Thư trả lời anh em Khai Sanh, Ninh Sanh

(thư thứ nhất)

Hôm qua nhận được thư các ông, biết cha các ông bệnh hết sức trầm trọng. Chớ nên làm theo cách si tâm vọng tưởng của thế gian, mà hãy nương theo Phật pháp dùng câu Nam-mô A Di Đà Phật để trợ niệm và cầu cho cha: “Nếu tuổi thọ đã tận sẽ mau được đức Phật từ bi tiếp dẫn vãng sanh Tây Phương. Nếu tuổi thọ chưa hết, sẽ mau được lành bệnh”. Cha các ông tuổi đã ngoài bảy mươi, đang trong thời thế nguy hiểm này, cả nhà hãy nên nhất tâm niệm Phật, cầu Phật tiếp dẫn cụ vãng sanh Tây Phương. Nếu cụ tuổi thọ chưa hết, cũng sẽ do công đức trợ niệm mà chóng được lành bệnh. Nhưng chớ nên chỉ cầu lành bệnh, chẳng cầu vãng sanh Tây Phương. Nếu tuổi thọ của cụ đã hết, [cầu như thế] sẽ làm hỏng đại sự. Hãy vì cha các ông mà nhất tâm trợ niệm. Nếu cụ niệm được thì niệm theo. Chẳng thể niệm, hãy nhất tâm nghe các ông niệm.

Phàm những chuyện khẩn yếu thì phải hỏi han trước; chuyện chẳng khẩn yếu đều nhất loạt chớ nên nhắc tới. Nếu có những cư sĩ chí thành khẩn thiết, hãy nên thỉnh mấy vị cùng với các ông chia phiên trợ niệm liên tục chẳng ngớt. Niệm mãi cho đến khi cụ tắt hơi vẫn cứ niệm giống như thế. Niệm tiếp tục như vậy cho đến ba tiếng đồng hồ sau mới ngừng niệm. Hơn nữa, trước khi cụ chưa chết và lúc vừa mới tắt thở, đừng nên lau rửa thân thể, thay áo, khóc lóc. Những hành vi ấy đều là lôi cụ xuống biển! Người thế gian tưởng đấy là hiếu, nhưng [thật ra] đã phá hoại chánh niệm khiến cho [người đã mất] chẳng thể vãng sanh mà đâm ra bị đọa lạc. Tội giống như giết cha mẹ, khẩn yếu đến cùng cực!

Bữa nay ở Linh Nham liền thỉnh mười vị Tăng mở một Phật thất. Phật thất tốn một trăm đồng; lại lập cho cụ một bài vị bằng gỗ để thờ vĩnh viễn trong Niệm Phật Đường. Niệm Phật quanh năm, lợi ích rất lớn, phải tốn năm mươi đồng. Một trăm năm mươi đồng ấy nên gởi qua bưu điện, chuyển thẳng cho đại sư Diệu Chân thuộc Linh Nham Sơn Tự ở trấn Mộc Độc. Phật thất cũng là để cầu Phật tiếp dẫn. Nếu tuổi thọ chưa hết, cũng sẽ mau được lành. Các ông muốn giảm tuổi thọ của chính mình để [cầu] tăng tuổi thọ cho cha, Quang chẳng nghĩ như thế là đúng. Vì sao vậy? Đang trong lúc cụ tuổi đã cao này, lại nhằm đời loạn lạc, chuyện mai sau chẳng biết như thế nào! Cố nhiên, hãy nên cầu cho cha mẹ mau được sanh về Tây Phương, để khỏi gặp cảnh mai sau chẳng bằng hiện thời, sẽ càng khó thể trợ niệm!

Nay gởi kèm cho ông một ít tro hương Đại Bi. Hãy đem tro hòa vào nước, gạn lấy phần nước lắng trong để uống. Dẫu cụ đã đến lúc chết, uống vào thì thần thức cũng sáng suốt, chánh niệm vãng sanh. Nếu chưa đến lúc chết, sẽ mau được lành bệnh. Đối với chuyện sau khi cụ đã mất, đừng bày vẽ mù quáng, làm lễ phúng điếu, nhóm họp thân hữu. Dẫu cho bạn bè thân thiết tìm đến cũng nên đãi cỗ chay, vĩnh viễn chấm dứt rượu thịt. Ma chay, kính thần, đãi khách đều dùng món chay. Vàn muôn phần chớ nên dùng rượu thịt! Trong đám tang chẳng dùng rượu thịt, cổ lễ Nho gia đã là như vậy đó, chứ không riêng gì Phật giáo mới vậy. Nếu Hoàng Thái Tử đang cư tang mà lén lút uống rượu thì sử quan ắt phải ghi chép chuyện ấy để truyền cho hậu thế!

Hiện thời lễ giáo bỏ phế, đang cư tang vẫn tấu nhạc, sát sanh để giữ thể diện. Các ông đừng học theo thói cực ác ấy! Lại có kẻ còn đem hành trạng của người đã khuất in ra, thỉnh danh nhân đề lời tán tụng, tặng cho khắp mọi thân hữu. Chuyện ấy cũng hết sức vô lễ! Đem hình ảnh của cha mẹ in trên đấy, người ta nhận được xem qua một lần rồi quăng vô đống giấy lộn, chẳng biết đã khinh nhờn đến đâu! Các ông muốn làm cho cha mẹ được nở mày nở mặt, hãy nên trong mỗi niệm luôn tự phản tỉnh, khởi tâm động niệm, xử sự, chẳng dám có một niệm không xứng đáng với Phật, Bồ Tát, thiên địa, quỷ thần. Nếu có thể giữ được như thế suốt đời thì mới là đại hiếu, tôn kính cha mẹ. Nếu không, do hành vi bất thiện, ắt người ta sẽ nói cha các ông tổn đức nên mới có đứa con không ra gì như vậy! Do đó, con người chẳng thể không tự trọng!

 (thư thứ hai)

Thư nhận được đầy đủ. Kẻ làm con cái trong thế gian khi cha mẹ lâm chung phần nhiều là “đã rớt xuống giếng còn quăng đá!” Anh em ông chịu nghe theo lời tôi, cho nên cha các ông vãng sanh Tây Phương. Đấy là chân hiếu! Ông nên biết rằng: Bất luận già – trẻ – trai – gái lâm chung đều nên trợ niệm như thế. Đều phải là sau khi đã tắt hơi rồi, tối thiểu là trong vòng ba tiếng đồng hồ chẳng được đụng vào thân thể người ấy, chẳng ngớt tiếng niệm Phật, chẳng được khóc lóc, để càng lâu càng hay (Do [nếu khuyên] để lâu thì sợ kẻ chẳng hiểu việc sẽ khó thể nghe theo được, nên chỉ nói là “ba tiếng đồng hồ”). [Cha các ông] thần thức không sáng suốt, sau khi uống nước Đại Bi, thần thức liền sáng suốt; đủ biết Phật lực chẳng thể nghĩ bàn, pháp lực chẳng thể nghĩ bàn, chúng sanh tâm lực cũng chẳng thể nghĩ bàn (tức là lòng Thành của các ông).

Mẹ ông Ngô Trạch Nam lâm chung, lưỡi cứng không động đậy được. Trạch Nam đem nước Đại Bi chấm vào lưỡi, trong khoảnh khắc lưỡi [của bà cụ] liền mềm mại có thể niệm Phật được. Bình thường cụ luôn niệm Phật cực nhỏ, lúc ấy lớn giọng niệm liên tiếp ba câu rồi qua đời. Cảnh tượng lúc cha ông lâm chung nếu chẳng phải là thêu dệt thì chắc chắn cụ được vãng sanh. Người bình thường chết rồi chẳng có tí hơi nóng nào, thân thể cứng đờ. Người niệm Phật mấy ngày xác chẳng cứng, đấy là chuyện thường. Chuyện “hồi sát”[1] là kiến thức phàm tục của người đời. Phàm ai chết trong chùa miếu đều không có chuyện “hồi sát”. Quê tôi gọi là “xuất ương” (thoát tai nạn).

Người niệm Phật vãng sanh Tây Phương chẳng thể làm theo cách lo toan mù quáng của tục nhân. Nay tôi lập cho các ông một biện pháp thích hợp với cả đạo Nho lẫn đạo Thích. Nhằm hôm “hồi sát”, cả nhà hãy chí thành niệm Phật, hoặc một tiếng đồng hồ, hoặc hai ba tiếng đồng hồ là được; chớ nên làm theo cách thức “hồi sát” của người đời thì người chết lẫn kẻ sống đều được lợi ích lớn lao. Đối với chuyện thiết lễ phúng điếu, đãi tiệc khách [đến phúng điếu], quả thật đã thất lễ đến cùng cực. Hãy nên dùng khoản tiền ấy để làm chi phí cứu trợ tai nạn, đem công đức ấy hồi hướng Tây Phương thì là tốt lành nhất! Nếu chẳng thể không có một người khách nào đến viếng, quyết chớ nên dùng rượu thịt; ngay như cúng thần cũng dùng cỗ chay. Khi các ông gởi tới lá thư lần trước, trong khóa tụng sớm tối, Quang đã hồi hướng vãng sanh cho cha ông. Nay sẽ hồi hướng thêm ba thất nữa để trọn hết tình thầy trò. Còn chuyện thỉnh danh nhân đề lời tán tụng, viết điếu văn đều là bày vẽ rỗng tuếch bề ngoài, trọn chẳng ích gì cho người đã khuất cả!

Đang trong lúc nước nhà tan hoang, dân chúng khốn đốn này, đừng nên làm những chuyện lòe loẹt rỗng tuếch ấy thì mới là đúng. Các ông nên biết: Làm phận con chẳng gây nhục cho cha mẹ chính là lòng hiếu thảo suốt đời. Nếu thực hành chuyện “giữ vẹn luân thường, trọn hết bổn phận, dứt lòng tà, giữ lòng thành, đừng làm các điều ác, vâng giữ các điều lành” thì người ta do thấy những hành vi của các ông luôn tốt đẹp, dẫu miệng họ chẳng ca ngợi đức hạnh của cha mẹ các ông, nhưng trong lòng họ đã ngưỡng mộ, khâm phục đức hạnh của cha mẹ các ông. Đấy là chuyện làm rạng danh cha mẹ lớn lao. Chứ nếu ăn uống, nhậu nhẹt, chơi bời, cờ bạc, không gì chẳng làm, dẫu có đem đức hạnh của cha mẹ ra khoe cho nhiều, trong lòng người ta ắt nghĩ: “Cha mẹ ngươi ắt làm chuyện tổn đức. Nếu không, sao lại sanh thứ con chẳng xứng đáng như ngươi cơ chứ?” Khiến cho cha mẹ nhục nhã quá sức! Vì cha các ông mà Quang nói với các ông như thế; các ông có chịu nghe theo hay không, tôi chẳng thể ép buộc được! Các ông hãy thử suy nghĩ chín chắn, suy xét cặn kẽ xem lời này có đáng nghe theo hay chăng?

***

[1] “Hồi sát” (回煞) là một thứ tín ngưỡng thông tục trong tang ma Trung Hoa đã có từ trước thời Tần. Sát (煞) có nghĩa là tính ngày người chết trở về thăm nhà, mà Sát cũng có nghĩa là các hung thần, tai vạ. Do vậy, Hồi Sát thường được hiểu thành “đẩy lùi hung tai, hung thần”. Theo tín ngưỡng dân gian, linh hồn người chết sẽ quay trở lại nhà do Sảnh Thần (眚神) dẫn đường trong một thời gian ngắn sau khi chết. Ngày giờ ấy thường được giới đạo sĩ tính ra, gọi là ngày Hồi Sát hay Tiếp Sảnh (接眚: thường trong vòng từ bảy ngày đến mười bốn ngày sau khi chết). Ngày hôm ấy, phải mời đạo sĩ cử hành cúng tế, yểm đảo với mục đích ngăn ngừa những tà thần theo hồn người chết về bắt người thân chết theo (người Việt thường gọi là Thần Trùng), đồng thời thân nhân người chết đêm ấy phải ăn một số côn trùng đã hấp và biếu tặng một loại bánh gọi là bánh Trạng Nguyên (hay Tiếp Bài Cao) cho những hàng xóm thân thích để họ khỏi bị Thần Trùng quấy nhiễu. Có những trường hợp theo bói toán, bị kỵ tuổi quá nặng, đến tối hôm Hồi Sát, cả nhà phải bỏ trốn đi nơi khác mấy ngày.