TÁC PHONG NGƯỜI HỌC PHẬT

Thích Thiện Phước dịch

 

LỜI TỰA

Thuở xưa, Đại sư Liên Trì tập họp các yếu nghĩa trong Luật tạng, sáng tác ra 24 Chương Oai Nghi, để tiện bề cho người học ghi nhớ, ngắn gọn dễ hành trì, thực tập lâu dần thành bản tánh, do vậy mà không phạm phải oai nghi giới luật, chẳng giống như đại chúng ngày nay, huân tập nhiều điều không hay lắm, có những điều sách nầy không thể nêu ra hết.

Nhân gần đây, có một số cư sĩ tinh tấn, tuy phát tâm dõng mãnh, nhưng tác phong thì phần nhiều lại không hợp với Phật pháp. Sự nghiệp của người học Phật là để giải thoát, có tâm cung kính thì thành tựu được nhân cách đạo đức. Nếu hành nghi chưa am tường, mà có thể tự tu tự đắc, thâm nhập Phật đạo, thì thật hiếm  thấy.

Thế nên, chẳng ngại sự hiểu biết còn giới hạn của mình, chúng tôi mạo muội lựa ra những điều quan trọng từ trong bộ “Nhựt Dụng Thiết Yếu” mà thuật lại thành 24 chương, đặt tên làHọc Phật Hành Nghi (Tác Phong Của Người Học Phật). Phàm làm Tỳ kheo, Sa di, Cư sĩ, Ni giới, v.v… đều có thể học tập và hành theo.

Trong văn đây có chỗ chung và riêng có thể học, vì sợ văn từ rườm rà nên không tách ra và phân loại. Tuy nhiên đầu câu của mỗi chương đều có nêu rõ. Hy vọng quí vị cùng chí hướng, mỗi người tự xem xét phân biệt, học tập và thực hành theo.

 

CHƯƠNG I: KÍNH PHẬT

Phàm là Sa môn, Cư sĩ, Ni giới,… từ đây về sau cũng nêu ra như thế, khi thấy hình tượng Phật, không luận là tượng đúc, hoặc tượng vẽ, đều phải sửa sang y phục lễ bái, ít nhất là cúi đầu hoặc chắp tay. Nếu như ở trong Chánh điện, nhà để kinh, mà thấy Phật tượng, thì phải nên lễ bái.

Lúc lễ lạy niệm thầm bài kệ rằng:

Phiên âm:

Thiên thượng thiên hạ vô như Phật
Thập phương thế giới diệc vô tỷ
Thế gian sở hữu ngã tận kiến
Nhất thiết vô hữu như Phật giả.
Án phạ nhựt ra hộc (3lần)

Tạm dịch:

Trên trời dưới trời Phật tối thắng
Mười phương thế giới cũng không sánh
Tất cả những điều con thấy biết
Hết thảy không ai bằng Đức Phật.
Án phạ nhựt ra hộc (3lần)

Bài kệ thì niệm một lần còn chú thì niệm ba lần, các bài kệ sau cũng như thế.

Khi vào chánh điện Phật, nhà để kinh, chẳng nên xách mang những đồ dùng chi khác, ngoại trừ Kinh điển, tượng Phật, hay phẩm vật dâng cúng Phật.

Đã vào trong chánh điện rồi thì chẳng nên tò mò dòm ngó bên này bên kia, đợi sau khi lễ bái xong thì mới yên lặng chiêm ngưỡng đức tướng của Phật.

Niệm thầm bài kệ rằng:

Kệ nhìn thấy Phật:

Phiên âm:

Nhược đắc kiến Phật
Đương nguyện chúng sanh
Đắc vô ngại nhãn
Kiến nhất thiết Phật.
Án a mật lật đế hồng phấn tra (3lần)

Tạm dịch:

Khi nhìn thấy Phật
Nguyện cho chúng sanh
Được mắt vô ngại
Thấy tất cả Phật.
Án a mật lật đế hồng phấn tra (3lần)
Lại niệm kệ khen ngợi rằng:

Kệ khen ngợi Phật:

Phiên âm:

Pháp vương vô thượng tôn
Tam giới vô luân thất
Thiên nhân chi đạo sư
Tứ sanh chi từ phụ
Ngã kim tạm quy y
Năng diệt tam kỳ nghiệp
Xưng dương nhược tán thán
Ức kiếp mạc năng tận.

Tạm dịch:

Đấng pháp vương vô thượng
Ba cõi chẳng ai bằng
Thầy dạy khắp trời người
Cha lành chung bốn loại
Quy y tròn một niệm
Xưng dương và tán thán
Dứt sạch nghiệp ba kỳ
Ức kiếp không cùng tận.

Phàm đi kinh hành ở trong chánh điện thì nên đi vòng theo bên phải, chẳng nên đi vòng theo phía bên trái, đi nhiễu bên trái hay bên phải là lấy theo hướng tượng Phật mà tính, 3 vòng hoặc 7 vòng, đều nên nhìn ngay đi thẳng nhất tâm niệm Phật.

Chẳng được luận bàn chuyện thế gian, mà phải nên nói về Phật pháp, lại chẳng nên lớn tiếng. Chẳng nên cười, chẳng nên ngồi, chẳng nên khạc nhổ, chẳng nên dựa vách, tựa bàn. Nếu ho, ợ ngáp, phải nên lấy tay áo che miệng. Phàm lễ bái phải nên thong thả, năm vóc gieo sát đất, tinh cần quán tưởng, chẳng được cúi xuống đứng dậy mau.

Trong kinh có nêu ra 7 cách lạy, người học Phật cần phải biết.

1. Ngã mạn lễ: Tuy noi theo thứ lớp, nhưng chẳng có tâm cung kính, tâm chạy theo ngoại cảnh, năm vóc mọp chẳng sát đất, lạy giống như chày giã gạo.

2. Xướng họa lễ: Tâm không quán tưởng thanh tịnh, thấy người đến thì thân mau lễ lạy, người ta đi rồi thì thân lười tâm mỏi, ấy là tâm tán loạn mà chỉ có miệng xướng họa.

3. Thân tâm cung kính lễ: Nghe xướng danh hiệu Phật, liền nhớ tưởng niệm Phật, thân tâm cung kính, tinh cần không lười biếng mỏi mệt.

4. Phát trí thanh tịnh lễ: Đạt được cảnh giới Phật, tùy tâm hiện lượng. Lễ một vị Phật, tức lễ tất cả chư Phật. Lễ một lạy, tức là lễ cả pháp giới, vì pháp thân chư Phật dung thông.

5. Biến nhập pháp giới lễ: Tự quán thân tâm và tất cả các pháp, từ xưa đến nay chẳng rời pháp giới, Phật và ta bình đẳng. Nay lễ 1 vị Phật, tức là cùng một lúc lễ hết thảy 10 phương pháp giới chư Phật.

6. Chánh quán lễ: Lễ đức Phật nơi tự thân, chẳng duyên tưởng theo đức Phật ở bên ngoài, vì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh bình đẳng.

7. Thật tướng bình đẳng lễ: Sáu cách lạy trên là có lễ có quán, tự tha hai thứ khác nhau. Duy chỉ có phép lạy này, không có phân biệt tự tha, phàm thánh nhất như, thể dụng chẳng hai. Cho nên Bồ Tát Văn Thù nói kệ:

Năng lễ sở lễ tánh không tịch… Người lễ Phật và Đức Phật mà mình đang lễ thể tánh vốn rỗng rang vắng lặng…

Trong bảy cách lạy nầy: Ba cách trước là thuộc về sự lễ, bốn cách sau là thuộc về lý lễ.

Người học Phật nên y theo 5 phép lạy sau, chẳng nên theo 2 cách lạy trước.

Khi lạy Phật, lạy tháp, lạy kinh, lạy đại Sa môn, đều nên noi  theo phép trên, chẳng cần nói lại nữa.

Nếu như đi đến đâu, thấy có tượng Phật, kinh Phật, hoặc chữ Phật ở nơi bất tịnh, phải mau dùng hai tay nâng lên  rồi an trí ở nơi chỗ sạch sẽ. Nếu có thấy ai đối với Phật, kinh, tượng chẳng có lòng cung kính, thì mỗi khi có dịp ngồi chung gặp nên đem lời chơn chánh mà khuyên bảo.

Phàm tượng Phật, chẳng nên an trí trong phòng ngủ, nếu phải đặt ở trong phòng ngủ thì nên thường  xuyên niệm Phật. Lại chẳng được để các đồ chứa phân nước tiểu trong phòng ngủ, phải biết Phật tượng hiện tiền như Phật tại thế, cần phải nên kính trọng.

Thường thấy người đời, với nghĩa lý của kinh Phật, thì cực kỳ hâm mộ khen ngợi sâu xa, mà đối với Kinh, tượng thì đa phần lại coi thường, bởi cho rằng Phật pháp chẳng phải ở nơi kinh tượng, chẳng biết rằng cung kính Phật, kinh, tượng, là vì thành tựu phẩm hạnh của tự mình vậy.

Nếu đối với kinh tượng mà chẳng cung kính, thì lý mầu của Phật Pháp do đâu mà ra!? Cho nên, bất luận là hạng người nào, cũng đều nên cung kính Kinh điển và tượng Phật. Sa môn mà không kính kinh điển tượng Phật, đến chương sau phần “Cư Am”  sẽ đề cập lại

 

CHƯƠNG II: KÍNH  PHÁP

Phàm là Sa môn, Cư sĩ, khi đọc kinh luật của Phật nên đốt hương ngồi ngay thẳng, thấy kinh như thấy Phật.

Chẳng được nương dựa bàn ghế vách tường, chẳng được dùng tay dơ mà cầm nắm kinh tượng. Muốn đọc kinh, trước hết nên ngồi tĩnh tọa một chút, niệm thầm bài kệ rằng:

Kệ đọc kinh:

Phiên âm:

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.

Tạm dịch:

Phật pháp cao siêu rất thẳm sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy chuyên trì niệm
Nguyện tỏ Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
Niệm xong rồi, chắp tay xá rồi mới mở kinh ra.

Đọc kinh, phải hiểu ý nghĩa trong từng chữ, để cho tương ưng cùng với tâm, chẳng được đọc sơ lược qua loa.

Phàm đọc kinh, nên đắp y hoặc mặc áo tràng. Trên bàn trừ  kinh điển hương đèn ra, chẳng được để thêm các thứ tạp vật như trà quả…, còn bút viết nghiên mực, nên an trí nơi chỗ khác. Trên kinh có bụi, nên dùng giấy sạch lau, chẳng được dùng miệng thổi. Đọc xong hoặc nghỉ ngơi, cần phải đem kinh để trên kệ và gấp  lại cho ngay ngắn. Đọc đến chỗ nào nên dùng chỉ hoặc miếng giấy để ngăn làm dấu, trên đầu để lộ ra một chút, chẳng được bẻ gấp góc trang kinh làm dấu, chẳng được làm hư nát. Đọc kinh đến nửa chừng nếu tâm sanh tạp niệm, thì nên gấp kinh lại, đến khi tạp niệm tan rồi mới lại mở ra đọc tiếp.

Nếu có khách, thượng tòa, đồng học đến, đều nên gấp kinh sách lại rồi mới nên tiếp chuyện. Có kinh Phật ở trên bàn, chẳng nên đàm luận chuyện thế gian, chẳng được cười nói lớn tiếng, chẳng được khạc nhổ. Nếu phát cơn ho sặt thì phải dùng tay áo che miệng. Nếu đọc kinh có được chút tâm ý lãnh hội, thì khi đọc xong, lấy giấy bút ghi chú riêng bên ngoài, không được ghi chú ngay trên đầu  quyển kinh. Nếu sao chép kinh luật, thì phải viết chữ chơn phương ngay ngắn, bút tích rõ ràng, chẳng được tùy ý viết thảo, lại chẳng được trước sau thêm vào nhiều lời hư dối.

Phàm các kinh sách, phải nên như pháp cung kính. Kinh Phạm Võng nói: “Nếu là Phật tử – phải thường nhất tâm thọ trì đọc tụng kinh luật đại thừa, dùng giấy, vải, hàng lụa, thẻ tre, vỏ cây, cho đến lột da làm giấy, chích máu làm mực, lấy tủy làm nước, chẻ xương làm viết, để biên chép kinh luật – thường  dùng 7 báu vô giá hương hoa và tất cả châu báu làm hộp rương, đựng những quyển kinh luật. Nếu không y theo pháp mà cúng dường kinh luật, Phật tử nầy phạm khinh cấu tội. Nếu kinh sách hư rách, nên mau tu sửa lại, phải luôn giữ gìn như mới”.

Phàm khi cầm kinh tượng phải nên dùng hai tay bưng lên ngang ngực, chẳng được một tay xách mang đi. Tay mình cầm kinh tượng không được hướng người khác lễ lạy, chẳng được một tay xá chào, cho đến cúi mình chắp tay, nên dùng hai tay nâng kinh tượng lên ngang với mi mắt thì đủ lễ vậy.

Phàm kính pháp, không chỉ riêng kính trọng kinh điển, mà phải đối với y bát, tích trượng, v.v… cũng lại như vậy. Còn nhiều thứ vô hình vô tướng đặc biệt khác, không thể nêu hết.

Thường thấy kinh sám lưu thông ngày nay có phần thuộc về ngụy soạn, tuy có một hai phần là chánh kinh, nhưng chỉ là những phần vụn vặt hơi hỗn tạp.

Lại nữa, những người mới học gần đây thấy kinh nghĩa sâu xa, cũng muốn lấy mà xem coi. Nhưng lúc xem coi, nằm ngửa, tựa lưng, ngồi nghiêng, uốn mình cong như ống đồng,… những tư thế nầy người học Phật không nên làm. Hy vọng các vị có cùng chí hướng nên nỗ lực hết lòng khuyên bảo nhau để mong tránh khỏi ác báo.

 

CHƯƠNG III: KÍNH TĂNG

Phàm là Sa môn, Cư sĩ, khi thấy các bậc Trưởng lão, Pháp sư, Đại đức, đều nên giữ thân mình ngay ngắn, đứng cho trang nghiêm chào hỏi, chẳng được ngồi yên không đứng dậy tiếp đón chào hỏi. Trừ khi tụng kinh, khi bệnh, khi cắt tóc, khi đang bận rộn với công việc, và những trường hợp không thể đứng dậy được.

Hàng hậu học chẳng được nói lỗi của chư Trưởng lão, Pháp sư, Đại đức. Chẳng được nói trổng danh xưng của các bậc lớn, nên xưng Trưởng lão…, Pháp sư…, Đại sư gì đó. Còn khi đối diện chuyện trò thì chẳng được nêu ra danh tự, chỉ nên xưng riêng hai chữ Trưởng lão, Pháp sư, Hòa thượng, đó là cách xưng hô thông thường nhất của người học.

Phàm thư từ qua lại cũng phải như vậy, chẳng nên xưng là kẻ hậu sanh, tôi, ta, kẻ ngu này v.v…

Còn khi thấy các vị tăng lữ bình thường thì nên xưng Thầy (cô)… gì đó, chẳng được gọi thẳng tên vị ấy, chẳng được nói Pháp danh. Còn khi hỏi Pháp danh là dành cho hàng Thượng tọa hỏi đàn hậu học vậy.

Phàm là Sa di, Cư sĩ, trong văn xưng là Tỳ kheo, Sa di, Cư sĩ. Tức gồm có Tỳ kheo ni, Sa di ni, nữ cư sĩ, ý là ở trong đó, nếu nói tỉnh lược văn từ, thì nói như phần liệt kê phía sau. Chẳng được lén nghe đại Sa môn thuyết giới, trong văn đơn xưng là đại Sa môn xứ, tức là bao hàm cả Trưởng lão, Pháp sư ở trong đó. Ví như cũng chẳng được lén nghe Tỳ kheo tụng Giới Kinh.

Phàm vào Tăng phòng, không luận là phòng nào, không được khinh suất tự ý xông vào, nên trước khảy tay, gõ cửa 3 tiếng, bên trong bằng lòng mới được vào, không có tiếng đáp thì nên đi. Vào trong rồi, trước nên hướng đến Phật tượng làm lễ, kế đến hướng về chư Đại đức đang xem kinh, đối trước bàn xá chào thưa hỏi, sau mới hướng về các vị Đại đức chắp tay xá chào thưa hỏi.

Phàm khi thấy chư Đại đức, Trưởng lão, Pháp sư cũng như thấy Phật, quy tắc lễ nghi như phần trước có nói. Còn khi thấy chư Tăng bình thường lại cũng phải xem như thấy Bồ tát vậy, chẳng được khinh khi. Dù chẳng phải bậc Tăng tốt cũng nên cung kính, phải lấy theo hình tướng của Sa môn để tôn trọng vậy. Huống chi có những biểu hiện mà với con mắt thịt của chúng ta không thể thấy hết được. Vì vậy mà Bồ tát Thường Bất Khinh khi thấy bất cứ người nào đều nói rằng: “Các Ngài đều sẽ làm Phật, tôi chẳng dám khinh các Ngài”.

Như vậy có thể biết. hàng Cư sĩ mỗi khi thấy Sa di, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni đi qua thì nên đứng dậy, còn khi thấy những vị đồng bậc với nhau thì chỉ cần ngồi ngay là được rồi.

Phàm muốn lễ bái chư Đại đức thì khi những vị ấy đang an tọa hoặc đang đứng thì có thể lễ bái, còn những khi chư Đại đức đang ngồi thiền, kinh hành, dùng cơm, cạo tóc, tắm rửa, ngủ  nghỉ, v.v… thì chẳng nên lễ bái. Nếu phòng đóng cửa thì không nên ở ngoài cửa làm lễ, muốn vào cửa làm lễ nên gõ cửa, khảy tay 3 lần, Thầy không trả lời thì nên đi.

Phàm thưa hỏi Phật pháp thì phải nên chỉnh sửa y phục lễ bái, tối thiểu phải đứng ngay ngắn cúi đầu chắp tay thưa hỏi, nếu Thầy mời ngồi thì ngồi, cần phải lắng lòng nghe kỹ, tư duy tiếp nhận. Khi chư Đại đức nói chưa xong chẳng được hớt lời chen vào câu thưa hỏi. Phàm Tăng – Ni có lỗi lầm gì, thì do đại Sa môn đến thời Tự tứ sẽ đề cập tới, hàng Cư sĩ chẳng được nói lỗi lầm của các vị Sa môn, đối với hàng hậu học cũng lại như vậy.

Phàm ở giữa đường gặp các vị Đại đức, nên mau đứng nhường sang một bên chờ chư Đại đức đi qua rồi mới đi, chẳng được đi song song lấn đường, những lúc cùng đi chung, phải nên nhường chư Đại đức đi trước, nên thay chư Đại đức mang hành lý.

Lúc ngồi phải nên nhường chư Đại đức ngồi trên trước, ngồi trên giường… cũng lại như vậy.

Khi thấy chư Đại đức chẳng được hai tay chống nạnh, chẳng được run cánh tay cùng uốn éo toàn thân, chẳng được ngồi chồm hổm, chẳng được vừa đi vừa nhảy, chẳng được đi mau, trừ khi có việc gấp. Chẳng được rút cổ co đầu, trừ khi có bệnh. Chẳng được liếc nhìn hai bên phải trái, chẳng được đứng chỗ cao, chẳng được cười giỡn. Những việc còn lại đều có nói rõ ở trong luật, do vì văn nhiều không chép.

 

CHƯƠNG IV: Ở AM THẤT

Phàm là Sa môn khi ra cất Am thất để tu hành, trong ngoài chung quanh Am đều nên quét dọn sạch sẽ, chẳng được để bề bộn các thứ tạp vật. Sớm tối chuông trống cần phải đều đặn rõ ràng, chẳng được lơ đễnh trễ nãi. Mặt tiền Am cần phát quang mở lối cho thông thoáng, chẳng được để hoang vu. Hai thời cơm cháo cần phải thanh khiết, không nhất thiết phải phong phú nhiều món cao sang. Trong Phật điện, nhà để kinh, phải luôn luôn lau chùi quét dọn sạch sẽ, trừ những thứ pháp khí, hương đèn ra chẳng nên để các thứ tạp vật. Hoa quả, nước sạch, cơm cúng Phật,… chẳng được dùng mũi ngửi trước. Không được trái thời đánh chuông, gõ mõ, đánh kiền chùy,… Khám thờ Phật, đèn cúng Phật nên lấy giấy kiếng, lồng chụp, óng khói,… che đậy để tránh bụi bặm và các loài côn trùng bay vào.

Thường xuyên lau chùi khiến tâm mắt sáng sạch. Kim thân Phật tượng phải luôn giữ gìn như mới, chẳng để bụi trần làm dơ bẩn khó coi.

Thường thấy các am nhỏ của Tăng lữ gần nhà dân, không những tự thân đã không trang nghiêm mà đối với Phật tượng cũng để cho loang lỗ khó coi.

Trong Phật điện để bụi bặm bám đầy. Treo tượng thì tùy tiện theo thế tục, để lẫn lộn ở chỗ không thể thấy nghe. Việc làm nầy một khi  mất thân người thì muôn kiếp khó gặp lại. Hy vọng các bậc minh triết nên cùng nhau cố gắng.

Sớm tối siêng năng tụng niệm chẳng được gián đoạn. Hương đèn cúng Phật cần nên thường thay tươi mới, chớ để bàn thờ trống không. Tiếp đãi khách khứa cần nên giữ lễ, chẳng được kiêu ngạo nịnh bợ. Dạy đệ tử cũng phải có giờ giấc, chẳng được nóng giận mắng chửi người.

Chẳng được nuôi dưỡng gà vịt heo mèo, chẳng được cất giữ dao súng, đạn pháo, cần câu, lưới cá,… tất cả những thứ này đều là thứ sát hại sanh vật, làm tổn lòng từ. Phàm mướn công thợ làm việc chùa nên trước phải phân định ngày giờ và giá cả, nói rõ nơi đây ăn chay, giữ giới sát sanh, thường xuyên niệm Phật, không uống rượu, không ăn các thứ nồng cay, cho đến chẳng được ca hát cười giỡn,… công thợ nên trả bằng tiền, để thay thế cho các phẩm vật cần thiết khác.

Bên ngoài Am chẳng được trồng đào lý các thứ cây ăn trái, để tránh miệng người đàm tiếu.

Chẳng được ăn và trồng ngũ vị tân, – hành, hẹ, tỏi, nén và hưng cừ – chẳng được nuôi thân bằng những nghề không chân chánh.

Kinh Phạm Võng nói: Nếu Phật tử, đem ác tâm vì lợi dưỡng buôn bán nam sắc nữ sắc, tự tay làm đồ ăn, tự xay, tự giã, xem tướng, bàn mộng, đoán sẽ sanh trai, sanh gái, bùa chú pháp thuật, nghề nghiệp, phương pháp nuôi ó và chó săn, hòa hiệp trăm thứ thuốc độc, nghìn thứ  thuốc độc, độc rắn, độc sanh kim, sanh ngân, độc sâu cổ, đều không có lòng từ bi, lòng hiếu thuận. Nếu cố làm điều trên, Phật tử này phạm “Khinh cấu tội”.

Trong Am chỉ treo những câu liễn cảnh sách, ngoài ra chẳng nên để những chữ gì khác. Phàm là những gì có đủ sự trang nghiêm thì nên để cúng trong Phật điện, nhưng lại chẳng được quá hoa lệ, đã viết là Am thì nên lấy sự thanh khiết là trên hết. Lại chẳng được tích chứa nhiều tiền bạc, gạo thóc, áo quần, trân bảo vật quý, tránh cho lòng ham  muốn của người đời. Nếu có dư thì nên đem ra bố thí cho những người nghèo khó khốn khổ trong những năm mất mùa đói kém. Chẳng được cứ mãi lo cho vay cho mượn, để mang  tiếng là Am giàu. Chẳng được dùng rượu thịt cúng bái quỉ thần. Chẳng được cùng với hàng văn Nho đọc sách để ngâm ca xướng vịnh thơ văn.

Nếu gặp những năm đói kém, hoặc rét buốt nghiêm trọng cùng tang ma việc, nên tùy theo sức mình mà chu cấp cho người nghèo khó. Chẳng được cùng người dân kết giao làm cha mẹ, huynh đệ, chị em nuôi. Chẳng được hai bên tặng quà cáp lễ vật qua lại, cùng đến người thăm chơi, thường xuyên mời người về Am để học cúng dường, trừ những việc cúng dường các Trưởng lão.

Nếu là ngày Thánh đản của Phật, Bồ tát, nên vì đại chúng nhóm họp, diễn thuyết Phật pháp, đưa sách Phật. Chẳng được nhận những trẻ nhỏ làm đồ đệ bà con. Chỉ trừ việc vì nhân duyên đại sự, chẳng được tìm đến các nhà giàu sang hóa duyên, và cầu tụng kinh sám, v.v… chẳng được dừng đứng bên trường học, dừng lại cùng những người nhàn rỗi, người xấu, trừ người dưỡng bệnh. Lúc gặp người dưỡng bệnh thì nên tùy thời mà thuyết nhân duyên Phật pháp cho họ nghe, chẳng được cùng người đánh đàn, chơi cờ, ca hát.

Chẳng được luận đàm việc chính trị, chiến tranh, thưa kiện, chuyện phải quấy trong nhân gian, cùng tất cả những việc tạp nhạp ở đời. Lúc rảnh rang thì nên tụ họp đồ chúng, đồng tham đạo hữu, công nhân,… nói giáo lý nhân quả trong Phật pháp cho họ nghe. Chẳng được châm lửa thiêu đốt núi rừng,…

Kinh Phạm Võng nói: “Nếu Phật tử vì ác tâm, phóng hỏa đốt núi rừng đồng nội. Từ tháng 4 cho đến tháng 9 phóng hỏa, hoặc cháy lan đến nhà cửa, thành ấp, tăng phường, ruộng cây của người, và cung điện tài vật của quỷ thần. Tất cả chỗ có sinh vật, không được cố thiêu đốt. Nếu cố thiêu đốt, Phật tử nầy phạm “Khinh cấu tội”.

Chương này tuy chỉ riêng nói về phần của Sa môn, tuy nhiên có hàng Cư sĩ nào muốn ở Am thì cũng nên y theo cách thức trên mà thực hành.

CHƯƠNG V: HẦU THẦY

Phàm là Sa môn, phép tắc hầu Thầy thì nên căn cứ theo chương thứ 2 và chương thứ 3 trong sách Oai Nghi mà học tập, đây chẳng cần nêu lại.

Còn việc cư sĩ hầu Thầy, thì phải thật tâm làm cho tốt, giống như con cháu đối với tôn trưởng sống một mình. Chẳng phải chỉ biết nói  suông. Bởi vì hầu Thầy tức là phụng thờ Sư trưởng vậy, ý nói có một hai đệ tử quy y phụng phụng thờ Trưởng lão. Trường hợp nầy cũng căn cứ theo oai nghi “Thờ Thầy” mà học tập, ở đây không nêu lại.

 

CHƯƠNG VI: DƯỠNG NUÔI CHA MẸ

Phàm là Sa môn, Cư sĩ chăm sóc cha mẹ, không chỉ sớm thăm tối viếng, mà còn phải lo việc ăn uống nóng lạnh, khéo biết thời nói cho cha mẹ nghe về nhân quả thiện ác tu tập để thoát ra biển khổ luân hồi, cũng cần phải hiểu lễ tiết của Nho gia có nhiều chỗ bất đồng. Người học Phật rồi thì mỗi khi thấy cha mẹ chẳng nên đứng ngồi nương dựa mà nên giữ thân ngồi ngay đứng thẳng. Thường niệm kệ rằng:

Kệ phụng dưỡng cha mẹ:

Phiên âm:

Hiếu sự phụ mẫu
Đương nguyện chúng sanh
Thiện sự ư Phật
Hộ dưỡng nhất thiết.

Tạm dịch:

Hiếu thờ cha mẹ,
Nguyện cho chúng sanh
Như thờ chư Phật
Cung cấp tất cả.

Lúc phải thời thì nên đem nhân duyên Phật pháp. Để hướng dẫn, còn khi tương giao với bạn bè thân hữu thì cũng nên đem Phật pháp ra khuyên bảo, khiến cha mẹ thấm nhuần thiện căn. Nếu cha mẹ không có lòng tín ngưỡng, thì phải đợi khi có cơ duyên như bệnh đau, tai nạn,… mới đem ra để giảng nói.

Nếu cha mẹ muốn mình uống rượu, ăn thịt nên tùy nghi mà thưa: “Con nay đã thọ trì giới của Phật, ăn thịt làm tổn hại mạng chúng sanh, uống rượu làm lu mờ tâm tánh, chẳng tự mình ăn thịt uống rượu, lại cũng chẳng nên đưa người ăn thịt uống rượu. Xin nguyện cho hết thảy người thân của con cùng giới hạnh như con không khác, toàn bộ người thân của con đều tiếc giữ đức hạnh, cùng mạng sống của tất cả chúng sanh,…”

Tha thiết khẩn cầu như vậy, nhưng cũng chưa hẳn là xong. Phàm khi tổ chức lễ mừng thọ, nên y theo lời Phật dạy mà làm, để tránh tổn hại đến mạng sanh vật.

Nếu thấy người thân thọ mạng gần hết, trước hết đem lạc cảnh  Tây phương Tịnh độ nói cho cha mẹ nghe. Khi mạng chung rồi,  liền thông báo cho mọi người biết, đừng  nên sanh lòng bi ai quá độ.

Tang lễ tất phải y theo văn dưới mà cử hành. Tuy khó có thể làm hết  điều mình mong muốn, nhưng lại cũng nên lấy việc chẳng tổn hại sanh mạng sanh vật làm chính. Phàm khi thấy chú bác các bậc tôn trưởng nên giữ mình ngay thẳng, cũng nên lấy nhân duyên của Phật pháp khuyên bảo bảo cho thấu hiểu.

 

CHƯƠNG VII: BỒ TÁT TẠI GIA

Phàm là Cư sĩ ở nhà, tuy không thể làm hết mọi Phật sự, nhưng cũng đừng tạo oan nghiệp mới. Thường thầm niệm bài kệ rằng:

Kệ khi ở nhà:

Phiên âm:

Bồ tát cư gia
Đương nguyện chúng sanh
Tri gia tánh không
Miễn kỳ bức bách

Tạm dịch:

Bồ tát ở nhà,
Nguyện cho chúng sanh,
Rõ tánh nhà không,
Thoát khỏi bức bách.

Nếu dạy vợ con, trước hết phải nói về nhân quả, đem Phật pháp hướng dẫn, khai thị về thế giới Cực lạc. Thường niệm bài kệ rằng:

Kệ khi gia đình tập họp:

Phiên âm:

Thê tử tập hội
Đương nguyện chúng sanh
Oán thân bình đẳng
Vĩnh ly tham sân.

Tạm dịch:

Vợ con tụ hội,
Nguyện cho chúng sanh,
Oán thân bình đẳng
Lìa hẳn tham sân.

Nếu vợ con có chút niềm tin thì nên đem năm giới ra mà răn dè. Trong nhà con gái là dễ giáo hóa nhất, nên đem sách Phật căn bản cho chúng đọc, sống đời thanh đạm, khuyên chúng gieo trồng hạt giống Phật trong thửa ruộng tâm thức.

Lại nên tìm chỗ thanh tịnh ở trong nhà, hoặc trên lầu thiết lập một phòng kinh, trang nghiêm thanh tịnh, để tiện cho việc sớm tối lễ tụng, khiến cho con cái cùng những người thân, thấy được mà phát lòng lành, sanh khởi tín tâm. Mỗi lần lên lầu thì nên thầm niệm bài kệ rằng:

Kệ khi lên lầu:

Phiên âm:

Thượng thăng lầu các
Đương nguyện chúng sanh
Thăng chánh pháp lầu
Triệt kiến nhất thiết.

Tạm dịch:

Khi lên lầu các,
Nguyện cho chúng sanh
Lên lầu chánh pháp,
Hiểu hết tất cả.

Phàm mướn công nhân, nên trước phân định ngày làm, nói rõ nơi đây niệm Phật, ngăn sát sanh, uống rượu, chẳng nên dùng lời buông lung ca hát. Tự thân cư sĩ, thường ngày luôn giữ phong cách, sống đời trong sáng đoan chánh, không giận hờn, không mắng chửi, không uống rượu, không nói lỡ lời, không giỡn cười, không đam mê cờ bạc. Khi gặp cảnh quyến thuộc chẳng vừa ý cũng không nên thường giận hờn la mắng, dạy dỗ cũng phải biết đúng thời.

Khi có các tiệc vui, nên lấy tiền tài ra mà bố thí cho những người nghèo khó. Khi bố thí nên niệm kệ rằng:

Kệ đọc khi bố thí:

Phiên âm:

Nhược hữu bố thí,
Đương nguyện chúng sanh,
Nhất thiết năng xả,
Tâm vô ái trước.

Tạm dịch:

Nếu có bố thí
Nguyện cho chúng sanh
Xả bỏ hết thảy
Lòng không luyến tiếc.

Nên mời người hoặc tự mình diễn nói Phật pháp căn bản, cùng nhân duyên quả báo,…Tổ chức lễ cưới gã cho con gái, không cần phải sắm nhiều tư trang, của hồi môn nên nói rõ, hoặc lập khế ước, viết: “Những tài sản này, mỗi khi đổi thành tiền được bao nhiêu thuộc về con gái dùng, trích bao nhiêu tiền này ra để ấn tống kinh Phật, hoặc làm các việc từ thiện”.

Cưới dâu cũng không hẳn phải sắm nhiều tư trang. Đến lúc chúng sanh con nên mời thân bằng quyến thuộc, làm chay đãi tiệc, giảng nói Phật pháp, bố thí người nghèo, biếu tặng kinh sách.

Nếu gia đình có dư cũng nên tiết kiệm như người bình dân, những phần dư thừa nên đem làm từ thiện công ích, tuyên dương Phật pháp, trang nghiêm chùa Phật. Nếu gia đình giàu có, nên đem tài sản giao phó cho những người thiện hữu, kiến lập Cư sĩ tòng lâm công cộng, xây Tịnh xá, Học viện,.. cùng làm những công tác cứu giúp cho người có hoàn cảnh neo đơn, già nua khốn khổ, sửa cầu đắp đường, tuyên dương Phật pháp…

Muốn cứu giúp chúng sanh, thì trước hết phải đắn đo suy nghĩ, quan trọng là chớ để cho người ta sanh lòng ỷ lại, trở thành lười biếng. Xưa ở quê tôi có một người nhà giàu, đem gia tài cự phú của mình nhập vào Từ Đường, để cho những người trong thân tộc đổi ra được rất nhiều lúa gạo.

Về sau những người trong thân tộc đều chỉ lấy lúa gạo đó để sống qua ngày chẳng chịu làm việc gì nữa, họ lại sanh lòng kiêu mạn khác thường, sau nầy không còn biết nghĩ đến việc mưu sinh. Vì vậy phát sanh hàng trăm tệ nạn trộm cắp, để bây giờ không cách nào cứu vãn được nữa.

Người xưa nói: “Lấy lòng nhân từ đối đãi mà kết quả lại là bất nhân”. Thật là thuộc về hoàn cảnh nầy. Cho nên bố thí, quan trọng là phải xem xét  những người nhận của bố thí này có gây ác nghiệp hay không?

Nếu không được như thế thì nên đem của cải ra làm việc hoằng dương Phật pháp, cảm hóa lòng người, khiến cho thế giới thanh bình, thì công đức lại càng thù thắng.

Trong nhà chẳng nên cất chứa những thứ như dao súng, chất nổ, cần câu, lưới cá, bình xiệc điện rà cá… tất cả những khí cụ sát hại sinh mạng muôn loài, làm mất lòng từ.

Phàm khi giao tiếp với người thân thích, nếu muốn tặng Phẩm vật, nên phải nói rõ trước, chớ nên hiến tặng các thứ thức ăn mặn, chỉ xin nhận phần vải lụa thôi.

 

CHƯƠNG VIII: TIẾP KHÁCH

Phàm là Sa môn, Cư sĩ, khi tiếp khách, ngoại trừ hỏi thăm qua lại xã giao lúc đầu, đến khi quen biết lâu dần thì nên đem Phật pháp cùng nhân quả thiện ác,.. để tiếp chuyện. Khi trò chuyện thì tránh bàn luận về những việc chính trị, chiến tranh, thưa kiện và tất cả những lời tạp nhạp vô ích ở thế gian.

Trong phòng khách nên treo một câu cáo bạch rằng:  “Gia đình tôi học Phật, chẳng bàn thế sự, chẳng uống rượu và chẳng ăn các thứ hành hẹ, tỏi nén,.. chẳng ca múa hát xướng, chẳng làm tổn hại sanh vật, chẳng dùng xủ quẻ xem bói, tướng số, chẳng thờ phụng tà giáo. Ngại rằng quý khách đến nhà chẳng rõ nguyên tắc nơi đây nên đặc biệt viết lời thưa trước để tránh việc xảy ra ngoài ý muốn”.

Khi mời khách dùng cơm nên dùng đồ chay, chẳng được giết gà làm thịt cá. Bất đắc dĩ lắm thì nên ra chợ mua về để đãi khách, những thứ tịnh nhục này là không thấy giết, không nghe giết, chẳng nghi vì mình mà giết. Tiếp đãi khách nên như vậy và lo ăn cho người làm công cũng lại như thế.

Phàm khi tiếp rước khách tham quan, trước nên đưa đến Phật đường, phòng kinh sách để chiêm ngưỡng Phật tượng, kinh điển. Kế đến mới đi tham quan vườn cây phòng ốc lầu gác các nơi. Ngoài ra, mỗi chỗ đều nên treo những câu cảnh tỉnh ở trong kinh. Liễn đối trong phòng cũng nên dùng những lời giác ngộ trong kinh Phật để đề tỉnh. Nếu khách đến có nhu cầu, hoặc tìm hỏi việc làm, nên  nhân cơ hội này mà nói rằng: Bạn có thể niệm Phật răn sát sanh, thực hành theo lời dạy của Ngài không? Nếu được như thế thì giúp họ, còn không được thì thôi. Phàm khi nói chuyện, chẳng được tự khen mình chê người, chẳng được nói lưỡi hai chiều, nói chuyện phải quấy của người. Chẳng được  cùng khách  chơi cờ, ca hát, đánh bạc… Khi khách ra về, nên lấy kinh sách, chuỗi niệm Phật mà biếu tặng họ.

Nếu khi gặp Trưởng lão, Pháp sư, các vị Đại đức đến thăm nên mau ra lễ bái nghinh tiếp, lại nên bảo con cái thân quyến đều lễ bái đón chào. Lúc ra về cũng nên lễ  bái đưa tiễn.

Kinh Phạm Võng nói: Nếu Phật tử, thấy có vị Pháp sư đại thừa, hay những bực đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đại thừa, từ trăm dặm, nghìn dặm đến nơi tăng phường, nhà cửa thành ấp, thời liền đứng dậy rước chào, đưa đi, lễ bái cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng dường, trăm thứ uống ăn, giường ghế, thuốc men tất cả đồ cần dùng đáng giá 3 lượng vàng đều phải cấp hộ cho Pháp sư. Mỗi ngày: sáng, trưa và chiều, thường thỉnh Pháp sư thuyết pháp và đảnh lễ, ngày ngày ba thời lễ bái. Không khởi tâm sân hận phiền não, thỉnh pháp không mỏi nhàm, chỉ trọng pháp chớ không kể thân. Nếu Phật tử không như thế thì phạm khinh cấu tội.

 

CHƯƠNG IX: ĐỌC KINH SÁCH

Phàm là Sa môn, Cư sĩ đọc sách, nên phân biệt tà chánh, thiên viên. Phàm các loại sách thế gian như sách coi số, sách coi tướng, sách binh trận, sách bói khoa, xủ quẻ, cùng các sách địa lý, tiên đạo thư, sách thiên văn, sách đồ sấm, cho đến ngoại đạo Tế công, sấm giảng, những phép luyện đơn, thần kỳ, quỷ quái, phù thủy, Phong thần, ngụy truyện tài tử, cùng các loại truyện tiểu thuyết thời nay,.. đều chẳng nên xem coi tập học.

Dù là kinh Phật lại cũng nên phân biệt cho rõ chân thật hay ngụy tạo. Nếu trí lực có thừa, vì muốn biết giáo điển nội ngoại, cao thấp thế nào, thì có thể xem qua sử sách Tôn giáo Đông Tây, nền Triết học của các nhà… tuy nhiên chỉ coi lướt qua cho biết, song cũng đừng sanh tâm đam mê tập học. Nếu Phật Kinh hiểu thấu triệt rồi, thì nên phát tâm tạo cơ duyên cho mọi người hiểu rõ. Chuyện phán đoán phải quấy, cong ngay ắt phải lấy Kinh Phật làm tiêu chuẩn.

 

CHƯƠNG X: LÀM QUAN CHỨC

Phàm là Cư sĩ ra làm quan chức, chẳng được vì quốc sự mà hiệp hội chiến đấu. Kinh Phạm Võng nói: “Nếu Phật tử! chẳng đặng vì quyền lợi và ác tâm mà đi thông sứ cho hai nước, hiệp hội quân trận, đem binh đánh nhau, làm cho vô lượng chúng sanh bị giết hại.

Là Phật tử, còn không được lược xem quân trận cùng vào ra qua lại, huống chi cố làm môi giới chiến tranh! Nếu cố làm, Phật tử này phạm khinh cấu tội”.

Nói đến người Cư sĩ khi làm quan chức, có địa vị thì phải  hoằng truyền chánh pháp. Nên nói rằng: “Tôi học Phật, không ăn thịt uống rượu, không đến nơi có tiệc rượu, không nhận của hối lộ, không nói chuyện thị phi, thưởng phạt phân minh. Mong các vị rõ cho”.

Lúc phân xử việc gì, đợi hai bên biện lẽ phải trái xong, phải đem định luật nhân quả mà khai thị. Khuyên mọi người từ nay về sau phải biết nhân duyên quả báo, nương theo lời dạy của Phật mà sống một cuộc đời lương thiện.

Khi tiếp khách, ngoại trừ việc hỏi đáp ra, còn bao nhiêu phải đem lời dạy của Phật mà ứng tiếp. Nhân viên của quan chức, mỗi tuần phải đem Phật pháp để chỉ dạy cho họ, các nhân viên phụng hành thì sẽ sống đời chân thật.

Quan chức khi đối xử với nhân viên, thì cũng nên biết như thế, vừa có lòng trong sáng, vừa yêu nước thương người. Quan chức cấp cao đối với quan chức cấp dưới, trước khi thăng chức cho họ, phải xét coi có năng lực, tâm công tư bình đẳng và thực hành theo lời Phật dạy hay không, nếu không thể thì không nên trao cho.

Khi đi tuần tra hoặc xét án, thấy đối tượng có thể giáo hóa được thì phải nên đem Phật pháp ra để hướng dẫn. Đối với những doanh nhân, trừ việc chánh của quốc gia ra, thì cũng nên đàm luận Phật pháp, đem sách Phật ra làm quà biếu tặng, chắc chắc họ sẽ nghe theo.

Nhất là trong thời gian còn tại chức nên khuyên người dân địa phương làm chuyện công ích, cũng nên soạn thảo trước một bài văn nói về nhân quả thiện ác theo lời dạy của Phật, thuyết trình để người dân địa phương nghe mà được thấm nhuần, ngoài những việc chân chánh ấy ra còn phải ấn tống kinh sách. Khiến cho người khác đọc thực hành theo lời dạy của Phật, đồng thời cũng hiểu được chí nguyện của mình, chẳng phải có thật nhiều tài sản để truyền cho con cháu, nếu như con cháu có phước thì tự nhiên sẽ được thành đạt trong những việc làm đúng pháp. Bằng không thì chưa hẳn là con cháu giữ được. Nên quán sát những tấm gương ở thế gian thì biết, vì chỉ lo hưởng thụ tài sản của cha ông quá nhiều rồi ỷ lại, lười biếng, từ đó dẫn đến cảnh tan nhàn nát cửa, việc ấy xảy ra rất nhiều vậy.

Người học Phật khi làm quan chức, nếu gặp trường hợp xử phạt tù tội, thì phải làm sao? Đáp: “Nếu như những lầm lỗi có thể cứu vãn được, thì nên châm chế để tránh sự thương hại”.

Tuy nhiên, trước khi xử phạt cũng phải giảng nói lý nhân quả, Phật pháp, Tịnh độ… Vào thời quá khứ, đức Phật gặp một người ác, bắt một trăm người thiện đi giết, Phật thấy vậy không nở, bèn không nghĩ đến thân, tự mình chịu quả báo, liền khử trừ kẻ ác, để cứu 100 người thiện kia, đây chính tình thương lớn vậy.

 

CHƯƠNG XI: LÀM NGHỀ BUÔN BÁN

Phàm là Cư sĩ làm nghề thương mại, không phải dùng sức cực nhọc, nên vô cùng tự do, thật tốt cho việc y theo Phật pháp hành sự. Nhưng chẳng được mua bán đồ giả, chẳng được tráo hàng thiếu chất lượng, chẳng được lường cân tráo đấu, chẳng được trốn thuế, chẳng được khinh rẻ người già và trẻ nít. Chẳng nên mở lò sát sanh, chẳng được mở quán nhậu, chẳng được kinh doanh nghề kỹ nữ, chẳng được nuôi súc vật như heo, gà, vịt,  cá,… chẳng được mua bán tôi tớ nam nữ, chẳng được mua bán đao lưới võng, đồ vật làm tổn hại sanh vật.

Phàm mướn người giúp việc, trước nên nói rõ phải y Phật pháp mà làm, nếu chẳng vậy thì không nên nhận. Mỗi khi dạy bảo người làm hằng luôn lấy Phật pháp ra khai đạo, nếu người làm gặp khó khăn, nên giúp đỡ để tránh việc trộm vặt.

Nói đến hàng hóa cần phải ghi giá cả và phân lượng rõ ràng, chẳng được khấu trừ. Khách như không chịu mua nên tùy ý khách đi, chẳng được sanh lòng giận hờn trách mắng. Hàng hóa có nguồn gốc không rõ ràng, chẳng được sanh lòng tham mua rẻ bán đắc. Hàng hóa bị hư, hay sắp hết thời hạn sử dụng đem ra bán lẻ, cần phải nói chất lượng sản phẩm, chẳng nên gian dối. Nếu được như vậy, tuy làm việc kinh doanh cũng chẳng phải vì tham vậy.

 

CHƯƠNG XII: LÀM NGHỀ NÔNG

Phàm là Cư sĩ làm nông, chẳng phải nhọc tâm tư, chính thật tốt cho việc y theo Phật pháp hành trì. Duy chỉ cần để tâm cẩn thận, khi cày bừa cuốc đất, chớ để làm tổn hại côn trùng. Nếu nhỡ có làm tổn hại chúng thời mau mau niệm Phật, niệm chú vãng sanh, trợ niệm giúp kia vãng sanh. Về nhà rồi, tối tối nên hướng đến trước bàn Phật sám hối, để tránh lần sau không còn gặp phải trường hợp ngộ sát.

Phàm khi gieo hạt, nên niệm kệ rằng:

Phiên âm:

Chủng vô tình vật
Đương nguyện chúng sanh
Chủng chư thiện căn
Manh Bồ đề nha.

Tạm dịch:

Gieo giống vô tình
Nguyện cho chúng sanh
Trồng các căn lành
Nẩy mầm giác ngộ.

Phàm khi nhổ cỏ, niệm kệ rằng:

Phiên âm:

Sam chư loạn thảo
Đương nguyện chúng sanh
Trừ chư phiền não
Chứng tịnh pháp thân.

Tạm dịch:

Khi nhổ cỏ dại
Nguyện cho chúng sanh
Dứt hết phiền não
Chứng tịnh pháp thân.

Trong khi cắt cỏ, nên niệm kệ rằng:

Phiên âm:

Cầm thú côn trùng đẳng số nhiêu
Tiền hậu thính pháp kết thiện duyên
Chỉ do nghiệp tạo kim sanh tử
Văn ngã Thánh đế pháp thị tiền.

Tạm dịch:

Cầm thú côn trùng có bấy nhiêu
Trước sau nghe pháp kết thiện duyên
Nghiệp xưa lỡ tạo nay sanh tử
Nghe pháp Thánh đế ta hiện tiền.

Còn khi dùng cào cỏ thời nên niệm kệ rằng:

Phiên âm:

Ngô kim sừ thảo trừ ác nghiệp
Nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ
Nhược ư sừ hạ tán kỳ hình
Nguyện nhữ tức thời sanh tịnh độ.
Án dật đế luật ni sa ha (3lần).

Tạm dịch:

Tôi nay dẫy cỏ trừ ác nghiệp
Tất cả chúng sanh tự giữ mình
Nếu lỡ dưới bừa mất thân mạng
Nguyện ngươi liền thác sanh Tịnh độ.
Án dật đế luật ni sa ha (3lần).

Khi thu hoạch niệm kệ rằng:

Phiên âm:

Thâu thử đạo lương
Đương nguyện chúng sanh
Phước huệ lưỡng túc
Thọ tịnh pháp lạc.

Tạm dịch:

Khi gặt lúa thóc
Nguyện cho chúng sanh
Được đủ phước huệ
Nhận pháp tịnh lạc.

Nếu gặp thời hạn hán, nên ở trong nhà chí thành trì tụng “Thỉnh Vũ Kinh” hoặc “Hoa Nghiêm Kinh”.

Nếu trồng trọt trong rừng rậm rạp đầy dẫy những gai góc khó khăn, nên niệm kệ rằng:

Phiên âm:

Thực thử sâm lâm
Đương nguyện chúng sanh
Trừ sân nhuế tâm
Trưởng Bồ đề thọ.

Tạm dịch:

Gieo hạt rừng rậm
Nguyện cho chúng sanh
Trừ lòng hờn giận
Nuôi lớn Bồ đề.

Phàm thúc dục trâu cày, chẳng nên đánh mắng, mà nên dạy rằng: “Ngươi nên phat tâm Bồ đề”. Trong nhà có con cháu phải thường dạy nên thành thật, chẳng được bắt cá, mò tôm, tự mình cũng không nên đi săn bắn, chẳng được phóng hỏa trước hang động núi rừng.

 

CHƯƠNG XIII: LÀM CÔNG NHÂN

Phàm là Cư sĩ đi làm Công ty, lương công hằng tháng đã định nên chẳng cần khởi tham vọng chi khác;  rất tốt cho việc y theo Phật pháp hành trì. Duy chỉ thân thủ cần phải làm siêng năng, tâm địa luôn luôn sáng ngời ngay thẳng. Phàm niệm Phật, trì chú, tọa thiền tác quán, ngay trong lúc làm việc cực nhọc chính là cơ hội tốt cho việc dụng công, khiến thân tay trở thành thói quen, như dệt vải… tuy công việc chẳng cần phải chú ý, cũng chẳng thể lỡ tay làm hư hại đến vật dụng… Duy chỉ có một thứ công việc cần dụng ý như chế tạo thuốc, cắt rọc, v.v… ngoài ra có thể sớm tối hành trì. Xem nhẹ phù thế, chuyên tâm tu tập, không phải suy nghĩ lo âu nhiều. Trong khi tập hợp mọi người hái trà, hái củ ấu, cuốn bông tơ,.. đều có thể đàm luận Phật pháp cùng niệm Phật,.. Nếu nhân công càng đông lại càng tốt cho việc kết liên xã niệm Phật, gắn kết tình cảm. Lâu dần, chủ nhân thấy được bậc trung lương, nhân đây lương tâm cũng thọ được sự cảm hóa.

Họ Từ ở tại Hàng Châu, thấy phụ nữ ở Hàng Châu lúc đương làm việc đều đồng thanh niệm Phật, nghe được sinh lòng kính phục không thôi. Thấy phong tục ở quê hương anh ta thường lấy lời ca hát làm vui, còn nơi đây thật trái hẳn nhân tục.

Hy vọng các nơi cùng phát khởi hạnh lành, đâu đâu cũng có thể đề xướng như cách làm ở tại Hàng Châu, thì tuy là làng quê xấu ác cũng có thể chuyển hóa thành nơi vùng đất nhơn từ vậy.

 

CHƯƠNG XIV: LÀM VIỆC TẬP THỂ

Phàm là Sa môn, Cư sĩ khi làm việc, chẳng nên thấy mọi người lao nhọc mà mình tránh né, chẳng được chọn việc dễ, để việc khó cho người, chẳng được để người làm nhiều mình làm ít, chẳng được để người đi trước mình theo sau, cố ý kéo dài thời gian, chẳng được để người làm nặng mình làm nhẹ, trừ sức lực yếu kém, chẳng được sớm muộn trái thời, chẳng được cẩu thả làm một cách qua loa dơ bẩn. Phải trân trọng đồ vật, chẳng được tùy ý quăng bỏ, rửa rau phải 3 lần thay nước, múc nước trước phải rửa sạch tay, khi dùng nước cần phải nhìn kỹ có trùng hay không, nếu có trùng thì phải lấy lụa dày lược qua rồi mới dùng. Mùa đông trời lạnh quá thì không được lược nước sớm, phải chờ mặt trời mọc.

Nhóm lửa, chẳng được đốt củi mục, chế biến thức ăn chẳng được để móng tay dơ. Phàm đổ bỏ nước dơ, chẳng được đưa cao tay mà tạt bỏ nước ấy, mà phải cách đất 4 hay 5 tấc, từ từ mà đổ bỏ.

Quét đất, chẳng được quét ngược gió, chẳng được gom tro đất để sau cánh cửa.

Giặt nội y nên bắt rận rệp rồi mới đem giặt. Vào tháng hè dùng chậu nước rồi phải úp xuống, nếu để ngửa ra sẽ sanh trùng, chẳng được nước đang nóng mà đổ xuống đất. Tất cả gạo, bột mì, rau trái… chẳng được để đồ ngổn ngang bừa bãi, cần phải có tâm quý tiếc.

Khi rửa tay cùng làm các việc, đều niệm thầm những bài kệ như dưới đây:

Kệ rửa tay:

Phiên âm:

Dĩ thủy quán chưởng
Đương nguyện chúng sanh
Đắc thanh tịnh thủ
Thọ trì Phật pháp.
Án chủ ca ra da sa ha (3lần).

Tạm dịch:

Lấy nước rửa tay
Nguyện cho chúng sanh
Được tay thanh tịnh
Lãnh giữ Phật pháp.
Án chủ ca ra da sa ha (3lần).

Kệ rửa mặt :

Phiên âm:

Dĩ thủy tẩy diện
Đương nguyện chúng sanh
Đắc tịnh pháp môn
Vĩnh vô cấu nhiễm.
Án lam sa ha (21 lần).

Tạm dịch:

Lấy nước rửa mặt
Nguyện cho chúng sanh
Được pháp thanh tịnh
Hết hẳn dơ bẩn
Án lam sa ha (21 lần).

Kệ súc miệng:

Phiên âm:

Thấu khẩu liên tâm tịnh
Vẫn thủy bá hoa hương
Tam nghiệp hằng thanh tịnh
Đồng Phật vãng Tây phương.
Án hạm án hãn sa ha (3lần).

Tạm dịch:

Súc miệng lòng trong sạch
Miệng thơm trăm hoa hương
Ba nghiệp hằng thanh tịnh
Cùng Phật về Tây phương.
Án hạm án hãn sa ha (3lần).

Kệ rửa chân:

Phiên âm:

Nhược tẩy túc thời
Đương nguyện chúng sanh
Cụ thần túc lực
Sở hành vô ngại.
Án lam sa ha (3lần).

Tạm dịch:

Trong lúc rửa chân
Nên nguyện chúng sanh
Đủ thần túc lực
Chỗ đi không ngăn.
Án lam sa ha (3lần).

Kệ xỉa răng:

Phiên âm:

Tước dương chi thời
Đương nguyện chúng sanh
Kỳ tâm điều tịnh
Phệ chư phiền não.
Án a mộ già, di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lê, sa phạ ha (3lần).

Tạm dịch:

Lúc xỉa nhành dương
Nguyện cho chúng sanh
Tâm được thuần tịnh
Cắn nát phiền não.
Án a mộ già, di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng thâu đà da, Đà ra đà ra, tố di ma lê, sa phạ ha (3lần).

Kệ tắm Phật:

Phiên âm:

Ngã kim quán dục chư Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu
Đồng chứng Như Lai tịnh pháp thân.

Tạm dịch:

Con nay tắm gội chư Như Lai
Trí sạch trang nghiêm công đức nhóm
Chúng sanh năm trược được lìa dơ
Cùng chứng Như Lai pháp thân sạch.

Những việc trên, mỗi mỗi đều không được để cho nước nóng tạt ướt người bên cạnh.

 

CHƯƠNG XV: LỄ BÁI TỤNG NIỆM

Phàm là Sa môn, Cư sĩ niệm tụng, cần phải từng chữ từng câu niệm liên tục tiếp nối nhau, nên sử dụng một thang âm, chẳng được mỗi câu ngưng nghỉ, chẳng được cao thấp không chừng, đều dùng phạm âm, chẳng được tụng theo âm vận khác thường. Những phép tắc ấy cần phải đến các bậc Đại đức học tập, chẳng nên e thẹn hay khinh mạn mà không chịu học hỏi. Nếu xướng tán niệm tụng, càng cần phải học cho tinh thuần, chẳng được đến lúc lên khóa lễ mới học tập thì thật mất oai nghi. Nếu chẳng học tập thì khiến cho những người cùng tụng đều bị động niệm vậy.

Phàm sử dụng pháp khí, chẳng được lúc mạnh lúc nhẹ mất âm thanh, chẳng được đánh loạn lên. Khi niệm tụng, chẳng được liếc Đông ngó Tây.

Khi kinh hành, chẳng được trước sau cách nhau quá xa hay đùn cục lại, chẳng được trái phải cong queo, chẳng được hỷ mũi khạc nhổ ở lối đi, nếu biết tự thân có bệnh nên lấy khăn để trong tay áo nhằm tiện bề cho việc lau đờm giãi rồi che giấu đi.

Phàm lễ bái, cần phải lên xuống nhịp nhàng tề chỉnh đều nhau, chẳng được kẻ trước người sau. Phàm chắp tay chào hỏi, nên cúi gập thân mình đến nửa eo lưng, chẳng nên quá thấp hay quá cao. Phàm chắp tay chẳng được mười ngón so le, chẳng được trống rỗng ở giữa, phải để ngang ngực cao thấp đúng chỗ, chẳng được lấy ngón tay móc lỗ mũi. Lễ tụng xong, phải theo thứ tự chào mà lui ra, chẳng được trước sau không đều.

 

CHƯƠNG XVI: NGỒI THIỀN

Phàm là Sa môn, Cư sĩ khi tọa thiền, trước nên nới lỏng dây lưng và vớ, sửa y phục cho ngay ngắn, lấy vật mềm làm đồ ngồi.

Mỗi khi thiền tọa, niệm thầm kệ rằng:

Kệ ngồi thiền:

Phiên âm:

Chánh thân đoan tọa
Đương nguyện chúng sanh
Tọa Bồ đề tòa
Tâm vô sở trước.
Án phạ tắc ra, a ni bát ra ni, ấp đa da sa ha (3 lần).

Tạm dịch:

Thẳng mình ngồi ngay
Nguyện cho chúng sanh
Ngồi tòa Bồ đề
Tâm không vướng mắc.
Án phạ tắc ra, a ni bát ra ni, ấp đa da sa ha (3 lần).

Sau đó lấy chân trái để lên vế phải, rồi lấy chân phải để lên vế trái gọi là ngồi kết già. Còn để chân trái lên vế phải gọi là ngồi bán già. Thứ đến lấy lòng bàn tay phải để lên lòng bàn tay trái, để lòng bàn tay hướng lên trên, hai đầu ngón tay cái giao tiếp nhau. Lúc ngồi eo lưng phải thẳng, sống lưng như tường vách, đầu hơi cúi, khiến cho cổ áo vừa tiếp xúc đụng đến cổ làm chừng mực. Răng môi khép lại, đôi mắt hơi hé mở, nhìn xuống duyên theo sống mũi quán tâm, thẳng mình ngồi ngay, chẳng được nghiêng lệch, chẳng được động đậy, chẳng được tựa lưng, chẳng được ngáy ngủ.

Ngồi xuống an định rồi thì có thể dụng phép đếm hơi thở, hoặc trì chú, niệm Phật, quán tưởng, tập định, tham thoại đầu, do mỗi người tự chọn. Pháp môn rất nhiều, không chỉ hạn cuộc những phương pháp ở trên. Sau khi tọa thiền xong, trước hết từ từ mở mắt, lấy lòng bàn tay xoa đầu mặt lên xuống, thứ đến xoa dần di động khắp toàn thân, sau đó mới xả chân ra. Đứng dậy cho áo quần ngay thẳng trở lại, sau đó ngồi xuống thêm vài phút cho ổn định trở lại rồi mới đứng dậy ra đi. Nếu cùng đại chúng đồng tọa, chưa đánh khánh thì chẳng được xả thiền trước. Trong lúc ngồi nếu có ho sặt nhảy mũi đều phải lấy tay che miệng.

 

CHƯƠNG XVII: KHI ĂN UỐNG

Phàm là Sa môn, Cư sĩ đến giờ ăn cơm, trước nên chắp tay khỏi tưởng 5 phép quán:

1. Xét công lao nhiều ít, ước lượng lý do người thí chủ mang đến cúng.

2. Nghĩ kỹ đức hạnh của mình đủ hay thiếu mà thọ nhận cúng dường nầy.

3. Ngừa tâm ngăn tránh những tội lỗi, tham sân si là chủ yếu.

4. Chính là vị thuốc hay để trị liệu thân hình khô gầy.

5. Vì thành đạo nghiệp mà thọ thực phẩm ấy.

Lúc ăn chẳng được nói chuyện, nếu có khách đến cùng ngồi; thì cũng chỉ nên cúi đầu vâng dạ rồi thôi, sau khi ăn rồi mới trò chuyện nói thêm. Chẳng được cười, chẳng ăn quá mau hay quá chậm, chẳng được mọp người trên bàn mà ăn, chẳng được ngồi bẹt chân, chẳng được ngồi chồm hổm, nên thẳng mình ngồi ngay. Chẳng được lấy thức ăn chung với người bên cạnh ném cho chó. Chẳng được chau mày chê bai đồ ăn xấu dở. Chẳng được lấy tay gãi đầu để bụi bặm rơi vào bát người ngồi bên cạnh, chẳng được nhai đồ ăn ra tiếng, chẳng được khua chén đũa, lua húp cơm canh,… ra tiếng. Trong thức ăn nếu có sâu mọt nên kín đáo che dấu đi, đừng để người bên cạnh trông thấy. Như muốn xỉa răng, nên lấy tay áo che miệng. Chẳng được thấy đồ ăn ngon mà sanh lòng tham mà ăn no quá độ. Trong cơm có lúa thóc, bóc vỏ mà ăn, chẳng được ăn ngũ tân. Chẳng được lấy tay vắt cơm thành từng nắm lớn, chẳng được há miệng ra chờ cơm, chẳng được vắt thức ăn từ xa ném vào trong miệng, chẳng được làm rơi đổ thức ăn, chẳng được ngốn đồ ăn hai bên má, chẳng được húp thức ăn, chẳng được thè lưỡi liếm thức ăn. Chẳng được nhặt cơm rơi mà ăn. Chẳng được tay dơ cầm bát đựng thức ăn. Trên bàn không được để chén đũa ngổn ngang, bày biện cần phải ngăn nắp tề chỉnh. Lúc nấu canh không nên cắt rau cải quá dài. Ăn xong rồi, chẳng được lấy tay vét cơm thừa trong bát mà ăn, chẳng được ngậm đồ ăn mà nói chuyện, đứng dậy đi. Trừ trường hợp theo chúng ăn ở trai đường, phải tự mình đi lấy thêm thức ăn, chẳng được sai người lấy chén bát, trừ bậc tôn trưởng hay lão bệnh, nếu mình là khách mới đến thì cũng như thế. Ở trên chỉ chuyên nói về việc dọn những bữa ăn bình thường trên bàn. Nếu theo chúng thọ trai tại Trai đường trong chốn Tòng lâm, thì phải thực tập như chương thứ 5 “Theo Chúng Thọ Thực” trong bộ Oai Nghi.

 

CHƯƠNG XVIII: NGỦ NGHỈ

Phàm là Sa môn, Cư sĩ, khi nằm ngủ, chẳng được nằm ngửa, nằm sấp, nằm nghiêng hông bên trái. Mà phải nằm nghiêng hông bên phải, nên lấy bàn tay phải gối đầu, bàn tay trái gác dài xuôi theo vế chân trái, đây gọi là cách nằm kiết tường. Chỉ nên nằm giường đơn, chẳng được cùng người khác chung giường, tuy là cư sĩ nhưng việc chăn gối gia đình phải biết tự tiết chế đúng thời đúng chỗ. Gần đến giờ ngủ, chẳng nên dụng tâm tư nhiều, khởi tâm suy tưởng thì ngủ chẳng được an giấc.

Trước khi ngủ nên dành ra một thời khắc tĩnh tọa, thầm niệm bài kệ như bên dưới, ngồi mệt rồi mới nên ngủ. Chẳng được cởi hết nội y mà ngủ, chẳng được cười nói lớn tiếng, nên thầm niệm như bài kệ bên dưới. Nếu ngẫu nhiên có mộng tinh, ấy là do tâm trì giới chưa kiên định mà ra, cần phải càng cố giữ tâm niệm trì giới cho kiên định. Trời chưa sáng, nên dậy sớm để tĩnh tọa một lát rồi mới hả xuống giường. Trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, tùy lúc tùy nơi đều nên niệm thầm theo những bài kệ như văn dưới, để ngăn ngừa tâm tán loạn, nuôi lớn hạt gióng giác ngộ. Phàm mang đồ tiểu tiện, chẳng được trước Thánh tượng hay Pháp đường mà đi thẳng sang, phải đi đường vòng và đi cách xa.

Kệ trải tọa cụ:

Phiên âm:

Nhược phu sàng tọa
Đương nguyện chúng sanh
Khai phu thiện pháp
Kiến chân thật tướng.

Tạm dịch:

Khi trải tọa cụ
Nguyện cho chúng sanh
Mở ra thiện pháp
Thấy tướng chân thật.

Kệ đi ngủ:

Phiên âm:

Dĩ thời tẩm tức
Đương nguyện chúng sanh
Thân đắc an ổn
Tâm vô loạn động
Quán chữ A bằng phạn tự () 21 lần.

Tạm dịch:

Ngủ nghỉ theo thời
Nguyện cho chúng sanh
Thân được an ổn
Tâm không loạn động.
Quán chữ A bằng phạn tự () 21 lần.

Kệ thức dậy:

Phiên âm:

Thùy miên thỉ ngộ
Đương nguyện chúng sanh
Nhất thiết trí giác
Châu cố thập phương.

Tạm dịch:

Ngủ nghỉ mới thức
Nguyện cho chúng sanh
Hết thảy trí giác
Trải khắp mười phương.

Kệ nghe Chuông:

Phiên âm:

Văn chung thinh, phiền não khinh
Trí huệ trưởng, Bồ đề sanh
Ly địa ngục, xuất hỏa khanh
Nguyện thành Phật, độ chúng sanh.
Án già ra đế da, sa ha (3lần).

Tạm dịch:

Nghe tiếng chuông phiền não nhẹ
Trí tuệ lớn Bồ đề sanh
Thoát địa ngục vượt hầm lửa
Nguyện thành Phật độ chúng sanh.
Án già ra đế da, sa ha (3lần).

Kệ đắp y:

Phiên âm:

Nhược trước thượng y
Đương nguyện chúng sanh
Hoạch thắng thiện căn
Chí pháp bỉ ngạn.
Nhược hạ quần thời
Đương nguyện chúng sanh
Phục chư thiện căn,
Cụ túc tàm quý.

Tạm dịch:

Mặc áo quần
Khi mặc áo trên
Nguyện cho chúng sanh
Được nhiều căn lành
Chứng pháp giải thoát.
Khi mặc quần dưới
Nguyện cho chúng sanh
Mặc các căn lành
Đầy đủ hổ thẹn.

Kệ buộc dây lưng:

Phiên âm:

Chỉnh y thúc đới
Đương nguyện chúng sanh
Kiểm thúc thiện căn
Bất linh tán thất.

Tạm dịch:

Sửa áo buộc dây
Nguyện cho chúng sanh
Bó buộc căn lành
Chẳng để hao mất.

Kệ xuống giường:

Phiên âm:

Tùng triêu dần đán trực chí mộ
Nhất thiết chúng sanh tự hồi hộ
Nhược ư túc hạ tán kỳ hình
Nguyện nhữ tức thời sanh Tịnh độ.
Án dật đế luật ni sa ha (3lần).

Tạm dịch:

Từ sáng giờ Dần đến chiều tối
Hết thảy chúng sanh tự giữ mình
Nếu lỡ đạp chân nát thân mình
Nguyện các ngươi liền sanh Tịnh độ.
Án dật đế luật ni sa ha (3lần).

Kệ bước đi:

Phiên âm:

Nhược cử ư túc
Đương nguyện chúng sanh
Xuất sanh tử hải
Cụ chúng thiện pháp.
Án địa rị nhật rị sa ha (3 lần).

Tạm dịch:

Vừa nhấc bước chân
Nguyện cho chúng sanh
Vượt biển sanh tử
Đủ mọi pháp lành.
Án địa rị nhật rị sa ha (3 lần).

Kệ ra khỏi nhà:

Phiên âm:

Tùng xá xuất thời
Đương nguyện chúng sanh
Thâm nhập Phật trí
Vĩnh xuất tam giới.

Tạm dịch:

Từ nhà đi ra
Nguyện cho chúng sanh
Thâm nhập trí Phật
Thoát hẳn ba cõi.

 

CHƯƠNG XIX: VÀO TRONG CHÚNG

Phàm là Sa môn, Cư sĩ, khi vào trong đại chúng cùng ở cùng làm, chẳng được giành chỗ ngồi. Trong chúng nếu có ai mất oai nghi lễ tiết nên ngăn che việc xấu mà phô bày điều lành, chẳng được ém cái lao nhọc của người để hiển lộ công lao của mình.

Phàm ngủ nghỉ, chẳng được trước người, dậy không được sau người. Phàm rửa mặt, chẳng được sử dụng nước nhiều, đánh răng nhổ nước phải cúi đầu đưa nước xuống, chẳng được phun nước làm ướt người. Chẳng được hỷ mũi khạc nhổ lớn tiếng, chẳng được ở trong điện tháp và chỗ đất sạch, nước sạch mà hỷ mũi khạc nhổ nước miếng, phải nên tìm chỗ khuất mà hỷ nhổ. Trong tay có cầm nắm vật gì thì chẳng được dùng một tay còn lại xá người. Chẳng được cười nhiều, lại chẳng được cười lớn, khi ngáp phải lấy tay áo che miệng.

Chẳng được đi mau, chẳng được lấy đèn cúng Phật dùng riêng. Nếu đốt đèn phải lấy bóng đèn pha lê hay chụp bằng vải che đậy để tránh các loài  côn trùng có cánh bay vào. Chẳng được nghe gọi mà không lên tiếng, phàm khi nghe gọi nên dùng tiếng niệm Phật mà trả lời, chẳng được đáp vâng dạ.

Y phục tự thân chẳng được lòe loẹt nhiều màu, chỉ nên dùng màu xanh da trời, màu xám tro, màu vỏ cây mộc lan. Mặc áo tràng, đắp y xong lúc đi đứng hai tay nên cung thủ ngang ngực. Chẳng được chống nạnh mà đứng hay đi, chẳng được chắp tay sau lưng đi. Phàm đi đứng ngồi đều chẳng được nương dựa, chẳng được lấy bát treo trên đầu gậy, vác trên vai mà đi, chẳng được nắm tay nhau trên đường mà đi. Phải nên buộc ống quần, chẳng được buông lung tâm ý. Chẳng được vừa đi vừa nói chuyện phiếm, chẳng được nói nhiều, chẳng được đi kéo giày dép ra tiếng. Chẳng được lấy đồ Thường trụ Tam bảo dùng riêng, chẳng được đàm luận việc ngoài Phật pháp. Chẳng được nhân việc nhỏ mà tranh chấp, sau nầy việc lớn nhẫn không được, nên tâm bình khí hòa dùng chánh lý mà biện luận, nếu chẳng được thì từ chối mà đi. Động khí phát thô chẳng phải là đệ tử Phật. Phàm thấy người khác lễ Phật, chẳng được đi tắt qua trước đầu người ấy. Có người xem kinh, chẳng được đi tắt ngang trước bàn kinh.

Phàm đi nghe giảng phải nên đến sớm, chỉnh sửa y phục, hai tay nâng kinh, mắt nhìn thẳng, bước đi khoan thai, ngồi phải đoan nghiêm. Chẳng được ho lớn tiếng, nếu có ho thì phải lấy tay áo che miệng. Phàm nghe pháp, phải nghe mà nghĩ nhớ để sửa mình, chẳng được chuyên ghi nhớ danh ngôn để cung cấp cho việc đàm luận, chẳng được nghe vào tai liền thốt ra ngoài miệng, nếu có nghi vấn nên chờ lúc vừa giảng xong thì đưa kinh đến để bên đài thuyết pháp, hướng lên Pháp sư chắp tay xá chào rồi mới thưa hỏi. Nghe đáp xong rồi, lại cũng nên chắp tay xá chào cám ơn lui ra.

Phàm khi nhóm lửa không được, bỏ những đồ dơ vào trong lửa, không được hong phơi giày dép. Khi tắt đèn phải hỏi người khác có dùng nữa không, nếu không dùng thì mới được tắt, không nên dùng miệng thổi. Trong phòng có người ngủ, không được khua vật ra tiếng, nói cười to.

Khi vào nhà tắm, mở áo mặc áo phải an tường tự tại, phải tiểu giải trước, không được hắc nước nóng văng vào phòng tắm người bên cạnh, không được nhờ người kỳ lưng, không được cùng người nói cười, không được tự ý tắm ngâm lâu, ngăn ngừa bên ngoài có người đến sau đang chờ.

Lúc tắm nên thầm tưởng bài kệ:

Kệ tắm rửa:

Phiên âm:

Tẩy dục thân thể
Đương nguyện chúng sanh
Thân tâm vô cấu
Nội ngoại quang khiết
Án bạt chiết ra não ca tra sa ha (3 lần)

Tạm dịch:

Tắm rửa thân thể
Nguyện cho chúng sanh
Thân tâm không dơ
Trong ngoài sáng sạch.
Án bạt chiết ra não ca tra sa ha (3 lần)

Khi muốn đại tiểu tiện là nên đi ngay, đừng đợi trong cơ thể bức bách mà lật đật. Phải cởi đổi giày dép, không được mang giày dép sạch vào nhà xí. Đến nhà xí, phải ba lần đàn chỉ để cho người trong đó biết. Không được thúc dục người trong mau ra. Đã lên nhà xí, lại phải ba lần đàn chỉ, niệm thầm bài kệ rằng:

Kệ vào nhà xí:

Phiên âm:

Đại tiểu tiện thời
Đương nguyện chúng sanh
Khí tham sân si
Quyên trừ tội cấu.

Tạm dịch:

Khi đại tiểu tiện,
Nguyện cho chúng sanh
Bỏ tham sân si
Trừ sạch tội lỗi.

Khi đi tiểu tiện chẳng được cúi đầu nhìn xuống, chẳng được cầm cỏ vẽ đất, chẳng được rặn ra tiếng. Chẳng được cách vách cùng người nói chuyện. Chẳng được nhổ nước miếng lên vách.

Khi ra vào gặp người chẳng được làm lễ, nên nghiêng mình tránh đi. Chẳng được bên đường vừa đi vừa buộc dây áo. Nếu tiểu phải tóm gọn y phục, lại chẳng được mặc áo hậu mà tiểu giải.

Tiện lợi xong, nếu chưa rửa tay thì không được cầm nắm đồ vật.

 

CHƯƠNG XX: CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH

Phàm là Sa môn, Cư sĩ, khi thấy người bệnh tật, thời nên coi hộ chăm sóc.

Kinh Phạm Võng nói: “Nếu Phật tử thấy tất cả người tật bệnh phải tận tâm cúng dường như cúng dường Phật. Trong tám phước điền, chăm sóc người bệnh là phước điền lớn nhất.

Nếu như cha mẹ, sư Tăng, đều nên săn sóc cung dưỡng cho được lành mạnh; nếu Bồ tát lại vì lòng hờn giận không chăm nuôi, nhẫn đến thấy trong Tăng phường, thành ấp, nơi núi rừng, giữa đồng nội hay đường xá, hễ thấy có người tật bệnh mà không lo cứu tế, Phật tử nầy phạm khinh cấu tội”.

Trong khi chăm sóc bệnh nhân thời nên thầm niệm bài kệ rằng:

Kệ thăm bệnh:

Phiên âm:

Kiến tật bệnh nhân
Đương nguyện chúng sanh
Tri thân không tịch
Ly quai tránh pháp.
Án, thất rị đa, thất rị đa, quân tra rị, sa phạ ha (3lần).

Tạm dịch:

Thấy người tật bệnh
Nguyện cho chúng sanh
Biết thân rỗng lặng
Xa lìa mọi tranh cãi.
Án, thất rị đa, thất rị đa, quân tra rị, sa phạ ha (3lần).

Niệm xong, nên dùng lời tốt lành mà an ủi người bệnh, khuyên họ nên hết lòng niệm Phật. Nếu kia có cần gì, nên hết lòng giúp đỡ, trừ những việc ngoài khả năng.

 

CHƯƠNG XXI: NHẬP THẤT

Phàm là Sa môn, Cư sĩ muốn nhập thất tịnh tu càng phải nghiêm túc hơn, chẳng được buông lung tâm ý, chẳng được ăn riêng một mình trừ khi già bệnh. Chẳng được hút thuốc, uống rượu.

Ngoài hành lý và y bát ra, chẳng được đem theo các vật dụng tinh xảo quý báu chi khác, để làm đồ trang sức xem cho đẹp.

Chẳng được chế tạo tơ lụa làm y phục, chẳng được chế da lông thú làm y phục để ngăn lạnh. Xưa có vị cao tăng, quanh năm chỉ mang một đôi giày, lại cả đời gần như chỉ mặc một chiếc áo vá.

Cho nên làm đệ tử Phật đều phải nên sống đạm bạc. Chẳng được điêu khắc hoa văn lên giường lớn. Trong phòng ngoài giường chõng bàn ghế ra chẳng nên bày biện thêm nhiều vật khác.

Trong phòng chẳng nên treo đồ họa đối liễn chi khác, ngoài những lời cảnh sách khắc lên chỗ ngồi, chẳng được học tập đồ họa tranh ảnh, trừ khi họa vẽ Phật tượng, v.v… chẳng được tích chứa tài vật, trân bảo…

Khi cạo tóc nên thầm niệm bài kệ rằng:

Kệ cạo tóc:

Phiên âm:

Thế trừ tu phát
Đương nguyện chúng sanh
Viễn ly phiền não
Cứu cánh tịch diệt.
Án tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

Tạm dịch:

Cạo bỏ râu tóc
Nguyện cho chúng sanh
Xa lìa phiền não
Rốt ráo thanh tịnh
Án tất điện đô mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. (3 lần)

 

CHƯƠNG XXII: HỘI NHẬP THẾ GIAN

Phàm là Sa môn, Cư sĩ… nếu không việc cần thiết thì chẳng nên ra ngoài du ngoạn. Nếu có duyên sự cần đi, chẳng được đi như chạy, chẳng được động cánh tay. Không được đi mà luôn nhìn người và vật ở hai bên đường. Chẳng được vừa đi vừa nói cười, chẳng được cùng nam nữ, Tăng Ni, người say, người cuồng, trước sau đắp đổi nhau đi. Không được dùng khoé mắt liếc nhìn người khác phái.

Phàm gặp bậc Tôn trưởng, nên trước đứng ở chỗ thấp hoặc đứng sang bên cạnh. Phàm gặp các cuộc biểu diễn trò chơi, ảo thuật,  đánh lộn, cãi vã, tiệc vui, lễ hội, tế thần, cờ  bạc,… phải vững mình đi thẳng, không được đứng lại xem hay liếc nhìn. Khi gặp quan phủ không luận lớn nhỏ, đều phải quanh lánh.

Phàm khi thấy các loài sinh vật nên khởi lòng thương xót. Kinh Phạm Võng nói: “Khi thấy tất cả chúng sanh, cần nên xướng lời như vầy: Chúng sanh các ngươi, trọn một báo thân nầy nên thọ tam Quy y và hành trì 10 giới. Nếu gặp trâu ngựa heo dê, hết thảy các loài súc sanh, nên tâm niệm miệng nói lời rằng: ngươi là súc sanh, nên phát Bồ đề tâm…

Phàm vào phố chợ, chẳng được tùy tiện ngồi quán rượu, chẳng được ngồi chỗ mổ giết thịt, chẳng được đi vào các nơi buôn hương bán phấn, trừ hàng Bồ tát hóa hiện không còn phiền não nhiễm ô đến để giáo hóa.

Phàm khi mua đồ, không được kèo nài đắt rẻ, thấy giá cả không vừa ý thì đừng mua là được rồi. Nếu đã lỡ mua rồi tuy giá có mắc hơn chỗ khác cũng không thể từ chối khiến cho kia sanh lòng hờn giận gây chuyện thiệt thòi. Nếu bị người sỉ nhục cũng nên phương tiện tránh đi, chẳng được quyết lòng đòi phân rõ trắng đen. Nếu bị trẻ nít chọc mắng, nên bình tâm đi thẳng, chẳng nên mắng chửi trả lại. Nếu nghe chỗ có nguy hiểm thì chẳng nên bạo dạn đi vào chỗ đó. Nếu cưỡi ngựa hay ngồi xe, đi chung hay đi riêng đều nên khuyên họ niệm Phật.

Phàm cư sĩ đến nhà người, trừ những việc cần thiết phải trao đổi, chẳng được nói nhiều cười nhiều, nên nhất tâm niệm Phật. Nếu biết kia là người học Phật, đặc biệt đến mình có ý thưa hỏi thì phải nên hết lòng đem giáo lý đại thừa mà giới thiệu cho họ, khai đạo mở pháp lành truyền trao cho họ biết niệm Phật, giới sát, … Nếu không vậy thì chẳng nên nói nhiều, chỉ nên khéo léo mà dẫn dắt họ.

Nếu gặp Sa môn đến nhà người hoặc lục thân quyến thuộc thì cần phải nghiêm cẩn y theo chương 18 “Đến Nhà Người” trong Oai Nghi Môn đã nói rõ, nơi đây chẳng cần nêu lại.

Phàm vào Tự viện, trước nên đến khách đường, nên chào hỏi Thầy Tri khách, hoặc Thầy Đương gia. Vừa gặp thời liền lễ bái, nếu tự mình là Tỳ kheo thời nên chắp tay xá chào rồi mới thưa hỏi.

Phàm vào cửa Chùa, chẳng được đi cửa chính giữa, nên duyên theo cửa bên trái hay bên phải mà đi. Nếu đi cửa bên trái thì bước chân trái trước, đi bên phải thì bước chân phải trước. Không được vô cớ đi dạo lên điện Phật. Nếu lạy Phật trên chánh điện không nên đứng ở giữa vì đó là chỗ của Trụ trì, không nên tự ý đánh khánh. Nếu tham quan các nơi, phải có người trong chùa hướng dẫn, không nên tự do đi lung tung, ngó nhìn dáo giác, không nên tùy ý ra vào khiến có sự hiểu lầm.

Vào chùa Ni không được đi một mình, không được cùng chư Ni ngồi chỗ khuất, không được cạo tóc cho Ni. Ni khi qua chùa Tăng cũng vậy, Ni khi thấy Tỳ kheo thì phải lễ bái, Tỳ kheo chỉ xá chào đáp lại, Cư sĩ thấy Ni chắp tay chào, Ni cũng phải xá chào đáp lại.

Khi đi xa, phải có bạn lành, không được cùng với người không tốt đi chung, dù cho đi gần cũng y như vậy. Người đệ tử Phật khi đi xa đều vì để tìm bậc thiên tri thức giải quyết vấn đề sanh tử. Khi đi không nên du ngoạn sông núi, luống khoe khoang chỗ trông rộng thấy xa của mình. Khi thấy vật gì ở trên đường, phải nên niệm các bài kệ trong phẩm Tịnh Hạnh Kinh Hoa Nghiêm, văn nhiều không chép lại.

Khi thấy tất cả đều tưởng chỗ mà mình đi đến, nơi mà mình trở về. Bản thể là ở đâu, tại sao hóa thành, đến lúc nào thì tiêu diệt. Suy cho cùng thì nhất định phải có lối ngộ nhập, khi từ ngoài trở về thì chỉ nên nói về những cảm ngộ của mình mà thôi, không nên hứng thú khoe khoang cái thấy đẹp đẽ về cảnh vật bên ngoài.

 

CHƯƠNG XXIII: VIỆC TANG MA

Phàm là Cư sĩ tại gia khi trong nhà gặp phải cha mẹ hay người thân quyến mất. Trước lúc người ấy mạng chung, nên chọn lối đi về của họ mà tổ chức, phải đem việc này thông báo trước cho mọi người trong nhà cùng biết. Trong phòng nên quét dọn sạch sẽ rồi đốt nhang, khuyên cả nhà cùng niệm Phật. Luôn chọn cảnh giới tốt đẹp ở Tây phương Tịnh độ để khuyến khích cho người bệnh quay về. Nếu người bệnh đã tắt hơi, người trong nhà chớ nên bi ai khóc lóc, cũng không nên hoang mang vội vã, phải bình tĩnh tiếp tục niệm Phật  từ 3 cho đến 5 tiếng đồng hồ sau mới ngưng.

Nếu người chết hơi ấm còn chưa tan hết, thì chẳng nên tô điểm, cũng không được lấy tay sờ vào thi thể. Đợi đến khi hơi ấm hết, sau đó mới trang điểm tẩm liệm. Chớ nên rượu thịt tế lễ.

Khách đến thì phải mời họ niệm Phật, khéo từ chối tất cả phẩm vật tế lễ bằng các loài súc sinh. Gần đó có giới Sa môn giới đức thanh tịnh, nên thỉnh đến niệm Phật, tụng kinh. Nếu không thì hàng cư sĩ tự thân cùng tang quyến tắm gội sạch đốt hương làm lễ, trong nhà nên lập một bàn thờ Phật, rồi cùng nhau lễ bái tụng kinh. Vì thần thức người chết và tâm linh của tang quyến tiếp cận rất gần. Khi tụng niệm, hàng quyến thuộc càng thêm chí thành khẩn thiết vậy, không hẳn phải y theo phong tục thường tình thế gian.

Thứ nữa, trừ các nghi thức thông thường ra, nên dán cáo phó viết thêm vào các khoảng còn trống.

Viết rằng: “Trong gia đình có tang, tất cả đều vâng theo lời Phật dạy, chẳng giết sanh mạng, chẳng dùng đồ mặn, các thứ nồng cay. Quý khách có lòng viếng thăm phúng điếu, ngoài việc dâng hương niệm Phật ra, chẳng dám phiền đến các việc khác”.

Nếu khai đường tế lễ, muốn dùng lễ Nho gia cũng tốt, chỉ cần lấy việc chẳng sát sanh làm trọng. Phàm khách khứa, âm công khiên quan tài tốn nhiều sức, thì dùng quà hay phong bì để thù lao thay cho rượu. Ngày khai đàn giảng kinh, nên trước chuẩn bị bày biện một giảng đường, thỉnh một Thầy có thể thuyết giảng Phật pháp, tùy thời gian ấn định bao lâu đó, quan khách đều đến ngồi nghe, trong gia quyến cũng đều trải chiếu dưới đất ngồi nghe. Nếu không có giảng sư, trong hàng Cư sĩ cũng có thể thuyết giảng. Nếu người giảng là Cư sĩ thuộc hàng con cháu của người chết, thì chẳng được tự đứng trên đài cao, mà nên đứng ở chính giữa bên dưới, hướng lên trên mà thuyết giảng, trong nhà mọi người trải chiếu ngồi dưới đất. Nên ngồi xếp bằng, khiến cho quan khách thảy đều sanh tâm thanh tịnh.

Lại trong nhà chẳng nên dùng phèn la chiên trống vang rền, phải  lấy “Pháp loa” làm hiệu lệnh, dùng ống sáo, ống tiêu để phối nhạc tiếc thương. Trước cổng treo một lá phan dài, lá phang có thể dùng vải hay giấy, phía trên dán hình Phật phóng quang tiếp dẫn. Lúc đưa đi thì có thể cầm phang này đi trước dẫn đường, khách đưa đám tang có thể không hẳn mặc đồ trắng, cài hoa sen trên vai, mầu sắc có thể là xanh đỏ trắng đều được, không nhất thiết phải dùng thuần trắng. Nếu dùng màu trắng, thì trên vải trắng nên viết sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật, khiến cho mọi người nhìn thấy đều nhiếp tâm niệm Phật hỗ trợ người mất vãng sanh, giữa đường gặp người phúng viếng cũng như thế. Nên chuẩn bị trước một bài văn Tịnh độ, nêu rõ nguyên do. Trên quan tài nên an trí đài hoa sen, ở giữa đài hoa sen an trí tượng Phật tiếp dẫn, nhằm thay đổi tập tục dùng chim bạch hạc. Còn trong suốt thời gian trên đường đi đều nên xưng niệm danh hiệu Phật, như xướng bài Tán hương vậy, niệm kéo âm vận cho dài, hợp với sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật niệm, để tránh trường hợp thang âm người trước người sau chẳng đồng. Khi đưa tiễn đến chỗ an táng, mọi người cùng tụng một quyển A Di Đà Kinh, xưng niệm danh hiệu Phật, hồi hướng phục nguyện siêu độ cho người mất được vãng sanh.

 

CHƯƠNG XXIV: VÀO THIỀN ĐƯỜNG

Phàm là Sa môn cư trú ở các thiền đường, có những quy tắc mà trong sách này chưa đề cập đến thì có thể chiếu theo “Oai Nghi Môn” để tập hành theo, nơi đây chẳng nêu lại dài dòng.

Thích Thiện Phước dịch
Nha Mân 05-12-2014