SÁM QUAN ÂM
(Sám tụng Quán Âm I)

Cơn sóng gió nổi trôi chiếc bách,
Một mình ta vừa lách vừa bơi,
Chơi vơi mấy độ chơi vơi,
Vào trong sáu nẻo ra nơi bốn đường.
Nầy Phật tử lục phương tế độ,
Dụng sắc thân dạy dỗ người mê,
Ấy là gió thổi mây về,
Nước chao sóng dậy tư bề một phen.
Ðạo cao cả tập rèn diệu lý,
Nước hương thơm miều mỹ tòa son.
Ví như thể mẹ tìm con,
Cảm thông ứng hiệp khai môn khắp cùng,
Vì lẽ đó ta dùng Quán Thế,
Bố thí nầy một thể ban ra,
Thí thân nào có nại hà,
Phải duyên ta thí để mà độ sanh.
Chư Bồ Tát thường hành lục độ,
Cơ duyên nầy nhiều thuở bố vi,
Hễ ai có phước duyên thì,
Niệm tâm vừa khởi các Ngài độ cho.
Thừa Phật ấy nào đo nào lượng,
Biết mấy đời đã hưởng đặc ân,
Ðã đành là sự thí thân,
Thí tài, thí pháp cũng cần như nhau.
Tài, pháp thí còn sâu còn rộng,
Tài cho ra chẳng mộng chẳng nương,
Ðã cho thì chớ có tường,
Thọ thì chớ nghĩ sự thường vốn không.
Lòng bác ái cố công rèn đúc,
Dắt người lên đến bực thăng bằng,
Bao nhiêu cũng đủ, ta hằng,
Chăm lo hành đạo vớt thăng luân hồi.
Từ quá khứ các đời Bồ Tát,
Chư Phật đều một loạt hóa sanh,
Ra đời độ chúng hữu tình,
Dìu ra nhà lửa đến thành Pháp vương.
Nhơn duyên ấy lập phương khai thị,
Phật tử nầy cố chí học theo,
Thường hành Bồ Tát ráng chèo,
Lìa từ thấp quả lần trèo lên cao.
Thinh Văn bỏ, nhập vào Bồ Tát,
Lấy nhơn duyên khai thác đạo mầu,
Nay câu lục độ ráng trau,
Pháp môn chỉ có bấy nhiêu đó mà.
Một thừa Phật không ba không bốn,
Bởi trí căn minh, độn mà ra,
Tựu trung có một, một là,
Phật thừa Bồ Tát ráng mà hành theo.
Trong kinh nói đủ chiều muôn hạnh,
Ðủ sắc thân tướng tánh quang minh,
Ðủ thần thông lực tám ngành.
Chung qui tánh kiến tâm minh tựu thành.
Bồ-đề thọ, vốn mình không thọ,
Giống hữu tình tuy có mà không,
Có nhơn duyên mới hiệp đồng,
Hiểu trong chơn thể tỏ tường bổn lai.
Phật tức tâm, tâm ta có Phật,
Tâm tức Phật, Phật ở nơi lòng,
Nhẹ nhàng rửa sạch bụi hồng,
Trau câu mô Phật thì lòng mới nguôi.
Tâm tánh ấy mau chùi cho sạch,
Gội bụi trần học cách thiền gia,
Từ bi độ chúng hà sa,
Nguy nan cứ dạ Ta bà lại qua.
Quan Âm Phật Ta bà dạo khắp,
Tìm nạn tại cứu cấp sanh linh,
Ấy là lục độ trau mình,
Ra ân bố thí dẹp tình phân chia.
Thuyền Bát nhã nối tia nhựt nguyệt,
Tam tạng kinh giải hết lục trần,
Phá tan xiềng xích ái ân,
Lo câu lục tự chuyên cần độ ta.
Ðạo cảm ứng Phật ta dung hợp,
Nghĩa dung thông chỉ một không hai,
Bóng hình hình bóng là ai,
Trăng trong nước tịnh không sai bóng lòng.
Trên liên tọa chín tầng hé nở,
Tấm lòng thành một thuở hóa sanh,
Sanh làm Phật, Phật độ sanh,
Nhành dương nước tịnh anh linh độ đời.
Phật Di Ðà là người phàm tục,
Ðức Thích Ca vốn bực vương gia,
Quan Âm cũng chỉ người ta,
Thế Chí vốn là một kẻ đầu thai.
Phật Hiền Thánh không ai thoát khỏi,
Ở kiếp người đi đến Niết bàn.
An tức tịnh, tịnh là an,
Hiểu trong tâm trí thấy tràng hạt sen.
Khắp lục đạo người chen kẻ lấn,
Biển trầm luân mê tánh cho vui,
Kìa lầu các, nọ cao ngôi,
Ba hơi kết cuộc khó thời mang theo.
Gây tội ác ngặt nghèo phải thọ,
Trách đất trời sao ở bất công,
Hỡi ai ghi lấy làm lòng,
Trau câu niệm Phật để hòng độ thân.
Ao thất bảo trân châu mã não,
Cửu liên hoa ngôi báu dành đây,
Muốn ra khỏi kiếp đọa đày,
Ráng công tu luyện có ngày hóa sanh.
Ðừng mến tiếc Nam thành thế giới,
Cõi Diêm phù tội lỗi mê tân,
Cố công tham cứu học lần,
Di Ðà miệng niệm chuyên cần chớ sai.
Trên Phật Thánh độ tai qua khỏi,
Dưới phàm trần hết nỗi khổ luân,
Ráng niệm, niệm bất ly thân,
Sông mê thoát đặng hóa thân độ đời.
Ma Ha Bát Nhã qua thời,
Bước lên bờ giác thảnh thơi an nhàn.

– Trích từ “Tam Bảo Tôn Kinh” Thích Ca Tự Sàigòn 1967.
– Ðối chiếu sửa chữa lại với bản in “Liên hoàn sám nguyện” Thích Thiện Tâm – Sađéc 1961.


SÁM QUAN ÂM
(Sám tụng Quan Âm II)

Quan Thế Âm oai thần lồng lộng,
Khắp thế gian đều trọng danh ngài,
Chúng sanh hết thảy ai ai,
Khi nào gặp nạn niệm Ngài liền qua.
Bởi người thế gần xa ngưỡng mộ,
Quan Thế Âm cứu khổ độ sanh,
Nếu ai có một niệm lành,
Hễ Ngài nghe tiếng ứng danh tới liền.
Dù bịnh trọng liên miên khổ cực,
Niệm danh Ngài lập tức khỏi ngay,
Bao nhiêu tai nàn hằng ngày,
Chí tâm niệm tới danh Ngài cũng qua.
Vô lượng kiếp Ta bà thế giới,
Ngài giáng sanh xuống cõi dương gian,
Hóa thân công chúa đoan trang,
Diệu Trang Vương ngự ngai vàng vua cha.
Diệu Thanh ấy chính là chị cả,
Sau cũng tu chứng quả Văn Thù,
Diệu Âm chị thứ cũng tu,
Phổ Hiền chứng Thánh đền bù công lao.
Trọn một nhà được vào cảnh Phật,
Lòng từ bi chơn chất đáng ghi,
Tuổi nhỏ trí cả ai bì,
Dốc lòng mộ đạo quyết thì đi tu.
Trọn chín năm chẳng từ lao khổ,
Mong công thành cứu độ chúng sanh,
Thời kỳ trai giới tu hành,
Tại động Hương Tích bắc thành ViệtNam.([12])
Một cảnh tiên mây lam che phủ,
Có cam tuyền, thạch nhũ bao quanh,
Cảnh tốt dành cho người lành,
Kim Ðồng Ngọc Nữ ứng danh theo hầu.
Dưới bệ ngọc chia nhau sớm tối,
Chầu hai bên không lỗi đạo thầy,
Luôn luôn chân chánh thẳng ngay,
Hành theo ý chỉ của thầy ban ra.
Quan Thế Âm danh là Tự Tại,
Khắp tam thiên qua lại dạo chơi,
Từ bi Ngài muốn độ đời,
Mười hai đại nguyện thiệt thời cao xa.
Nguyện nào cũng đều là rốt ráo,
Chuyên tâm về chánh đạo độ tha,
Biển Nam Hải, núi Phổ Ðà,([13])
Trụ ở nơi ấy cũng là Hương Sơn.
Trong một phẩm Phổ Môn thị hiện,
Ðức Như Lai thuật chuyện khen Ngài,
Oai thần linh hiển không hai,
Tầm thinh cứu khổ chẳng nài công phu.
Nếu có kẻ muốn tu cư sĩ,
Hay cùng là tùy ý muốn chi,
Ngài liền ứng hiện tức thì,
Tới nơi dìu dắt cấp kỳ độ cho.
Hay có kẻ qua đò mắc nạn,
Cùng bao nhiêu tai nạn dọc đường,
Chí thành đốt nén tâm hương,
Vừa niệm danh hiệu tai ương qua liền.
Những chuyện ấy hiển nhiên đều thấy,
Ðức Như Lai truyền dạy chẳng sai,
Chúng ta chớ có quản nài,
Một lòng ngưỡng mộ cầu Ngài độ cho.
Trong khổ hải đò Từ vẫn đợi,
Vớt chúng sanh đưa tới Lạc bang,
Chín từng sen báu đài vàng,
Di Ðà thọ ký rõ ràng thảnh thơi.
Từ bi cứu khổ độ đời,
Tầm thinh giải nạn đến nơi an lành.
Nam mô Tầm thinh Cứu khổ Ðại bi Quán Thế Âm Bồ Tát.

– Bản in ở tuyển tập trong 2 lần xuất bản trước thiếu 2 câu chót – Có bổ sung đính chính hoàn chỉnh, sau khi đối chiếu so sánh lại từ 2 bản: “Tam Bảo Tôn Kinh” của Thích Ca Tự 1968 và “Kinh Nhựt tụng” của chùa Ðại Giác 1974.

[12]) Ðộng Hương Tích ở trên đỉnh Hương Tích sơn là nơi đức Quan Thế Âm Bồ Tát tu hành và hóa thân tại đó.
Có hai truyền thuyết về Hương Tích:
1. Hương Tích sơn là một cảnh núi thâm cao thanh tịnh, ở đỉnh núi Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Bắc Trung bộ Việt Nam.
2. Hương Tích sơn là Nam Thiên đệ nhứt động thuộc tỉnh Hà Tây miền Bắc Việt Nam.
[13])Quan Âm Nam Hải Phổ Ðà, tức núi Phổ Ðà trên biển Nam Hải ở Hàng Châu Trung Quốc. Nơi đây cũng là hóa thân tu hành của Bồ Tát Quan Âm, cũng như ở Hương Tích Sơn Việt Nam vậy.


SÁM KHỂ THỦ QUAN ÂM NGHĨA
(Sám tụng Quan Âm III)

Cúi đầu đảnh lễ đức Quan Âm,
Tướng tốt quang minh nguyện lực thâm.
Nghìn mắt sáng soi đường tăm tối,
Nghìn tay dìu dắt kẻ mê lầm
Vô vi phát khởi Từ bi nguyện,
Chơn thật tuyên dương bí mật âm.
Thỏa mãn mọi người lòng ước nguyện,
Tiêu trừ tội chướng hết lâm trầm.
Long Thiên các Thánh đồng gia hộ,
Trăm nghìn tam muội nguyện tu tâm.
Thân được quang minh tâm trí tuệ,
Thọ trì công đức thật cao thâm,
Trần lao biển cả thề qua lại,
Siêu chứng Bồ-đề hết lỗi lầm.
Con nay xưng tụng nguyện qui y,
Các nguyện tùy tâm đều viên mãn.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con biết tất cả pháp.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con được mắt trí tuệ.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con được nhiều phương tiện.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con lên thuyền Bát Nhã.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con vượt qua biển khổ.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con được Giới Ðịnh Huệ.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con lên núi Niết-bàn.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con vào vô vi thất.
Nam mô Ðại Bi Quan Thế Âm,
Xin cho con được thân pháp tánh.
Nếu con đeán núi dao,
Núi dao tự đổ vỡ,
Nếu con đến lửa nóng,
Lửa nóng tự tàn rụi.
Nếu con đến địa ngục,
Địa ngục tự khô diệt.
Nếu con đến ngạ quỉ,
Ngạ quỉ tự no đủ.
Nếu con đến tu la,
Tu la được điều phục.
Nếu con đến chúng sanh
Chúng sanh được trí tuệ.

Nam Mô Ðại Bi Quan Thế Âm Bồ-tát

-Trích Pháp Sự Khoa Nghi Việt Ngữ, HT. Thích Hiển Tu, chùa Xá Lợi ấn hành nội bộ, Tp. HCM, 1989


VĂN TÁN DƯƠNG
PHỔ MÔN 12 ÐẠI NGUYỆN
(Sám tụng Quan Âm 4)

Phổ Môn một phẩm khen Ngài,
Quan Âm Bồ-tát chẳng nài công lao.
Thị hiện phép Phật tối cao,
Nghe lời khấn nguyện tìm vào độ nguy.
Phương tiện thuyết pháp từ bi,
Bến mê biển khổ tức thì cứu lên.
Tùy duyên cảm ứng tới liền,
Dắt dìu sanh chúng về miền Lạc bang.
Bốn biển êm lặng bình an,
Ba đường tám nạn vững vàng lánh xa.

1. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Công tu đầy đủ hiệu ngài Viên Thông.
Tâm Ngài vắng lặng sạch trong,
Nêu danh Tự Tại đầy lòng từ bi.
Liền phát đại nguyện một khi,
Lời lời rộng lớn đều vì chúng sinh.

2. Nam mô Quan Âm Như lai,
Tâm lành thường niệm chẳng sai chút nào.
Trong đục thêm bớt lao xao,
Chẳng hề tưởng tới đức cao tột vời.
Còn chi ngăn ngại chơi vơi,
Nguyện ở Nam Hải là nơi thanh nhàn.

3. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Ta Bà dạo khắp chẳng nài công lao.
U minh cõi ấy thường vào,
Xét soi lời nói kẻ nào hồi tâm.
Tùy duyên ngôn hạnh ân caàn,
Nguyện đều cứu khổ người trần kẻ âm.

4. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Hàng ma trừ quái phép Ngài tối cao.
Trần gian như có người nào,
Yêu tà phá quấy lâm vào cảnh nguy.
Chí thành cầu khẩn một khi,
Nguyện giải tai ách tức thì hết ngay.

5. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Nhành dương bình tịnh của Ngài rất hay.
Tu hành muốn kiếm đường ngay,
Tâm còn xao xuyến hằng ngày chưa yên.
Cam lồ hay hóa phép Tiên,
Nguyện rửa cho sạch tâm phiền trần gian.

6. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Từ bi quảng đại tâm Ngài rộng thông.
Hỷ xả hết tội lập công,
Ăn năn sám hối quyết lòng lo tu.
Nhân lành tự tạo đền bù,
Nguyện đều độ khắp chẳng từ phân chia.

7. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Ngày đêm tuần khắp xét soi lòng người.
Tu hành chẳng có biếng lười,
Chuyên cần Chánh pháp vẹn mười điều hay.
Ủng hộ tinh tấn hằng ngày,
Thệ nguyện dứt hết trả vay ba đường.

8. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Hướng về Nam Hải cầu Ngài độ cho.
Chuyên cần niệm nguyện nhỏ to,
Thường hành Chánh pháp nương đò từ bi.
Nghiệp duyên cho dứt một khi,
Nguyện đều giải thoát tức thì thênh thang.

9. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Pháp thuyền đóng sẵn đợi ngoài biển khơi.
Mê tân khổ hải dạo chơi,
Cứu vớt muôn loại khỏi nơi sóng trần.
Ai người tu niệm ân cần,
Nguyện độ hết thảy một lần chúng sinh.

10. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Tràng phan dẫn lộ tuyền đài thẳng dong.
Bảo cái kế tiếp song song,
Kim Ðồng, Ngọc Nữ đã mong lệnh truyền.
Nguyện tiếp những kẻ hữu duyên,
Ðưa về Cực lạc ở miền Tây phương.

11. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Tây phương Cực lạc cõi ngài Thọ Vương.
Hoa sen chín phẩm biểu dương,
Lầu châu các ngọc lót đường pha lê.
Di Ðà, Thánh chúng đề huề,
Nguyện nhờ thọ ký rước về tòa sen.

12. Nam Mô Quan Âm Như lai,
Pháp thân thanh tịnh Liên đài trang nghiêm.
Pháp mầu vô lượng vô biên,
Không thêm không bớt tự nhiên an nhàn.
Khắp nơi vui vẻ phong quang,
Hoàn mười hai nguyện rõ ràng như trên.

-Trích Kinh Nhật Tụng, Chùa Hoằng Pháp xb, Sàigòn, 1971


SÁM VĂN QUAN ÂM TIÊU NGHIỆP CHƯỚNG
(Sám tụng Quan Âm 5)

Ngã cập chúng sinh
Vô thủy thường vị
Tam nghiệp lục căn
Trọng tội sở chướng,
Bất kiến chư Phật,
Bất tri xuất yếu,
Ðãn thuận sinh tử,
Bất tri diệu lý,
Ngã kim tuy tri,
Bo dữ chúng sinh,
Ðồng vị nhứt thiết,
Trọng tội sở chướng,
Kim đối Quan Âm
Thập phương Phật tiền,
Phổ vị chúng sinh,
Qui mệnh sám hối.
Duy nguyện gia hộ,
Ninh chướng tiêu diệt,
Ngã dữ chúng sinh,
Vô thủy lai kim,
Do ái kiến cố,
Nội kế ngã nhân,
Ngoại gia ác hữu,
Bất tùy hỷ tha,
Nhất hào chi thiện,
Duy biến tam nghiệp,
Quảng tạo chúng tội,
Sự tuy bất quảng,
Ác tâm biến bố,
Trú dạ tương tục,
Vô hữu gián đoạn,
Phú quý quá thất,
Bất dục nhân tri,
Bất úy ác đạo,
Vô tàm vô quí,
Bác vô nhân quả,
Cố ư kim nhật,
Thâm tín nhân quả,
Sinh trọng tàm quí,
Sinh đại bố úy,
Phát lộ sám hối,
Ðoạn tương tục tâm,
Phát Bồ đề tâm,
Ðoạn ác tu thiện,
Cần sách tam nghiệp,
Phiên âm trọng quá,
Tùy hỷ phàm thánh,
Nhất hào chi thiện,
Niệm Thập phương Phật,
Hữu đại phúc tuệ,
Năng cứu bạt ngã,
Cập chư chúng sinh,
Tòng nhị tử hải,
Chí tam Ðức ngạn,
Tòng vô thủy lai,
Bất tri chư pháp,
Cầu tính không tịch,
Quảng tạo chúng ác,
Kim tri không tịch
Vị cầu Bồ đề,
Vị chúng sinh cố,
Quảng tu chư thiện,
Biến đoạn chúng ác,
Duy nguyện Quán Âm,
Từ bi nhiếp thụ.


SÁM VĂN QUAN ÂM MƯỜI HAI NGUYỆN
(Sám tụng Quan Âm 6)

Cúi đầu làm lễ VIÊN THÔNG,
QUAN ÂM TỰ TẠI mở lòng độ hơn.
Từ bi quảng đại vô lường,
Lập hoằng thệ nguyện vẹt đường khổ nguy.
Một niềm lòng chẳng ngại chi,
QUAN ÂM ân đức chơn vi hải hà.
Thường cư Nam Hải Phổ Ðà,
Chí nguyền độ chúng khỏi sa tội tình.
Ta bà thế giới u minh,
QUAN ÂM thường trụ hiện hình khắp nơi,
Tầm thinh cứu kẻ lưng vơi,
Chí nguyền độ thế về nơi an nhàn.
Trừ yêu trục quỉ kinh mang,
QUAN ÂM oai đức phục hàng chúng Ma.
Vớt người nguy hiểm đọa sa,
Chí nguyền phổ tế, nhọc mà chẳng than.
Thường cầm thanh tịnh bình vàng,
QUAN ÂM cậy có nhành dương cam lồ,
Rưới tâm phiền não lửa lò,
Chí nguyền độ chúng an cư Niết bàn.
Từ bi tánh đức mở mang,
QUAN ÂM hỉ xả tâm hoàn huệ thông,
Thường hành bình đẳng đại đồng,
Chí nguyền hóa độ khắp trong muôn loài.
Mười phương tuần sát đêm ngày,
QUAN ÂM tinh tấn mựa nài công lao,
Ðộ đều nhơn vật khỏi hao,
Chí nguyền diệt tận khổ đau ba đường.
Một lòng vọng tưởng Nam Sơn,
QUAN ÂM lễ bái ân cần hôm mai.
Xem nơi xiềng tỏa đọa đày,
Chí nguyền độ kẻ mang tai khỏi nàn.
Từ bi tạo chiếc Pháp thoàn,
QUAN ÂM dạo khắp khổ nàn biển khơi.
Ðộ người lặn hụp chơi vơi,
Chí nguyền tiếp dẫn về nơi Niết bàn.
Tràng phan bửu cái nghiêm trang,
QUAN ÂM sắp đặt rỡ ràng trước sau
Rước người niệm Phật chẳng xao,
Chí nguyền dìu dắt thẳng vào Tây phương.
Vô Lượng Thọ Phật cõi thường,
QUAN ÂM thọ ký, chỉ đường vô sanh,
Từ bi phổ hóa hàm linh,
Chí nguyền độ chúng kiến minh Di Ðà.
Ðoan nghiêm thân hiện sáng lòa,
QUAN ÂM diệu tướng thiệt là vô song,
Lực, hùng, bi, trí viên dung,
Mười hai đại nguyện quả công tu tròn.

SÁM CỨU KHỔ QUAN THẾ ÂM
(Sám tụng Quan Âm 7)

Cúi đầu lạy Phổ Ðà Phật Tổ
Quan Thế Âm cứu khổ hồng trần
Từ bi phổ tế lê dân
Muôn loài nhuần gội hồng ân đức Ngài
Xin độ kẻ hằng ngày chiêm ngưỡng
Giúp người lành hạnh hưởng phước duyên
Gió giông sa đọa ghe thuyền
Tâm thành khẩn đảo, tai liền giảm tan
Rủi lầm bước vào đàng đạo tặc
Vướng đao binh thắt ngặt thảm sầu
Nhờ ơn bủa khắp bốn châu
Tiếng than xúc động tầm âu độ người
Hoặc hung bạo bị nơi xiềng tỏa
Ở hiền lành mắc họa thình lình
Chí thành khẩn vái thánh minh
Quan Âm Bồ Tát anh linh cứu nàn
Gặp yêu quái cản đàng ngăn ngõ
Ðức Từ hàng chẳng bỏ người lành
Tà mà nghe đến oai danh
Mắt không dám ngó khó hành hại thân
Cảm, thử, thấp, tâm thần trầm trệ
Mang bệnh căn thân thể xốn xang
Hồn mơ chợt tỉnh trí ngoan
Quan Âm niệm đặng, tai nàn sẽ tiêu
Người vô tự, quạnh hiu sau trước
Sửa tấc lòng tác phước khẩn cầu
Cho trai hiển đạt trí mầu
Gái ngoan đoan chánh ngõ hầu thuần lương
Lòng thê thứ nhiều phương tin tưởng
Quan Thế Âm liệu lượng hóa thân
Xót thương trợ kẻ phàm trần
Dắt dìu thuyết pháp chóng gần Phật tiên
Trí ngu muội đảo điên minh mẫn
Tánh sân si cầu khẩn giải oan
Như lòng tà dục dấy loàn
Sớm khuya tụng niệm đặng an tinh thần
Cơn nước lửa khó phần trốn tránh
Lúc hiểm nguy tâm tánh kinh hoàng
Thật lòng khấn vái khỏi nàn
Nhành dương cam lộ rưới tan diệu kỳ
Ðệ tử chúng con qui mạng lễ
Mong ơn trên phổ tế mười phương
Chúng sanh thoát chốn tai ương
Tránh nơi khổ não, tránh đường chông gai
Nhờ Bồ Tát, Như Lai lân mẫn
Ðộ cho con tinh tấn tu hành
Bền lòng chặc dạ kính thành
Lâm chung mau đặng vãng sanh sen vàng
Cầu cho cha mẹ bình an
Cửu huyền thất tổ nhẹ nhàng siêu thăng
Muôn dân phước lộc thọ tăng
Nhà yên nước thạnh, người năng làm lành
Mỗi người phát nguyện tu hành
Ðồng về Tịnh độ, đến thành Lạc bang.
Nam Mô Ðại Từ Ðại Bi, Cứu Khổ Cứu Nạn, Quảng Ðại Linh Cảm Ứng Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

– Trích “Nghi Thức Tụng Niệm” – Niết Bàn Tịnh xá – Vũng Tàu 1970.

VĂN TÁN NGUYỆN QUAN ÂM

Cúi đầu làm lễ QUAN ÂM,
Phật tiền đệ tử chí tâm khẩn nguyền:
Một cầu mở hoát tâm nguyên,
Biết liền cả thảy pháp thiền NHƯ LAI.
Hai cầu Bát Nhã tánh khai,
Sớm đặng trí huệ nhãn rày quang minh.
Ba cầu từ huệ rộng thinh,
Ðộ liền cả thảy chúng sinh khỏi nàn.
Bốn cầu tâm địa mở mang,
Sớm đặng phương tiện trí toan lẹ làng.
Năm cầu tâm đạo vẹn toàn,
Liền lên Bát Nhã từ thoàn Tây qui.
Sáu cầu tránh khỏi tai nguy,
Sớm qua khổ hải thoát ly hồng trần.
Bảy cầu thanh tịnh tâm thân,
Mau thành GIỚI, ÐỊNH, HUỆ chơn pháp thiền.
Tám cầu đạo hạnh cố kiên,
Sớm lên bỉ ngạn tịnh yên Niết Bàn.
Chín cầu tánh đặng thanh an,
Vô vi diệu trí minh quang phát liền.
Mười cầu hành đạo tinh chuyên,
Sớm thành Phật tánh diệu viên Bồ đề.
Mong ơn Bồ Tát chứng tri,
Ðộ cho đệ tử tu trì thành công.


SÁM PHỔ ÐÀ

Phụng Tây Trúc, Phổ Ðà lạc đạo,
Ngự non châu, cửu khúc trùng trùng,
Thủy giang tân, cúc nở nhụy bông,
Ve réo rắt, đàn ngâm suối đá.
Quan Âm Phật ngự non cung giá,
Ðộng Phổ Ðà hữu cảnh vô biên,
Trên thông reo gió mát tự nhiên,
Dưới khe nước rồng chầu phụng múa.
Am mây ửng áng hồng lồ lộ,
Mấy thứ lá, nhụy nở hây hây,
Ðào đơm bông, cúc trổ thơm cây,
Nghe văng vẳng tiếng người qua lại.
Trên đức Phật từ bi quảng đại,
Dưới rồng chầu phụng múa tiêu thiều,
Non thiên thai, vàng chuộng báu yêu,
Cõi Tây Trúc, Long ly chầu chực.
Lấy san hô làm cột,
Dựng hổ phách làm sườn,
Lược đồi mồi làm ngói che sương,
Bông sen nở làm thuyền Bát nhã.
Kết hoa nọ xây cầu bỉ ngạn,
Bình tịnh thủy rưới hoa Tây Hớn,
Nước cam lồ dùng để cứu dân,
Máy thiên địa giao lân,
Trời có sanh có dưỡng.
Chuông Linh Sơn, khai ngục thành Tây.
Trống Bát Nhã, tựu đề phóng xả,
Ðiểm thất tinh như Càn Long mã,
Hỗn độn khai nhị thất tam cung,
Phân Bát quái, lập đàn tứ trụ.
Án Dà Ra Ðế Hồng Rị toá ha.
Thỉnh đức Quan Âm, đức Phật Thích Ca
Án hồng rị thông hành tóa ha.

Nam Mô Cứu khổ cứu nạn Linh cảm Ðại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát.

– Bản chép năm Kỷ Dậu (1969) của chùa Nhất Nguyên Bửu Tự (Lái Thiêu) và Long Sơn Tự (Tân Ban, Tân Uyên) của bà Nguyễn Thị Ní, PD Diệu Tâm lưu giữ. Tủ sách Giáo Ðạo Như Tâm tàng bản, Sài Gòn, 1996
– Ðối chiếu bổ sung với bản in trong “Kinh Nhật Tụng” Chùa Ðại Giác ấn hành, Sài Gòn, 1974
– Chưa biết rõ xuất xứ.


SÁM THẬP BÁT QUAN ÂM

Quan Âm Bồ Tát đại từ bi,
Cứu độ chúng sanh vô thượng kỳ,
Tả thủ đề hồ cam lồ thủy,
Hữu thủ cử thanh dương liễu chi.
Ðảnh thượng tải my Mâu Ni Phật,
Khẩu trung thường niệm Ðà La Ni,
Hữu nhơn niệm đắc Quan Âm chú,
Hỏa khanh hóa khán thanh lương trì.

Triêu niệm Quan Thế Âm,
Mộ niệm Quan Thế Âm,
Niệm niệm tùng tâm khởi,
Niệm Phật bất ly tâm.

Thiên Thủ Thiên Nhãn Quan Thế Âm,
Hương Sơn Hội Thượng Quan Thế Âm,
Thiên Trúc Linh Sơn Quan Thế Âm,
Phổ Ðà Sơn Thượng Quan Thế Âm,
Triều Vân Ðộng Lý Quan Thế Âm,
Nam Hải Ngạn Biên Quan Thế Âm,
Bắc Hải Hà Ðầu Quan Thế Âm,
Tọa Liên Tương Tử Quan Thế Âm,
Phong Ba Lãng Tử Quan Thế Âm,
Bổn Thảo Linh Sơn Quan Thế Âm,
Hoa Hóa Ngư Long Quan Thế Âm,
Bạch Y Tố Hiện Quan Thế Âm,
Tăng Phước Minh Vương Quan Thế Âm,
Ngũ Luân Pháp Thủy Quan Thế Âm,
Ngũ Thập Tam Tham Quan Thế Âm,
Thất Thập Nhị Nguyện Quan Thế Âm,
Tam Thập Lục Nguyện Quan Thế Âm,
Tằêng Tằêng Ðạm Ðạm Quan Thế Âm.

Hoặc thị hạ giới cứu lương dân,
Hoặc thị hư không vân lý hiện,
Hoặc thị ngục trung cứu tội nhơn,
Hoặc thị giang hà cứu tai nạn,
Hoặc thị âm ty độ quỷ hồn,
Hoặc thị phòng trung cứu sanh sản.

Tam tai bát nạn câu ly khổ,
Tứ sanh lục độ tức siêu sanh,
Thiên La Thần, Ðịa La Thần,
Nhơn ly nạn, nạn ly thân,
Nhứt thiết tai ương hóa vi trần.
Hỏa lâm thân, hỏa bất năng thiêu,
Thủy lâm thân, thủy bất năng tiêu,
Hữu nhơn đọc tụng Quan Âm chú,
Giáng phước Diên thọ vĩnh mật miên.

– Tam tai bát nạn nhứt tề tiêu,
Ðại Bi phổ thí, hóa thành vô lượng số,
Thất liệp biến hà sa, tề biến mãn địa,
Phổ thí thượng sơn, kỉnh đại bi đô cầu ẩm.

– Ngã Phật khởi lai phát Quan Âm,
Thiên ngôn vạn ngữ khuyến nhơn tâm,
Nhơn tâm khuyến thượng thông thiên bửu.
Tiền thế oan nghiệp tốc hội vô.
Chúng sanh chỉ vọng thanh vân lộ,
Tiếp dẫn chúng sanh xuất thế trần.

– Niệm Phật tảo trần ai,
Tâm hoa tự nhiên thai,
Bạch vân phân tán tân,
Nhật nguyệt chiếu trung đài.

Nam Mô Thập Bát Quan Thế Âm Bồ
Tát Ma Ha Tát.

– Trích trong “Nghi thức tụng niệm” Chùa Ðại Giác ấn hành – Sài Gòn, 1974
– Không rõ trước tác.