ra giới nhận dục.
  3. Gởi dục rồi tự thân ra giới.
  4. Gởi dục rồi tự đến trong Tăng im lặng rồi ra.
  5. Nhận dục rồi đến Tăng, vì nạn sợ hãi khởi lên, không một người trụ gọi là hoại chúng nên mất, có người trụ thì không mất.

Ngoài ra đồng với đương tông.

Luật Thập tụng chép: nói với người biệt trụ thì mất dục, tức ba người che lấp những điều bày ra ở trên đều không thành dục, nói cũng không thành; biết mà cố làm, lại tự nhận tội.

Văn nói: Đều không thành gởi dục nên gởi dục cho người khác 3. Nói rõ về gặp duyên không nói thành:

Văn nói nếu người nhận dục mà ngủ, hoặc nhập định, hoặc quên, nếu không cố làm như thế thì thành. Nếu cố không nói thì mắc tội, mà chẳng biết thành không, lẽ ra cũng nên thành, là khai duyên rõ. Lại gọi là ở trong tăng nếu giữa đường gọi là không đến. Tứ Phần chép: Nếu người bệnh nặng nên đỡ đến trong tăng, nếu suy nghĩ thì thêm động, tăng nên đến chỗ người bệnh vây quanh tác pháp. Nếu người bệnh nhiều, không thể nhóm họp thì tăng ra ngoài giới làm yết ma. Vì vô phương thì được biệt chúng. Nếu nhận dục rồi muốn đến trong tăng, giữa đường gặp các nạn, liền từ ngoài đến chỗ tăng gởi dục thanh tịnh thì được thành. Nhất định trong giới có nạn không đến chỗ tăng, tăng lại không biết yết-ma có thành hay không, văn nói: Có Tỳ-kheo không muốn tác pháp thì không thành.

Hỏi: Gởi dục rồi, việc xong không đến, có phạm lỗi biệt chúng hay không?

Đáp: Không phạm, vì tình hòa đến tăng mà không đem dục duyên làm việc yết-ma.

Văn nói: Nếu việc xong, đến hay không đến, đúng như pháp trị tội, chẳng nói pháp không thành tựu.

Hỏi: Nếu thọ nhật xuất giới mà việc thôi thì pháp tạ được không?

Đáp: Điệp Sự trong Văn thọ nhật. Cho nên duyên trước xong thì pháp tạ, pháp thọ dục này không có điệp sự. Cho nên duyên tạ sẽ thành.

****

THIÊN THỨ NĂM: NÓI CHUNG VỀ YẾT MA

Minh Liễu Luận Sớ dịch là nghiệp, việc làm là nghiệp, cũng dịch là sở tác. Bách Luận nói là sự, nếu y cứ về nghĩa là cầu.

Phiên là biện sự, nghĩa là pháp thực hành tạo tác, sẽ có thành công giúp đỡ.

Tăng là người bỉnh ngự. Điều thống nhiếp chỉ có yết-ma, mới có công năng bạt dứt nhiều hệ lụy của quần mê. Gốc sầu ở phần xuất giới, đức thật không bờ mé, uy thế lớn lao. Nhưng Thế tôn nhập diệt đã lâu, di huấn pháp cho đời, có thể được mà nghe.

Nhưng vì hun đúc phong tình nhiễm tục tệ bạc, lời nói thành vụn vặt vọng tham văn chân tịnh: Đi bụi trần thường rỗng không, thấm nhuần nhiều lần. Cho đến làm cho giáo không có công biện sự. Đồng thời do nhân, pháp không có trục tông. Được mất hỗn đồng, đều quy về đó. Cho nên luật nói: Nếu làm yết-ma không đúng như bạch pháp, tác pháp, không đúng như yết-ma, tác pháp yết-ma. Như thế dần dần làm cho giới hủy hoại và diệt chánh pháp.

Nên thuận theo văn cú chớ làm thêm bớt trái với Tỳ-ni. Phải học như thế. Tuy lại tăng thông chân ngụy, đối với duyên được thành việc trước, yết-ma cũng rơi vào đúng sai, mà trái với hiệu lệnh là phi pháp. Nay muốn dẹp bỏ lời nói suông, mở mang Thánh giác, thống biện tiến hay không, đều biết chia khoa. Sau có sự đều y cứ văn chuẩn cách thức. Tựu trung chia làm hai:

A. Trước nói rõ tác pháp đủ duyên. Sau nói rõ lập pháp thông cục Đồng thời giải khúc chiết về yết-ma.

Trong phần đầu đều nói rõ về yết-ma phải có nguyên do. Lại chia làm mười môn:

1. Pháp không cô khởi phải có lý do. Nghĩa là xứng lượng việc trước có ba loại, tức là người, pháp, sự.

Người nghĩa là thọ giới, sám hối, v.v…

Pháp là thuyết giới, tự tứ, v.v…

Sự là đất, y, v.v… Hoặc đồ ngồi, hoặc đơn, chợt lìa chợt hợp. Nhất định trình bày sớm đúng sai phải nhất định.

2. Y cứ về xứ để rõ. Nghĩa là trong giới tự nhiên chỉ có một pháp kết giới, ngoài ra yết-ma đều là giới tác pháp.

Cho nên luật Tăng-kỳ chép: Phi yết-ma, đất không được làm việc Tăng.

3. Phương pháp nhóm tăng: Nghĩa là trải tòa làm tướng lượng tăng nhiều ít xem chế độ thời.

4. Tăng nhóm họp khác nhau: Phải biết dùng tăng tiến chỉ chọn đức hơn kém.

5. Tướng hòa hợp: Thượng tọa trong chúng lược và mọi người nói với tăng rằng: Các Đại đức tăng chớ lấy làm lạ đối với việc nhóm họp này. Nay có việc gì đó, cần tăng đồng bỉnh, mỗi người nguyện đồng tâm cộng thành toại. Phải biết tướng im lặng quở trách. Như nói ở trước.

6. Chọn Chúng. Nói: Người chưa thọ giới cụ túc ra liền tùy theo thứ lớp mà ra, như trong biệt pháp của Sa-di, ngoài ra có người ở phải rõ tướng, đủ số hay không đủ số. Như nói ở trước.

7. Gởi dục phải hòa, phải xét kỹ về sự đúng sai của duyên, tướng có thành không. Rộng ra như trước đã trình bày.

8. Bày chánh bổn ý nghĩa là làm khất (xin) từ khước trong đó có bốn:

(1). Thuận tình là mình phải xin trước. Như thọ giới, xả sám.

(2). Người trái tâm lập trị và vô tâm lãnh thọ thì không xin từ khước, nên tác cứ ức niệm pháp chứng biết chánh.

(3). Pháp tăng sáng lập phải nhớ giới sinh thì dựng nêu xướng tướng.

(4). Chỗ Tăng thường đi: là thuyết giới v.v… hành thẻ, cáo lệnh.

9. Hỏi về sự tông: Hỏi: nói Tăng nay hòa hợp để làm gì.

10. Đáp: làm yết-ma gì đó, nghĩa là pháp về điệp sự báo cho tăng biết, không được đơn đề, như nói bố tát, thuyết giới.

Mười môn trên đây đều phải được tất cả làm yết-ma. Nếu từ sự rõ, hoặc đủ chín duyên, như kiết giới, không gởi dục. Lại như thọ nhất sai khiến, không có khất từ, ngược lại y theo mà biết. Rộng ra như trong phần biệt pháp.

Nói về lập pháp thông cục, trong đó chia thành hai:

Trước nói rõ tướng nhiếp phạm vi: là nêu riêng thành hoại. Ở phần trước nói tất cả yết-ma phải đủ bốn pháp.

  1. Pháp tâm niệm
  2. Pháp đối thú
  3. Pháp chúng tăng

Lại bày ba vị, nói ba tên.

Pháp tâm niệm: Sự là nhỏ nhiệm, hoặc giới không người.

Tuy là chúng pháp và đối thủ cũng cho bỉnh riêng, sai tự làm không thành việc phạm giới. Phát tâm nghĩ về cảnh miêng tự truyền tình, chẳng cho là không nói mà làm việc trước.

Tỳ-ni Mẫu nói: Nhất định phải miệng nói. Nếu nói không rõ thì tác pháp không thành:

Nói đối thủ nghĩa là chẳng phải duyên tâm niệm, và giới không có tăng thì sai đối thủ. Ở đây chung cho hai, ba người cho đến bốn người như ở dưới nói, nghĩa là mỗi người đối mặt đồng bỉnh pháp.

Nói về chúng pháp, bốn người trở lên bỉnh yết-ma, đây là việc bỉnh của tăng cho nên nói là chúng pháp. Trên nói lược về minh tướng, nay phân tích kỹ thì có tám loại: Trước hết tâm niệm có ba:

  1. Chỉ pháp tâm niệm
  2. Đối thú tâm niệm
  3. Chúng Pháp tâm niệm
  4. Về Đãn tâm niệm: Chỉ được tự nói, có người cũng thành.

Thường bày ba loại: nghĩa là sám Cát-la nhẹ, Thượng tọa thuyết giới phát lồ và sáu niệm.

1. Đối thú tâm niệm: Nghĩa là bổn là pháp đối thú, vì giới không có người, nên Phật khai cho tâm niệm.

Lạy trình bày bảy loại:

Trong Tứ Phần có an cư, Thập Tụng có thuyết tịnh, thọ được, thọ bảy ngày. Ngũ Phần có thọ trì ba y và xả ba y.

Thiện kiến có thọ trì bát.

2. Chúng pháp tâm niệm: Nghĩa là vốn là tăng bỉnh nhưng giới không có người cho nên khai tâm niệm.

Tứ Phần nói: Thuyết giới, tự tứ, ngoại bộ nhận tăng được thí và y của người mất.

Trong pháp đối thủ có hai:

  1. Đãn pháp đối thú
  2. Chúng pháp đối thú

Trong phần đầu bởi pháp riêng không khai giới cho tăng dùng. Tuy thành chúng cũng tự được thành. y cứ vào các bộ có hai mươi chín loại thọ ba y và xả. Thọ bát và xả. Thọ ni-sư-đàn và xả. Thọ bách nhật cúng thân cụ và xả. Xả thỉnh, xả giới, xả pháp y chỉ, y thuyết tịnh, bát thuyết tịnh, thuốc thuyết tịnh, thọ thuốc, thọ bảy ngày, an cư, gởi dục, sám ba-dật-đề, sám khinh-lan-già, sám đề-xá-ni, sám trọng cát-la. Phát lồ tội trọng khác, và tự phát lồ sáu nhóm. Trong Tăng tàn bạch xả hành pháp, tự thực hành hành pháp, bạch các hành pháp Tăng tàn, bạch vào xóm làng, ni bạch vào chùa tăng, ni thỉnh giáo thọ, tác pháp dư thực. Lại nói lược như vậy.

Chúng Pháp đối thú: Đồng trong chúng pháp tâm niệm, kế nói rõ chúng pháp có ba loại:

1. Đơn bạch: Sự hoặc nhỏ nhẹ, hoặc chỗ thường đi, hoặc là nghiêm chế. Một thuyết cáo tăng bèn thành pháp sự.

2. Bạch nhị: Về nghĩa phải thông hòa một bạch điệp sự cáo biết, một yết-ma lượng xứ có thể không tiện làm sự trước, thông bạch và yếtma, cho nên nói là Bạch nhị.

3. Bạch tứ: Thọ giới, sám trọng, trị cử quở trách, ngăn sự thông đại tiểu tình dung, trái với mình chẳng phải là bạch nhất cáo biết ba pháp có thể lượng, đâu thể biện được. Vì ba yết-ma thông với đơn bạch ở trước cho nên nói là bạch tứ. Nếu y cứ vào duyên tướng đều hợp một trăm ba mươi bốn yết-ma, nói lược như thế, nếu nói rộng nữa, đơn bạch có ba mươi chín, bạch nhị có năm mươi bảy, bạch tứ có ba mươi tám, nếu thông hai đầu trước thì có một trăm tám mươi bốn pháp.

Hỏi: Tai nghe một trăm lẻ một yết-ma, nay nêu khác nhau?

Đáp: Đây là nêu chung, chẳng nhất định như số, cũng có thể trích dẫn Thập Tụng. Kia thì định có một trăm lẻ một yết-ma. Trên nói rõ phạm vi nhiếp pháp, tức phải nói rõ phi tướng, nhưng ý trong sao là làm văn hiển rõ cho người học dễ thấy, nên không có chương sự nghĩa, mỗi phân đối tấn không, nếu muốn rõ thông phải xem nghĩa sao. Nay nói thẳng đúng sai. Nghĩa là ba pháp trên lìa thì có tám loại. Nói rõ về tướng riêng. Nếu một sự sai không ứng tám điều lại vào trong phần phi, không thành yết-ma. Nếu muốn thông biết, tìm kỹ bao gồm trên dưới môn này, ngõ hầu không khác nhau.

Hỏi: Pháp của biệt nhân sao gọi là Yết-ma?

Đáp: Trong Ba ngữ của Tứ Phần và trong bạch y nói pháp gọi là yết-ma.

Trong Thập Tụng nói: Đối thủ tâm niệm, phân y, Phật gọi là yếtma.

B. Nói rõ về sự. Nghĩa là sự bị yết-ma không còn nói lại, tức nói về phi, trong phần bị sự thông tình, phi tình đồng thời làm cho cảnh trước không lầm, mảy may đều thành pháp sự. Nếu một duyên có sai thì đều không thành. Vì sao? Vì như trong Nhân, Pháp, người không che giấu cho yết-ma, che giấu bất thiện, phi pháp thì không thành. Đây gọi là pháp vô sự hữu. Như trong chiêm bao, nên cho làm quở trách và làm tẫn xuất. Đó gọi là có thuốc có bệnh thí không tương đương, Phật nói không thành, cho nên người tri sự cần phải y cứ vào sự thật mới xưng là Thánh giáo. Lại y cứ vào một việc. Ngoài ra thì lệ theo đó. Như thật phạm tội mà nói không phạm, thật không phạm mà nói phạm, đều gọi là phi pháp. Nếu thật nói thật mới là tương xứng, nhưng người kia tự nói lại việc làm của thần, như phiếm thần, ngoài ra tôi không phải tự nói.

Trong phi tình sự hai phòng yết ma ngăn ngại khó khăn không thành. Lìa y, gậy, v.v… thì nhất định phải đủ cả hai, đây đều là văn trong luật, gặp việc không quên mất.

Nói rõ đối nhân cũng có ba người.

Trước nói về tăng, trong tăng có bốn, như trước đã nói. Chỉ làm yết ma; trong giới có người, đều phải nhóm hết. Nếu người không đến thì thành biệt chúng. Như trong túc số, chỉ được ngự ở chúng pháp. Ngoài ra, pháp đối thú tâm niệm và sự quyết định không được. Trong hai, ba người, lập đủ hai pháp, nếu tác chúng pháp đối thủ hai giới không có tăng đều nhóm họp mà làm.

Nếu số đủ bốn thì không thành tựu, lại phải đổi pháp.

Nếu tác pháp đối thú, hai người mỗi người làm không ngăn ngại nhau. Nếu có người bên cạnh có điều cần hỏi, nếu 30 xả sám cần hỏi người bên cạnh, 90 đơn đọa chỉ đối thì được, cũng có điều thông thì phải hỏi. Nghĩa là đồng chỗ ngăn che, chỗ trống, tầm nội cho nên phải hỏi. Ắt ở ngoài có ngăn che cũng không ở chỗ hỏi chung. Nếu trì y thuyết tịnh thì chẳng luận chung riêng. Nếu là tâm niệm thì một bề không phân tán, nếu có việc ấy thì tùy duyên làm.

Một người tâm niệm riêng ở trong giới. Nếu làm chúng pháp tâm niệm, đối thú tâm niệm. Lại giới không người mới thành pháp này. Nếu có một người thì gọi là phi pháp biệt chúng, nếu y cứ vào điều bỉnh. Như trong pháp ở trước, nếu tác pháp tâm niệm bất luận là đồng hay khác.

1. Y cứ vào giới có bốn loại tự nhiên, trong pháp yết-ma chỉ làm một pháp yết-ma, là tăng chấp ngự. Ngoài ra hai pháp đối thú, tâm niệm và trong chúng một, hai, ba người tạp pháp, bốn người tự tứ đều được bỉnh, đều phải nhóm hết.

– Giới tác pháp nhiếp tăng cũng chung cho hai thứ Nhân, pháp, chung cho ba loại, thì trong pháp giới chia làm năm vị trí.

  1. Nạn sự thọ giới tiểu giới.
  2. Nhân nạn sự tự tứ.
  3. Số người thuyết giới.

Ba tiểu giới này do nạn mà khai, nhưng sau khi tác pháp nhất định sẽ không khai làm, cho nên trong văn kết liền giải. Chẳng phải pháp trụ lâu.

Bốn là giới trường: Vốn là thường tăng nhóm họp, cho nên kết chỉ trừ thuyết giới, tự tứ, khất bất, xả sám, người chết, y pháp thọ nhật giải giới, kết y giới, giải kết tịnh địa, thọ y công đức, v.v…

Năm là Đại giới, tựu trung đều có thông và không thông, tùy tương có thể biết. Hai lần nêu riêng yết-ma nói rõ về sự thành hoại này pháp không khởi riêng, đều có thông và không thông, tùy theo tướng có thể biết. Hai lần nêu riêng yết-ma nói rõ về sự thành hoại này, pháp không khởi riêng, đều phải có bốn duyên. Tùy nghĩa giải thích về sai quá bảy loại, trước chỉ pháp tâm niệm để giải bảy loại sai. Cho đến bạch tứ, bảy loại có thể hiểu, trước nói về bảy loại sai:

1. Nhân sai, nghĩa là dùng pháp này đối với người mà làm

2. Pháp sai, miệng chẳng nói rõ pháp không xứng với giáo

3. Sự sai, cát-la nặng dùng tâm trách hối hận. Sự như sáu niệm, mỗi niệm đều phi pháp, vọng điệp mà tụng, không thành có tội.

4. Nhân pháp sai, không ngại sự đúng

5. Nhân sự sai, không ngại pháp đúng

6. Sự pháp sai, không ngại nhân đúng

7. Đủ ba sự sai đều đồng ở trên, tùy sự mà theo nó.

2. Đối thú tâm niệm cũng đủ bảy loại sai, số đồng ở trên tùy sự đối pháp, mỗi pháp có tướng riêng. Lại nêu mốt pháp an cư, ngoài ra thì theo nó.

1. Nhân sai, rõ nghĩa là trong giới có người, biệt chúng mà làm, tự không y vào người khác.

2. Pháp sai, miệng nói sai lầm thoát văn chẳng rõ ràng

3. Sự sai, thời chẳng phải mùa hạ, xứ có nạn duyên không y theo Phật chế.

4. Loại dưới sai rồi trước có thể biết.

3. Về chúng pháp tâm niệm như thuyết giới cũng có bảy loại sai:

  1. Nhân sai, trong giới biệt chúng tự phạm sáu nhóm.
  2. Pháp sai, không bảy rõ ba thuyết, hoặc có rơi mất.
  3. Sự sai, chúng ta có thiếu thì phi chánh pháp.
  4. Sai rồi dưới như lệ trước.

4. Chỉ đối thú như pháp trì y

  1. Nhân sai, người đối phạm giới phi pháp, có người đáng quở trách thì quở trách.
  2. Pháp sai: Trình bày thọ nhận sai chánh hoặc quở trách không thôi.
  3. Sự sai, năm y đại sắc và trở lên nhiễm tài là riêng về bất tịnh.
  4. Trái sai đến bảy như trước nêu riêng.
  5. Chúng pháp đối thú, như tự tứ, v.v…
  6. Nhân sai, bốn người bỉnh pháp, thứ năm thọ dục, hoặc phi tịnh giới biết mà đồng pháp

5. Pháp sai: Không bày tướng, nói không rõ . Sự sai thì chẳng cuối hạ. Các nạn không có Trở xuống sai, cũng như trước nêu.

6. Đơn Bạch: như pháp xả đọa, ngoài ra những trường hợp khác y theo đó mà hiểu, mỗi pháp khác nhau.

  1. Nhân sai: người biệt chúng trong giới chẳng thanh tịnh, v.v…
  2. Pháp sai: nặng nhẹ đồng pháp, trì phạm không phân, vọng bày nói năng.
  3. Sự sai, tài vật chẳng cần xả, có lỗi không bày, giới chẳng tác pháp, y vật không nhóm, vọng nương gá người.
  4. Nhân pháp sai, ở dưới có thể hiểu

7. Trong phần bạch nhị đúng như pháp kết giới

1. Nhân sai, không hết tiêu tướng mà nhóm họp.

Trong giới biệt chúng người đáng quở trách thì quở trách

2. Pháp sai, xướng tướng không rõ, tác pháp rất thầm kín, lại quở trách không thôi.

3. Sự sai, tiêu tướng và thể ba loại phạm vị, lộn xộn

4. Loạn không phân biệt kia đây

5. Giới lầm liên quan đến trong kiết giao, xa xướng, loại kết xa đều không thành tựu, các thứ sai khác có thể lệ theo đây mà biết.

8) Bạch tứ, như thọ giới v.v…

1. Nhân sai, người thọ già nạn, không nhóm trong giới, số tăng có thiếu. Người tuy năm trăm, hơn năm mươi người trong mỗi người, pháp chọn lựa không trúng, đều chẳng phải số đúng.

2. Pháp sai, thọ tiến chỉ ở trước có tám loại điều lý, và luận chánh thọ chấp văn không sai.

3. Sự sai, giới tướng không rõ, y bát chẳng phải của mình, các thứ sai còn lại lệ theo trước.

Còn chánh pháp khác cho đến tâm niệm đương pháp tự thành, không luyện chung nhau. Biệt chúng một pháp, nhiều hoặc thông nhau. Nói rộng về tướng sai như nghĩa sao.

Kế giải thích Chánh Văn yết ma, làm cho biết cương yếu, biết giải thông hoặc không thông. Nếu không đầy đủ, thấy rõ thêm bớt một chữ gọi là phi pháp. Nhưng phi tướng ấy chỉ ở một chữ, xong phải biết chỗ không được đồng với lôi sấm.

Hoặc y theo văn ẩn tụng, không hề đổi phô bày có không, hoặc thứ hai, thứ ba cũng tùy lược nói. Hoặc không có văn xưng với sự, có văn không sự, đều có đều không, chưa thể thêm bớt, cho đến sai người bên cạnh đổi, lại thêm lẫn lộn. Hoặc là ám tụng không vào tâm khảm. Việc đến cho đến có sai trái, liền ở trong đối chúng cầm văn xướng to lên. Việc như thế lộ trình bày ra lâu dần cũng nghe. Há không vị ngu si không học tự nhân lời trách, cũng có chuyển mất tinh thần. Quán sự mới đồng ở pháp. Mà hai duyên nhân sự tối tăm hơn biển mộng. Lượng thời lấy pháp toàn là tâm sự. Y theo giáo, giáo gọi là không thành.

Kết tội tội sẽ phạt nặng, bởi vậy sự may mắn về đồng pháp nên cực thành. Nếu người làm yết-ma phải là Thượng tọa. Cho nên luật nói: Người nên làm yết-ma, nếu Thượng tọa, cho nên luật nói: Người nên làm yết-ma, hoặc Thượng tọa, hoặc thứ tòa. Nếu Thượng tọa không thể nói ra lời nói thì người trì luật làm, ngoài ra không thì được. Nay giải thích chánh văn gọi là thuyết giới, đơn bạch và thọ giới yết-ma đều giải hai văn, ngoài ra thì lệ theo đây màhiểu.

Trong Ngũ Phần, phần đơn bạch thuyết giới pháp chép:

1. Đại Đức tăng xin lắng nghe là nói chúng sách tiến cho nghe làm cho động pháp nhĩ thức, phải là tăng đồng pháp.

2. Nay ngày 1, tháng có trăng tăng bố tát thuyết giới, chính là nói về tình sự, bạch cho chúng biết.

3. Nếu Tăng đến đúng thời, tăng bằng lòng cho, chính rõ rằng nếu tăng hòa tập tâm xét cho lượng có thể được hay không

Nghĩa là tâm hòa thân nhóm, sự thuận pháp ứng.

Bằng lòng cho khuyên sai người khác và chớ trái việc.

4. Bố tát thuyết giới, trọng điệp, bạch ý căn bản lần thứ 2, quyết pháp thành tựu, chấp nhận việc có thể làm.

5. Bạch như thế: Sự đã hòa biện, bạch kết nói biết kể rõ trong pháp yết-ma. Lại y cứ vào thọ giới bạch tứ ở trên đã nói rõ, sợ người mới học chưa ngộ nên lược nói lại, mỗi người đều có chí.

Trong bạch tứ còn có năm:

1. Đại đức tăng nghe đồng ở trên, nêu tai khuyên nghe

2. Sa-di… theo Hòa-thượng… thọ giới, cho đến ba y, bát, tọa cụ.

Hòa-thượng… ở đây đồng với trên, điệp duyên này tốt, chính nói về tình sự, sai chung lượng thì tiện.

3. Nếu tăng đúng thời mà đến, tăng bằng lòng cho, đồng với ở trên, tâm và sự đã hòa mong tăng đồng bằng lòng.

4. Nay tăng thọ cụ giới… Hòa-thượng… chính là rõ ràng bằng lòng có thể làm phán quyết căn bản.

Bạch như thế: bên ngoài chúng làm cho biết.

Văn bạch này nghĩa hơi giống với văn đơn bạch ở trước. Y theo đây có thể hiểu.

Kế giải thích về yết-ma Tóm lại chia làm hai:

a. Trước chánh quyết căn bản

b. Tăng đã bằng lòng dưới kết thành văn trênTrong phần trước có ba.

Trước đại đức tăng xin lắng nghe: Bảo chúng lại nghe việc đã không nhỏ, rõ rằng duyên nghe về duyên quyết phán.

5. Vị… này cho đến trưởng lão nào bằng lòng: chính nói lại về duyên và căn bản. Nghĩa là nay tăng với cho… thọ giới có thể được không.

1. Nay tăng cho… thọ giới cụ túc. Cho đến ai không bằng lòng thì nói, đơn điệp, căn bản quyết pháp thành tựu, lần thứ hai lần thứ ba cũng như vậy, một thì sự không thành biện, nhiều thì pháp có lạm sai, phép tắc làm cho định hạn đến đây.

2. Kết khuyên nói tăng đã bằng lòng cho ai đó thọ cu, dưới đến như thế mà hành trì. Ở đây phó chúc thẳng kết quy về không thiếu yếtma chánh thể. Tựu trung thêm ba pháp phân biệt, một là tăng giải, hai là thông không thông, ba là đúng sai.

Trong phần đầu nếu việc nhỏ nhẹ không có duyên khởi không có khất từ. Lại không có điệp sự thì trong sự bạch năm câu, trừ câu thứ hai, nhưng bốn câu thành bạch. Cho đến bạch nhị xếp vào lệ trừ. Ngoài ra thì một chuẩn. Trong phần hai nói về thông và không thông. Trong văn đơn bạch văn nghĩa thứ nhất. Thứ ba, thứ năm chung cho một trăm ba mươi bốn pháp. Lại không thêm bớt, câu thứ hai, câu thứ tư do mỗi câu tùy sự cho nên xứng duyên. Mà điệp văn tùy sự hiển cho nên hạn cục. Nghĩa còn nói chúng quyết phán thành tựu cho nên thông với tất cả.

Đại đức tăng xin lắng nghe, Trưởng lão nào bằng lòng hay không bằng lòng thì nói, tăng đã bằng lòng: nghĩa văn dưới đều chung cho bạch nhị và bạch tứ. Trung gian điệp duyên, điệp sự tùy cơ khác nhau. Văn hạn cục, nghĩa thông, loại ấy có thể hiểu. Nếu rõ nghĩa này thì được duyên biện làm, không cần xem văn. Không hiểu duyên trước, văn tụng cũng mất.

Nói về đúng sai, văn nghĩa trong bạch đều chung cho ba câu. Văn

nghĩa trong phần yết ma chung đầu đuôi một lời, không thể lược thêm, chắc chắn phải tụng chung, thiếu thừa thì không thành. Ngoài ra văn cú nghĩa khác chung, nhưng làm cho thuận sự hợp nghi không trái. Thêm thì rườm rà, bớt thì đơn sơ, cổ huấn khác nhau. Mà văn nghĩa không mất thì thành chánh pháp. Xếp loại y cứ vào các bộ, yết-ma khác nhau và luận nghĩa ý cũng không có ít. Cho đến như phiên dịch, âm nghĩa Phạm Hán hoàn toàn trái nhau. Những điều xưa dạy huyền không thể không hai được, cho nên lệ thành.

Hỏi: Trong đời có bạch đọc yết-ma thì tác pháp có thành hay không?

Đáp: Không thành định này.

Tuy không rõ quyết có thể lấy nghĩa cầu, nhưng yết ma giới bổn tác pháp tương tự, giới bổn là để tụng, yết-ma đâu được bạch đọc. Cho nên Luật Tứ Phần, luật Tăng-kỳ nói: nửa tháng không có người tụng giới, nên sai hướng đến chỗ khác tụng xong, lại trở về bổn xứ thuyết, không được thuyết lại. Cho đến một người thuyết xong, lại một người thuyết. Nếu người không thể tụng, chỉ nói pháp, tụng kinh mà thôi, y theo đó mà nói. Nếu người đọc được thì được cầm văn, đầu nên như thế thôi không đọc. Lại cách chú thuật ở đời đọc văn mắc việc đều không thành tựu. Chỉ vì pháp quý ở chỗ chuyên sâu. Làm cho trái văn tụng trì tâm miệng chuyên chánh thêm việc thì dễ. Nhất định lúc làm văn số chữ mở miệng càng tán loạn. Cho nên trong Phật pháp người chú thuật tụng thêm vật liên thành. Chưa nghe đọc chú mà có thể làm việc, yếtma thánh giáo Phật chế tụng trì huống chi chú thuật tựa luật tự hiển. Nhất định không tụng trọn đời phụ người tôi đích thân hỏi: về phiên dịch kinh ở kinh đô, các sư Ba Tạng Trung quốc nói: “Từ khi Phật diệt độ đến nay không có pháp này.

Hỏi tăng ni lại cùng được làm mấy pháp?

Đáp: Trong Luật Thập Tụng nói ni vì tăng, thực hành không lễ bái, không nói chuyện, không kính trọng thăm hỏi. Ba yết-ma này không cần hiện tiền tự nói, tăng vì ni, cũng được ba pháp nghĩa là thọ giới ma-na đỏa xuất tội, ngoài ra không thông nhau.

Hỏi: Được đối với bốn chúng như ni, v.v… và người tại gia tác pháp hay không?

Đáp: Không được, luật bảo đưa đến chỗ không thấy không nghe mới làm yết-ma. Ngoài ra người làm yết-ma, trong Ma-Đắc-già, Thập Tụng nói: Trước bạch y thuyết giới thành, trừ là vua Bình-sa v.v…, trừ dân tướng quyến thuộc của vua, riêng vì vua nói, vì làm cho tâm thanh 8 tịnh.

Hỏi: Yết-ma được mấy người?

Đáp: Khác nhau.

Như can ngăn hòa hợp được thêm ít nhiều, trị, cử, khất, không được bốn người gọi là phi pháp.

Tứ Phần nói: chung cho các yết-ma không được hơn bốn.

Tỳ-ni Mẫu nói: Các Tỳ-kheo nhóm họp làm việc phi pháp, nếu có ba, bốn, năm người có thể ngăn, một người không cần ngăn. Vì sao?

Năng lực của đại chúng lớn, hoặc có thể tẫn xuất tự bị khổ não. Cho nên im lặng không nói.

Mười lăm thứ im lặng trong Tứ Phần đại khái đồng với ở đây. Nói rộng như trong các chương.

Hỏi: khi yết-ma xong văn ấy ở đâu?

Đáp: Có nhiều cách giải thích, nay một pháp để định nghĩa là nói lần thứ ba xong, nói tăng đã bằng lòng cho việc đó. Lúc ấy, yết-ma xong, không đồng với giải thích trước nói lần thứ ba xong gọi là xong, cho nên luật nói: Bằng lòng là im lặng, không bằng lòng là nói, nay liền nói. Ý của không bằng lòng là thành quở trách phá, nhất định bằng lòng, im lặng. Ba lần nói xong ấy cũng thành, tùy ý được cả hai, ngoài ra rộng như trong nghĩa sao.

Tứ Phần Luật san phồn bổ khuyết hành sự sao quyển thượng.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12