THÍCH CA VĂN PHẬT KIM CƯƠNG NHẤT THỪA
TU HÀNH NGHI QUỸ PHÁP
KINH SỐ 938
Hán dịch: Không rõ tên người dịch (?THIỆN VÔ ÚY)
Việt dịch: HUYỀN THANH
Quy mệnh Đại Trí Hải Tỳ Lô Giá Na Như Lai, Bí Mật Chủ Kim Cương Thủ Đại Bồ Tát
Con là THIỆN VÔ ÚY nương theo Thánh Chỉ của Đức Phật khảo xét riêng bản Phạn mà tu được Nghi Tắc Bí Mật của 3 Mật Môn. Sở dĩ nay nói về Hạnh Tu Du Già của Đức Thích Ca Thế Tôn là muốn cho người tu Pháp này
Trước tiên phát Tâm Chính Chân Vô Thượng, thân mặc áo Thánh Nhẫn Nhục, miệng đọc tụng (A DHARMA_Pháp của chữ A là không sinh chẳng diệt) Như vậy tương ứng 3 mật mà chẳng trái ngược. Sau đó đi đến nơi cư ngụ của vị Du Già A xà Lê nhận Nghi Bí Mật, trì niệm tu hành mau được thành tựu.
Đức Tỳ Lô Giá Na nói: “Vị A Xà Lê ấy nếu thấy chúng sinh rất vì Pháp Khí, lìa hẳn các Cấu, có Tín Giải lớn, siêng năng dũng mãnh tin sâu, thường nhớ Lợi Tha. Nếu Đệ Tử có đủ tướng mạo như vậy thì vị A Xà Lê nên tự đến ân cần khai phát.
Lại có hai loại Đệ Tử:
Một là loại đã phát Tâm Bồ Đề. Vị Thầy đến nơi cư ngụ của Đệ Tử mà ân cần dạy cho tinh tiến
Hai là loại chưa phát Tâm Bồ Đề. Đệ Tử đi đến nơi cư ngụ của Thầy mà ân cần cầu thỉnh.
Trong đó, có Trí rất là thù thắng. Biết như vậy xong liền có thể truyền dạy”
_Kim Cương Thủ (Vajra-pāṇi) bạch với Tỳ Lô Giá Na Phật (Vairocanabuddha) rằng: “Con thấy Sắc Thân của Phật đội mão báu lớn, trong mão hiện 5 vị Phật tiêu biểu, chẳng phải Nhân chẳng phải Quả, ở trên vành trăng trụ ở cõi Thường Tịch Quang nơi hư không, luôn nói Giáo Kim Cương Bí Mật mà hàng Thanh Văn, Duyên Giác chẳng thể hay biết.
Hoặc ở trên đài hoa sen hiện Báo Thân Phật, nói Kim Cương Nhất Thừa Pháp Giới, Duy Tâm Vô Thượng Bí Pháp.
Chúng con y theo Đức Nội Chứng thường thấy thường nghe, chỉ có các kẻ mới phát ý, mê hoặc thì chẳng thể hiểu được. Nguyện xin Đức Thế Tôn tùy theo ý của chúng sinh mà làm lợi ích. Xin Phật hãy hứa cho. Con muốn tuyên nói Pháp Như Lai Ứng Hiện Thích Ca Mâu Nẵng Duệ làm cho kẻ ngu được Phật Tuệ. Nguyện xin Đức Như Lai tùy cơ nói Pháp, mở (Khai) phương tiện Tuệ khiến cho các chúng sinh bày (Thị) tướng chân thật, gặp (Ngộ) Kim Cương Thừa (Vajra-yāna), vào (Nhập) Môn chữ A”
Nói lời ấy xong. Tỳ Lô Giá Na Phật bảo rằng: “Lành thay! Phổ Hiền hay biết Tâm của Ta, khiến Ta sinh vui. Vào thời xa xưa, Ta tu 3 Mật Môn, chứng Chấp Kim Cương liền ngồi Tòa Kim Cương Diệu Bồ Đề, giáng phục Chúng Ma, thành Đẳng Chính Giác. Từ đó trở đi, trải qua nhiều đời, các chúng sinh do Túc Phước (Phước đời trước) tuy hội họp trước mặt Ta mà tùy Cơ được thấy, nhậm căn được nghe… như ông thấy Ta ở đỉnh Sắc Giới Tĩnh Lự thứ tư (Đệ Tứ Thiền) thành Đẳng Chính Giác, liền xuống đỉnh Tu Di Lô (Sumeru: Núi Tu Di) ở Đàn Kim Cương Nhân Đà La. Tất cả Như Lai thỉnh Ta chuyển 4 loại Luân của Pháp, trong mỗi một Luân đều có 37 Thánh Giả trụ Tam Muội Từ Bi, giáng chúng Thiên Ma, khiến vào Chính Kiến. Nay chính là lúc, liền muốn diễn nói Đại Thừa Vô Thượng Bí Pháp. Sức Thần Thông Bí Mật của Như Lai, đừng hy vọng truyền cho người không có Trí. Nay Ta nghe hứa, thích hợp mau nói Pháp Ứng Hình Tùy Loại của Ta. Ông y theo Pháp Nghi Chân Thật nên nói Ứng Bí”
Nói lời ấy xong, lặng lẽ ngồi yên. Lúc ấy Kim Cương Thủ, tâm rất vui mừng liền hiện trước Chúng rồi nói Pháp này: “Nếu muốn báo ân đức của Đức Thế Tôn Vô Thượng. Trước tiên nên làm Mạn Trà La (Maṇḍala: Đàn). Chính giữa Đàn vẽ tượng Thích Ca Mâu Nẵng (śākya-muṇi) thân màu vàng ròng có đủ 32 tướng, mặc áo Cà Sa với tướng Ứng Thân nói Pháp. Tay phải kết Ấn Cát Tường, tay trái hướng lên trên để trước rốn, ngồi Kiết Già trên đài hoa sen trắng. Phổ Hiền (Samanta-bhadra), Văn Thù (Maṃjuśrī), Quán Âm (Avalokiteśvara), Di Lặc (Maitreya) trụ ở 4 góc như Thai Tạng nói. Ở trước mặt Phật có Như Lai Bát (Tathāgata-patra: Bình Bát của Như Lai) , ở bên phải Phật có Hiền Bình chứa đầy hoa, ở phía sau Phật có cây Tích Trượng, ở bên trái Phật có cái Loa báu đều để trên cánh hoa, chung quanh tỏa lửa sáng.
Vẽ Mạn Trà La xong, ở trên núi Không Nhàn Tịch Mịch. Người được Đạo Sở (nơi dùng để tu Đạo) hoặc Tĩnh Thất, hoặc trước Tháp Xá Lợi, hoặc ở dưới cái cây ở đỉnh núi. Tùy một nơi mà an đặt Mạn Trà La.
Tiếp bày biện vật cúng trang nghiêm Đàn Trường là: Hương xoa bôi (dầu thơm), hoa mùa, hương đốt, thức ăn uống, đèn sáng cùng với nước thơm Át Già dùng làm 6 loại.Hoặc có Trí Tuệ thì dùng Lý để cúng.Ngày đêm 3 Thời tắm gội thân thể.
Hoặc quán Lý dùng Minh chân thật làm nước rưới đỉnh đầu
Mỗi khi đến Đạo Trường thì làm lễ. Lễ có 3 loại: một là Âm Lễ, hai là Tâm Lễ, ba là Thân Lễ. Đây tức là 3 Nghiệp lễ bái.
Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm mà xưng chữ Nam mô (NAMO) thì là Âm Lễ (lễ bằng âm thanh)
Lại ở mọi Thời tuy chẳng phát ra âm, chỉ quy vào trong Tâm, quán Đức của Đấng Thế Tôn, tùy vui quy mệnh thì là Tâm Lễ (lễ bằng Tâm Ý)
Lại cúi 5 Luân sát đất (cái đầu, 2 tay, 2 đầu gối. Thần Tâm hồi chuyển gọi là Luân) Hoặc chắp tay cúi đầu thì là Thân Lễ. Người lễ, cốt yếu chẳng nên để thân hợp với mặt đất mà chỉ Quy Kính làm lễ. Bởi vì cúi lạy sao cho cái đầu của Ta tiếp chạm dưới chân của Đức Thế Tôn, nên gọi là Khể Thủ (cúi đầu lạy)
Tiếp Sám hối tội chướng, có 2 Sám Lý, Sự
Tiếp tùy hỷ với Đức của Thánh Phàm Tiếp Thỉnh Phật trụ ở đời Tiếp Hồi hướng, phát nguyện.
Sau đó rộng bày cúng dường rồi tác niệm tụng chuyển Kinh Đại Thừa, tùy ý mà làm
Nếu trụ Pháp này thì sở tu đều thành, chẳng chuyển thân này thấy Sắc Thân của Phật, đời đời kiếp kiếp lìa các nẻo ác, thường được hưng Pháp lợi sinh, mau chứng Vô Thượng Chính Đẳng Bồ Đề, tùy Căn được thành.
Nếu cầu Tiên Quả thì Đức Phật hiện Cù Đàm Tiên nói Pháp
Nếu cầu Đại Thừa thì Phổ Hiền hiện thân nói Pháp, dần dần dạy bảo khiến vào Phật Đạo.
Tiếp nói Thủ Ấn:
_ Như Lai Bát Ấn: Trước tiên, ngửa lòng bàn tay phải để ngang trái tim. Tiếp đem lòng bàn tay trái úp trên lòng bàn tay phải sao cho đầu ngón út trái đè đầu ngón cái phải và đầu ngón cái trái đè đầu ngón út phải.
Ấn Chú là:
Ná mạc tam mạn đa bột đà nam. Án, lộ ca bá la, địa sắt xỉ đa, đà la dã, đà la dã, ma ha na bà, phộc, bột đà bá đát-la, sa ha
Pháp Ấn Chú này có đủ đại tinh tiến, thường đem Thần Lực của tất cả Như Lai mà gia hộ cho. Thường kết Ấn này và tụng Chú này một biến, cứ một lần xưng thì nhớ đến Hữu Tình ở Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh. Mãn 108 biến ắt được thức ăn ban cho tất cả Quỷ đói ở Địa Ngục được no đủ.
Nếu đi qua chốn hoang vắng, cũng kết Ấn này và tụng Chú này thì tất cả Quỷ Thần Khoáng Dã chẳng dám quấy rối.
Nếu muốn Phi Bát (làm cho bình bát bay) cũng dùng Ấn Chú này
_ Tiếp Như Lai Cam Lộ Ấn. Tay phải: đem ngón cái đè móng ngón trỏ, ngón giữa và đặt ngang ngón vô danh, ngón út. Chú là:
(Quy Mệnh như thường)_Án, ấn nghê nãnh, bộ đa nãnh, sa ha
Ấn Chú này hay khiến cho người Trì chứng được Cam Lộ Pháp Giải Thoát Môn
_ Tiếp Như Lai Tích Trượng Ấn: Trước tiên co ngang ngón cái phải vào lòng bàn tay. Dùng ngón trỏ, ngón giữa, ngón vô danh, ngón út nắm lại thành Quyền, co khuỷu tay đưa chưởng về phía trước duỗi thẳng. Tay trái nắm góc áo Cà Sa, co đầu 4 thốn, cũng co khuỷu tay đưa về phía trước duỗi ngang bằng. Chú là:
(Quy Mệnh như thường)_Án, độ na tư đà la noa, hồng
Pháp Chú này thành tựu căn lành, viên mãn Từ Nguyện. Nếu gặp tất cả Hữu
Tình ác, liền kết Ấn này để Ủng Hộ Thân
_ Tiếp Như Lai Pháp Loa Chân Ngôn Ấn: Định Tuệ (2 tay) chắp lại giữa trống rỗng (Hư Tâm Hợp Chưởng) co Phong (ngón trỏ) Không (ngón cái) giao nhau.
Chú là:
(Quy Mệnh như thường)_Ám
(Thổi gần sát miệng như dạng thổi loa. Xoay chuyển hai bên trái phải)
Pháp Ấn Chú này kinh động 10 phương, thành tựu Pháp Âm
_ Tiếp Căn Bản Tỳ Lô Giá Na Hóa Thân Ấn: Tay Định (tay trái) Thủy (ngón vô danh) Không (ngón cái) vịn nhau. Tay Tuệ (tay phải) cũng vậy Thủy (ngón vô danh) Không (ngón cái) cùng dính nhau. Duỗi thẳng 3 ngón Địa (ngón út) Hỏa (ngón giữa) Phong (ngón trỏ). Thích Ca Văn Phật Chân Ngôn là:
Nẵng mạc sam mãn đa một đà nẫm. Bà, tát phộc cật-lý xả, niết tố ná nẵng, tát phộc đạt ma, phộc thủy đa, bát-la bát đá, nga nga nẵng, tam ma tam ma, sa ha
Dùng Chân Ngôn này chuyên chú niệm tụng. Tán Ứng Thân là:
1 _ Phộc mỗi ca chỉ la sa đá tích nẵng nãnh tố đa nẵng, sa-đát-noan
2_ Bạt lệ ca hạ sa-đa , tỵ-lý câu-đê mạo khư kế ca la khất-sám
3 _ Nhạ tất-đế-lị-dã , địa vĩ kế nhĩ ná phộc lị bát la để tăng sa-đổ đa, sa đátnoan
4_ A lị trích nẵng ma nễ-dã, a giả la, chế tra nam, nhĩ địa diễm
Nghi thức Cúng Dường, Cần Thỉnh, Phụng Tống đều y theo Như Lai Bộ mà tu như nhóm Tô Tất Địa nói: Dùng Phật Nhãn Tôn làm Bộ Mẫu, dùng Nan Thắng Phẫn Nộ làm Kết Hộ Minh Vương (cũng có tên là Ajita: Vô Năng Thắng). Như vậy siêng tu. Sau đó ra khỏi Đạo Trường, chuyển đọc Đại Thừa, Tâm thường cột vào một cảnh thật (Thật Cảnh) không có gián đoạn thì Pháp đó dễ thành
Đã nói xong Pháp Thích Ca Mâu Nẵng Duệ Vi Diệu Kim Cương Thừa
THÍCH CA VĂN PHẬT KIM CƯƠNG NHẤT THỪA TU HÀNH NGHI PHÁP
_Hết_
26/10/2004