THÍCH TỊNH ĐỘ
QUẦN NGHI LUẬN
(Giải Thích Những Nghi Vấn Tịnh Độ)
Pháp sư Hoài Cảm soạn
Thích Pháp Chánh dịch
Phần VII: So sánh sự hơn kém giữa cõi Đâu Suất và cõi Cực Lạc.
1. So sánh giữa hai cõi.
Hỏi: Tịnh độ Tây Phương so với Nội viện Đâu Suất có gì hơn kém? (59)
Đáp: Sự hơn kém giữa hai cõi thật hiển nhiên, những bậc thức giả đều biết rõ, cần gì phải hỏi thêm. Các bậc cổ đức đã soạn Luận Tịnh Độ 1, trong đó đã phân tách sự hơn kém, ở đây không phiền giải thích. Thế nhưng các bậc cổ đức soạn luận, trình bày vẫn còn sơ lược, hiện nay sẽ dùng mười hai nghĩa để làm rõ thêm chi tiết: (1) chủ, (2) xứ, (3) quyến thuộc, (4) thọ mạng, (5) nội ngoại, (6) thân sắc, (7) tướng hảo, (8) ngũ thông, (9) bất thiện, (10) diệt tội, (11) thọ lạc, (12) thọ sanh.
1) Chủ: Chủ trời Đâu Suất (Bồ tát Di Lặc) vẫn còn là phàm phu, tuy được gọi là Nhất sanh bổ xứ, nhưng chưa chứng đắc quả Phật (Diệu giác). Tuy sẽ thành Phật, nhưng hiện nay chỉ hiện hóa thân. Chủ cõi Cực Lạc là Đức Phật A Di Đà đã thành Chánh giác, cư trú tại cõi Tịnh độ, phần nhiều hiện thân thọ dụng (báo thân). Sự thật mà nói, hiện hóa thân hay hiện báo thân không có sự hơn kém. Thị hiện độ chúng sanh, thầy (Phật) trò (Bồ tát Đẳng giác) khác biệt, tức là một bên hiện nay đã thành Phật, một bên tương lai sẽ thành Phật, một bên là Báo thân Phật, một bên là Hóa thân Phật, một bên đã viên mãn, một bên chưa viên mãn, một bên hiện cõi diệu, một bên hiện cõi thô, cảnh tướng hoàn toàn khác biệt. Đây là nghĩa thứ nhất.
2) Xứ: Cảnh Đâu Suất ở cõi Ta Bà trược uế, vẫn còn dục lạc nam nữ; cõi Cực Lạc là Tịnh độ ở phương khác, thù thắng vi diệu. Bàn về sự hơn kém, không cách nào ví dụ được. Sự đẹp xấu giữa hai bên quả thật rõ ràng. Đây là nghĩa thứ hai.
3) Quyến thuộc: Trời Đâu Suất có trời nam và trời nữ, còn cõi Cực Lạc thì không có người nữ. Từ đây hình dung ra, hành giả tự biết bên nào đẹp, bên nào xấu, bên nào hơn, bên nào kém. Sự cách biệt giữa hai cõi như trời với đất. Đây là nghĩa thứ ba.
4) Thọ mạng: Thọ mạng ở cõi trời Đâu Suất là bốn trăm năm, mỗi ngày trên đó là bốn trăm năm ở cõi người. Như vậy các vị trời Đâu Suất thọ mạng bằng 400x30x12x400 = 57,060,000 (năm mươi bảy triệu sáu mươi ngàn) năm ở cõi người, nhưng vẫn có trường hợp chết yểu, như vậy làm sao so sánh với thọ mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp ở cõi Tây Phương Cực Lạc. Thọ mạng dài ngắn bất đồng, không thể so sánh. Đây là nghĩa thứ tư.
5) Nội ngoại: Trời Đâu Suất có hai viện, nội viện và ngoại viện. Những vị trời sống trong nội viện được gần gũi ngài Di Lặc là bậc Bồ tát Nhất sanh Bổ xứ, cho nên vĩnh viễn được bất thoái chuyển, còn những vị trời sống ở ngoại viện thì đam mê ngũ dục, không tránh khỏi trôi lăn trong sanh tử luân hồi. Ngài Giác Sư Tử, em trai ngài Thế Thân, còn bị sanh nơi ngoại viện. Ngài Thế Thân đạo hạnh ngang với ngài Vô Trước, cũng cầu vãng sanh Nội viện, cho nên biết rằng sanh vào Nội viện là một điều khó khăn. Phần lớn đều sanh nơi Ngoại viện, tiếp tục tạo thập ác, tu hành thoái chuyển, đọa lạc vào ba đường ác, không bằng vãng sanh Tây Phương, dù là hạ phẩm hạ sanh, khi hoa sen nở sẽ gặp ngài Quán Thế Âm, nghe giảng các pháp thật tướng sâu xa, pháp trừ diệt tội chướng, vĩnh viễn không bị luân hồi. Dùng đây để hình dung, làm sao có thể so sánh được. Đây là nghĩa thứ năm.
6) Thân sắc: Các vị trời Đâu suất, thân sắc tuy thanh tịnh vi diệu, thế nhưng đến lúc lâm chung, các tướng chết hiện ra, như là chảy mồ hôi nách, hoặc là quang minh ẩn mất, làm sao có thể so sánh với cõi Tây Phương, toàn thân bằng vàng, quang minh chiếu rọi hàng trăm ngàn do tuần. Kinh Vô Lượng Thọ dùng thí dụ dung mạo kẻ ăn mày so sánh với vị đế vương, cho đến dung mạo của vị trời Tha hóa tự tại nếu so sánh với các chúng sanh ở cõi Cực Lạc thì tướng mạo quang minh của họ chẳng khác gì đống mực đen để cạnh núi vàng ròng. Đẹp xấu khác nhau. Đây là nghĩa thứ sáu.
7) Tướng hảo: Thân tướng các vị trời tuy đoan nghiêm, đâu có thể so sánh với chúng sanh cõi Cực Lạc, thân tướng thù thắng trang nghiêm, đầy đủ ba mươi hai tướng tốt. Không có cách nào mô tả sự hơn kém giữa hai bên được. Đây là nghĩa thứ bảy.
8) Ngũ thông: Trong phần Bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà có nói: “Nếu tôi thành Phật, chúng sanh trong cõi nước tôi đắc được ngũ thông, hoặc thấy, hoặc nghe, tối thiểu là trăm ngàn vạn ức cõi Phật, v.v…” Các vị trời Đâu Suất, dù cho có ngũ thông chăng nữa cũng chỉ trong phạm vi hạn hẹp của cõi Ta Bà mà thôi. Giả sử có sanh vào Nội viện đi nữa, nếu chưa chứng quả thánh, chưa có kinh nào nói đến việc họ đi cúng dường, phụng sự chư Phật mười phương. Dùng đây so sánh, đây là nghĩa thứ tám.
9) Bất thiện: Các hành giả sanh về Nội viện của ngài Di Lặc là phàm phu sống trong cõi Dục. Tuy gần gũi bậc Nhất sanh bổ xứ, được nghe pháp Đại thừa, nhưng họ vẫn còn đầy phiền não. Vì không được bổn nguyện nhiếp thọ nên vẫn còn khởi tâm bất thiện, gây tạo ác nghiệp. Các chúng sanh cõi Tịnh độ không có những cảnh duyên ác này, hơn nữa nhờ nương vào bổn nguyện của Phật mà tội chướng tiêu trừ. Đây là nghĩa thứ chín.
10) Diệt tội: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Người nào niệm một danh hiệu ngài Di Lặc sẽ diệt trừ được một ngàn hai trăm kiếp tội ác sanh tử; nghe danh hiệu ngài, chắp tay cung kính trừ được năm mươi kiếp tội ác sanh tử; kính lễ Đức Di Lặc sẽ diệt trừ được một trăm kiếp tội ác sanh tử”, làm sao sánh được với niệm một danh hiệu Phật A Di Đà trừ diệt được tám mươi ức kiếp tội ác sanh tử, vãng sanh Tây Phương! Đây là nghĩa thứ mười.
11) Thọ lạc: Các vị trời Đâu Suất bị ngũ dục trói buộc, còn các chúng sanh nơi cõi Cực Lạc được tự tại, không còn ưu sầu khổ não nữa. Đây là nghĩa thứ mười một.
12) Thọ sanh: Các vị trời Đâu Suất thọ sanh vào thân thể nam nữ, còn các chúng sanh cõi Cực Lạc chỉ thọ sanh vào hoa sen, hoặc thọ sanh vào cung điện bảy báu. Đây là nghĩa thứ mười hai.
Ở đây dùng mười hai nghĩa để nêu rõ sự hơn kém. Nếu trình bày chi tiết ắt sẽ nhiều vô lượng. Tuy hai cõi có sự hơn kém như vậy, thế nhưng kinh Phật đều khuyên vãng sanh về cả hai cõi. Tùy theo nguyện vọng của hành giả, y theo lời dạy tu hành, ắt sẽ được như sở nguyện. Kính mong hành giả Tây Phương đừng chê bai Đâu Suất, và hành giả Đâu Suất cũng chớ phỉ báng Tây Phương. Mỗi người tùy theo lòng ái mộ, tu tập pháp môn mà mình ưa thích, không nên thị phi, đây mới là Phật pháp, còn nếu chê bai lẫn nhau, thì hai bên đều tạo nghiệp ma, chẳng những không được vãng sanh mà còn bị trầm luân tam đồ ác đạo. Khuyên các hành giả hãy tự nỗ lực.
2. Sự dị đồng giữa hai cõi.
Hỏi: Các bậc học giả đều biết rõ Cực Lạc thù thắng hơn Đâu Suất trăm ngàn ức lần, nhưng lại e rằng Cực Lạc là cõi Tịnh độ phương xa, ít người có thể vãng sanh. Các bậc đại đức xưa nay vì cho rằng Cực Lạc khó vãng sanh nên đã nguyện sanh về Đâu Suất. Hiện nay lại khuyên tu pháp môn Cực Lạc là có ý gì? Đây là điều chúng tôi vô cùng thắc mắc, kính xin giải thích cho chúng tôi đỡ nghi hoặc! (60)
Đáp: Vấn đề này quả là rất tế nhị. Các bậc đại đức xưa nay, học nhiều hiểu rộng, thấu rõ Đại thừa Tiểu thừa, đối với vấn đề này đôi khi còn phải trù trừ, huống chi tôi là một người học vấn kém cỏi, không rõ thị phi, đâu dám biện định vấn đề thâm thúy như vậy. Thế nhưng, bằng cách tìm hiểu kinh điển, chúng ta cũng có thể bàn sơ lược ý chỉ của vấn đề. Nếu so sánh Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói về hành nghiệp vãng sanh Đâu Suất, và các kinh Quán Vô Lượng Thọ, Vô Lượng Thọ, Xưng Tán Tịnh độ, v.v…, nói về hành nghiệp vãng sanh Cực Lạc, chúng ta có thể thấy rõ sự đồng dị giữa hai bên. Hơn nữa, hành môn vãng sanh Đâu Suất và vãng sanh Tây Phương có mười lăm điểm tương đồng và tám điểm khác biệt.
Mười lăm điểm tương đồng: (1) Quán hạnh: Đối với hành giả vãng sanh Đâu Suất, Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Thường tưởng nghĩ đến sự khoái lạc thượng diệu của cõi trời Đâu Suất, như vậy gọi là chánh quán, nếu không thì gọi là tà quán.” Đối với hành giả vãng sanh Tây Phương, Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Trong các pháp quán đất báu, cây báu, ao báu, Phật, Bồ tát, v.v…, nên quán sát như vậy thì gọi là chánh quán, nếu không thì gọi là tà quán.” Đây là tùy theo sở nguyện, quán sát cõi vãng sanh, y chánh trang nghiêm của cõi trời, cõi Phật. (2) Trì giới: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Nên trì giới cấm của Phật.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Thọ trì Tam quy, đầy đủ giới thể, không phạm oai nghi.” (3) Thập thiện: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Suy tư và tu hành pháp thập thiện.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Có lòng nhân từ, không sát hại, tu hành nghiệp thập thiện.” (4) Sám hối: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Nghe danh hiệu đại bi của Bồ tát Di Lặc, năm vóc sát đất, thành tâm sám hối, các ác nghiệp sẽ mau được thanh tịnh.” Kinh Cổ Âm Vương nói: “Sáu thời chuyên niệm, năm vóc sát đất, v.v…” (5) Tạo lập hình tượng hữu vi công đức: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Tạo lập hình tượng, cúng dường hương hoa, y phục, tràng phan bảo cái.” Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Tu tập pháp lành, phụng trì trai giới, xây chùa đúc tượng, cúng dường sa môn, treo phướng thắp đèn, rải hoa thắp hương.” (6) Thánh đến tiếp dẫn: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Bồ tát Di Lặc phóng ánh sáng giữa chặn mày, cùng các vị trời rải hoa mạn đà la, đến nghinh tiếp hành giả.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Phật A Di Đà phóng đại quang minh chiếu thân hành giả, cùng các vị Bồ tát đưa tay tiếp dẫn.” (7) Xưng niệm danh hiệu: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Nếu xưng niệm danh hiệu Di Lặc trong một khoảnh khắc.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Nếu chắp tay niệm Nam mô A Di Đà Phật trong một khoảnh khắc.” (8) Lễ bái: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Lễ bái, nghĩ nhớ đến Đức Di Lặc.” Luận Vãng Sanh nói:
“Thân nghiệp cung kính lễ bái Đức Phật A Di Đà.” (9) Hồi hướng phát nguyện: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói:
“Đem công đức này hồi hướng nguyện sanh về nơi ngài Di Lặc.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Đem công đức này hồi hướng nguyện sanh về cõi Cực Lạc.” (10) Đọc tụng kinh điển: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Đọc tụng kinh điển.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Đọc tụng kinh điển Đại thừa Phương đẳng.” (11) Vãng sanh: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Trong khoảng khảy ngón tay được sanh về cõi trời Đâu Suất.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Trong khoảnh khảy ngón tay (hoặc nói: trong khoảng một niệm, hoặc nói: trong khoảnh lực sĩ co duỗi cánh tay) vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc.” (12) Thấy thánh chúng: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Thấy Đức Di Lặc.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Thấy thân Phật đầy đủ tướng hảo trang nghiêm.” (13) Quy kính:
Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Cúi đầu đảnh lễ.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Liền xuống đài sen vàng chắp tay lạy Phật.” (14) Nghe pháp: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Chưa ngẩng đâu lên đã nghe pháp âm.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Ánh sáng, rừng báu diễn thuyết diệu pháp.” (15) Bất thoái: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Bất thoái chuyển nơi đạo Vô thượng Bồ đề.” Kinh A Di Đà nói: “Các hành giả vãng sanh đều là bậc Bất thoái chuyển.”
Tám điểm khác biệt: (1) Bổn nguyện: Bồ tát Di Lặc vốn không lập thệ nguyện tiếp dẫn hành giả vãng sanh Đâu Suất. Bồ tát tỳ kheo Pháp Tạng phát bốn mươi tám nguyện tiếp dẫn chúng sanh. Không thệ nguyện giống như khúc gỗ trôi sông, có thệ nguyện giống như lái thuyền du ngoạn. (2) Quang minh: Tu nghiệp vãng sanh Đâu Suất, Đức Di Lặc không phóng ánh sáng nhiếp thọ. Tu nghiệp vãng sanh Tây Phương, Đức Phật A Di Đà phóng ánh sáng bạch hào, ánh sáng lỗ chân lông, ánh sáng viên quang, v.v…, nhiếp thọ hành giả ngày đêm không rời. Có ánh sáng nhiếp thọ giống như đi dạo lúc ban ngày, không ánh sáng nhiếp thọ giống như mò mẫm trong đêm tối. (3) Thủ hộ: Các hành giả tu nghiệp vãng sanh Đâu Suất không được Bồ tát Di Lặc đến thủ hộ, còn hành giả tu nghiệp vãng sanh Tây Phương thì được sự thủ hộ của Đức A Di Đà, v.v…. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Vô số hóa thân của Phật Vô Lượng Thọ cùng Quán Thế Âm, Đại Thế Chí thường đến nơi hành giả.” Kinh Xưng Tán Tịnh Độ nói: “Ắt sẽ được hằng hà sa chư Phật mười phương nhiếp thọ.” Kinh Thập Vãng Sanh nói: “Đức Phật A Di Đà khiến hai mươi lăm vị Bồ tát thường đến thủ hộ hành giả.” Được thủ hộ như du hành với đám đông, không sợ bị cướp giật, không được thủ hộ giống như đi đường vắng một mình, ắt bị gian phi cưỡng đoạt. (4) Hiện tướng lưỡi: Vãng sanh nội viện Đâu Suất, mười phương chư Phật không hiện tướng lưỡi chứng minh, còn lúc khuyên vãng sanh Cực Lạc, mười phương chư Phật đều hiện tướng lưỡi chứng minh. Nếu như Đâu Suất dễ vãng sanh, Cực Lạc khó vãng sanh, việc gì mà chư Phật mười phương phải chứng minh, khuyến khích. (5) Chúng thánh: Những người tu nghiệp vãng sanh Đâu Suất không có chư thánh thủ hộ. Những hành giả tu nghiệp vãng sanh Tây Phương thì có các vị Bồ tát Hoa Tụ, Bồ tát Sơn Hải Huệ, v.v…, phát nguyện gần gũi thủ hộ. (6) Diệt tội: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Xưng niệm danh hiệu Đức Di Lặc trừ diệt được một ngàn hai trăm kiếp tội sanh tử.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật, mỗi niệm trừ diệt được tám mươi ức kiếp tội sanh tử.” (7) Tội nặng: Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói: “Nếu thiện nam tử thiện nữ nhân phạm các giới cấm, tạo các nghiệp ác.” Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói: “Nếu có chúng sanh tạo nghiệp bất thiện, ngũ nghịch thập ác, làm đủ việc không lành.” Những chúng sanh tạo tội ngũ nghịch ắt sẽ không được sanh về Đâu Suất nhưng lại được vãng sanh Cực Lạc. (8) Giáo thuyết: Nếu cho rằng Đâu Suất dễ sanh, Cực Lạc khó sanh, đây là dùng kiến giải phàm phu để phán đoán kinh Phật. Nếu tra cứu cặn kẽ, ắt không thấy có kinh điển nào nói về điều này. Ngay bậc chứng Tứ quả cũng mờ mịt khi nhập thai, và các bậc Bồ tát Thập địa còn mê muội khi cách ấm, huống chi là những học giả phàm phu, tập khí dẫy đầy, sự mờ mịt về kiến giải và tu tập đến đời nào mới được giải tỏa, dù có miệt mài cầu học, cũng chỉ giống như những kẻ rờ voi, làm sao có đủ khả năng khải định lời Phật khiến cho mọi người tin tưởng. Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Cắt đứt đường năm cõi, nẻo ác tự nhiên đóng, đạo thăng tiến vô cùng, dễ sanh nhưng không người (chịu vãng sanh).” Đây quả là lời dạy rõ ràng của Phật.
Phần trên, xét mười lăm điều tương đồng còn không thể nói Cực Lạc khó vãng sanh, huống chi xét tám điều khác biệt mà vẫn nói Cực Lạc là khó vãng sanh hay sao? Kính thỉnh quý học giả tra cứu giáo lý để có thể giải trừ nghi hoặc về sự vãng sanh khó dễ của hai pháp môn Đâu Suất và Cực Lạc. Nếu nghiên cứu tận cùng, đối với một môn, hoặc khen hoặc chê, đều là phương tiện khuyến khích người sơ cơ vào đạo, khiến họ xa lìa sự ngu mê chấp trước mà thôi. Mong các ngài hiểu rõ ý nghĩa mà tôi muốn trình bày ở đây.