THÍCH TỊNH ĐỘ
QUẦN NGHI LUẬN

(Giải Thích Những Nghi Vấn Tịnh Độ)
Pháp sư Hoài Cảm soạn
Thích Pháp Chánh dịch

 

Phần III. Hội thông sự mâu thuẫn của Luận Nhiếp Đại Thừa.

1. Hội thông ba địa.

Hỏi: Luận Du Già Sư Địa nói: “Bồ tát Tam địa mới vãng sanh Tịnh độ.” Hiện nay khuyên phàm phu và các Bồ tát Tam hiền trở xuống vãng sanh là có ý gì? (26)

Đáp: Các bộ luận khi bàn về vãng sanh đều có căn cứ riêng biệt, sự thủ xả cũng không giống nhau. Các cõi Tịnh độ đã có sự thô diệu hơn kém khác nhau, sự vãng sanh cũng có giai bậc cao thấp không đồng. Như Kinh Nhân Vương Bát Nhã nói: “Chỉ có Đức Phật trụ cõi Tịnh độ, các bậc Tam hiền Thập thánh đều trụ cõi quả báo.” Đây muốn nói rằng các bậc Bồ tát Thập địa trở xuống đều không được sanh Tịnh độ. Bởi vì Đại viên kính trí của Đức Phật biến hiện cõi Tịnh độ vô lậu, nên gọi là tịnh; còn các bậc Bồ tát Thập địa trở xuống, bổn thức của các ngài biến hiện cõi Tịnh độ hữu lậu, nên không gọi là tịnh. Thức thứ tám là thức quả báo, cho nên cõi biến hiện gọi là cõi quả báo. Nếu bàn về phương diện tu tập bố thí, trì giới, thiền định, đắc vô lậu định, có thể dùng định lực để vãng sanh các cõi Tịnh độ, thì phải đến bậc Bồ tát Tam địa mới được tự tại. Bởi thế, Luận Du Già Sư Địa mới cho rằng chỉ có các bậc Bồ tát Tam địa trở lên mới được vãng sanh Tịnh độ. Nếu như chứng đắc trí vô phân biệt, đoạn trừ nhân chấp và pháp chấp, đoạn trừ phiền não kiến đạo, chứng ngộ Bách pháp minh môn, được vãng sanh các Tịnh độ của chư Phật, thì phải là bậc Bồ tát Sơ địa trở lên. Còn nếu bàn về việc nương vào bổn nguyện đại bi của Phật tiếp dẫn tất cả chúng sanh phàm phu ngu chướng, cho đến những người phạm tội thập ác ngũ nghịch, chỉ cần phát tâm Bồ đề đều được vãng sanh, thì không thể căn cứ vào lập luận của Luận Du Già Sư Địa cho rằng chỉ có bậc Bồ tát Tam địa trở lên mới được vãng sanh Tịnh độ, và nếu vậy, thì ngay cả các Bồ tát Sơ địa, Nhị địa cũng chưa được vãng sanh. Thế nhưng, Bồ tát Long Thọ được Phật thọ ký chứng bậc Sơ địa vãng sanh thế giới Cực Lạc, lẽ nào có thể nói chưa chứng Tam địa không được vãng sanh, mà đi ngược tông chỉ của Kinh Quán Vô Lượng Thọ!

Kinh Nhân Vương Bát Nhã nói bậc Bồ tát Sơ địa chứng Bách pháp minh môn, thấy được một trăm cõi Phật, làm sao nói họ không được vãng sanh Tịnh độ? Lại như Kinh Hoa Nghiêm nói các Bồ tát phàm phu mới phát tâm, phát nguyện vãng sanh Tịnh độ đều được vãng sanh. Do đây biết rằng Luận Du Già Sư Địa chỉ căn cứ vào khía cạnh “đắc định tự tại ly chướng được vãng sanh Tịnh độ” mà thôi.

2. Hội thông biệt thời.
a. Giải luận phá chấp.

Hỏi: Hai bộ luận Nhiếp Đại ThừaCâu Xá do hai ngài luận sư Vô Trước và Thế Thân biên soạn, giải thích ý nghĩa của các kinh luận, có bốn ý thú và bốn câu bí mật, trong đó có câu “Chỉ do phát nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ, đây là biệt thời ý.” Hiện nay khuyến tấn mọi người tu tịnh nghiệp để vãng sanh Tây Phương Cực Lạc, đây là lý lẽ gì? Từ khi Luận Nhiếp Đại Thừa được phiên dịch đến nay đã hơn trăm năm, các vị tôn đức đã đọc qua và đều không tu Tịnh độ cầu vãng sanh Tây Phương. Hiện nay lại nói niệm Phật được vãng sanh, há chẳng đã đi ngược với bổn ý của Luận Nhiếp Đại Thừa? (27)

Đáp: Luận Nhiếp Đại Thừa nói: “Chỉ do phát nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ, đây là biệt thời ý.” Từ xưa đến nay, các vị tôn đức đều dùng đoạn văn này để chứng minh rằng niệm Phật không được vãng sanh trong hiện đời. Hiện nay, chúng tôi sẽ biện minh rằng “Niệm Phật liền được vãng sanh trong hiện đời”, và đây là ý nghĩa chân thật mà hai ngài Vô Trước và Thế Thân muốn nói. Tại sao? Trong luận nói: “chỉ do phát nguyện”, tức là không đề cập đến “hành trì.” Không đề cập đến sự hành trì niệm Phật, mà chỉ đề cập riêng đến việc “phát nguyện” cho nên mới nói là “chỉ do phát nguyện.”

Nếu “chỉ do phát nguyện” mà được vãng sanh, đây là “biệt thời ý.” Nói cách khác, “biệt thời” nghĩa là không phải “chỉ do phát nguyện” mà lúc lâm chung được vãng sanh. Hiện nay, chí tâm niệm Phật tức là ý nghiệp hành thiện, xưng niệm danh hiệu Phật tức là khẩu nghiệp hành thiện, chắp tay lễ bái tức là thân nghiệp hành thiện. Do ba nghiệp thiện này có thể diệt trừ tội nặng trong tám mươi ức kiếp. Hành và nguyện phối hợp nhau, liền được vãng sanh (trong hiện đời). Đâu phải chỉ là phát nguyện xuông! Luận chủ Vô Trước nói “chỉ do phát nguyện” có nghĩa là “nếu như nguyện có kèm theo sự hành trì thì đây không phải là biệt thời

ý.” Những người nghiên cứu không chịu suy ngẫm sâu xa ý nghĩa này, bèn vội phát biểu võ đoán rằng “niệm Phật vãng sanh cũng là biệt thời ý.” Nếu vậy, tại sao trong Luận Nhiếp Đại Thừa không tuyên bố rõ rằng “ví như niệm Phật A Di Đà được vãng sanh là biệt thời ý.” Luận đã không nói “niệm Phật, tu mười sáu pháp quán, tu tập ba phước là biệt thời ý”, cho nên biết rằng niệm Phật, v.v…, không phải là biệt thời ý.

Có người cho rằng “niệm Phật, tu mười sáu pháp quán cũng là phát nguyện”, hoặc có người giải thích “luận chủ tuy nói chỉ do phát nguyện, nhưng hàm ý niệm Phật, v.v…, cũng là biệt thời ý.” Hiện nay, chúng ta cứu xét hai lời giải thích này xem chúng có mục đích làm lợi ích chúng sanh hay chỉ là sự giải thích quàng xiêng? Về phương diện lợi ích, lời giải thích thứ nhất sẽ khiến cho vô lượng chúng sanh trôi lăn trong năm nẻo, trồi hụp trong ba đường ác, không thể vãng sanh Tịnh độ, thoát ly sanh tử. Về phương diện giải thích, nếu xét kỹ ý nghĩa của luận, thì lời giải thích thứ hai không hợp với bổn ý của luận chủ mà chỉ là sự phát biểu bâng quơ sai lạc. Các bộ luận Câu Xá, v.v…, khi tranh luận về tông chỉ và nghĩa lý, đều căn cứ vào lời dạy của Phật (kinh) để khải định ý chỉ và quy hướng, huống chi, hiện nay lời dạy của Phật trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, v.v…, đều chỉ bày tường tận các pháp tu, hoặc giảng giải ba phước là nhân chánh cho sự vãng sanh Tây Phương, hoặc chỉ bày mười sáu pháp quán là chánh nghiệp cho sự sanh về Cực Lạc. Tại sao lại cho rằng tất cả đều chỉ là phát nguyện?

Có tám lý do để biết rằng luận chủ không chủ trương “niệm Phật là biệt thời ý”.

(1) Luận sư giải thích kinh văn là vì ý nghĩa của kinh thâm sâu, những người tầm thường khó hiểu rõ bổn ý của Phật. Các nhà luận sư tạo luận giải thích lời Phật là muốn cho người trí kẻ ngu đều được hiểu rõ.

Hiện nay, những lời dạy về pháp Niệm Phật Vãng Sanh của các kinh Quán Vô Lượng Thọ, Vô Lượng ThọA Di Đà rất rõ ràng, người trí kẻ ngu đều hiểu rõ, đâu có khúc mắc gì mà cần phải được giải thích.

(2) Ngài tỳ kheo Pháp Tạng phát Bốn mươi tám nguyện lớn tiếp dẫn chúng sanh, lẽ nào đem “biệt thời ý” để phát những lời nguyện lớn hay sao? Trong bổn nguyện có câu “Nếu như niệm Phật mà không được vãng sanh, thề không thành Phật”, do đây biết rằng công hạnh niệm Phật, v.v…, nhất định sẽ được vãng sanh. Điều này nằm trong Bốn mươi tám nguyện và không phải là biệt thời ý. Còn câu “Chỉ do phát nguyện không được vãng sanh” không nằm trong Bốn mươi tám nguyện, và đó là biệt thời ý.

(3) Trong Kinh Xưng Tán Tịnh độ, hằng hà sa chư Phật mười phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài chứng minh cho sự vãng sanh, chả lẽ các ngài chứng minh “biệt thời ý”? Chư Phật hiện tướng lưỡi vốn vì các chúng sanh không tin pháp môn Tịnh độ. Những chúng sanh đó cho rằng công phu niệm Phật ít ỏi, làm sao trong một đời mà được vãng sanh, rồi khởi tâm hủy báng, không tin lời Phật dạy, cho nên các ngài hiện tướng lưỡi rộng dài, nói lời thành thật, khiến cho bọn họ thấy mặt nghe lời, đều dứt trừ nghi hoặc, phát khởi lòng tin.

(4) Kinh A Di Đà trước tiên khuyên chúng sanh phải nên phát nguyện cầu sanh Cực Lạc, kế đến dạy phải niệm danh hiệu Phật A Di Đà từ một ngày cho đến bảy ngày, đến lúc mạng chung liền được thánh chúng đến tiếp dẫn vãng sanh. Nếu niệm Phật chỉ là phát nguyện, thì phần trên đã khuyên phát nguyện, phần dưới cần gì phải dạy pháp niệm Phật? Cho nên biết rằng phần trên là nguyện, phần dưới là hành. Hành nguyện phù hợp thì được vãng sanh. Lẽ nào niệm Phật chỉ là phát nguyện?

(5) Luận Vãng SanhLuận Nhiếp Đại Thừa đều do Bồ tát Thế Thân biên soạn. Chả lẽ trong Luận Vãng Sanh nói niệm Phật vãng sanh Tây Phương không phải biệt thời ý, mà trong Luận Nhiếp Đại Thừa lại cho rằng niệm Phật là biệt thời ý, không được vãng sanh trong hiện đời hay sao? Giả như hai bộ luận này do hai luận sư kiến giải khác biệt sáng tác, chúng ta cũng vẫn phải đặt nghi vấn tại sao chỉ có Luận Nhiếp Đại Thừa đạt được ý chỉ của Kinh, còn Luận Vãng Sanh lại mê mờ lời dạy của Phật? Huống chi hiện nay hai quyển luận đều do ngài Thế Thân biên soạn, ý nghĩa đâu thể mâu thuẫn với nhau. Nếu dùng luận để thăm dò bổn ý luận sư, phải nên biết rằng chỉ có “phát nguyện suông” mới là biệt thời ý!

(6) Luận Vãng Sanh nói đến năm môn: (a) thân nghiệp lễ bái, (b) khẩu nghiệp niệm Phật, (c) ý nghiệp quán sát, (d) phát nguyện, và (e) hồi hướng. Nếu ba môn trước đã là phát nguyện, thì đâu có khác gì môn thứ tư (phát nguyện). Nếu nói giống nhau thì đâu gọi là năm môn. Nếu nói khác nhau thì ba môn trước là hành, chứ không phải nguyện!

(7) Luận Đại Thừa Khởi Tín do ngài Mã Minh trước tác nói rằng niệm Phật vãng sanh Tây Phương chính là hành môn, không phải biệt thời ý. Do đây biết rằng bổn ý của ngài Thế Thân khi tạo luận cũng giống như ngài Mã Minh, không bao giờ cho rằng các môn Niệm Phật, v.v…, là biệt thời ý. Ngài Mã Minh tạo Luận Đại Thừa Khởi Tín chỉ dạy cho hàng Bồ tát sơ cơ, nói có tám nhân duyên để tạo luận, trong đó nhân duyên thứ bảy nói: “Chỉ rõ phương tiện chuyên tâm niệm Phật vãng sanh cõi Phật quyết định không còn thoái chuyển lòng tin Đại thừa. Lại nữa, những chúng sanh mới học Đại thừa, muốn cầu chánh tín, lòng tin chưa vững, e rằng ở lâu nơi cõi Ta Bà này, không được thường gần gũi chư Phật để cúng dường, lòng tin Đại thừa khó thành tựu, hoặc giả sẽ bị thoái thất. Nên biết đức Như Lai có phương tiện thù thắng nhiếp thọ hộ trì tín tâm của hành giả, nghĩa là dùng nhân duyên niệm Phật vãng sanh các cõi Tịnh độ, thường gần gũi chư Phật, vĩnh viễn lìa xa ác đạo. Như trong khế kinh có nói nếu hành giả chuyên niệm danh hiệu Đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc, rồi đem thiện căn tu hành hồi hướng cầu sanh về thế giới ấy, ắt sẽ đưọc vãng sanh. Vì thường gặp Phật, tín tâm Đại thừa sẽ không bị thoái chuyển.” Nếu siêng tu pháp quán Chân như Pháp thân của Phật, ắt được vãng sanh, trụ trong chánh định.

(8) Nếu cho rằng niệm Phật không phải là hành môn, thì sự tu tập ba phước, mười sáu pháp quán có phải là hành môn hay không? Nếu [tu ba phước, mười sáu pháp quán] là hành môn, trong phần quán Đất nói rằng tu pháp quán Đất thành tựu sẽ diệt trừ tám mươi ức kiếp tội chướng sanh tử, sau khi mạng chung sẽ được sanh về Tịnh độ, tâm không còn nghi. Còn như niệm danh hiệu Phật A Di Đà, trong mỗi niệm cũng diệt trừ được tám mươi ức kiếp sanh tử tội nặng sanh tử, vãng sanh Tây Phương. Tại sao diệt tội giống nhau mà một pháp là hành môn, một pháp không phải là hành môn? Tu pháp quán được vãng sanh, còn tu niệm Phật không được vãng sanh? Nếu cả hai pháp tu đều không phải hành môn, thì bà Vi Đề Hy và năm trăm thị nữ do tu pháp quán này mà được được Phật thọ ký vãng sanh hay do tu các hạnh khác mà được vãng sanh? Nếu do tu pháp quán này được vãng sanh, nhưng pháp quán này không phải hành môn, như vậy làm sao được vãng sanh? Nếu tu pháp quán này không được vãng sanh, bà Vi Đề Hy cần gì phải thỉnh cầu pháp tu không vãng sanh? Và Đức Như Lai việc gì phải giảng pháp không vãng sanh? Nếu cả hai đều là nguyện môn thì ắt chúng chỉ là một, cần gì phải phân ra mười sáu pháp quán? Hai lời giải thích võ đoán ở trên, không những không hiểu kinh văn, mà còn hủy báng chánh kiến, hại mình hại người. Đối với Phật pháp và chúng sanh đều không lợi ích.

b. Hành tướng của biệt thời ý.

Hỏi: Nếu chỉ phát nguyện suông là biệt thời ý, vậy biệt thời ý là gì? (28)

Đáp: Đức Phật biết chúng sanh phiền não sâu nặng, trôi lăn trong sanh tử, trồi ngụp trong biển khổ, không ngày xuất ly, nên ngài mới tán thán thế giới Tây Phương Cực Lạc y báo chánh báo trang nghiêm, khuyến khích chúng sanh vãng sanh Tịnh độ. Chúng sanh tuy nghe Phật dạy, do vì phiền não chướng có nặng có nhẹ, sự tỏ ngộ có sâu có cạn, thành thử sự tu tập có cao có thấp.

(a) Có một hạng chúng sanh nghe lời Phật dạy bèn chê bai, phỉ báng. Bọn họ không những không sanh Tây Phương, mà còn tự làm cho mình trầm luân biển khổ. Hạng người này vô duyên đối với pháp môn CựcLạc.

(b) Có một hạng chúng sanh nghe pháp Tịnh độ, tuy khởi lòng tin sâu và không phỉ báng, nhưng vì còn tham mê ngũ dục, lưu luyến Ta Bà, không dám phát nguyện, không chịu tu hành. Bọ họ tu thiện, hoặc sanh cõi trời, hoặc lại tiếp tục tạo ác, trầm luân ác đạo. Hạng người này cũng không có duyên với cõi Tây Phương Tịnh độ.

Hai hạng người vừa nêu trên, hoặc không có tâm nguyện cầu, hoặc sanh tâm hủy báng, cho nên Kinh Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác nói: “Nếu có chúng sanh nghe giáo pháp Tịnh độ, nghe như không nghe, lại còn phỉ báng, ta nói hạng người đó chưa được giải thoát, mới từ ác đạo đầu thai làm người.” Không có lòng tin, hoặc không có hạnh nguyện, cho nên chưa được giải thoát.

(c) Có một hạng chúng sanh, túc duyên với Phật A Di Đà đã chín muồi, nghe giáo lý Tịnh độ, khởi lòng kính tin, phát thệ nguyện lớn, nguyện được vãng sanh Tây Phương Tịnh độ, quyết định không cầu quả báo trời người. Người này tuy phát nguyện mạnh mẽ, nhưng hoặc vì nhân duyên phiền não, vẫn tiếp tục đam mê ngũ dục, hoặc phóng dật biếng nhác, không thể tu đạo, gặp ác tri thức, tạo nhiều tội ác, hoặc lúc mạng chung không gặp được thiện tri thức, hoặc thân mang bệnh nặng, cuồng loạn mất trí, hoặc tâm trí tán loạn, không hiểu ý người khác nói, hạng người như vậy chỉ phát nguyện xuông, chưa từng tu hạnh Tịnh độ. Tuy không được vãng sanh ngay trong đời này, nhưng sự phát nguyện của họ sẽ là nhân duyên cho sự vãng sanh trong những đời sau. Hoặc giả, do sức mạnh thù thắng của sự phát nguyện mà sau này họ sẽ nhất định ra công tu hành. Đối với hai hạng người này (chưa thể tu, dự định tu), luận mới nêu lên ý nghĩa “biệt thời ý”, và vì thế, trong kinh mới cho rằng những người này sẽ được vãng sanh Tây

Phương. Bởi có những người ngu độn cho rằng chỉ cần phát nguyện mà không cần phải tu tập nhân duyên Tịnh độ, cho nên luận sư giải thích cho rằng đó là biệt thời ý “không phải chỉ do phát nguyện mà được vãng sanh Tịnh độ trong hiện đời.” Người đời sau đọc luận, không hiểu ý thú, bèn cho rằng niệm Phật cũng không được vãng sanh. Đây là điều vô cùng sai lầm.

(d) Có một loại chúng sanh, thiện căn sâu dầy, phiền não mỏng ít, may gặp thắng duyên, nghe được giáo pháp Tịnh độ, sanh lòng tin thanh tịnh sâu xa, phát nguyện tu hành, lâm chung như trong kinh đã nói tường tận. Đây là hạnh nguyện đầy đủ, liền được vãng sanh, khác với hạng người chỉ phát nguyện, cho nên đây không phải là giáo pháp “biệt thời.” Đức Phật đối với hai hạng người chưa được vãng sanh ở trên, nói rằng phát nguyện sẽ được vãng sanh. Luận sư e bọn họ hiểu lầm rằng chỉ cần phát nguyện cũng sẽ được vãng sanh giống như người hạnh nguyện đầy đủ, cho nên mới nói rằng những người chỉ phát nguyện sẽ không được vãng sanh hiện đời, đây là “biệt thời ý.” Các ngài ví dụ sự phát nguyện như một đồng tiền vốn, sự niệm Phật tu hành như chín trăm chín mươi chín đồng tiền trung gian, và sự vãng sanh Tịnh độ như đồng tiền thứ một ngàn. Vì thế trong Luận Nhiếp Đại Thừa mới có ví dụ dùng một đồng tiền làm vốn sanh ra một ngàn đồng tiền. Lại như, niệm Phật Đa Bảo không thể lập tức chứng được giai vị Bất thoái. Vị Bất thoái tức là bậc Bồ tát Sơ trụ. Hành giả lúc niệm Phật Đa Bảo, hoặc là đang ở giai vị dưới Thập tín, hoặc là đang ở giai vị Sơ tín, v.v…, không thể niệm Phật Đa Bảo liền có thể vượt qua mười ngàn đại kiếp từ Sơ tín lên đến Sơ trụ, mà trong giai đoạn trung gian phải tu tám vạn bốn ngàn môn Ba la mật thì mới lên đến Sơ trụ. Vả lại, niệm Phật Đa Bảo và giai vị Bất thoái là nhân duyên xa cho nên gọi là biệt thời ý.

Trang: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13