TỨ PHẦN LUẬT SAN PHỒN BỔ KHUYẾT HÀNH SỰ SAO
Sa-môn Thích Đạo Tuyên trụ Chùa Sùng Nghĩa, ở Kinh Triệu soạn Thuật
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN HẠ

(PHẦN 2)

THIÊN 18: THỌ THANH TỊNH BỐN THỨ THUỐC

Thân quả báo được duy trì là nhờ thuốc, thuốc đều gọi là Thông, được chia làm bốn, gọi là thời dược.

Từ sáng đến trưa Thánh cho phép uống, việc thuận với pháp thì nên làm không sinh tội, nói thuốc phi thời là những tạp vật như các thứ nước trái cây ép, đối với người bệnh mà lập thời khai cho uống, giới hạn không trái luật.

– Thuốc bảy ngày: ước thúc có thể thành tựu pháp tất cả đều phân đều hạn dùng từ số ngày điều trị rất lợi ích.

– Thuốc suốt đời: thế lực đã sâu kín nên cho phép uống lâu mới trừ được bịnh.

Thân có ba loại:

  1. Thân tận dược
  2. Thân tận bệnh
  3. Thân tận báo

Rõ ràng luận rằng: có thân thì có bệnh, tuy ít sai tổn, sau hẳn trọng phát, thêm vào khẩu pháp có năng lực trọn vẹn nên thọ nhận trong bốn loại này, Luật Ngũ Phần có nói rõ:

  1. Nói về thể của thuốc
  2. Nói về nơi chốn tịnh địa
  3. Hộ tịnh khác nhau
  4. Tịnh pháp khác nhau
  5. Hai thọ có khác

Trong phần đầu nói dược có bốn thứ là nói theo bốn thứ thuốc, thì thời dược có hai. Trong Luật Tứ Phần có năm loại Bồ-xà-ni (Hán dịch là chánh thực) nghĩa là thức ăn sợi, thức ăn khô, cá thịt. Năm loại khư Xà-ni (Hán dịch là bất chánh) là cành lá hoa quả xay thật nhuyễn để ăn (như trong tùy tướng).

Luật Tăng-kỳ chép: thời thực là củ cải, củ hành, ngó sen, củ cải trắng, diệt trừ rễ cỏ độc (tức là gốc cỏ Tề-ni căn).

Thời tương là tất cả nước gạo, nước bột, sữa lạc, các luật đều có nói cá thịt là thời thực, đây là bỏ giáo điều trước.

Kinh Niết-bàn chép: từ hôm nay về sau không cho đệ tử ăn thịt, phải quán sát như thịt của con mình, người ăn thịt dứt trừ mất hạt giống đại bi, tất cả các loài vật ở trên cạn, ở trong nước, hay bay trên hư không đều có thân mạng, đều có oán thù, cho nên Phật không cho ăn, rộng như kia đã nói.

Kinh nói: trước bỏ ăn thịt gọi là chẳng phải của bốn loài sinh nhưng hiện hóa vì độ chúng sinh.

Kinh Lăng-già chép: không có xét nhân duyên thì không nên ăn thịt, tóm lại có mười loại:

1. Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay thường là sáu thân, vì nghĩ đến người thân nên không ăn thịt.

2. Chồn, chó, người, ngựa, heo vì đổi thay lẫn nhau.

3. Sinh ra và lớn lên ở nơi bất tịnh.

4. Chúng sinh nghe mùi sẽ sinh sợ hãi.

5. Vì khiến cho người tu hành có tâm từ bi, không sinh tâm ưa thích.

6. Hễ ngu muội huân tập những xú uế bất tịnh không lành thì được ngợi khen.

7. Vì làm cho chú thuật không thành tựu.

8. Vì ăn thịt nên thấy hình khởi thức đắm nhiễm các mùi vị.

9. Bị các vị trời bỏ đi, thấy nhiều ác mộng, cọp beo nghe mùi.

10. Vì ăn nhiều loại thịt nên ăn luôn cả thịt người. Như kinh Ban Túc Vương nói: Nay có người ngu muội phần đông ưa thích thịt, trong các tội tội này là lớn nhất, cho nên kẻ giết mổ buôn bán chỉ là người ăn thịt, nếu không ăn thịt thì không phải là kẻ hàng thịt chém giết, cho nên biết kẻ ăn thịt giống như kẻ giết mổ tạo nghiệp, giới sát sinh có thể không răn giữ hay sao?

Luật Tăng-kỳ chép: nếu là Tỳ-kheo giết thì tất cả bảy chúng không nên ăn, cho đến Ưu-bà-di giết bảy chúng cũng không nên ăn, nay người học giới phần nhiều không ăn thịt, tăng chúng thuộc hệ Đại thừa ở Trung quốc cùng theo lệ này, người học Đại thừa mà lấy uống rượu, ăn thịt làm hành vi hiểu biết thì cả hai giáo phái Đại thừa và Tiểu thừa không thâu nhận, tự họ vào chỗ giết mổ để làm thịt, thiên ma ngoại đạo còn không ăn thịt uống rượu, đây là tướng sứ của Diêm-la.

Luật Tứ Phần chép: nếu người sát sinh này thực hành mười nghiệp ác nên mới vì mình mà giết hại sinh vật cho đến thịt ở những nơi cúng tế lớn cũng không được ăn vì xét cho kỹ thì người đến tâm không chủ định, hôm nay kẻ hàng thịt thông với kẻ giết hại thì y cứ theo giáo pháp không ăn loại thịt nào, đây chính là chấm dứt việc ăn thịt, kinh Tỳ-ni mẫu rất giống ở đây.

Luật nói: nếu giữ mười điều lành thì người kia không bao giờ vì mình mà cắt đứt mạng sống chúng sinh, y cứ theo đây thì đâu có thịt gì để ăn chỉ có chúng tự chết, chim chóc tàn hại, giống như bắt tội.

Kinh Lăng-già chép: rượu thịt thuộc về hành, hẹ, tỏi, nén ắt không nếm qua, trong nhân gian còn nói không uống rượu ở chợ búa quán xá, huống gì bậc cao tăng xuất gia học đạo, lấy rượu thịt làm ý chỉ ư? Đây là bản hoài có thể thấy.

Ma-đắc-lặc-già chép: nếu dùng rượu nấu là thuốc phi thời một ngày, được uống nghĩa là không có tánh rượu được uống, nay rượu thời dược khiến cho đủ mùi vị say sưa, vì tham uống thêm khổ độc, cũng chẳng phải khoái khẩu ngon miệng, nghiệm qua hai đường này để biết được tánh tình là hoàn toàn cách xa đạo.

Về Phi thời tương, luật Tăng-kỳ chép: lúa, đậu, lúa tẻ nấu cho đặc lại, nếu bơ dầu, mật, thạch mật, mười bốn loại trái cây làm tương sống, nước trái cây thì phải dùng nước tác tịnh, nếu dưới còn một ít nước dưới đáy thùng chứa nước bị mưa ướt cũng gọi là tịnh.

Luật Thập Tụng chép: nếu nước quả nho không dùng lửa hơ qua để tác tịnh, vì trong nước nên không dùng nước để tác tịnh thì cùng là bất tịnh, không nên uống, nếu cả hai đều tịnh thì được uống, theo đây chung với bốn thứ thuốc vì phá mùi vị để trừ tham.

Luật Thiện Kiến nói nước trái cây ép Xá-lâu-già nghĩa là gốc sen giả vắt nước lắng trong tất cả, tất cả lá ngoại trừ rau cải tất cả hoa, tất cả quả của cỏ, ngoại trừ quả ngọt, bí đao, dưa ngọt, dừa, ngoài ra được uống phi thời.

Kinh Tỳ-ni Mẫu nói: được nhiều loại quả quá ăn không hết thì bổ ra vắt nước uống, nếu chưa hết đầu hôm mà nước trái cây đã biến thành rượu thì không được uống vì lượng rượu đã thành. Luận có nói rõ, gạo rang cho cháy đen, bỏ thuốc dư vào trong để làm tương, cũng gọi là phi thời tương.

Luật Tứ Phần chép: có tám loại tương, xưa không cho các vị tiên uống là quả lê, táo chua, mía ngọt, nho, xá-lâu-già, v.v… làm tương, nếu người say thì không nên uống, nếu uống thì như pháp mà trị.

Già luận chép: phải sái tịnh ngoại trừ lóng trong cho nước, nếu có chất nước đặc dùng cho thời tạp thực, nếu nuốt xuống khỏi cổ thì tùy theo đó phạm Ba-dật-đề.

Thuốc bảy ngày là, Luật Tứ Phần nói năm loại: bơ, dầu, bơ sống, mật, thạch mật, người đời đã biết thì nên ăn đúng thuốc như ăn cơm, hết cơm không để bám dính.

Già luận chép: đường tương cũng thọ được bảy ngày, cho đến không bỏ tự tánh.

Luật Tăng-kỳ chép: thêm một loại sáp (chất béo)

Luật Tứ Phần nói: ngài Xá-lợi-phất bị trúng gió, thầy thuốc bảo uống năm loại mỡ: gấu, heo, lừa, beo, v.v…

Luật Tăng-kỳ nói thuốc này thanh tịnh không phải khí thời thực, một lúc thọ uống bảy ngày, có bốn trăm lẻ bốn loại bệnh, phong đại dùng một trăm lẻ một loại dùng mỡ để trị. Hỏa đại bệnh nặng dụng bơ để trị, Thủy đại bệnh dùng mật để trị, tạp bệnh dùng ba loại thuốc trên để trị.

Luật Ngũ Phần nói thấy làm thạch mật giả gạo bỏ đường vào, Phật nói tác pháp cũng như vậy, nếu pháp hợp thuốc như vậy thì chp phép uống phi thời.

Luật Thập Tụng nói Thạch mật không được nuốt liền, trừ năm hạng người: người đi xa, người bệnh, người ăn ít không đủ, người không ăn được, nếu chỗ cho nước thì hòa với nước để ăn.

Luật Ngũ Phần chép: hai thời đói, khát thì hòa với nước để ăn.

Luật Tăng-kỳ chép: ăn như trên phần nhiều được nước hoa quả đông lạnh, ăn không hết. Động thành bơ sống được uống bảy ngày, nếu bơ nấu cho nhừ, được thọ dụng bảy ngày (nghiệm biết bơ dầu mỗi thứ đều thọ tác pháp, được hơn bảy ngày không gọi là thọ lại) nếu lúc khất thực phần nhiều được bơ, Tỳ-kheo bệnh nặng nên lấy tấm thảm mịn dày sái tịnh rồi lấy bơ để lên, được thọ dùng trong bảy ngày, nếu có duyên sự không được ở trước, trong lúc tác tịnh nên đối trước một Tỳkheo ghi nhớ nói trong đây vật tác tịnh để sinh hoạt tôi phải làm thuốc thọ dụng bảy ngày nếu quên nhầm thì đừng thọ, đừng tác tịnh, quá thời gọi là bất tịnh, nếu được nhiều dầu như trong tô nói, được Hồ-ma ăn còn sót lại, không hết thì nấu lấy dầu, dùng trong bảy ngày. Nếu có duyên sự thì không được tác tịnh, nếu mỡ gấu mỡ heo, v.v… như phần trên có 0 dùng không? Được mía ngọt và quả cũng giống như trên.

Luật Thiện Kiến nói, thọ dùng sữa đông đặc ghi trong phần sữa đông đặc, bơ là thuốc bảy ngày, đến ngày thứ bảy hợp lại được thì nên uống trong ngày, đến ngày thứ tám thì phạm nên xả bỏ dầu, mật cũng vậy.

Ma-đắc-lặc-già chép, phi thời thọ mía ngọt tác pháp không thành trong thời đồng thành, nhưng mật mùi vị ngon gấp hai, phàm thánh thường nói tham phá hoại việc làm, trước tiên là ở đây, cả hai đều cưỡng ép cướp bóc làm việc đó, nếu không phải bệnh nặng thì hiếm khi để vào miệng, cho nên luật Tăng-kỳ nói Phật thọ nhận thức ăn của loài khỉ chứ không dùng mật ngon của loài ong…

Tận hình thể: Luật Tăng-kỳ nói, hoa rễ của cây Hồ tiêu, Ha-lêlặc… Đây là thuốc phi thời, Tỳ-kheo bị bệnh, thở hổn hển nên uống cả đời.

Luật Tứ Phần nói không tin là thức ăn thì tất cả những vị mặn, đắng, cay, ngọt v.v… cũng không đảm nhận là thức ăn, gọi là thuốc suốt đời.

Luật Thiện Kiến nói tất cả cây cối và cỏ, gốc, rễ, cành, lá là thức ăn, người không tin là mình trọn đời ăn những thứ đó. Còn cây cối, cỏ lá bất luận là gốc rễ đều là thời dược, hoặc gốc là thời dược, cỏ là thuốc suốt đời, mọi thứ đều có lẫn nhau nên không thể chỉ tên riêng lẻ được, nhưng có thể ăn thời dược là gồm nhiếp được tất cả.

Người không tin thuốc suốt đời, luận số đã rõ ràng rằng nếu bệnh, uống thuốc bảy ngày thì tùy theo bệnh mà lượng thuốc nếu hết bệnh thì phải xả bỏ, nếu không bị bệnh, không đói thức ăn phi thời thì phạm tội ăn phi thời; dầu, mật, cao cũng vậy, cho nên trong luận đưa ra bơ, v.v… thuốc cả đời thì không như vậy, có thân thì có bệnh, Phật cho phép uống thuốc này để phòng hộ thân quả báo trong một thời kỳ, nếu không có khách bệnh, lại không có đói khát thì phi thời không được uống.

Luật Thập Tụng nói rượu trong đắng, không có hơi rượu, không làm bằng hèm đến quá trưa được uống. Bây giờ bàn luận, tất cả kinh luật tùy việc mà bàn bạc về thể, giống như tông này thì đầy đủ ví dụ như trên, nay có người ngu phi thời vọng ăn gọi là nước trái mơ, nước táo tương làm bằng quả gồm cả cặn, củ sen, nước gạo, càn địa hoàng, ngọn phục linh, các thuốc rượu nấu chẳng mặn, đắng mà vừa miệng thì ăn nó lúc phi thời, đồng thời khi ăn đã vượt ngoài tự tâm, vọng dựa vào Thánh giáo không bằng ăn cơm, việc này chưa hẳn làm cho tâm ác thêm lớn, dẫn dắt kẻ hậu sinh vào tội lỗi nhầm lẫn để lưu tiếng xấu muôn đời.

Kế đến là xác định hai mươi sáu vị. Số ghi rằng: thuốc có năm loại, trong vật có vị ngọt, trừ cỏ ngọt, đường cát, bơ dầu còn vị ngọt của đường khác thì phải lượng, vị chua trừ nước quả A-ma-lặc v.v… còn những vị chua khác thì đủ lượng, trong vị cay trừ gốc rễ tiêu ớt A-lê-lặc còn những vị cay khác thì nên đủ lượng, tất cả những vật có vị đắng, chát thì đừng ăn, làm thuốc trọn đời, ngoài thuốc bảy ngày ra, tất cả những vật (thức ăn) có thể ăn gọi là y thời lượng thực, từ sáng sớm đến giữa trưa là thời thực, quá giờ ngọ không được ăn.

Tất cả nước mía ngọt gọi là y canh lượng mỗi ngày đêm chia ra năm thời, từ sáng sớm thọ đến canh hai, quá thì không được uống cứ xoay chuyển như thế đến canh năm, thời gian này ngâm cơm làm tương thuộc thời lượng bơ, dầu, mật, đường cát v.v… gọi là y thất kỳ lượng. Cỏ ngọt, v.v… gọi là y nhất kỳ lượng, từ sau lúc thọ giới đến lúc sắp mãn báo thân gọi là một thời kỳ, vào lúc này bất luận là ngày hay đêm thường được ăn uống. Tro, đất, nước, nước tiểu, phân, các thứ này gọi là y đại khai lượng, không cần thọ, tùy ý lấy uống. Đây là vật thế gian vất bỏ, chẳng đáng yêu tiếc.

Luật Tứ Phần nói phải thọ các thứ như tro, đất, v.v… (đây là y cứ chỗ có người thì chắc chắn không có ai dùng).

Thứ ba là nói về chuyển biến.

Trung luận nói giống như nước nho ép, người trì giới nên uống, nếu nó đã biến thành rượu thì không nên uống, nếu biến thành rượu đắng thì vẫn còn uống được.

Luật Thập Tụng nói mía ngọt là thuốc đúng thời, nước trái cây lắng trong là thuốc phi thời, chia làm thạch mật bảy ngày đốt thành tro là thuốc suốt đời, thịt là thuốc đùng thời, rán lên cho chảy mỡ là thuốc bảy ngày, nếu đốt thành tro là thuốc suốt đời, hồ gai cũng giống như cách của thịt, lạc là thuốc đúng thời nước trái cây lắng trong như nước là thuốc phi thời, táo thành bơ là thuốc bảy ngày, đốt thành tro gọi là thuốc suốt đời.

Bốn tướng hòa hợp.

Luận Tát-bà-đa nói tướng của bốn thứ thuốc hòa hợp từ bên ngoài mà uống, nếu lấy thuốc đúng thời và thuốc trọn đời trộn thành thuốc bảy ngày để uống bảy ngày vì do thế lực của thuốc bảy ngày nhiều nên giúp tạo thành, giống như dùng bơ nấu thịt, nước của thịt bơ này được làm thuốc bảy ngày, nếu dùng thuốc đúng thời, thuốc bảy ngày, trộn lại tạo thành thuốc suốt đời để uống cả đời, giống như lấy tô, sữa hòa với rau đay làm thành viên. Lại như phụ tử, chim và các thứ độc ngâm với đậu, lúa mạch gọi là thuốc suốt đời, nếu lấy thuốc bảy ngày ược và thuốc suốt đời trộn lại thành thuốc đúng thời, đến giờ ngọ thì uống, giống như ăn mì với bơ, dầu, gừng, tiêu, nếu phân số đều bằng thế lực tương tự tùy dược thủ mà đều gọi là tiêu mục, còn những phần khác thuốc phân cho tương xứng với nó như thạch anh, chung không, hoàng ký, bạch mộc, hoàn tán, thang, cao tiễn v.v… đều nêu ra cho biết công dụng của nó.

– Chỗ để thuốc thì kết tịnh, lược chia ra bốn môn:

Chế ý: Đều do quả báo của chúng sinh không đồng, có thượng, trung, hạ khác nhau, nếu thân được bậc thượng thì khoẻ mạnh, chế thuốc cho tùy duyên đi khất thực ít ham muốn để cứu thân mạng, chí giữ vững đạo nghiệp không cậy người giữ giúp, các hạng hữu tình bậc trung, hạ thì giống như thượng sĩ, nhưng sức yếu không kham nổi, phải giúp sức mới có thể siêng năng, vì thế bậc đại thánh thương xót vì đồng giới khốn khổ, đói chết mới khai kết chỗ giải thích riêng. Tịnh Danh lấy việc ăn uống là đồng chỗ với cấu uế sinh hoạ hoạn. Nay đã kết riêng, tình vô dư súc, ăn không sinh tội, cho nên danh là tịnh, nếu đồng một chỗ làm cho lòng tham thêm lớn, trái với giáo pháp thì thọ nghiệp, nghiệp là uế nên danh bất tịnh, đây là từ duyên nói tịnh chẳng phải nói đối với uế.

Phân số tác pháp có bốn thứ tịnh:

– Ly tường bất chu tịnh:

Luật Tứ Phần chép: một nửa có hàng rào làm chướng ngại, phần nhiều không có hàng rào chướng ngại, đều không có hàng rào chướng ngại nghĩa là hiển bày trên mặt đất, phi tướng trừ tích cho nên khai ra (hẳn là ba mặt có viện, khai một mặt nhiếp thực nghĩa cương cũng giống như có tội, nhà trù cô lập có viện cũng giống như vậy) tường, thành, hào, nương cũng giống như vậy (cũng không phải bức tường là vòng tròn mà tùy tướng chung thành).

– Đàn-việt tịnh, có ba:

1. Thực cụ là vật của người khác, Luật dạy:

Từ nay trở đi nên làm thức ăn của đàn-việt khiến tịnh nhân ban cho, không được tự thọ nếu có điều cần thì tìm lấy. Hai chỗ là vật của người khác, cho nên nói nếu vị tăng làm giả làm mà chưa cúng dường cho tăng, tuy thúc ăn ở trong cũng không có phạm.

Tam thực xứ đều gọi là nơi chốn người có thức ăn đầy đủ là người khác chứ không phải thuộc về tăng dùng. Ba điều này gọi là tha vật tịnh, cần phải thật, không được giả. Nay phần nhiều gởi bụng, tự lứa dối, tự phụ, trái vối pháp, đắc tội.

Luật Thập Tụng nói, Vua Bình-sa cúng dường ruộng trồng lúa cho chúng tăng, Tỳ-kheo lên đạo tràng, Phật dạy người chưa phân nên lên, nếu phân rồi không nên lên, nếu lên phạm Đột-cát-la.

Vua băng, Tỳ-kheo thấy không có đàn-việt, cho là phạm túc chữ, Phật dạy: Xà Vương đã thay thế chỗ không gọi là có phạm tội (y theo đây nêu những thứ khác đều phạm).

Lụât Tăng-kỳ chép: Bà-la-môn cúng dường cháo trắng cho Phật và tăng, vì tăng ở cùng một trú xứ mà làm. Thịt để qua đêm, thịt hầm, không cho phép ăn (vì biết thuộc về tăng thì giống pháp tăng, chẳng phải đàn-việt tịnh thí)

– Tam Xứ Phân Tịnh

Luật Tứ Phần chép: nếu đàn-việt tính toán, làm già-lam cho tăng chúng, phân chia khu vực, nói như vầy: Chỗ này tăng làm tịnh địa, Luật Tăng-kỳ chép: nếu làm chỗ ở mới, Tỳ-kheo làm việc và tăng chưa ở thì đầu hôm lấy dây đo lường để phân chia cho đều. Người xây cất cho tăng ở, chỗ đó cho làm tịnh thất thì nên nhận, không được vào lúc đầu hôm (Luật Tứ Phần nói mặt trời đã mọc). Nếu đàn-việt nói: không chuẩn bị chỗ, chia cho tôi chỗ chưa cúng cho tăng, đây là đồng với vật tịnh của người khác.

Luật Ngũ Phần nói, làm một trụ xứ mới mà chưa có tịnh thất, trước nên chỉ chỗ này làm tịnh địa, đặt thức ăn vào đó, sau đó tăng ở. Nếu đến ngày mai, mặt trời mọc thì không thành.

Luật Thiện Kiến chép: vì sao kết tịnh ốc? Lúc đầu dựng trụ nói chỗ này là tăng làm tịnh ốc. Nói ba lần như thế rồi dựng lên, còn những việc khác cũng làm như thế. Nếu không làm như vậy thì đến một cây trụ rồi thêm pháp vào đó cũng thành. Nếu đã thành rồi gọi bổn chủ đến nói khiến họ chỉ một chỗ nào đó để tăng làm tịnh ốc. Nếu không có xóm làng có một vị lão túc thì mới đến bảo làm nếu họ không hiểu thì chỉ cho họ hiểu.

Tứ bạch nhị kết: nghĩa là chu vi của viện tăng-già-lam, Tỳ-kheo ở trong tăng-già-lam phạm lỗi nấu đêm không kể là người ở gần xa, lâu mau, đều tùy xứ kết tịnh, đuổi Tỳ-kheo đó đi.

Kinh Tỳ-ni Mẫu chép: Trong đại giới không có tịnh trù, tất cả các thức ăn để qua đêm không được ăn, cho đến cỏ thuốc cũng như vậy.

Luật Tứ Phần chép: Vì Tỳ-kheo đói chết, nên cho phép ở phòng bên chỗ yên tịnh trong Tăng-già-lam kết làm (phải là ở trong phạm vi tác pháp, không giống chỗ phân chia như trên)

Luật Ngũ Phần chép: Các Tỳ-kheo muốn Yết-ma, một phòng, nửa phòng, nửa gốc, sân giữa hoặc kết chung trong phường làm tịnh địa thì đồng cho phép. Nếu người kết chung, Yết-ma rằng trụ xứ này cùng ở cùng bố tát, Tăng nay kết tịnh địa, trừ chỗ này (nghĩa là tăng ở, tới lui phòng xá, y theo đây tất cả rau quả ở khắp nơi đều không có lỗi, nếu hái, mặt trời mọc ở phía dưới nhà)

Lại nói, phải nương vào đất để đứng, không đứng trên xà nhà.

Luật Tăng-kỳ chép: nếu một lớp, cách chung cách riêng, lợp riêng lợp chung, cách chung lợp riêng, một bên, hai bên, ba bên, cách đạo, hai bên thì tác tịnh, ở giữa không tác tịnh. Như vậy tất cả đều được. Y theo đây tác pháp Yết-ma, trong văn thì cần phải rõ ràng, chỉ ra những điểm khuất mắc. Kết giới rồi chỉ rõ chỗ để, khiến cho chủ, khách đều biết rõ ràng (trong luật, khách hỏi, chỗ nào là tịnh địa, chỗ nào là bất tịnh địa).

Trong Ba gia pháp, bốn tịnh có hai loại không làm (như đã nói ở phần trên) xử phân một pháp, người khác chỉ bày, như trước đã nói. Người Yết-ma kết giới, ở trong giới tăng trước chỉ chỗ nơi, chỉ xa kết thủ, cho nên không được ngồi ở giữa mà kết giới.

Các Sư ngày xưa nói vì thức ăn mong chờ tăng là thâu nhiếp, là ngăn ngại [page 120] (cho nên phải ở xa kết, ở giữa nhiều tạp tướng) vì tăng mong chờ Tăng thì chẳng thâu nhiếp, chẳng chướng ngại (Tịnh địa có tăng không khỏi riêng chúng). Trong luật bảo xướng lên nơi chốn, cho nên một tùy kheo khởi xướng rằng:

Đại đức tăng xin lắng nghe, con là Tỳ-kheo vì tăng xướng nơi chốn tịnh địa, hoặc phòng, hoặc xứ, ôn thất, trai đường. Về sau ngồi rồi cũng không phải là người cầm điệp xướng mà gọi là Yết-ma. Kế là tác dục vấn hòa rồi bạch nhị Yết-ma rằng:

Đại đức tăng xin lắng nghe: Nếu tăng phải thời mà đến, tăng chấp nhận cho tăng nay ở chỗ này kết tịnh địa, tác bạch như vậy.

Đại Đức tăng xin lắng nghe, nay tăng kết chỗ này làm tịnh địa, các Trưởng lão nào bằng lòng, tăng kết chỗ này làm tịnh địa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên. Tăng đã bằng lòng kết chỗ này làm tịnh địa rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên hành trì như vậy.

Luật Tăng-kỳ chép, tác tịnh trù không nên để nước chảy ra bên ngoài bình nước chấm, người có duyên thì nên bằng lòng. Trong luật không có văn, ý nghĩa y cứ theo sự phản kết liền tạo thành, nên nói:

Đại đức tăng xin lắng nghe, nếu tăng phải thời mà đến, tăng chấp thuận cho, nay tăng bằng lòng chỗ này làm tịnh địa, tác bạch như vậy.

Đại đức tăng xin lắng nghe, nay tăng đồng ý chỗ làm tịnh địa, các Trưởng lão nào đồng ý chỗ này làm tịnh địa thì im lặng, vị nào không bằng lòng thì cứ nói lên.

Tăng đã bằng lòng chỗ này làm tịnh địa rồi, tăng bằng lòng vì im lặng, việc này nên hành trì như thế.

Tứ tạp xuất liệu giản:

Đàn-việt tịnh, bất chu tịnh hai nơi này không kể trong, ngoài, đêm ngày đồng tá túc, nấu nướng đều không phạm lỗi. Nhưng không được xúc chạm. Yết-ma xử phân hai chỗ tịnh (đàn-việt tịnh và bất Chu tịnh) cho một Tỳ-kheo ở trong xem xét hộ minh tướng. Nếu cho đồng một nơi thì chỉ phá hoại thức ăn, lại cần một đồ vật dùng để đảo đồ ăn để cho thanh tịnh. Nếu ban đêm nấu thức ăn thì phạm tội. Nếu xử trị, trú xứ làm người phân xử, luật Tăng-kỳ nói:

Tăng ở trong chùa phạm lỗi, vì đầu hôm mà muốn làm xử phân thanh tịnh. Trụ xứ hư hoại, đất nước loạn lạc, vua mới chưa lên ngôi, lúc bấy giờ được phép thọ làm. Nếu không có duyên này thì khiến cho trụ xứ và tụ lạc đình phế hai năm gọi là xử phân.

Nếu không chịu tác xử phân, ngưng kết tịnh có thể ăn đồ vật, nội túc nội chữ. (ở bên trong, nấu bên trong)

Hỏi: Kết tịnh rồi được vào bên tronng xem nấu nướng. Vì sao nấu bên trong mà không phạm?

Đáp: Nấu là tùy theo chỗ đại giới, không có người cũng phạm. Tá túc là người đến nương ở. Hai giới (khu vực) không có người thì không phạm.

Ba hoạch tịnh pháp, có năm môn.

– Phiên tịnh

– Hộ tịnh

– Tội thông tắc

– Hỗ minh tịnh nhiễm

– Kiệm duyên khai tám việc

Trong phần đầu, nếu ở riêng một nơi duy trì Phật pháp thì phải kết thực giới đồng hộ tịnh thực. Đây là chung cả phàm thánh con đường của chúng tăng phải thuận theo bản hoài của Chư Phật. Nay tự cùng ở chung nắm bắt cái khoảng cách tham nhiễm, là cái mà người thế tục thường xấu hổ, huống chi là tịnh tăng, nhẹ nhàng với việc ăn uống thường cần kiệm, chẳng lẽ vì đó mà nhiễm ô. Về sau nếu có duyên thì vô lý phải chắp tay, vẫn là việc tiếp xúc với bản tâm, ban đầu không hối tiếc. Nếu không tin tâm này thì phải là bậc sư tượng (thầy giỏi), muốn y cứ theo lời của bậc thánh để dứt bỏ cấu uế thì có bốn thứ khác nhau:

  1. Duyên tịnh
  2. Thể tịnh
  3. Duyên bất tịnh
  4. Thể bất định

Nói duyên tịnh là cái búa, đồ vật úp ngược lại để giúp cho việc lo liệu. Phật khai cho là duyên, ở đây không cần phiên dịch.

Nói thể tịnh là không chứa hai đồ vật, Phật cho phép tự đặt nước lên lửa để nấu, cho đến đồ vật của Chư tăng chứa đầy thức ăn.

Nói thể bất tịnh dây là trị sinh hưng khởi lợi dưỡng dùng để tạo tượng Phật, cúng dường các Tỳ-kheo tăng nên ngăn cấm không cho lễ nhận. Tuy không nắm giữ qua đêm, dịch cũng không được ăn, vì tâm xấu ác. Ba câu trên cùng là chánh kinh. Văn rộng như sao cũng không cần dịch.

Duyên bất tịnh vốn là tịnh nhưng vẫn gặp duyên nhiễm cho nên phải dổi uế thành tịnh.

Luật Ngũ Phần chép: có các đồ vật bất tịnh như gỗ, hờm tẩy rửa đi. Vì sợ người phá hoại dùng nước sôi tẩy rửa nó.

Luật Tăng-kỳ chép: tịnh nhân làm thức ăn, đồ vật sạch rơi xuống vào trong bát Tỳ-kheo, tìm liền nhặt lên gọi là Tịnh. Nếu đình trệ trong giây lát gọi là Bất tịnh.

Nếu là đồ vật bằng đồng thì rửa sạch nên dùng đồ vật bằng gỗ. Nếu bên trong dơ quá thì gọt bào nó đi. Cái nào không dùng được thì nên bỏ.

Luật Thập Tụng nói tùy kheo – có – cái – bồn – dơ, hai ba phen dùng đựng nước tắm gội vì không bệnh nên phải lấy cây vót, sau đó tắm gội hai ba lần, là tịnh. Ngoài ra có mà không dùng hết. Lấy gạo, mì, dầu, tương ở trong chùa ni, người thế tục, Sa-di, tịnh nhân, từng tảng, từng tảng lại rộng lớn ngang nhau. Tuy được vật chính, dùng hai tay bưng bỏ vì khéo nhìn. Nhiều Tỳ-kheo cùng làm với một Sa-di, mỗi người tự vác thức ăn, đến thời tự phân chia.

Sa-di nói với Tỳ-kheo rằng: nay đổi thức ăn của tôi cho Đại đức, cứ lần lượt đổi như vậy cho đến vị hạ tọa. Nếu không có người đồng ý dạy điều đó cũng được. Y theo đây lần lượt đổi uế thành chứng quả. Nếu chậu, lu và những đồ vật có thức ăn bẩn thì để thức ăn vào nồi hơ qua lửa, trong ngoài đều nóng, chất dơ xuất ra thì thức ăn tịnh. Hòm hương bằng gỗ thì bào vót rồi trét bùn lên, hầm đất, tùy theo đồ vật mà trét lên đồ vật bằng đá, hoặc dùng nước rửa hoặc khắc rửa. Nếu sạch rồi thì thôi.

Luật Tứ Phần: được cầm cái móc cửa của chúng tăng, hoặc gậy, hoặc vòng, hoặc thìa, hoặc thìa bằng sừng hoặc thìa bằng đồng hoặc bồn tắm, giường nằm thì không xúc tịnh (nghĩa là chẳng phải y phục thường dùng)

Hỏi: Xúc tịnh là lỗi gì mà Phật phải nhọc sức chế ngăn nó?

Đáp:

1. Phật muốn tăng thượng, đệ tử khiến cho việc làm hơn mọi việc khác. Bên trong có thắng pháp bên ngoài có việc làm cũng vậy. Giống như ở thế gian, người sang ngồi yên để thọ thực, không làm việc cực nhọc và thân hình đẹp đẽ.

2. Vì hiện tướng đại nhân. Tam thánh ba đời cũng không tự làm. Nay nếu ban đêm va chạm vì mất pháp bậc thánh.

3. Chư Phật lập giáo chung cho cả Đại thừa, Tiểu thừa đều không nấu ban đêm. Giống như kinh lăng-già, Luật Thập Tụng đã nói.

4. Thêm lớn lòng tham, phá hoại đức tin.

5. Phế bỏ việc tu, nghiệp ác có cơ hội phát sinh.

6. Chết đọa vào hầm phân.

Kinh Hộ Tịnh nói có người ban đêm cầm nắm v.v… chúng tăng ăn thức ăn bất tịnh. Sau đọa trong ao phân hôi thúi, năm trăm muôn đời chịu khổ, hết tội khổ này lại đọa vào loài heo và bọ hung, mỗi loài phải trải qua năm trăm muôn kiếp, thường ăn thức ăn bất tịnh. Sau được sinh làm người, nhưng phải làm hạn người nghèo cùng cơm áo thiếu thốn. Phật bảo các Tỳ-kheo: chúng tăng ở nơi này làm thức ăn bất tịnh, nếu không đủ thì đi xin ăn, như pháp mà ôm bát xin thức ăn của người tại gia. Đó gọi là mạng sống thanh tịnh. Do đây nói Tỳ-kheo tri sự vì xúc chạm đồ vật thanh tịnh nên dọa vào trong loài ngọc quỳ hơn năm trăm năm, không nhìn thấy nước trái cây ép. Khi muốn vào nhà xí, bị quỷ thần hộ nhà xí đánh không cho đến gần. Nói rộng nhân duyên như vậy. Luận Đại Trí Độ nói:

Nếu bậc Sa-môn ruộng phước dùng tay dơ bẩn sờ vào thức ăn, hoặc ăn trước, hoặc lấy vật bất tịnh bỏ vào thì dọa vào địa ngục Phân Sôi, rộng như trong quyển 17. 18. 19. Trong phẩm Phân Tề Long của kinh Đại Tập nhật tạng có nói rộng, Tăng ăn khó gần, khó dùng. Các kinh như kinh Tăng Hộ, v.v… … đến ngày mai là phi pháp thọ dụng tang vật. Văn rộng không ghi đủ. Nói cho thông với đây là: nếu không có hổ thẹn, khinh mạn lời Phật, chính bản thân đồ vật còn phạm huống gì vật 8 của tăng. Nếu nói sâu xa hơn thì phải tự dứt bỏ mới vượt khỏi kỳ hạn.

Ngũ Bách Vấn chép: nói về trì giới, vị Tri sự chỉ đồ vật của vị tăng, La-hán đại diện sám hối khổ duyên, như thế mà rộng biết.

Hai điều hộ tịnh pháp, trước tiết lộ ác xúc.

Luật Thập Tụng chép: Tỳ-kheo ăn rồi lấy bát và thức ăn bẩn của mình cho Sa-di và người tại gia. Sa-di rửa bát rồi lai đặt vào trong đồ vật của tăng. Đây gọi là Tịnh, một lòng qua cho thì không phải là ác xúc. (y theo đây, dưới đồ vật còn sót thức ăn bảo tịnh nhân trao cho là có lỗi xúc chạm)

Luật Ngũ Phần chép: Nếu không có tịnh nhân để tay bẩn (nghĩa là trước cầm thức ăn của Tỳ-kheo làm cơm, mì cho tăng, bậc Thượng tọa, một người được bất tịnh còn những người khác gọi là Tịnh. [121] Tịnh nhân đem tịnh mạch vẽ cái bất tịnh mạch lên trên, được lấy qua phần trên. Nếu bất tịnh mạch vẽ lên trên một cái tịnh mạch thì tất cả đều là bất tịnh. Nếu lấy cái tịnh ở trong cái đồ đựng bất tịnh thí cái tịnh đó phải được treo ở giữa.

Như những đồ vật đẩu, du, khuôn v.v… tất cả đều là bất tịnh.

Luật Thập Tụng chép: Đặt thức ăn bất tịnh vào thức ăn sạch thì phải bỏ nó ra. Ngoài những món ăn khác như bánh, trái cây cũng vậy (y theo đây, những thức ăn khó tiêu, hình dạng có thể khác nhau tướng uế, tính cũng nhiều thì nên đổi).

Luật Tăng-kỳ chép: nếu lúc phơi lúa đậu, Tỳ-kheo ở trên, hành giả ở dưới bảo tịnh nhân bưng đi. Nếu việc khó gấp tuy có lao vào cũng không có tội. Nếu biệt chắc là trời mưa, không có tịnh nhân từ xa được ném vật tịnh phủ lên trên rồi cầm những viên sỏi, ngói, đá sạch chấn lại. Nếu là đồ đựng thức ăn cũng nhớ làm như vậy. Nếu trong nhà trù có những thức ăn như bình, bơ, dầu, mía ngọt, trúc, bó trúc, bó lau, Tỳkheo lấy bình dầu bảy ngày mà lại cầm nhầm bình tịnh dầu đem đến, người khác thấy không được liền nói mà đợi người (tri khố) đến hỏi:

– Đây là dầu gì?

Đáp: Dầu bảy ngày. Người kia nên bảo ông đặt bình dầu này dưới đất không được nêu tên họ, bảy ngày sau trở lại lấy (vì đã đụng nhầm nên không thành).

Nếu bảo lấy tịnh dầu nhưng người thế tục không hiểu cầm nhầm dầu bảy ngày đem đến thì cũng làm như pháp có mất). Nếu tự mình cầm nhầm những vật khác cũng như vậy.

Nếu nói xem xét tất cả đồ vật, xem bình tro đã đem đến. Cái bình trong tay Tỳ-kheo này là nhầm lẫn, nên xem xét nên gọi là Tịnh. Nếu thả cái bình trong tay ra thì gọi là bất tịnh (những vật khác cũng giống ví dụ này).

Khí trung minh xúc:

Tất cả những lá xanh cuốn lại là đồ vật, duỗi ra thì chẳng phải đồ vật. Cái bàn vì không có đồ vật để đặt miếng bún lớn vào để ăn, cho nên lấy cái giường dài, tọa cụ, giường dậy, giường dệt mịn sít làm đồ vật để ngồi ăn. Thuyền ở trên sông, xe làm trâu sợ hãi thì chẳng phải là đồ vật. Nếu lúc ăn không có cai gì làm dồ vật thì nên lấy một tấm ván dài đặt lên giường rồi ngồi lên trên đó ăn, hoặc đặt mía ngọt, củ cải, lúa đậu v.v… lên trên đó rồi mời Tỳ-kheo đến ngồi, không nên động thân, nếu hỏi thì tất cả đều là đồ bất tịnh (vì có duyên nên khai cho ngồi, nếu động thân, hỏi thì thành xúc chạm).

Nếu máng y lên cái giá ở trên gác kho thúc ăn thanh tịnh và y bát. Nếu lấy đồ vật làm đụng vật đựng thức ăn đã thanh tịnh thì tất cả đều trở thành bất tịnh. Nếu cái gác chắc chắn không lung lay thì được. Nếu ổ trên thuyền chở mười bảy loại lúa đậu, bên trên phủ cỏ lên thì Tỳkheo được ngồi lên nhưng không được gọi danh tự. Nếu bị gió thổi, sóng cuốn đến bờ thì tất cả đều thành bất tịnh. Nếu dây thuyền, cây sào để chèo thuyền không rời khỏi nước thì gọi là tịnh. Trên xe lớn chở nhiều lúa đậu, Tỳ-kheo được ngồi lên để giữ nhưng không đi. Nếu xe nhỏ có vật thanh tịnh. Nếu lúa lấy y bát động xe thì tất cả đều trở thành bất tịnh, nên bảo tịnh nhân lên trước, Tỳ-kheo lên sau. Nếu lúc xuống thì Tỳ-kheo xuống trước, tịnh nhân xuống sau. Nếu ở trong xe chở đồ vật, sơ ý thì xe lật trâu lìa khỏi xe, tất cả đồ vật đều trở thành bất tịnh. Nếu cái đuôi dây buộc trâu chưa lìa khỏi xe thì gọi là tịnh.

Luật Thập Tụng chép: tùy kheo cho Sa-di thức ăn để ở mái hiên nhà. Trên đường đi đến giờ ăn thì cho Sa-di thức ăn, nhưng Sa-di trả lai cho Tỳ-kheo. Nếu trước không cùng ăn mà ngược lại với ở đây thì không được bảo Sa-di mang thức ăn ở bên ngoài hiênlội qua sông vì sợ chìm, cho đến được hưởng thức ăn ở ngoài hiên đó. Tuy có cầm nhưng không phạm, đã qua đến bờ không cầm nữa. Nếu nhận cơm đựng trong đồ vật bất tịnh thì tất cả không nên bỏ. Nếu là cái chén thì bỏ, còn chừa lại những vật khác, giống như trong luật Tăng-kỳ, được ăn. Nếu lúc ấy dây buộc bát nhận cháo nóng, bên trong có mỡ chảy ra thì nên bỏ ngay chỗ mỡ chảy, còn những món khác thì được ăn. Đồ vật đựng cơm, cháo, canh bị nghiêng qua một bên, cho phép tịnh nhân làm giúp, sửa cho ngay rồi thì thôi không được sờ vào nữa. Nếu người giúp tịnh phủ cũng vậy. tịnh mhân vẽ bình bơ dầu nghiêng qua một bên cũng vậy, xe người kéo hay lừa trâu kéo chở thức ăn bị nghiêng qua một bên cũng vậy. Lúc trời mưa gió đồ vật thanh tịnh để trên đất trống, nên rửa tay thật sạch cầm tấm che đậy lên chỗ có đồ vật (đây là thể tịnh).

Luật Tứ Phần chép: nếu bình bơ dầu mà không đậy, hoặc không có tịnh nhân thì tự tay cầm đồ vật che lên (gọi là duyên Tỳ-kheo, nếu cư sĩ cầm thức ăn thưởng cho Tỳ-kheo, sau tìm trả lại cho Tỳ-kheo, thì Tỳ-kheo nên rửa sạch tay để nhận. Nếu chín bát có lỗ xạy thúc ăn để vào trong, tùy theo cái có thể rửa thì rửa. Còn những thứ khác không đưa ra, không phạm. Nếu vào trong tăng để ăn mà không có bình bát thì cho phép chọn chỗ ngồi, nếu trong tăng có bát thì mượn dùng (cũng là thể tịnh).

Luật Thiện Kiến chép: Tỳ-kheo dùng hơi thể thổi đồ vật thanh tịnh gọi là xúc chạm.

Luật Ngũ Phần chép: bình bơ dầu bị nghiêng nên sửa lại cho ngay, không được lìa khỏi đất ném vào gạo tịnh thì có thể phân tích lấy nó ra. Nếu không thể phân tích thì bóc bỏ ra một nắm.

Luật Tứ Phần nói: có thể tự vải hạt nếu rau mọc lên thì cho phép ăn, nhổ cây con trồng lại cũng cho phép ăn (rau quả khác cũng giống như vậy). Nếu Sa-di nhỏ cầm thức ăn thanh tịnh qua sông thì phải đặt ở giường vài trái cam, khiến cho từ trên xuống dưới.

Luật Thập Tụng chép: Tịnh nhân lấy thức ăn để lên phía trên, Đại Tỳ-kheo tự tay sờ vào thức ăn phạm Đột-cát-la.

Nếu bị bệnh uống thuốc thì đừng để cho người thấy.

Luật Tỳ-nại-da nói được lúa gạo lấy cho khách (nghĩa là bảo tịnh nhân nhận lấy.

Hai là nói về tự nấu:

Luật Tăng-kỳ nói: nếu ở chỗ a-luyên-nhã, tịnh nhân bị bệnh, không có tịnh nhân mà tỳ- kheo có lúa thanh tịnh thì Tỳ-kheo tự giã nấu cháo cho tịnh nhân, tịnh nhân ăn không hết, Tỳ-kheo không được tự ăn (theo Luật Thập Tụng trước không đồng tâm đồng lòng cho cũng được).

Luật Tăng-kỳ chép: nếu tịnh nhân khó tìm được thì Tỳ-kheo phải tự làm thức ăn, phải tự rửa cho thật sạch, không được đổ nước vào vật dơ bẩn để đun sôi (đây là thể tịnh, không được đun đồ vật của tăng bị bẩn trên lửa, phải giữ điều đó). Nếu đã sai tịnh nhân bỏ gạo vào nước rồi thì không được đụng vào, bảo tịnh nhân đun sôi. Cho phép đặt cây ngang dưới đất, Tỳ-kheo ở trên bảo tịnh nhân đặt nồi cơm lên trên cái cây ngang, miệng nói thọ thọ, sau đó tự mình nấu cho chín để cho người bệnh ăn. Chớ bảo là đừng thọ nhận đồ vật đã rớt vào trong, cho đến luộc rau phải để cho chín tác pháp giống như trên. Nước gừng cũng không được nấu, vì biến sinh. Nếu trời lạnh, xin được tự hâm cho nóng, không phạm.

Lúc làm thức ăn, tịnh nhân còn nhỏ thì cầm tay nó dạy vo gạo, chắt nước cơm.

– Nói về ở trong đêm:

Luật Ngũ Phần chép: Nếu sai tịnh nhân rửa rau ở chỗ bất tịnh, rửa chưa xong, mặt trời mọc thì không phạm.

Luật Tứ Phần chép: có một Tỳ-kheo mang thức ăn đến tìm tịnh địa, tìm chưa được mà mặt trời mọc thì không phạm.

. Nói về nấu trong nội giới, ở trong nội giới vốn là người khác nấu, có dư được chút ít thì rửa sạch sẽ rồi thọ thực.

Ba minh thông bít chia làm hai:

1. Bốn thứ thuốc: nếu là thời dược thì quyết định có nấu đêm để dùng riêng làm ba cương năm thường phải làm cho nên uống.

Ba dược không thêm pháp:

a. Thuốc đồng thời: nếu về bệnh mà thêm nghe pháp thì có thông cục.

b. Thuốc phi thời: qua giờ ngọ, mặt trời chưa xuất hiện uống đều được. Nếu minh tướng xuất hiện thì mất khẩu pháp, thức ăn thừa ác xúc là phi thời sinh.

c. Thuốc bảy ngày: khai cho tác pháp thêm vào nội tịnh trù. Đêm chưa tàn đâu phải qua ngày thứ tám, sáng sớm hôm sau thức dậy thì đủ tội như sau.

2. Thọ suốt đời thọ: Tất nhiên là chín rục không thể nảy mầm được, luật khai cho tự nấu trong đêm.

Luật Tăng-kỳ chép: tự nấu nước gừng bị kết phạm, nghĩa là có sinh sôi. (theo đây quyết định khai ba tội thuốc bảy ngày không giống như nấu đêm).

Luật Thập Tụng chép: nước thạch mật, khai cho người bệnh ban đêm được uống (phải là nạn duyên).

Luật Tứ Phần chép: dầu, bơ đêm tàn khai cho nhỏ vào mũi, những thuốc bất tịnh khác không được gia pháp.

Chánh văn của Luật Thập Tụng chép: đầu hôm có ba hạng giống như trên thêm vào thức-xoa-ma-na-ni.

Trong Luật Tứ Phần nói Thức-xoa được cùng với đại ni ăn nhưng không được ngủ chung (có nơi vì không có Sa-di nên khai cho). Trong đêm kết tịnh địa rồi thì trong phòng tăng được cùng ăn đêm. (không nói tịnh địa có Tỳ-kheo).

Nấu đêm: kết tịnh địa rồi trong phòng tăng được nấu đêm.

Tự nấu: Đại Tỳ-kheo tự làm [page 122], không nên ăn như ba hạng người trên.

Ác tróc: tự tay cầm quả đưa cho tịnh nhân rồi lại lấy ăn (không quyết định xả bỏ, cho người rồi lấy lại ăn giống như ác tróc).

Luật Tát-bà-đa chép: cùng ăn đêm có ba hạng: đã nhận thức ăn rồi còn tự làm thúc ăn nghĩ là cùng ăn đêm.

Không cùng ăn đêm mà để qua đêm phạm Đột-cát-la, nếu ăn phạm Ba-dật-đề (vì đêm tàn, trong Luật Tứ Phần cũng giống như vậy). Nếu tự cầm ăn gọi là ác tróc. Nếu làm thúc ăn tự nghĩ là để qua đêm, phạm Đột-cát-la. Nếu ăn, không thọ nhận, không cầm, tự làm thức ăn, nghĩ để qua đêm rối ăn, phạm Đột-cát-la. Nếu người ở chung với mình ăn đêm thì mình không có lỗi.

Dùng bốn lỗi này đối trước một người:

Hẹn giờ đến chỗ mong được thức ăn để ngày mai.

Tướng thứ nhất là trong đêm đến trú xứ, không thông qua hết hại tịnh, xử phân nên bạch nhị Yết-ma và chung cả nội giới. Đến giờ thì phải đợi mặt trời xuất hiện. Y cứ người chỉ y cứ vào ba Tỳ-kheo, biết là phạm lỗi này. Trong luật hỏi tịnh địa, mặt trời chưa mọc chó mang thức ăn đến, gió thổi trái cây rụng, luật nói không biệt không phạm. Ni thì chung cả bốn người, cũng giống như vậy.

Người đến ăn, vật cách mặt đất tất cả đều phạm, chưa cách đất, người chưa trưởng thành thì không phạm.

Người đã trưởng thành gặp sương cũng là thời hạn ban đêm, đối với bốn thứ thuốc luận bàn như trên.

Hai là Nấu trong đêm: Đối tịnh địa đều lấp kín, đối thời chung cho cả ngày đêm, đối với người chung cho cả bảy chúng, y cứ lượng thức ăn chung cho cả sống, chín. Đối với bốn loại thuốc mà nói, giống như pháp suốt đời, cho phép trong giới ban đêm nấu đồ ăn, còn ba pháp khác thì không thích hợp, cho nên Luật Tăng-kỳ nói: Ngài A-nan vì Phật hâm cơm ở bên cửa tịnh xá Kỳ-hoàn, nên biết không được ở trong giới nấu nướng đồ ăn.

Ba là Tự nấu: đối xử chung cả tịnh địa và bất tịnh địa, đối chung cả ngày và đêm. Đối nhân, hạn cục ba vị đại tăng. Trong ni có bốn người. Đến để ăn mà đồ ăn còn sống Phật khai cho nấu lại, không phạm. Trong pháp bốn thứ thuốc cũng khai thêm cho pháp suốt đời.

Luật Thập Tụng chép: nếu thức ăn còn sống hơ qua lửa làm pháp tịnh rồi được nấu.

Thế nào là Tịnh? Cho đến hơ qua lửa (nhẫn đến hái rau cũng y theo đây), thức ăn lạnh hâm lại cho nóng.

Ngũ Bách Vấn chép: nếu chăn, thuốc thanh tịnh, Tỳ-kheo được tự dùng.

Bốn là ác xúc: y cứ theo xứ chung cho cả tịnh địa vàbất tịnh địa.

Y cứ theo thời, chung cho cả ngày và đêm.

Y cứ theo người, đại tăng có nhiều loại.

1. Vừa đến không chịu cầm liền.

2. Nị thế tương liên (như y, bát, khăn không sạch, đem giặt để nhuộm.

3. Nhậm vận mắt thọ (bốn thứ thuốc không thêm pháp phần giữa và sau đều mất thọ, nếu thêm pháp ba thứ thuốc, mỗi thứ tùy theo thời hạn thì mất thọ.

4. Gặp duyên mất thọ (tịnh nhân tiếp xúc với gường, đồ vật).

5. Quyết ý xả thật (như đã thọ rối trong ý không muốn ăn. Sau không thọ mà lấy đặt xuống đất).

Nếu Sa-di, tịnh nhân vẫn có nị xúc (nghĩa là cầm bát của Tỳ-kheo đã ăn xong ở trên tay không rửa mà cầm đồ vật của tăng)

Đại tăng lại có bốn loại, không thành ác xúc

1. Vì thọ nhận mà cầm nắm (như trong đồ vật của người thế tục đã đựng đầy thức ăn đem dâng cúng cho Tỳ-kheo. Tỳ-kheo đưa tay nhận lấy nên không thành ác xúc. Cho nên thúc ăn trong bát cũng vậy).

2. Gặp duyên mất thọ (tịnh nhân xúc thật, đúng như pháp chớ tiếp xúc, Tỳ-kheo rửa tay rồi nhận từ tịnh nhân, tịnh nhân không cần rửa tay)

3. Người trì giới cầm nhầm.

4. . Người phá giới cố xúc chạm cũng gọi là Tịnh thục, lại dùng ba câu phân biệt.

5. Xúc chạm mà không có ác ý.

Luật Thập Tụng chép: Quên không nhận trái cây mang đi. Nếu thấy tịnh nhân nên đặt bát xuống đất rửa tay, nhận lại.

1. Ác mà không xúc chạm. Luật Thập Tụng chép: Tỳ-kheo phá giới cố xúc chạm gọi là Tịnh. Luật Tứ Phần nói các Tỳ-kheo chê ghét lẫn nhau cố ý xúc chạm thức ăn đã tịnh của ngưới khác khiến cho thức ăn trở thành bất tịnh. Phật nói, không xúc chạm thì tịnh, xúc chạm thì bất tịnh, phạm Đột-cát-la.

2. Vừa xúc chạm, vừa xấu ác: Luật Thập Tụng nói Tỳ-kheo trì giới, Tỳ-kheo biếng nhác cố xúc chạm thức ăn gọi là bất tịnh. Luật Ngũ Phần nói, ở trên cây gọi là ác xúc. Nếu đến lúc ăn nói chung cả xanh và chín.

3. Cùng che rơi xuống. Luật Tứ Phần nói: thức ăn nào ở trên cây cũng từ gốc cây mà giải quyết. Nếu gốc cây ở chỗ đất dơ bẩn, cành lá che đất sạch sẽ, thì quả sẽ rơi xuống chỗ đất sạch sẽ, hoặc vì gió thổi, mưa đánh, chim thú ăn làm rơi xuống chứ không ai đụng đến làm cho nó rơi. Cho nên biết những quả này gặp duyên mà rụng. Tuy mặt trời đã lặn nhưng không thành trong đêm, nghĩa là quả đã đủ lớn. Nếu rau quả ở trên đất dơ bẩn chưa đủ lớn, vận trùng sinh thì chẳng phải là trong đêm. Tùy theo lứa mà hái nó đưa vào tịnh trù. Nếu rau quả đã rời khỏi bổn xứ. Nếu Tỳ-kheo biết mặt trời đã lặn thì không được ăn (ở đây nghĩa chỉ ước lượng chứ trong luật văn không rõ).

Luật Ngũ Phần chép: gốc cây ở nơi đất sạch sẽ hoặc dơ bẩn, Tỳkheo cũng ở chỗ đất sạch sẽ hoặc dơ bẩn, quả rụng vào trong ấy thì bảo tịnh nhân nhặt gom lại để qua đêm, nếu không biết chỗ dơ bẩn thì cho phép dùng; còn nếu biết chỗ dơ bẩn thì không được ăn.

Luật Tăng-kỳ nói cây ở chỗ đất sạch sẽ hay dơ bẩn, quả rơi xuống đất sạch sẽ thì lượm lúc nào cũng được.

Nếu cây ở chỗ đất sạch sẽ hay dơ bẩn, quả rụng xuống chỗ đất dơ bẩn thì phải sớm đem vào tịnh trù. Nếu dưa, bầu mọc ở chỗ đất dơ bẩn thì hái lấy mau mang vào tịnh thất.

Nếu có lúa thóc, đậu mè chở đến thì cũng y cứ theo trước; đồng thời nếu Tỳ-kheo không biết ở chỗ đất dơ bẩn thì những thứ ấy trở thành sạch sẽ. Nếu đã biết là mọc ở chỗ đất dơ bẩn (Luật Tứ Phần nói biết hay không biết đều rất giống luật này).

Thứ năm là năm mất mùa khai cho tám việc:

Luật Tứ Phần nói, vì lúa đậu quá hiếm hoi, người dân đói kém, việc khất thực gặp khó khăn. Tuy xin được chút ít thức ăn nhưng bị giặc lấy đi, vì vậy Phật thương xót nên khai cho trong giới cùng ăn chung, được nấu ban đêm, tự mình nấu, tự lấy ăn hai loại thức ăn của tăng tục, trái cây hoặc ở dưới nước hoặc ở trên đất liền đều không tác tịnh, còn những món ăn khác thì cứ làm đúng như pháp, nếu định tội thì phải khai tám tội: nấu ban đêm, tự nấu, ác xúc, không thọ nhận đủ, ba tội ba-dậtđề, bốn tội kiết-la. Thêm vào nghĩa làm hư hoại mạng sống, giống như quả trên đất liền hoặc dưới nước không tho nhận mà ăn, há phải tác tịnh hay sao?

Luật nói: Nếu thế nghèo khổ thì y cứ theo đó khai cho tám việc, Phật nói: không được đúng như pháp trị họ.

Luật Thập Tụng chép: nếu lúc mất mùa đói kém, thức ăn đã hết thì được mang những gì còn sót lại đi, nói cho thí chủ biết.

Đại môn thứ tư là tịnh sinh chủng pháp, trong đó có ba, nghĩa là chế ý, xứ nhân và Tịnh pháp.

1. Chế ý: Luật Tứ Phần đã luận sớ rõ ràng những người thế tục và ngoại đạo cho rằng tất cả cỏ cây đều có mạng căn, vì thế Phật không chế giới này. Nếu Tỳ-kheo làm thương tổn cỏ cây, bị người khác quở trách, khiến cho Tỳ-kheo kia đắc tội không khác với người tại gia, không sinh tâm cung kính. Cho nên Luật Thập Tụng nói chánh pháp mau diệt, lại phải phương tiện chế giới. Ngoài ra, giống như giới phá hoại mạng sống đã nói.

2. Nói về xứ nhân: nếu bảo tịnh nhân tác tịnh thì có bốn câu:

3. Người và trái cây đều ở chỗ đất sạch thì thành thanh tịnh, rất tốt.

4. Người và trái cây ở chỗ đất dơ bẩn, thành thanh tịnh thì không được ăn (vì bên trong đã chín quá còn bốn chúng khác thì được ăn).

Còn lại câu xuất xứ từ Luật Thập Tụng. Cho nên văn nói: quả ở chỗ đất dơ bẩn, hoặc sạch sẽ, lấy lửa, dao tác tịnh, thành tịnh được gọi là tịnh, được ăn.

5. Nói về pháp tịnh: Luật Tăng-kỳ nói, mỗi khi ăn bậc Thượng tọa nên hỏi:

Rau quả đã tác tịnh chưa? Không bị sâu phải không? Hỏi đáp đúng như pháp: Vị Duy-na cũng vậy.

Luật Tứ Phần nói có mười loại:

Năm loại đầu là: Hỏa tịnh, đao tịnh, thương tịnh, chim mổ nứt tịnh và bất trung chủng tịnh, trong năm loại này, dao, thương chim tịnh thì bỏ hạt mà ăn.

Năm loại kế: là lột da, gọt vỏ, đậu hủ, hoặc bể vỏ, hoặc mọng nước, khô ráo. Như vậy phải thanh tịnh căn chủng.

Lại nói: nước rửa tưới lên gốc rau quả thì gọi là tịnh căn chủng.

Luật Tăng-kỳ chép: củ cải rau răm thì vò để tác tịnh, loại rau có thân thì hái bỏ rau ria cho sạch, những loại quả có hạt như dưa, bên trong ruột đã sạch sẽ. Những loại quả thì dùng hỏa tịnh, quả chưa có hạt thì nên nhồi để tác tịnh. Nếu có hạt thì dùng lửa tác tịnh.

Luật Tứ Phần chép: Hỏa tịnh chung cho năm loại.

Kinh Tỳ-ni Mẫu nói: Nước trôi sạch bụi bặm, đây hiện ra tướng hoại.

Luật Tăng-kỳ chép: nhiều quả để trong một cái rổ thì nên lấy một quả ra tác tịnh thì các quả khác đều được tác tịnh. Nếu mỗi quả đựng riêng trong mỗi rổ thì tác tịnh từng quả.

Thân mía ngọt còn lá thì lấy thân để tác tịnh, còn không có lá thì bó lại tác tịnh (y theo đây, các loại quả không làm pháp tác tịnh).

Nếu là lúa tẻ (đây gọi là thượng đả bì lạc do cám trắng bên trong vỏ. Loại này có thể sống. Hoặc như Luật Thập Tụng nói Tỳ-kheo nấu cơm trước phải vo gạo cho sạch. Củ cải dùng hỏa tịnh, đao tịnh rồi thì thôi, nếu chưa dùng thì nó sống lại, nên phải tác tịnh nữa [ page 123].

Luật Tứ Phần chép: Tỳ-kheo không nên tự tác tịnh, phải đặt thức ăn dưới đất bảo tịnh nhân làm, rồi rửa tay thọ nhân. (đây là đối với nơi có người, nếu không có người thì Tỳ-kheo tự làm). Luận đã nói rõ rằng: được tự làm thêm việc, số giải không nói được tự tác tịnh nhưng tự làm thì có lợi ích. Giống như gom một đống quả hạt. Nếu chưa có người tác tịnh mà vẫn ăn da, thịt, mỗi việc phạm một Đột-cát-la.

Nếu ăn hạt, mỗi hạt phạm một tội Ba-dật-dề, lấy lửa hơ qua một lần rồi thôi, phạm Đột-cát-la. Nếu làm cho một đống quả hạt đều trở thành tịnh khỏi phải nhiều tội, há không phải là lợi ích hay sao?

Luật Thập Tụng chép: sao phải tác tịnh? Cho đến dùng lửa hơ qua một lần? Nếu dùng lửa đốt thành tro và than v.v… thì không thành tác tịnh. Tỳ-kheo tự tác tịnh, còn những món khác Tỳ-kheo không nên ăn (nghĩa là đã được hơ qua lửa). Nếu dùng dao xẻ dưa, tác tịnh thì được ăn.

Luật Tứ Phần chép: hai loại rễ và thân dùng lửa tác tịnh.

Luật Tăng-kỳ ghi: Trái cây bị lửa đồng thiêu đốt thành tro, rải quanh đống lúa đậu sợ phi nhân trộm, cũng gọi là tác tịnh. Nếu quả và hạt đã dùng hỏa tịnh rồi thì cho phép ăn. Nếu quả sạch dùng lửa tác tịnh thì ăn lừa hạt ra(đây là phá tướng chứ không làm hư giống).

Nếu dùng lửa tác tịnh những quả vỏ không sạch thì đều được ăn. Cả vỏ lẫn hạt đều không sạch cái lừa ra cái nuốt vào đều không phạm. Nhưng pháp dùng lửa tác tịnh thì chung cho cả chủng tướng, còn những món khác thì tùy tướng. Luận sớ đã nói rõ phương pháp tác tịnh này không chỉ gói gọn trong một vật để tạo thành như một đống đào mận, mà chỉ dùng một quả trong đống quả đó hơ qua lửa một lần thì tất cả đều thành tịnh. Giống như dùng dao bổ dưa, một quả bên ngoài đã tác tịnh thì tất cả các quả khác đều goi là tịnh. Thể của phương pháp tác tịnh này vốn đã lấy đây làm pháp, không làm cho thực vật chết đi, nên gọi là Sa-môn tịnh. Y cứ vào gạo có vỏ như trên đã bỏ vỏ tác tịnh, những thức khác phải y theo đây.

Hỏi: làm sao phân biệt được chủng tướng?

Đáp: Tướng là trên tất cả rau quả có lông mầu trắng, nên y theo gốc xanh thẳm không thay đổi mầu sắc của nó, nó gắn liền với đất.

Luật dạy: nay chính là bảy loại mầu sắc của cây cỏ.

Nói là Chủng, nghĩa là (Trồng), có loại nhỗ từ chỗ này đem đến chỗ khác trồng. Luật nói: gốc có năm loại rộng như tùy tướng.

Thứ năm, là cách thọ khác nhau, thọ từ tay và miệng khác nhau hàng ngày thường dùng. Nếu không nói rõ, thì giáo tướng khó hiển bày.

Sơ lược nét chính lấy làm, tám môn.

  1. Ý nghĩa chế ra nhị thọ.
  2. Thọ chung cho bốn thứ thuốc.
  3. Đối nhân khác nhau.
  4. Gia pháp cũng khó.
  5. Thuyết tịnh thông cục.
  6. Hai thọ rộng hẹp.
  7. Lại thêm tấn tới hay không.
  8. Nói về tướng tội.

1/ Môn đầu tiên dùng tay thọ nhận.

Như trong luận Tát-bà-đa chép:

  1. Dứt nhân duyên trộm cắp
  2. Vì làm chứng minh
  3. Vì dứt phỉ báng.
  4. Vì để ít muốn, biết đủ.
  5. Vì làm cho người khác sinh tâm cung kính khiến cho ngoại đạo được lợi ích, nay đủ như trong tùy tướng.

Luật Ngũ Phần chép: do chưa chế giới nên mỗi người đều phạm một sai lầm, bị người tại gia quở, chúng ta không vui khi thấy những người ác này, đắp y cắt rọc, hoại sắc mà không nhận thức ăn để ăn, nói là không cầm lấy.

Kế là khẩu thọ, ý là phòng hộ thọ nhân bằng tay. Nếu không có khẩu pháp thì quá ngọ liền mất. Vì có khẩu pháp cho đến rời xuống hai bên, vì ngăn ngừa phạm nhiều lỗi, dùng tay để thọ nhận chỉ ngăn ngừa hai lỗi nên dưới đây sẽ giải thích rõ điều này.

2/ Thọ có chung cho bốn thứ thuốc không?

Dùng tay thọ nhân chung cho cả bốn thứ thuốc. Vì ngăn ngừa tướng trộm. Dùng khẩu thọ có cục ba: Trừ thời dược, cũng có khẩu thọ không chung với thủ kho. Chỉ có cục giữa và trước. Còn ba loại thuốc khác dùng tay thọ nhận cũng như vậy, nếu thêm khẩu pháp chung với thuốc đúng thời và thuốc phi thời.

Lật Thập Tụng chép: Thời phần là tên khác của thuốc phi thời, thuốc bảy ngày, thuốc suốt đời, là ba loại thuốc phải có khi bệnh. Luật không nêu lên ban đêm ác tróc. Hai thứ thọ nhận: bằng tay và bằng miệng đều được dùng, hai chỗ trao cho người:

Dùng tay thọ nhận chia làm năm nghĩa, trừ đồng loại ngoài ra sáu chúng, ba đường đều thành.

Luận Tát-bà-đa chép: hễ thọ nhận thức ăn là làm chứng minh. Nếu ở chỗ có người mà toàn là phi nhân, súc sinh và trẻ con không hiểu biết thì đều không thành thọ nhận. Nếu ở chỗ không người chỉ có thiên thần, súc sinh thì thành thọ nhận. Nay đủ như trong giới tùy tướng Bất thọ thực.

Luật Thiện Kiến chép: có ba thứ chỉ thực: Tay, miệng, mắt; còn pháp bốn thọ có khác nhau. Nói về pháp thọ thì tâm cảnh phải tương đương. như trong luật nói: nhận lầm bơ dầu đều không thành thọ, v.v… phải ngửa tay nhận lấy (Luật Ngũ Phần đã nói: từ bên tịnh nhân khác, sao cho tan ra để lấy là phi pháp. Tình tương lãnh đương (nghĩa là hai bên Tăng tục đồng một duyên sự). Trừ mắt mờ và bất hỷ Sa-môn, có duyên gấp, sợ hãi thì để dưới đất mà thọ. Đã biết tình sự nhiều ngang trái mà vẫn sẵn lòng nhận cả. Trong Luật Tứ Phần: pháp thời dược thọ đã tính đối pháp cũng nhiều. Đủ như trong giới bất thọ thực và đối thí hưng yếm đã nói rộng. Đây vẫn nói về pháp gia khẩu còn ba thứ dược thì nói riêng.

Đầu tiên nói về thuốc phi thời, có bốn loại:

  1. Thuốc thọ nhận.
  2. Người năng thọ
  3. Người thọ nhận.
  4. Pháp chánh thọ

Đầu tiên nói về thể của thuốc, không có tám tai hoạn thì được pháp gia khẩu:

1* Nội túc. 2. Nội chử. 3. Tự nấu. 4. Ác xúc. 5. Tàn túc. 6. Không hề nhận bằng tay. 7. Thọ rồi ngưng trong giây lát. (Luật Tăng-kỳ nói: thọ phi thời thì nhận nhưng bảo họ để dưới đất) 8. Tay thọ rồi biến động vì những vị ngọt chua mất bổn vị).

2. * Người năng trao, có bốn pháp.

a. Mầu nước lượt trong khỏi ăn phi thời.

b. Nấu sôi sau để cho nguội dần, sinh khát không cần.

c. Nhỏ nước lên để tác tịnh làm mất mùi vị.

d. Tịnh nhân có long cúng dường, thì ngửa tay cầm

3* Người thọ nhận: Tỳ-kheo làm ba pháp.

a. Trước và trên hết phải tự mình giải thích, phân biệt loại nước trái cây ép cho tịnh nhân hiểu.

b. Ngửa tay thọ nhận không phải là tướng ăn trộm.

c. Ghi chép, hiểu biết, nói năng, đây gọi là hàm thời thực, nếu nước đơn thanh thì không cần).

* Chánh thức pháp gia khẩu các bộ đều bảo là thêm, không rút ra văn nghĩa trong luật đã thành lập), nên đến chỗ Tỳ-kheo đầy đủ lễ nghi bạch rằng:

Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo… nay vì nhân duyên bệnh khát. Đây là nước gừng, vì muốn để nửa đêm uống, cho nên nay xin thọ với Đại đức (nói ba lần; nếu nhận ngay thì uống không được đổ, không cần như pháp) nếu quả nho, lê, mật, tương, tùy theo bệnh mà nêu tên loại tương gì để uống nhưng phải đổi thành chữ thuốc.

Thuốc bảy ngày có bốn pháp cũng giống như trên.

1. Nói về thể của thuốc: nếu không có tám thứ hoạ hoạn thì chỉ đổi thành thứ tám. Chẳng phải là thuốc bảy ngày của Tỳ-kheo khác. Có người đã phạm còn làm hỏng thức ăn (thuốc). Còn những thuốc bảy ngày khác cũng giống như trên.

2. Tịnh nhân năng trao có bốn pháp.

  1. Tịnh sát dữ thời thực biệt (nghĩa là mỡ đã bỏ thịt, dầu đã loại bỏ cặn).
  2. Nấu bằng lửa.
  3. Nhỏ nước để làm tịnh.
  4. Thí tâm trao cho tâm lĩnh thọ lẫn nhau.

3. Tỳ-kheo sở thọ có hai:

1/ Tự mình không có năm lỗi:

2/ Tương tục xúc. (giữ liên tục): nếu giữ tới bảy ngày thì không thành ngày thọ thuốc. Luật Tăng-kỳ chép: Tỳ-kheo có ngày thứ bảy thọ thạch mật, tức là ngày được dùng thạch mật trở lại, cho nên gọi là tương ô.

Hỏi: việc này chưa thành lỗi sao gọi là nhiễm nhau?

Đáp: do bảy ngày trước đã uống và đã hết bệnh rồi, bây giờ lại uống nữa thì không có lợi ích, tác pháp không thành. Nếu có được thuốc 60 khác thì cho giữ thêm bảy ngày nữa.

1. Tương tục xúc: Đã từng cất thuốc đến tám ngày, phạm tội chứa dư, tức là ngày cầm thuốc trên tay tác pháp bị nhiễm, lại không chịu uống.

2. Từng uống thuốc để đến ngày thứ bảy của người khác). Tức là ngày tự mình tác pháp không thành, vì chung với vị của thuốc. Luật Tăng-kỳ nói như vậy.

3. Tương tục thọ: Luật Tăng-kỳ chép: trong bảy ngày, ngày nào Tỳ-kheo cũng thọ nhận thuốc không được thọ nhận lại, phải thọ nhận hàng ngày, không được thọ nhận lại, phải thọ nhận hàng ngày, không được gián cách mà nhận. Nghĩa là thamnhiều quá thọ lại không uống để trị bệnh (Luật Tứ Phần không có văn, y cứ theo đây mà dùng, cũng tốt).

4. Tương tục phạm:

Luật Tăng-kỳ chép: Tỳ-kheo vẫn thường uống thuốc bảy ngày, đến ngày thứ tám thì cũng có thể uống, hết ngày thứ tám thì không được uống nữa, cứ nhận những thứ thuốc khác. Trên đã nói rõ pháp tương tục đối với thuốc mật. Nếu được dầu cũng là gia pháp.

Luật Tăng-kỳ chép: bơ sống, bơ chín, đề hồ lần lượt đổi khẩu vị trong bảy ngày được thọ nhận.

Tự tác, có bốn pháp:

a. Ngửa tay nhận

b. Phân biệt nói ý tưởng làm dầu bảy ngày. Nếu bổn tâm làm đốt đèn, đồ xúc để thọ nhận thì không thành như trong Luật Tăng-kỳ có nói.

c. Nhớ biết nói: trong đây những vật đã tác tịnh mà còn sống, tôi nên thọ nhận (nếu thời gian đã quá xa thì ăn mà không cần phải nói lời này).

d. Triển chyển thọ bơ sống làm bơ chín [page 12 ] nên bảo tịnh nhân nấu nướng đã có tịnh nhân nhận làm. Tuy trước đã nhận rồi đặt vào một nơi đừng bảo tịnh nhân đụng vào. . Chánh gia khẩu pháp Nên cầm thuốc, nói:

Đại đức một lòng nghĩ, tôi là Tỳ-kheo… nay vì nhân duyên bị bệnh gió. Đây là thuốc bảy ngày dầu ô ma, vì muốn để qua bảy đêm để uống. Cho nên nay thọ nhận với Đại đức. (nói ba lần rồi đặt xuống chỗ đất sạch, người cần thì tự cầm lấy).

Ngoài ra tùy theo việc đối trị nên y theo loại trước.

Thuốc suốt đời, có bốn loại.

a. Thuốc không có tám họa hoạn, như đã nói trong phần nước trái cây ép.

b. Trao cho người làm (thường đưa cho người làm) có ba pháp:

b1. Hỏa tịnh rồi, không còn lỗi sinh.

b2. Khác với thuốc còn dư (nghĩa là hợp thời, thức ăn bằng với thuốc).

b3. Thi tâm trao cho tình tương lĩnh đương. Tỳ-kheo thọ nhận được làm ba pháp.

1. Ngửa tay thọ nhận tâm cảnh đồng với tịnh nhân.

2. Nhớ biết như pháp trên: nếu một mình thì không cần

3. Phân thể phần: Gọi tử uyển hoàn là thể của thuốc. Nhưng có thận di là phần thuốc. Hai pháp nhận riêng, gọi chung là đến để nhận (đến hợp thọ).

Bốn pháp gia khẩu nói:

Đại đức một lóng nhớ nghĩ, tôi là Tỳ-kheo… vì nhân duyên khí bệnh, đây là (vỏ gừng, tiêu, quýt và tử uyển hoàn), là thuốc suốt đời, vì muốn để uống suốt đêm, nên nay thọ nhận với Đại đức (ba lần).

Nếu trong hoàn tán, y theo căn bệnh của mình mà uống, năm ba mầu sắc khác nhau, mỗi loại y cứ vào địa phương mà nêu tên nhập pháp.

Như trước đã phân biệt. Nếu mua thuốc chưa đủ thì cứ tiện tay bốc một nắm tức là pháp gia khẩu. Nhưng thể thì suốt đời. Y cứ theo bổn danh gia pháp, nếu là thuốc đúng thời, thuốc bảy ngày (như đại táo, rau, mì, đậu, tương, dương cật, hỗ nhãn đầu bạch, các loại mật, bơ, dầu). Gặp duyên không được thọ dùng chung với thuốc suốt đời, chỉ được dùng trong nhất thời. Phải nói thêm: nay vì nhân duyên khí bệnh, đây là dương cật, thuốc suốt đời tử uyển dược phần vì muốn để qua nhiều đêm, những từ ngữ khác cũng giống như trên (còn những thứ khác y cứ theo đây để thí dụ).

Nếu đến chợ mua thuốc thì bảo tịnh nhân trả giá, Tỳ-kheo y cứ theo danh mục tự chọn lấy nhiều hay ít. Nếu một chỗ có thuốc thì bảo cân rồi thứ lớp nhận lấy, không được đặt xuống đất. Tức là tìm Tỳ-kheo thêm vào. Không được quá hạn, nay vâng theo pháp ít có một, hai. Phần nhiều mặc theo tâm ngu si chèn ép Phật pháp. Hễ được thì liền nhai không kể là dơ hay sạch, nói chuyện lớn tiếng, bàn luận vô ích. Chuyện đời thì tỏ ra minh biết nhiều, nhưng nếu nhiếp tâm thuận giáo thì một việc cũng không thấu suốt. Đâu biết là tương lai sẽ đọa vào đường ác nên vẫn cứ thích thú sự tha, si ở hiện tại. Người có hiểu biết thì tự soi sâu vào tận tâm ý mình (tự hiểu lấy mình).

c. Thuyết tịnh:

Thuốc bảy ngày làm khẩu pháp rồi thiên tâm thuộc về mình, phải thuyết tịnh để chứa.

d. Thể của thuốc quý trọng, tâm tham chứa nhiều.

1. Nghĩa thời gian lâu dài không có biến động.

2. Khí vị khác thường, năng lực giúp thân mạnh mẽ. Quy chế, thuyết tịnh phải bỏ sự bao bọc bên ngoài.

3. Dùng tay thọ nhận thuốc bảy ngày thì rất hiếm nên cũng không cần nói: ngoài ra ba loại thuốc khác ngược lại với cái trước không đầy đủ cho nên không phải tịnh.

4. Pháp tịnh rất giống pháp y, chỉ có thuốc lâu dài là khác.

5. Hai thọ thông bít.

Tay nhận thọ ngăn ngừa tội trộm. Một người đã thọ nhận thông qua người khác, khẩu thọ cũng vậy. Nếu xét thấy đúng bệnh, ghi tên thật cũng không thông. Chẳng có gì khônng dùng khẩu pháp ấy, thêm vào pháp dược khác là nhị thông (được vị thông, chủ thọ thông). Cho nên xả bỏ, người trước thọ pháp thì không mất. Vì sao biết được? Vì Luật Tứ Phần nói: Thuốc để đến ngày thứ bảy cho các Tỳ-kheo uống. Ngoài ra ý nghĩa giống như sớ sao đã nói. Đến ngày thứ bảy có thêm nữa hay không?

6. Nếu đã nói dụng tay sờ vào, thọ nhận mà mất cái mình vốn được thọ thì phải thọ lại. Tuy nhận lại không có lỗi nhưng trong khẩu pháp, luận Tát-bà-đa chép: Đã năm ngày rồi vẫn còn xúc chạm thì thêm cho pháp bảy ngày. Chẳng dùng pháp hai ngày, không theo thế thuốc mà phải theo đúng pháp bàn luận. Nếu đã qua sáu ngày rồi thì bỏ không được thêm nữa, vì thuốc nước đã vào tịnh.

Luật Tăng-kỳ chép: thế thuốc nối tiếp nhau, bảy ngày có thể biết. Như trên, tịnh nhân sờ nhầm vào dầu bảy ngày thành mất.

Thành Luận chép: như cách uống đủ bảy ngày mới yên tâm là bệnh được hết.

7. Nói về các tướng: Luận Tát-bà-đa nói: nếu Tỳ-kheo có bệnh cần thuốc bảy ngày nhưng nếu không nhờ tịnh nhân thì khó kiếm được nên phải thọ nhận từ tay tịnh nhân, từ miệng Tỳ-kheo thọ nhận. Đã gom về một chỗ thì trong bảy ngày phải lấy dùng. Nếu làm khẩu pháp rồi, từ một ngày đến năm ngày.

Tịnh nhân đến đụng vào, hoặc vì cho, không nhận thuốc để lẫn lộn. Nên thêm hai cách thọ thủ tho, khẩu thọ thì được uống bảy ngày.

Nếu đến ngày thứ sáu đã đã đến tịnh nhân, bảo sờ vào những thứ thuốc lẫn lộn khác thì đều không thành thêm.

Nếu thuốc nhiều không biết người nào là chủ của nó thì nên thọ nhận bằng hai cách: tay thọ, miệng thọ, sau đó mới uống.

Nếu bệnh nặng không thể dùng miệng nhận thì được uống ngay.

Nếu như Tỳ-kheo nuôi bệnh dùng hai cách: Tay nhận, miệng nhận thì cũng thành pháp thọ, phải gọi tên Tỳ-kheo bệnh và thọ nhận.

Hỏi: hai cách nhận: tay nhận và miệng nhận này để ngăn chặn điều gì?

Đáp: Luật Tứ Phần nói: thuốc thì bàn luận riêng. Như thuốc đúng thời, tay nhận thọ phòng hai tội, nhận sự xúc chạm thô thiển. Khẩu thọ cũng giống như vậy.

Phi thời tương, dùng cách tay nhận để ngăn hai tội.

Một là ngăn tội đến mà không thọ nhận.

Hai là ngăn ngừa không thọ nhận mà cầm nắm thô thiển (các xúc).

Miệng nhận ngăn ngừa hai tội. Một là người lỗi quá ngọ mất thọ, hai là người lỗi quá thời mất thọ, ác tróc.

Thuốc bảy ngày tay nhận ngăn ngừa hai tội, giống như trong pháp thọ thuốc mới, miệng nhận ngăn ngừa ba tội. Một là ngừa quá thời mất thọ. Hai là ngừa lỗi quá ngọ ác xúc. Ba là đêm tàn. Xưa nói ngăn ngừa nội túc. (đây không có văn trong luật, lấy suốt đời làm chứng, lệ theo mà biết, không khai).

Thuốc thọ suốt đời, dùng cách tay nhận giống như trên.

Miệng nhận ngừa sáu tội.

Một là quá thời mất thọ, không thọ, hai là ác xúc, ba là đêm tàn, bốn là nội túc, năm là có người nấu trong đêm. Sáu là tự nấu (vì biến sống thành chín). Rõ ràng là nhân sinh tội (vì chưa thọ nhận nên không có các lỗi lầm, nay đã đưa ra hai cách thọ nhận thì lỗi lầm sinh)

Thuốc đúng thời dùng cách tay nhận, nếu quá ngọ phạm hai tội.

Mất nhận ác xúc: Trải qua đêm sinh ra đêm, hai tội tàn túc và tác xúc.

Nếu phi thời, dùng cách tay nhận, phạm hai tội cũng giống như trong thuốc đúng thời.

Dùng cách miệng nhận, phạm ba tội. Minh tướng xuất hiện có thuốc phi thời, đêm tàn ác xúc. Thuốc bảy ngày dùng cách tay nhận, phạm hai tội, giống như trên. Dùng cách miệng nhận, phạm năm tội.

8. Mặt trời mọc thì nói: Đêm tàn, phi thời phạm xả doạ. Ác xúc phạm Ni-tát-kỳ Ba-dật-đề. Bất xả dược phạm Đột-cát-la.

Hỏi: vì sao bất sinh bất thọ?

Đáp: thuốc vốn là bất thọ, giống như thêm khẩu pháp mất không thọ, đến sáng ngày thứ tám thức dậy, nếu có vẫn mặc tình mất thọ, không gọi là năng sinh bất thọ, không giống như đêm tàn, vốn chẳng phải đêm tàn vì có cách miệng nhận, tám ngày có phạm lỗi đêm tàn, thuốc phi thời cũng vậy.

Thể của thuốc chưa có pháp, không có thời và phi thời. Thọ suốt đời là phương cách tay nhận giống như trước, phương cách miệng nhận cũng phạm sáu tội.

Không bệnh mà uống phạm Đột-cát-la. Ngoài ra nói nay đù như trong ba giới tùy tướng, phi thời, bất thọ tàn đêm.

Hỏi: Trong bốn thứ thuốc, vì sao tội bảy ngày nặng hơn ba tội khác?

Đáp: Thuốc đúng thời hễ nuốt xuống khỏi cổ thì phạm bảy tội, phi thời, tàn đêm bất thọ, phạm Ba-dật-dề. Nội túc, nội chử, ác xúc phạm Đột-cát-la. Đây gọi là qua đêm rồi không qua trao cũng không thể không chịu tội, những tội khác thể theo đây mà có hay không.

****

THIÊN 19: BÌNH BÁT CHẾ THÍNH

(phòng xá của tăng chúng có đủ năm việc. Phụ: Điều độ dưỡng sinh vật)

Chúng dưỡng sinh đã nhóm họp đầy đủ, đông đúc. Tùy theo sự khai báo mà cho phép tự tạo lập. Tuy dược dyên rộng nhưng vẫn chưa theo pháp chế. Nếu trái thì mới chế, phạm thì không tha. Vì đã khó phân biệt tướng mạo và thể chất nên chia ra điều cách. Đại ý khai riêng như sau:

Trong khi trước nói về Bình Bát là chế giáo vì đầu tiên nói về nó, ngoài ra có chúng dưỡng sinh đầy đủ, cho phép thâu nhận như sau, trong đây chia ra làm bảy. 1. Chế ý. 2. Thể như. 3. sắc. 4. Lượng. 5. Pháp thọ. 6. Mất thọ tướng. 7. Thọ dụng hành hộ pháp.

1. Chế ý: Luật Tăng-kỳ chép: Bát là đồ vật của người xuất gia, không thích nghi với người thế tục.

Luật Thập Tụng chép: Bát là cờ nêu của Hằng sa Chư Phật, không được dùng vào việc xấu.

Luật Thiện Kiến chép: Bậc thánh Ba thừa đều cầm bình bát bằng đất, ăn xong giữ gìn làmcủa tùy thân cả đời. Vì không có nhân, lấy bốn biển là nhà, cho nên gọi là Tỳ-kheo. Kinh Trung A-hàm chép: Bình bát còn gọi là ứng khí.

2. Thể như: Luật nói: Đại ý có hai: đất sét và sắt.

Luật Ngũ Phần chép: có sử dụng bình bát bằng đồng thau. Phật nói: đây là pháp của ngoại đạo. Nếu cất giữ, phạm tội. Phật tự làm bình bát bằng đất để làm cách thức cho đời sau.

Luật Thập Tụng chép: Cất giữ bình bát bằng gỗ phạm thâu-langiá.

Luật Tăng-kỳ nói: là cờ nêu của ngoại đạo, cho nên thọ nhận dơ bẩn. Nay ở đời có bát mạch trữ, bát gạch, bát tất, bát từ v.v… đều là phi pháp. Nghĩa là phải bỏ đi.

3. Mầu sắc đúng sai:

Luật Tứ Phần chép: nên nung thành mầu đen hay mầu đỏ.

Luật Tăng-kỳ chép: nung bát thành mầu giống mầu (cổ) chim công, hay chim bồ câu là đúng pháp. Nếu theo văn trong luật thì phải nung để bảo quản. Văn trong luật đã nói đủ về cách nung. Có người trước nung bát sắt, bát đất cho bong ra nhưng bát côn thì không bền vì mầu sắc nhợt nhạt, rơi xuống bị dơ bẩn. có người dùng dầu gai trét lên, tất cả đều phi pháp. Chính tôi hỏi ngài Tam Tạng dịch kinh rằng.

Trung quốc không dùng bát trét dầu, nếu đi qua lãnh thổ này, dùng qua một lần thì đập bể, không cho dùng lại. Trong Ngũ Bách Vấn nói: Không cho nhận giữ, theo đây thì bồn tắm bằng đất nghĩa giống như bát trét dầu.

Luật Thiện Kiến chép: Bát đất qua năm lần nung mới dùng. Bát đất qua hai lần nung rồi sử dụng thọ trì. Các bộ luật có nói cách nung, xứ này dùng để nung, qua hai lần đưa vào khuôn vẫn chưa đổi mầu. Nhưng cách thức xử dụng thì không giống.

4. Lượng: chẳng phải Tứ Phần, Bát lớn đựng được ba đấu, bát nhỏ chứa nửa đấu. Loại trung thì có thể đoán biết. Đấu thăng này không xác định. Luật này dịch vào đời Diêu Tần. Nước kia dùng đấu của Cơ Chu (đấu này dùng chung cả nước, nhất định không đổi cách can đong.

Người đời tính có tám loại, giải thích là: Khuê, Sao, Chước, Cáp, Thăng, Đấu gọi là nhân tâm pháp). Y theo đấu đời Đường, Bát bậc thượng chứa được một đấu; bát bậc hạ đựng được năm thăng. Luật Thập Tụng nói, lượng của đấu giống với Tứ Phần.

Lại nữa, luật kia nói: Bát bậc hạ thọ nhận một đấu, bát khác nhận được nửa đấu cơm, bát khác nữa nhận được bốn thăng). Luận Tát-bàđa nói chung lượng của bình bát các Luận sư nói rất nhiều thuyết khác nhau. Nhưng lấy một nghĩa làm chính. Nghĩa là một bình bát, người khác thọ nhận mười lăm lượng cơm. Đời Tần cân là ba mươi lượng cơm v.v… đây là nồi cơm gao thơm ít nhựa ở Thiên-trúc. Bấy giờ, mọi người đều bàn tính với nhau. Bát của bậc Thượng tọa nhận được ba đấu, bát của người khác nhận được một đấu cơm, bát của người khác nhận được một đấu canh, ngoài ra những món khác có thể là một đấu, hoặc hai đấu đời Tần. Bình bát thọ nhận canh của người khác, thức ăn có thể là nửa đấu lại bằng một đấu đời Tần.

Bát của bậc Thượng toạ chứa được ba đấu. Luật sư nói: không có vật khác để đựng thức ăn. Nói thẳng là bát của thượng tọa chứa được ba đấu. Bát của người khác được một đấu cơm, bát của người khác nữa đựng canh. Nếu lại trên hư không thì thức ăn không mắc vào trong. Hai loại bát trung và hạ thì có thể cứ vào đó mà đoán biết.

Gặp một cái bát tốt ở ngoài chợ quán, tròn trịa rất dễ thương. Luật sư bảo tăng chúng xuất gia trong giáo đoàn của Phật ban đầu không có bát. Phật ban sắc lệnh xuống Đế-thích, Đế-thích bảo những người thợ khéo ở cõi trời làm mười vạn cái bát. Bát ở chợ dưới thế gian chính là bình bát ở cõi trời kia chứ không phải do con người làm ra.

Kinh Tỳ-ni mẫu nói: không đầy một đấu rưỡi quá ba đấu thì không

thành thọ trì. Như vậy các bộ định lượng tuy không phải là một ngón tay nhưng phần nhiều lầy ba đấu, một đấu rưỡi làm giới hạn. Tên vật này là ứng khí, phải y theo giáo mà lập. Luật nói: lượng bụng mà ăn, đo thân mặc áo, chân bước rồi thôi. Nói chung với thêm bớt phải y theo chánh giáo. Người ôm bình bát nhỏ thì nhiều. Bình bát lớn rất hiếm người ôm. Há chẳng phải là hạn cuộc tham đắm tính số người nhận được nhiều lợi ích hay sao? Đã goi là phi pháp thì không được thuyết tịnh thọ trì.

5. Pháp gia thọ: (Luật Tứ Phần không có văn, nhưng nói nên thọ trì. Nay dùng văn trong bộ khác. )

Luật Thập Tụng chép: Bạch Đại đức một lòng nhớ nghĩ, tôi là Tỳkheo… Bát-đa-la đúng lượng này, nay thọ thường dùng (nói ba lần).

Luật Thiện kiến chép: nếu trong mười ngày xả để nhận bát mới thì đến ngày thứ mười một phải đổi. (xem ý văn này giống như pháp độc trụ Tỳ-kheo).

6. Nói về các tuớng mất pháp:

Luật Thiện Kiến chép: Tuy trước thọ trì nhưng vì bị lung như hạt lúa, hạt gạo nên mất thọ trì. Nếu bát méo mó, bể cũng không thành thọ.

Luật Thiện Kiến chép: nếu mua cái bát khác nhưng chưa về thì không thành thọ, tuy chủ bát có nói nhưng thọ trì cũng không thành. Nếu quá mười ngày thì không phạm hưa dư. Nếu mua bát định giá rồi, bát của chủ đã nung rồi thì báo cho Tỳ-kheo biết. nếu không đến để nhận, quá mười ngày phạm, phải xả. Luật Tứ Phần chép: nếu bình bát bị rạn nứt, thúc ăn lọt vào nhưng rửa không khều ra hết, vì không rỉ ra nên không mất thọ.

Hỏi: Vẫn cất giữ một bình bát, không thêm phương pháp thọ trì, quá thời hạn, phạm có nên xả không?

Đáp: không phạm, vì chế cho cất giữ, sự việc giống như ba y. nhưng phạm tội vì không thọ trì bình bát. Nếu có nuôi dưỡng thì y cứ theo y mà thuyết tịnh.

7. Nói về cách thọ nhân, sử dụng va giữ gìn. Ngũ Bách Vấn chép: nếu một ngày không dùng bình bát để ăn, phạm xả đọa, người bệnh nặng khai cho không dùng. Nếu ra ngoài giới qua đêm thì không mất.

Luật Ngũ Phần chép: nếu các Tỳ-kheo húp cháo trong bình bát nhưng khổ vì nóng không thể bưng thì cho phép làm vật đựng cháo riêng để húp.

Kinh Tỳ-ni mẫu chép: không được dùng đậu thô rửa làm phai mầu. Phải giã cho thật nhỏ, ray rồi dùng nó. Cho đến bệnh cũng không được dùng tạp hương tháo đậu để tắm. Đến lúc khất thực nên làm túi lưới đựng bình bát, bát nay thì chính tay mình ôm lấy. Vì cho tịnh nhân ôm bát đi khất thực, ngoại đạo bỏ thuốc vào bình bát, Tỳ-kheo ăn chết nên ngăn ngừa.

Luật Tăng-kỳ chép: nếu rửa bát mà không có chỗ ngồi thì khom lưng ngồi xổm cách mặt đất khoảng một khuỷu tay. Không được dùng tro rửa, khiến cho phai mầu. Nên lấy nước lá cây rửa, không được dùng Sacự kỳ cọ (nghĩa là cứt trâu), không được đến chỗ bờ cao nguy hiểm.

Trước nên rửa bát của thầy, sau rửa bát mình. không được rửa bát của mình vào nước cặn rồi tẻ vào trong bát thầy. Cho đến rửa rồi nên ngồi xổm, đeo cái túi đựng bình bát lên vai, sửa nó cho ngay ngắn.

Về nhuộm y: trước phải nhuộm y của thầy. Đừng ngâm chung y mình với y thầy. Nếu bát bị ràng vì bể thì ăn rồi nên mở ra, rửa sạch phơi khô cho khô ráo rồi dùng day ràng lại đem để ở chỗ bằng phẳng trên mặt đất. Thậm chí không có vật gì lấy nước rửa thì nên để yên đo.

Luật Thập Tụng chép: Bình bát là cờ nêu của Chư Phật, không được dùng bừa bãi. Bát mới nung nên phết bơ lên, nhất tâm rửa ba lần, gọi là tịnh, không được giữa trưa nướng thức ăn khiến cho người chảy nước miếng, phạm Đột-cát-la.

Kinh Tỳ-ni mẫu chép: không được rửa tay trong bình bát. ở tất cả mọi nơi không được dùng bát, trừ bệnh. Phải kính trong bát như tròng mắt.

Luật Ngũ Phần chép: giữ bình bát như giữ tròng mắt. Nếu rửa bát bằng sắt thì cho phép cách mặt đất năm, saú thước. Rửa bát đất thì cho phép cách mặt đất năm sau tấc, nên để ở chỗ tốt. Không lau mà phơi ở giữa trưa nắng. Nếu để trên đất đủ một đêm rồi lấy ăn, dùng nước nóng rửa rồi đựng thuốc, phạm tội.

Luật Tứ Phần chép: nên giữ gìn bát này. Không được để ở chỗ đất đá rơi, hoặc tựa vào dưới dao, gậy, hoặc treo dưới đồ vật, hoặc để ở giữa đường, hoặc ở trên đá, hoặc ở dưới cây đang có quả, hoặc ở chỗ đất không bằng phẳng, hoặc ở trong kẹt, cửa hoặc ở dưới cánh cửa, hay dưới giường dây, giường gỗ (trừ để tạm) hoặc ở giữa giường, gốc giường, trừ để tạm, hoặc đựng nước nóng, v.v… đều không được. Không được một tay cầm hai cái bát, trừ có cách ngón tay giữa, hoặc một tay cầm hai cái bát mở cửa, trừ dụng tâm, cho đến chân làm cho bát bể, v.v…

Luật Tăng-kỳ chép: có tâm ác làm bể bát, rách ba y, phá tháp, tượng [page 12], giải giới, phá phòng Tăng đều phạm thâu-lan-giá.

(người có tâm tốt mà lỡ làm hư trong văn đều khai).

Luật Tứ Phần chép: không được làm đồ vật chẳng phải bình bát để dùng. Tất cả những đồ vật dài không được để trong bát, hoặc vẽ vào trong bát, họa tượng, chữ Vạn và tên mình, tất cả đều không được. Bát bể không được sơn phết lên rồi ràng buộc bốn phía lại, hoặc nên sơn phết một nử trên miệng bình bát. Hoặc nếu có nhiều đốm nhỏ thì nên sơn lên đó một lóp (dùng bạch lạp, chì, thiếc). Không được để dưới đất, vì nung hư, nên dùng bùn, nước rảy nước đặt lên, hoặc lá, hoặc cỏ, hoặc bát chi. Người cố làm hư lấy bạch lạp trét ở đáy thì không được rửa, trộn với cát và cứt trâu. Lấy một cái chậu đựng nước, tẩm cứt trâu để cát lắng xuống dùng để rửa. Vì bên ngoài dùng lá, dùng hoa như nước trái cây để rửa cho sạch chất dơ, nếu cầm trên tay mà thấy khó cầm thì làm một cái túi may miệng đeo lên vai. Từ trong bình bát xuống tới ngoài miệng bình bát. Không được làm cái hòm đựng bình bát, e rằng ngăn ngại nhau. Nên lấy y và lá cây ngăn cách nó, đặt bình bát trên một cái cọc.

Ngũ Bách Vấn chép: không được úp bình bát trên tường, phải để khăn vào trong, treo lên trên tường, v.v…

Luật Thiện Kiến chép: bình bát đất nên lấy dây mầu xanh buộc lại và mang vào cánh tay trái. Trong Thính giáo có nói: chúng cụ, cho nên nêu ra. Luật Tứ Phần khai 16 trượng khí là: Chỗ lớn, chỗ có nắp đậy, bồn nhỏ, bồn lớn, gáo, chỗ nhỏ, chỗ có nắp đậy, bình nước rửa, bình có nắp tay, bồn, muỗng tăng cũng được giữ: nếu bình bát không ngay thẳng thì làm lại bằng cành cây. Nếu bát bị bụi bặm dính thì làm một cái lồng trùm lại. Nếu bát mới nhuộm bằng cứt thảo ngưu v.v… Ở chỗ không có người thì được cầm, thấy người tại gia thì đặt xuống đất. Nếu ở trong chúa, được tự dời đất đá, cây gỗ, v.v… giã thuốc phải có chày, cối, cái ky, chổi bằng trúc để quét cho sạch. Tất cả đều khai cho vì trị mắt. Được cất giữ lược dầy bằng lưu ly hoặc ống quán ty, ống yên (khói), ống thổi lửa, hoặc kiềm, hoặc lửa thì lấy bình nước nóng chế vào ống. Đồng thời người rửa chân tay thì cung cấp cho họ cái chậu rửa hoặc đồ vật dùng để rửa chân, những vật cần dùng nên cung cấp cho họ. Nếu có được bao nhiêu đậu, lúa mạch, hồ gai, gạo thơm thì nên lấy bình bát làm lượng. Không được cất giữ cái thăng, đấu, can, nếu cần cân lường bơ, dầu thì cho phép khắc gỗ làm bát để can lường, lượng bốn, năm bát bằng nhau. Y cứ theo đây xác định số cân. Luật Ngũ Phần ban đầu giống Luật Tứ Phần, về sau cho những vật khác tuy nhiều nhưng vẫn còn một chút tức giận. Cho nên Phật bảo Tăng cất giữ riêng. Đấu giải thích là thăng, hợp và cân.

Luật Tứ Phần chép: cúng dường Hòa-thượng thì cho phép dùng bàn đồng, giống như bàn, ghế. Tất cả các thứ thức ăn đều đem ra đặt trên bàn để chia cho mọi người cùng một lúc. Nếu trái cây nhiều thì nên ép lấy nước uống, khai cho cất giữ phải cần tới đèn; Thắp đèn bằng sắt thì cái chụp đèn bằng sắt, bật ngọn đèn chuyển luân, củi lửa trong bếp lò, cái chụp đèn, chổi qúet quạt đều có người khác chịu trách nhiệm.

Nếu vì gìn giữ y, trong chùa cho phép lấy vỏ cây như lá trúc làm đồ vật che giữ. Cung cấp đồ che, toạ cụ, tất cả đều được cất giữ. Vì vá giày da nên cho phép cất giữ cái đồ dùng, trừ cách ngón tay ở giữa để dùi lỗ. Nếu có được da đã thuộc để làm giày thì cần dao để rọc, tấm gỗ nhẵn, hoặc đá mài, đều khai cho dùng. Nếu dao, dùi, gân, lông, sợi bị văng tứ tán thì cho phép làm túi đựng lồng, cho phép lót lông bên ngoài và bên trong, mười loại y cũng được dùng làm túi đựng. Nhưng không được làm bằng da. Nếu da hư thì cho phép lấy lông măng, kiếp cụ đại bì v.v… để trong dao. Nếu tóc dài, khai cho dùng dao cạo và làm vỏ bao dao lại. Nên dùng kiếp cụ và chướng vật khiến cho hư hoại để trên đá phủ lên, mài thì dao ấy bén, khai cho cất giữ con dao cạo gọt, tóc rơi tứ tán thì lượm để vào cái bọc. Cho dùng kéo, nhiếp, dao xẻ dưa, dao xắt gọt hình lưỡi gà. Những vật bằng răng sắp xếp như răng lược. Cung cấp phòng ở cho Tỳ-kheo như trong pháp. Cho phép sắp xếp mốc cài cửa, nắp đậy, bình nước, bình nước rửa, đồ dùng dựng nước, nhà tắm, giường, dao gọt đất bùn và giường dây lớn nhỏ, móc, cửa không được cất giữ. Nếu đi đường sợ rắn hay côn trùng cắn thì nên rung tích trượng. Nếu ống đựng đầy đá vụn, hoặc sa vào cành trúc phát ra âm thanh, không được cầm gây rỗng ruột. Nếu cắt chứa thì đúng như pháp làm quạt lớn. Nếu làm quạt may thì bảo Sa-di may. Nếu làm bánh, làm mì đậu, cân lường mì, đồ vật đựng mì đã ruy (những chữ này sai, nên viết là như bình rượu gỗ, nước thơm, ghế, muỗng thìa, chén… Đều khai cho giữ. Nếu ăn uống nhiều, không điều độ thì dễ sinh ra bệnh hoạn. Khai cho làm nhà tắm nếu ở trong phòng có mùi hôi khó chịu thì trét hương lên vách, cho đến bốn gốc đều treo hương. Ngài Tăng Nhất nói:

Nếu bốn chúng làm nhà tắm thì được năm việc tốt.

1. Tránh gió. 2. Bệnh chóng lành. 3. Tẩy trừ bụi dơ. 4. Thân thể nhẹ nhàng. 5. Da trắng. Tỳ-kheo nên tìm cách làm.

Luật Thập Tụng chép: chỗ khuất nên làm nhà tắm, các điều cần thì nên bàn luận. Luật Tăng-kỳ chép: Khi tắm, nếu không bệnh thì bảo người lau dùm. Năm chúng tự lau cũng được, lau chùi cho nhau cũng được. Kinh Tỳ-ni mẫu chép:

Trong nhà tắm, bậc Thượng toạ nên vì nhân duyên tăng tắm mà thuyết tịnh, không vì thân thể sạch sẽ, đẹp đẽ mà khiến cho thân thể chống lại gió, lạnh, được an ổn hành đạo. Nên vì chán ghét thân pháp mà điều phục tâm pháp. Nên phát khởi tâm từ bi vì ít muốn biết đủ, như vậy, mỗi việc đều có nghi thức nói pháp của bậc Thượng toạ, tùy việc mà dạy bảo, không phải đầy đủ tất cả [ page 127]. Kinh Tỳ-ni mẫu cho phép giữ sáu loại dao.

1. Dùng kéo dễ cắt da; mổ mụt ghẻ, cắt vải; trên y cắt rọc có lớp lông; dùng để làm sạch trái cây, cho đến lúc ăn, tất cả mọi việc đều cần có dao. Luật Ngũ Phần cho phép cất giữ cái nhiếp để nhổ lông mũi.

Đại luận chép: cúng dường cho chư tăng rồi thiền, pháp thiền, gậy thiền, cúc thiền, trân cốt nhân thiền, kinh hảo sư, hảo chiếu y phục, v.v…

Kinh Tỳ-ni mẫu chép: Tỳ-kheo chỉ được giữ ba y, bình bát, toạ cụ, túi đựng kim chỉ, bình bồn, v.v… Dưới được giữ vàng bạc của người nữ, tất cả vật báu, tất cả những khí cụ chiến đấu, bình rượu, v.v… vì người đời sinh tâm nghi ngờ chê bai. Luật Ngũ Phần chép: giường có chạm trổ, vẽ vời, không được ngồi. Phàm những đồ dùng như bồn, chậu, những cái đế kêu đồ vật không được bảo người làm cất giữ để mô phỏng, sau bỏ mất. Luật Tứ Phần chép:

Lúc nhuộm thì phải có chõ đồng, bồn đồng, vạc, chõ, dây, giấy ghi chép đều được cúng dường, tất cả giếng nước, ao nước, lan can, trời mưa, sợ ẩm ướt thì leo lên giường ở cho yên. Đất trống, nếu có củi thì làm mái che.

Kinh Tăng Nhất chép: phòng cúng cho tăng gọi là chiêu-đề tăng thí. Luật Tứ Phần chép: đàn-việt làm thiền đường như cung điện vua ở cúng dường cho tăng, tất cả những thứ cần khai cho thọ nhận.

Các Tỳ-kheo muốm làm phòng, Phật cho phép làm phòng đúng theo pháp, tất cả đều cho thọ nhận. Văn trong luật có nêu đầy đủ tất cả mọi việc, tóm lại không rõ. Nếu phân chia cho đầy đủ thì không chịu nhận. Phật bảo, tùy theo khả năng của mình mà sửa chữa, tất cả những thứ cần thì cung cấp.

Luật Thập Tụng chép: chính tay Phật cầm cây sửa lại cánh cửa chùa, tăng được cất giữ tất cả những dụng cụ. Tăng phường hư hoại thì được phép bán để sửa sang lại, tăng phường của Thượng toạ, tư phòng của Thượng toạ mỗi thứ đều hư hoại, lẫn lộn mọi thứ thì trước tự tay làm, ngài Ca-diếp thường đạp bùn trét lên tăng phòng, v.v… Tỳ-kheo được tự làm nhà trên cây. Luật Tăng-kỳ chép:

Tỳ-kheo làm phòng muốn tự lấy bùn trét lên vách đủ năm mầu đều được, chỉ trừ cảnh tượng nam nữ hòa hợp, ngoài ra tất cả cảnh tượng núi rừng, người, ngựa đều được.

Luật Tứ Phần chép: không được dùng các thứ tơ lụa năm mầu đường nét không tương ứng để trang hoàng. Cho phép dùng các mầu lẫn lộn khác, đường nét cầm thú. Ngài A-nan có được phòng riêng, khai cho nhận. Nếu làm phòng riêng trong đất chư tăng, có khách đến nên khởi công làm. Nếu không khởi công làm thì trả lại đất cho tăng (không lấy đất Tăng làm của riêng mình. Người trông coi phòng ốc cuối cùng không thành công và không bền chí. Nếu làm thiền đường, phòng xá thật to lớn thì cho phép trông coi trong mười hai năm. Còn những điều khác thì tùy theo sự lớn hay nhỏ. Nếu Tỳ-kheo quản sự làm tăng phòng đã xông hương trang hoàng đẹp đẽ và đầy đủ những thứ cần dùng thì cho ở chín mươi ngày, sau nhà cửa có hư hao, không được nhận phòng khác. Nếu người thế tục có thể sủa sang căn phòng hư, thì bạch nhị Yếtma cho họ sửa.

Luật Ngũ Phần chép: trên các phòng nên đề tên đàn-việt cúng.

Luật Thập Tụng chép: phòng cúng cho Tăng rồi chuyển sang cúng dường cho ni là trái pháp, sử dụng trái pháp. Nếu cúng cho ni về sau chuyển cúng cho Tăng cũng vậy. Nếu phòng xá, ngoại cụ có đàn việt ở đó thì chỉ được xem, không được chiếm đoạt để cho.

Sửa sang lại phòng hư hoại thì trước đổi hướng cửa, hai hoặc ba năm, tuỷ công phu nhiều hay ít mà cho ở.

Nếu phòng trống trải không thể ở thì tạm thời sửa sang lại để ở. Nếu giường, chiếu, gối chăn, rách dơ thì nên giặt giũ cho sạch rồi vá lại dùng tạm.

****

THIÊN THỨ 20: ĐỐI THÍ HƯNG TRỊ

Phước có ra từ thửa ruộng thanh tịnh, đạo bắt đầu từ ít muốn. Người tạo phước chỉ chú trọng làm cho nhiều, người thọ thí phải tiết chế. Cúng dường nhiều không biết chán là phương cách làm phước, ít thọ nhận hoặc thọ nhận có chừng mực, có hạnh nghi. Luật chép: Tuy đàn-việt cúng dường không biết chán nhưng người thọ nhận nên biết đủ, còn người xuất gia, thân đã khoác y phục của bậc thánh, mà đợi chờ có của cải tạm bợ riêng của mình mới quyết định. Lúc cho thì không lấy, sau cần khó kiếm được. Nếu khéo ứng xử theo pháp thì cả hai của cúng dường và người được cúng (năng sở) đều không tỳ vết hẳn là không y cứ theo sự việc. Đâu bảo là nhờ quy tắc đãđược thành lập. Nếu người thí khéo tỉnh giấc thì nhận được một công sức lớn lao, có thể gọi là duyên đạo lập hạnh từ đời này. Vì sao? Vì tâm tham đã bày tỏ ra tình cảm do tự mình tiết chế. Tâm buông lung thì chẳng thưởng thức được mùi vị, sinh khởi mê lầm. Nếu ý thức những món ngon vật lạ đều sinh tâm nhàm chán. Cho nên thiện, ác còn ấp ủ bên trong, nổi chìm phó thác cho trái tim. Cho nên, người làm việc không nên xem thường, không lo nghĩ đến thởi duyên. Gặp việc thì sinh trì trệ đều do không xem xét để thoát ra, giếng mối sâu xa của lậu hoặc há chẳng đáng thương hay sao? Nhưng sự khát ái thì ít khi biết đủ, giống như biển thâu nạp tất cả các dòng. Nếu dùng pháp để giải quyết thì mọi người đều dứt lòng ham muốn. Thân đã khoác y phục khác với người thế tục mà còn mơ mộng những điều cao xa. Nếu dung chứa những vết dơ bẩn này thì được việc gì? Dù có chín dòng nước chảy, thì người đời vẫn còn cảm thấy hổ thẹn về y phục và ăn uống. Đã gieo hạt giống Thánh Tam Bảo mà còn trì trệ, lún vào vũng lầy, sao quá lắm như vậy! Nay nói lược và dần dần trở thành văn. Làm cho kẻ sỹ có đoái hoài đến đạo, hoặc rõ và thâu gom những dấu vết này. Ở đây chia làm năm phần.

  1. Nói về người nhận thí
  2. Nói về nhàm chán phương tiện
  3. Nói về lập quán hữu giáo
  4. Nói về phương pháp tác quán
  5. Nói về tùy trị tạp tướng.

1. Luật Thiện Kiến chép: Tỳ-kheo thọ dùng vật thí có bốn loại:

a. Trộm dùng: nếu Tỳ-kheo phá giới nhận vật thí là trộmdùng

b. Mắc nợ dùng: lúc nhận vật thí thì phải nghĩ: không tinh tấn tu học là chịu tội mắc nợ tín thí.

c. Dùng của cải của bạn bè, bà con: Gọi là bảy học nhân thọ cúng dường.

d. Chủ dụng A-la-hán, kinh Tỳ-ni mẫu nói: người nhận phẩm vật của tín thí mà không dùng đúng như pháp, tâm buông lung bỏ việc tu hành đạo nghiệp thì đọa vào ba đường chịu tội khổ nặng. Nếu không chịu khổ báo, thì ăn của tín thí thí liền bể bụng, y phục lìa khỏi thân v.v… nếu biết người trước buông lung mà vẫn cúng dường cho họ thì cả hai năng sở (người thí, người nhận) đều bị doạ lạc.

Trí luận chép: người bố thí thanh tịnh, người thọ nhận không thanh tịnh, như bốn câu này; nếu người xuất gia không giữ giới, không có trí tuệ mà ăn của tín thí thì bị doạ vào địa ngục, chịu hai nỗi khổ ăn hoànsắt nóng và uống nước sắt sôi.

Luật Tứ Phần chép: cho đến phạm Đột-cát-la trở lên đều là tội, không vì thọ lợi dưỡng của người khác, đến kính lễ Tỳ-kheo trì giới đều không được nhận.

2. Nói về yểm trị phương tiện:

Như trong kinh Đại Tập chép: Vì sao Tỳ-kheo quán sát y áo đã được mặc mà sinh ý tưởng không vui thích?

Nếu may y, thấy y, sờ y, mặc y, cởi y nên quán sát như huyết đồ, da rửa hôi thối đáng ghét là nơi ở của côn trùng. Như lúc quán sát y phục mà tâm tham khởi lên thì liền dứt bỏ. Vì sao tu hành mà không thích thúc ăn? Nếu lúc Tỳ-kheo ôm bình bát, giống như huyết đồ như đầu lâu thối rửa đáng ghét là chỗ của côn trùng ở. Nếu được thức ăn thì nên quán: thúc ăn như xác chết côn trùng. Nếu thấy mì sợi thì nên nghĩ như xương vụn. Nếu được nước cơm thì nên nghĩ như cứt sệt. Nếu được bánh thì nên nghĩ như da người. được cầm tích trương thì nghĩ là như bộ xương, được sữa, lạc thì nghĩ là máu, mủ, mồ hôi. Nếu được rau quả thì nghĩ là lông tóc. Đây gọi là đối với thức ăn mà sinh ý tưởng không ưa thích.

Vì sao ở trong phòng xá mà sinh ý tưởng không ưa thích. Vì nếu bước vào phòng thì nên nghĩ giống như chịu khổ não trong địa ngục. Như vậy phòng xá là do sự hòa hợp mà có. Cây gỗ thì nghĩ là xương người. Đất là thịt người, cho đến tất cả giường chiếu, chăn mền cũng như vậy. Quán sát như thế gọi là không sinh ý tưởng ưa thích tài sản của thế gian. Nếu thường quán sát như thế thì người ấy được pháp như thật. Luật Tứ Phần chép:

Thà rằng sắt nóng làm y phục thiêu đốt toàn thân chứ không tham đắm y phục của thiện nam, tín nữ. Thà ở giường sắt đốt tan thân thể chứ không nhận phòng xá để nghỉ đêm trong đó. Thà nuối hoàn sắt nóng [page 128] đốt cháy ngũ tạng, tuột từ trên xuống, ra bên ngoài chứ không chịu ăn uống của tín tâm đàn-việt. Thà lấy cái kích xỉa vào chân chứ không thọ nhận tín tâm đàn-việt đảnh lễ bên chân mình. Thà lấy búa nung đỏ tự chém vào thân mình chứ không chịu để tay của tín tâm đàn-việt sờ mó vào thân minh. Vì sao? Vì không do nhân này mà doạ vào ba đường ác.

Nếu không phải Sa-môn, không phải tịnh hanh mà tự nói là Samôn, tịnh hạnh. Phá giới, ác hạnh, không giữ oai nghi, giới luật, tà kiến. Ở chỗ thật tạo tội, bên trong rỗng tuếch thối rữa, ngoài hiện tướng hoàn toàn thanh tịnh để thọ nhận thức ăn của người bố thí, vì của tín thí khó tiêu nên phải doạ vào ba đường ác, chịu khổ trong đêm dài tăm tối. Cho nên thọ nhận ất cả những vật cần dùng của thí chủ thì phải giữ tịnh giới mới làm cho thí chủ được quả báo lớn mà người xuất gia làm sa-môn cũng thành tựu. Nếu nói về ác báo thì như trong kinh Tăng Hộ đã nói đầy đủ năm mươi sau việc. Kinh luận Đại, Tiểu thừa như A-hàm, Niếtbàn đều đã nói vô số phương cách quán sát để sinh tâm nhàm chán v.v…

3. Nói về lập quán hữu giáo.

Trí luận chép: nếu không quán sát mà tâm cứ mãi mê đắm vào phẩm vật cúng dường thì phải doạ làm trùng ở chỗ bất tịnh, nước đồng rót vào miệng, nuốt hoàn sắt đỏ.

Luật Thập Tụng chép: mỗi khi ăn đều sinh ý tưởng không ưa thích nhưng vì giữ gìn thân mạng, Ma-đắc-già chép: Từ trong kho chui vào trong đất, lấy phân cứt hòa hợp (trộn) với hạt giống để được sinh ra, rồi lại nuôi dưỡng thân cứt đái, v.v…

Kinh Tỳ-ni mẫu chép: nếu Tỳ-kheo lúc được thức ăn, khi đưa thức ăn vào miệng thì thường quán tưởng; lúc được y phục, mặc y phục luôn quán niệm, lúc vào phòng, cũng luôn quán tưởng. Còn Tỳ-kheo độn căn thì khi được y phục, thức ăn, phòng xá đều nhất niệm.

Kinh Phật Tạng nói: xin được thức ăn trong xóm làng rồi thì ra khỏi làng ấy, đến đứng bên sông, nơi có thể tu đạo. Đặt thức ăn một bên, ngồi kiết già phải quán thức ăn đó có vô số điều đáng nhàm chán, quán tự thân mình là vật chứa đồ dơ, rộng như kinh kia đã nói.

4. Nói về phương pháp tác quán:

Bốn món cúng dường: y phục, thức ăn phòng ốc, thuốc men là người thí chủ xả bỏ lòng san tham, người nhận phẩm vật phải trừ lòng tham. Như thế thì cả hai người thí và người nhận (năng sở) đều thanh tịnh được nhiều phước lợi. Nếu cả hai (người thí và người nhận) đều theo thói buông lung, biếng nhác thì phải chịu đọa lạc, đều trái với thánh hiền.

Cho nên kinh Niết-bàn nói: hoặc khiến cho giảm bớt quả báo của thí chủ hoặc không được quả báo. Tuy lợi dưỡng giống nhau nhưng ít có người thanh tịnh, ăn bị hoạ lớn. Lúc bỏ vào miệng vì quá khoái khẩu nên ăn thô tháo, muốn sửa lại cho hợp pháp thì cũng khó. Nếu không mau sửa đổi, điều tiết tâm mình, phần nhiều phải giam hãm mình trong cơn say mờ mịt. Ôi, Sa-môn thì nên khác tục. Vì lập hạnh bền chắc, đồng với việc sầu muộn mê mờ của thế tục. Còn những hạnh khác cũng đã biết rồi.

Cho nên Thành Luận chép: Hiện thấy ở trong đống phân hôi thối mà sinh ra chứ chẳng phải sinh ra từ một tảng đá to. Vì tham đắm hương vị. Nếu kiềm chế được lòng tham, lập quán để khai tâm đạo, lược chia làm năm môn bàn luận rõ như vầy.

1. Xét tính công đức của mình nhiều hay ít mà thọ nhận phẩm vật của thí chủ kia đem đến.

Trí Luận chép: nên suy nghĩ những món ăn này, thí chủ đã vận công rất nhiều khai hoang, trồng tỉa, làm cỏ, từ lúc thu hoạch gặt, đập lúa, sàn sẩy đất cát, thổi lửa nấu mới thành cơm. Tính xem thức ăn trong một bình bát người nông phu đã đổ biết bao nhiêu mồ hôi. Nếu gom lại mà tính thì thức ăn tuy ít nhưng mồ hôi thì nhiều. Chỉ trong thoáng chốc đã biến thành đồ dơ bẩn, nếu ta có lòng tham thì phải đọa vào địa ngục nuốt hoàn sắt nóng. Ra khỏi địa ngục thì phải làm thân súc sinh để đền nợ cũ. Hoặc làm heo chó thường ăn phân dơ để trừ nợ cũ. Cho nên đối với món ăn nên sinh tư tưởng nhàm chán.

Luật Tăng-kỳ chép: nếu các Tỳ-kheo tính được tất cả những hạt gạo này thì dùng cả trăm công sức mới thành. Họ vì cầu phước mà bố thí, vì sao ta bỏ nó.

2. Suy nghĩ xem đức hạnh của mình đầy đủ hay thiếu sót.

Kinh Tỳ-ni mẫu chép: nếu không ngồi thiền, tụng kinh, không trông coi những việc trong Phật, pháp, Tăng mà thọ nhận của tín thí thì bị đọa. Nếu không biết tu tập ba nghiệp mà bố thí thì cả hai đều bị đọa. Tỳ-kheo đã đầy đủ thức ăn, thí chủ cúng thức ăn với ý kiêu mạn, hoặc tự ăn, đã ăn no rồi cố ăn quá phần thì bị đọa, bởi thức ăn đó cũng từ thí chủ mà có được. Vì sao? Vì Phật nói: chúng sinh ở trong đêm dài thường than thở nhưng rốt cuộc ăn uống không điều độ (cuối cùng phải giảm phần ăn). Người bố thí, trì giới thường thọ nhận phẩm vật của tín chủ nhưng phẩm vật vẫn thường tiêu hóa. Quả báo của sự bố thí, trì giới rất lớn, quả báo của người phá giới rất ít (quở như vậy, văn trong luật giống như trên).

Ăn no rồi lại ráng ăn thêm, không tăng thêm sức khoẻ lại rước thêm hoạ vào thân, vì thế không nên ăn quá lượng.

3. Ngăn ngừa tâm tham lam để lìa bỏ tội lỗi. Minh Liễu Luận sớ có ghi rõ, trong luật nói: người xuất gia nhận thức ăn trước phải quán sát thức ăn, sau mới được ăn. Thức ăn có ba loại, thức ăn ngon thì khởi lòng tham, phải xa lìa bốn việc.

– Ưa thích sinh tội lỗi: tham đắm hương vị, thân tâm hưng phấn, tự do ăn cho sướng miệng.

– Xa lìa thức ăn có chất kích thích làm cho say người, sinh ra tội lỗi: ăn rồi thân tâm khoẻ mạnh, không kể gì người khác.

– Lìa bỏ sự tìm cầu nhan sắc xinh đẹp mà sinh ra tội lỗi: ăn xong thì khoái thích hơn cảnh lúc bình thường. Không nên có tâm này.

4. Lìa lỗi cầu cho thân trang nghiêm.

+ Ăn thì vui vì được no bụng.

+ Thức ăn ít thì chê ghét tức giận, thường bị đọa vào ngạ quỷ, tìm kiếm cũng không thấy thức ăn.

+ Trong bữa ăn, không phân biệt được, phần nhiều khởi lên tư tưởng nghi ngờ, đổ bỏ. Khi chết đọa vào loài súc sinh ăn các thứ cứt, làm côn trùng thích ăn cứt đái.

+ Vì quá tham ăn nên phải đọa vào địa ngục, đại khái cũng như vậy. Nếu trái ngược với ba độc này thì trở thành gốc rễ của ba điều lành, được sinh lên ba đường lành. Vì không tham lam nên sinh lên cõi trời. Hạng trung và hạ cũng nên biết.

5. Việc chính là vì thuốc hay, quán sát chia làm hai:

– Vì dứt bệnh cũ: Không trị đói khát thì bỏ bê đạo nghiệp.

– Không sinh bệnh mới: ăn uống có chừng mực, bỏ việc ăn đêm.

– Như dầu mỡ trong xe vẫn làm cho xe chuyên chở được đồ vật, đâu cần hỏi dầu mỡ đó tốt hay xấu.

– Muốn vượt qua đường hiểm: đứa con đã chết, người nghèo cùng đói khát quá liền ăn thịt con mình, hẳn là không tham đắm mùi vị.

6. Vì thành đạo nghiệp, quán sát ba loại:

– Vì làm cho thân sống lâu hơn: thân ở cõi dục phải nhờ đoàn thực mới được ở lâu (sống lâu) vì đạo duyên không nhờ gởi.

– Vì mạng sống liên tục: nhờ báo thân giả tạm này mà thành pháp thân tuệ mạng.

– Vì tu tập giới, định, tuệ để chiết phục, dứt trừ phiền não. Trì Thế chép: “Nếu không trừ được điên đảo của chính mình thì đây là ngoại đạo, không được phép thọ nhận của người một chén nước. Trong Phật Tạng cũng vậy, phải nhàm chán bản ngã điên đảo. Đối với y bá nạp và thức ăn thô, không nên sinh tâm mê đắm trước. Theo Ngũ Minh để sửa đổi những hình tướng lộn xộn (tạp tướng).

Kinh Hoa Nghiêm chép: nếu được thức ăn thì nên nguyện cho chúng sinh được pháp cúng dường tâm chí giữ gìn Phật đạo.

Luật Ngũ Phần chép: người xuất gia nếu không vì giải thoát thì không được nhận thỉnh. Nếu ngồi thiền, tụng kinh, coi sóc việc tăng chúng, tất cả đều là sự giải thoát của người xuất gia, cho phép theo thứ lớp thọ nhận.

Luật Thập Tụng chép: nếu đến chỗ ăn nên im lặng, nhất tâm tịnh trì oai nghi để làm cho người phát sinh tâm lành, phải vào chậm rãi, ngồi khoan thai. Nên quán là thức ăn khó tìm, khó được, khó thành, lúc đưa vào miệng nên quán là ở nơi sinh tạng, thục tạng, sau khi ra ngoài chỉ là thứ bất tịnh dơ bẩn. Vì thức ăn này làm nhân duyên sinh khởi vô số phiền não, tạo nghiệp tội lỗi, chịu quả báo khổ.

Ngũ Bách Vấn chép: vì ham thích y phục tốt đẹp, đêm ngày đắm nhiễm nên bệnh đến chết sau hóa thành rắn trở về quấn y. Chúng tăng chôn cất vị Tỳ-kheo ấy rồi lấy y tác pháp, rắn liền trương cổ phun nọc độc. Chúng tăng ai cũng thấy. Trong đó, có một vị tăng đắc đạo, ông nhập pháp quán bốn thứ bình đẳng nói chuyện với rắn, và bảo nó đi. Rắn liền bò vào trong đám cỏ, vì tham độc hẫy hừng nên lửa phát ra thiêu đốt thân rắn. Sau khi chết bị đọa vào địa ngục. Kinh Tỳ-ni mẫu chép:

Được y phục nên nghĩ rằng: vì khỏi sự lạnh nóng nên hổ thẹn thọ nhận. Được phòng ốc thì nên nghĩ rằng vì che gió che mưa, được thức ăn nên nghĩ rằng vì trừ nhân duyên đói khát. Truyện nói hễ ăn thì không được quá ba muỗng.

– Muỗng thứ nhất: vì dứt bỏ tất cả điều ác.

– Muỗng thứ hai: vì tu tất cả điều lành.

– Muỗng thứ ba: vì độ tất cả chúng sinh.

Cho đến hồi hướng về Phật đạo và từng ngọn rau ngọn cỏ. Còn những thứ khác như sau: luật Tứ Phần chép: lường bụng mà ăn, đo thân mà mặc y phục biết vừa đủ. Lại nói ăn biết vừa đủ. Cho nên khổ cũ tiêu diệt, khổ mới không sinh. Có công phu mà vô sự khiến cho thân được an ổn. Ngài Tăng nhất nói: ăn nhiều có năm thứ khổ.

– Đại tiện nhiều lần.

– Tiểu tiện nhiều lần.

– Ngủ nhiều.

– Thân thể nặng nề không thể tu đạo nghiệp.

– Thức ăn không tiêu hóa, sinh ra nhiều bệnh hoạn.

Cho nên Phật dạy khi ăn nên tiết chế, do đây Phật nói kệ:

Ăn nhiều đến nỗi bệnh.
Ăn ít sức khoẻ suy.
Ăn ở mức trung bình.
Như cân không cao thấp.

Trong kinh Tạp Bảo Tạng nói: có vị vua thử tài ngoại đạo và Tỳkheo. Nhà vua dùng hai món ăn ngon và dở để thử nghiệm đạo pháp.

Tỳ-kheo cho đến nói kệ:

Thân này như xe
Không lựa tốt xấu
Dầu thơm mỡ hôi
Thảy đồng hòa trơn
 
Trung kinh A-hàm nói: Phật dạy các Tỳ-kheo: những người bậc trung bậc hạ cho đến những kẻ biên địa đang sinh hoạt trong giáo đoàn đều gọi là đi khất thực. Thế gian rất kỵ làm kẻ đầu trọc đội trời tay bưng bình bát đi khất thực. Con của dòng họ kia vì nghĩa cúng dường nên thọ nhận. Vì chán ghét những sự khổ não của sinh, già, bệnh, chết. Nếu người ngu xuất gia mà làm những việc riêng tư, giới luật bê trễ thì cũng giống như lấy chất dơ rửa chất dơ, làm sao giải thoát được? Trước đã nêu đủ chánh giáo, phải y cứ theo đó mà dùng. Lúc sắp ăn thì luôn lẩm nhẩm năm pháp quán trong đầu, vừa được liền mất, bị các chất độc như tham v.v… xâm đoạt.

 

Pages: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12