KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

QUYỂN THỨ MƯỜI (PHẦN SAU)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn

PHẨM DIỆU ÂM BỒ TÁT

Ba môn phân biệt

  1. DỤNG Ý CỦA PHẨM NÀY.
    II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
    III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
  2. DỤNG Ý CỦA PHẨM NÀY.

Luận nói rằng phẩm Diệu Âm thị hiện việc giáo hóa chúng sinh ra sức tu hành khổ hạnh. Diệu Âm hiện ở Đông thổ, bí mật tại phương này, vốn truyền bá giáo pháp của kinh Pháp hoa, thực hành khổ hạnh. 
Nay Phật phóng quang triệu tập Diệu Âm để chỉ bảo cho mọi người, khuyến phát thắng tâm, hoằng thông kinh pháp. Cho nên mới có phẩm này. 

  1. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.

“Âm” chỉ âm thanh. 
“Diệu” là thù diệu. 
Xưa khi ở vị trí tu nhân, hay tấu nhạc để cúng Phật. Nay ở quả vị, khéo thuyết pháp để lợi sinh. Nói rõ cả hai thứ nghiệp và đức để nêu thành tên gọi. Cho nên gọi là Diệu Âm Bồ tát. Phẩm này thuyết minh về sự tích vị đó, cho nên gọi là phẩm Diệu Âm Bồ tát.

III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.

-Hỏi : vì sao lại phải triệu tập Diệu Âm để thành phẩm này ?
Đáp : Dược Vương tu khổ hạnh ở phương này, tự mình khuyến hóa chúng sinh. Chưa có bậc thượng nhân của phương khác khuyến hóa thuyết pháp ở phương khác. Cho nên triệu tập Diệu Âm đi phương xa hành pháp, khuyên những người khác tu hành khổ hạnh. Cho nên cần triệu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca”    tới    “bạch hào tướng quang”. 
Tán rằng : toàn phẩm này chia làm 4 đoạn lớn :
 1. Thần quang đi triệu.
 2. Diệu Âm tới nơi.
 3. Việc xong về nước.
 4. Đại chúng đương thời đắc đạo.
Đoạn lớn đầu có hai phần : 
 1) Phóng quang.
 2) Nơi tới. 
Đây là phần đầu.
Phóng quang ở nhục kế, tỏ rõ tướng triệu bậc đại nhân.
Phóng quang ở giữa lông mày, biểu thị vì kinh này mà ra lệnh.
*
-Kinh văn : “Chiếu khắp phương đông”    tới    “chiếu khắp nước ấy”. 
Tán rằng : đây là phần thứ hai : nơi tới. 
Có ba ý :
 1) Nơi chốn phương nào.
 2) Nước Phật.
 3) Kết chiếu. 
Nước Phật có ba điều : 
  a) Tên nước. 
  b) Tên Phật. 
  c) Lợi ích của sự giáo hóa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ hết thảy”    tới    “trí tuệ rất sâu”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ hai trong phẩm, nói về Diệu Âm tới nơi. Có ba phần :
1) Vị đó tới.
2) Đoạn từ “Bấy giờ Diệu Âm chẳng từ tòa đứng dậy” trở xuống : tới chốn này.
3) Đoạn từ “Bấy giờ Hoa Đức Bồ tát bạch Phật” trở xuống : nói về hóa hạnh.
Phần đầu lại có bốn phần : 
  a) Kể về đức. 
  b) Thỉnh tới. 
  c) Phật răn dạy. 
  d) Vâng lời dạy. 
Phần kể về đức lại có bốn mục : 
  1/- Nhân tốt sớm trồng. 
  2/- Thiện hữu sớm gặp. 
  3/- Bát nhã sớm viên thành. 
  4/- Đẳng trì đã mãn. 
Đây tức là ba mục đầu.
*
-Kinh văn : “Đắc tam muội Diệu tràng tướng”    tới “các đại tam muội”. 
Tán rằng : đây là mục bốn : đẳng trì đã mãn. 
Có hai phần :
 . Phần đầu : Liệt kê 16 đẳng trì.
 . Phần sau : kết luận Vô lượng. 
Mười sáu đẳng trì gồm :
1) Diệu tràng tướng : như tràng phan cao nổi, mọi đức trang nghiêm.
2) Pháp hoa : thông đạt lý nhất thừa.
3) Tịnh đức : đoạn chướng nhiễm, được thắng đức.
4) Tú vương hý : “Tú” là giống như các vì sao, “Vương” là tự tại. “Hý” là du hý. Có nghĩa là đắc tự tại, có thể thị hiện thành mọi hình tượng giống như tinh tú, thường nhập du hý để làm lợi chúng sinh.
5) Vô duyên : chỉ Diệt tận định hoặc Vô sở duyên định, lìa mọi phan duyên.
6) Trí ấn : lấy Không lý chân như làm trí ấn ; hoặc dùng trí mà ấn định đúng sai, chân vọng.
7) Giải chúng sinh ngữ ngôn : tức Từ vô ngại giải định.
8) Tập nhất thiết công đức : chỉ Tập phúc vương định.
9) Thanh tịnh : có khả năng sinh ra thất tịnh, cửu tịnh, tứ tịnh v.v… Tứ tịnh: gồm Sở y tịnh, Sở duyên tịnh, Tâm tịnh và trí tịnh.
10) Thần thông du hý : có khả năng khởi đại thần thông.
11) Tuệ cự (đuốc tuệ) : chiếu sáng các cảnh giới chân tục.
12) Trang nghiêm vương : có thể có đủ hai thứ trang nghiêm nội ngoại.
13) Tịnh quang minh : vì phóng thần quang.
14) Tịnh tạng : vì hàm chứa mọi đức.
15) Bất cộng tam muội : vì chẳng cùng nhị thừa chứng đắc.
16) Nhật triền : vì như ánh mặt trời xoay quanh mà chiếu sáng cho chúng sinh. Đây là thứ mà Bồ tát Thập địa vận dụng dễ dàng, phần nhiều là đệ tứ định vì định này thắng diệu.
*
Kinh văn : – “Ánh sáng của Phật Thích Ca Mâu Ni”    tới    “Dược Thượng Bồ tát”. 
Tán rằng : đây là phần hai : thỉnh tới.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí”    tới    “sinh ra cảm tưởng thấp kém”. 
Tán rằng : đây là phần ba : Phật răn – dạy. 
Có bốn ý : 
1. Răn dạy. 
2. Kể về sự kém cỏi của con người và cõi nước khác. 
3. Nói rõ sự thắng trội của bản thân. 
4. Kết luận và răn dạy. 
Trong này chỉ luận về sự thắng trội của bản thân, sự kém cỏi của người khác để mà răn dạy họ. 
Như trong kinh Tư Ích, Tư Ích Phạm thiên Bồ tát muốn tới thế giới Sa bà, thì Phật Nhật Nguyệt Quang bảo Tư Ích rằng : “Ngươi nên dùng mười pháp để mà du lịch ở đất nước ấy :
1) Đối với lời chê hay khen, tâm đều không tăng giảm.
2) Nghe thấy điều thiện hay điều ác, tâm không phân biệt.
3) Đối với kẻ ngu hay người trí, bi tâm đều như nhau.
4) Đối với chúng sinh ở trên hay dưới, ý thường bình đẳng.
5) Đối với sự cúng dàng hay sự khinh rẽ chê bai, tâm không tách bạch là có hai.
6) Đối với sai sót của người khác, chẳng thấy là lỗi của người đó.
7) Thấy mọi loại thừa đều là nhất thừa.
8) Nghe nói ba đường ác cũng chẳng kinh sợ.
9) Sinh cảm tưởng tôn trọng đối với các Bồ tát.
10) Phật xuất ngũ trược, sinh hy hữu tưởng.
Trong Kinh Vô Cấu Xưng thì Phật Hương Đài răn dạy Bồ tát Văn Thế đại loại cũng giống như vậy.
*
-Kinh văn : “Diệu Âm Bồ tát”    tới    “trí tuệ trang nghiêm”. 
Tán rằng : đây là phần bốn : vâng lời răn dạy. Có ba ý : 
– Ý đầu là nói chung về lực của Như Lai.
– Hai ý sau nói riêng.
*
-Kinh văn : “Thế là Diệu Âm”    tới    “coi là đài của vị ấy”. 
Tán rằng : đây là phần thứ hai của đoạn lới thứ hai : “tới đây”. 
Trong văn có 11 mục, đây là mục đầu : sắp tới thì hoa hiện.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Văn Thù Sư Lợi”    tới    “làm đài của mình”. 
Tán rằng : đây là mục hai : Văn Thù hỏi nguyên do.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca”    tới    “nghe kinh Pháp Hoa”. 
Tán rằng : đây là mục ba : Phật thuyết về nguyên do.
*
-Kinh văn : “Văn Thù Sư Lợi”    tới    “khiến tôi được thấy”. 
Tán rằng : đây là mục bốn : Văn Thù hỏi về hạnh. Có ba ý :
1) Hỏi về phúc tuệ.
2) Nhập định gì ?
3) Y vào định mới có thể thấy. 
Thỉnh (Phật) thông lực gia bị để khiến tôi được thấy. Thị hiện tướng chẳng biết, thực ra đã biết cái Định đó từ lâu rồi.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca”    tới    “mà hiện tướng ấy”. 
Tán rằng : đây là mục năm : Thích Ca giải đáp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Đa Bảo”    tới       “muốn thấy thân ngươi”. 
Tán rằng : đây là mục sáu : Đa Bảo gọi đến.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Âm”    tới    “chẳng tấu mà tự vang lừng”. 
Tán rằng : dưới là mục thứ bảy : Diệu Âm tới đây. Có bốn mục nhỏ :
1) Số Bồ tát tới (lai số).
2) Nơi đi qua.
3) Thân tướng.
4) Tới nơi.
Đây tức là văn hai mục đầu.
*
-Kinh văn : “Mắt Bồ tát này”    tới    “thân kiên cố”. 
Tán rằng : đây là mục nhỏ thứ ba : Thân tướng.
Có tám đức :
1) Mắt tịnh.
Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng : Mắt tịnh, dài rộng diệu đoan nghiêm, đẹp như lá của loài sen có hoa đỏ tím.
2) Mặt tròn sáng. 6) Quang minh.
3) Thân sắc. 7) Tướng cụ.
4) Trang nghiêm. 8) Kiên cố.
5) Uy đức.
*
-Kinh văn : “Nhập đài thất bảo”    tới    “núi Kỳ Xà Quật”. 
Tán rằng : đây là mục bốn nhỏ : Tới đây.
*
-Kinh văn : “Tới rồi, xuống đài”    tới    “kham nhẫn trụ lâu hay không ?”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tám (của 11 mục) : xuống đài, làm lễ rồi hỏi. Có hai phần :
• Phần đầu là lễ hiến. 
• Phần sau là thỉnh vấn. 
Thỉnh vấn có bốn ý :
    1) Hỏi về Phật thân, có 5 câu.
    2) Hỏi về chúng sinh, có 7 câu.
    3) Hỏi về giáo hóa hàng phục ma, có 4 câu.
    4) Hỏi về Đa Bảo, có 2 câu : 
  a. Hỏi về việc tới đây. 
  b. Hỏi thăm kham nhẫn ở lâu chăng ?
*
-Kinh văn : “Thế tôn ! Tôi nay…”    tới    “chỉ bảo cho tôi được thấy ”. 
Tán rằng : đây là mục thứ chín (của 11 mục) : xin được thấy Phật Đa Bảo. 
Đa Bảo và Thích Ca tuy ngồi cùng một tháp, nhưng thần lực che khuất khiến chẳng thấy được. Cho nên xin được thấy ngài.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thích Ca”    tới    “cho nên tới đây”. 
Tán rằng : đây là mục mười : “Thích Ca xin giúp” và mục thứ mười một (của 11 mục) : “Đa Bảo tán dương”.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Hoa Đức”    tới    “có thần lực này ?”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba của đoạn lớn thứ hai, nói về hóa hạnh. Có 5 mục :
 1) Hoa Đức hỏi về nhân.
 2) Như Lai bảo rõ.
 3) Tán thán hỏi về tu định.
 4) Sau đó Phật giải đáp.
 5) Đại chúng đương thời được lợi ích. 
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Hoa Đức”    tới    “có thần lực này”. 
Tán rằng : dưới là mục hai : Như Lai bảo rõ.
Có 5 ý :
1) Chỉ rõ nhân xưa.
2) Hội thành quả nay.
3) Gặp chư Phật đã lâu.
4) Thực hành rộng rãi lợi hành.
5) Kết luận giải đáp nguyên do. 
Đây là ý đầu, gồm ba thứ : 
a) Phật.  b) Hạnh.     c) Kết.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Ông nghĩ sao ?”    tới    “Diệu Âm Bồ tát Ma ha tát”. 
Tán rằng : đây là ý thứ hai :hội thành, quả nay.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Diệâu Âm Bồ tát này”    tới    “na do tha đức Phật”
Tán rằng : đây là ý thứ ba : gặp chư Phật đã lâu.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Ông chỉ”    tới    “không tổn giảm gì”. 
Tán rằng : dưới là ý thứ tư : thực hành rộng rãi lợi hành. Có hai phần :
• Phần đầu : ở phương này.
• Phần sau : tại mười phương. 
Đây là phần đầu. Có 4 mục : 
 1) Nêu việc hiện thân thuyết pháp.
 2) Đặc biệt nói rõ việc hiện thân thuyết pháp.
 3) Kết luận việc hóa hiện.
 4) Trí tuệ không tổn. 
Trong mục đặc biệt nói rõ việc hiện thân thuyết pháp, có hai ý :
a) Tùy nghi hiện 18 loại thân để thuyết pháp.
b) Vì trừ khổ nạn mà hiện thân thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Bồ tát ấy dùng bao nhiêu”    tới    “thị hiện diệt độ”. 
Tán rằng : đây là tại mười phương, hiện thân thuyết pháp. Có ba phần : 
. Đầu tiên nêu ra ví dụ về việc làm lợi ích tại mười phương. 
. Thứ đến tùy theo sự thích nghi của căn cơ (chúng sinh) mà hiện thân thuyết pháp. 
. Cuối cùng là kết luận về hiện thân thuyết.
*
-Kinh văn : “Này Hoa Đức ! Diệu Âm…”    tới    “sự tích vị đó là như vậy”. 
Tán rằng : đây là ý thứ năm (của 5 ý) : kết luận giải đáp nguyên do.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Hoa Đức”    tới    “vô lượng chúng sinh”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba “tán thán hỏi về tu định” và mục thứ tư (của 5 mục) : “Phật giải đáp cho”.
*
-Kinh văn : “Lúc Phật thuyết phẩm Diệu Âm Bồ tát này”    tới    “cùng Đà la ni”. 
Tán rằng : đây là mục thứ năm (của 5 mục) trong phần thuyết minh về hóa hạnh, nói về đại chúng đương thời được lợi ích.
Do nghe về hóa hạnh mà được thắng lợi.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Âm”    tới    “sắc thân tam muội”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ ba trong phẩm, nói rõ : việc xong thì về nước. Có ba ý :
1) Nêu lên việc về nước.
2) Tướng nơi kinh qua.
3) Về đến nơi rồi thì trình.
*
-Kinh văn : “Thuyết về Diệu Âm này”    tới    “Pháp Hoa tam muội”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ tư trong phẩm, nói về đại chúng đương thời đắc đạo, đều nghe một phẩm mà được thắng ích.
***
 

PHẨM QUAN THẾ ÂM PHỔ MÔN

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng : sức cứu nạn cho chúng sinh như hai phẩm Quan Thế Âm và phẩm Đà La Ni thị hiện :
– Quan Âm cứu nạn cho chúng sinh chưa phát tâm, khiến họ lìa các nỗi khổ, phát tâm trì kinh này.
– Đà La Ni cứu nạn cho những kẻ đã phát tâm trì kinh, khiến họ lìa khổ trì kinh. 
Thêm nữa :
– Quan Âm dùng ba thứ Thiên nhãn thông, Thiên nhĩ thông và Tha tâm thông để cứu hộ cho người trì kinh bị hoạn nạn. 
– Trong phẩm Đà La Ni thì hai thánh, hai thiên, mười thần, dùng minh chú để cứu hộ cho người trì kinh bị nạn.
Thêm nữa :
– Quan Âm niệm nhân cứu nạn.
– Đà La Ni tụng pháp cứu nạn. 
Lực trì kinh đã lìa các nạn, nếu chẳng dùng phương pháp dễ cứu mà thêm vào, thì sẽ khó tu nghiệp trì kinh. Cho nên đem cái công dễ mà giúp để thành tựu cái nghiệp khó, để khuyến khích việc trì kinh. Cho nên mới có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
* Chữ [觀] có âm đọc là Quan, lại có âm đọc là Quán. Nay theo âm đầu “Quan”. 
“Quan” : có nghĩa là quan sát rồi dùng bi tuệ mà rủ lòng cứu giúp. 
“Thế” : là thứ mang ý nghĩa có thể phá hoại, tức là thế gian hữu tình sinh tử. 
“Âm” : chỉ âm thanh, ngữ nghiệp của loài hữu tình. 
Thế gian hữu tình khởi lên âm thanh để quy niệm Bồ tát. Bồ tát dùng Đại bi tuệ rủ lòng thương mà quan sát rồi tùy cơ ứng cứu, đó gọi là “Quan Thế Âm”. 
Đúng nghĩa thì phải gọi là Quán Tự Tại. Nếu các (chúng sinh) ba nghiệp đều quy y, thì (Bồ tát) lục thông ắt rủ lòng giáo hóa, chẳng phải đợi đến lúc họ bị khổ nguy cấp rồi mới phóng xe đến cứu giúp. Làm người bạn chẳng mời mà đến, làm thày thuốc ứng bệnh, tquyền lực ứng xử linh hoạt khôn lường, cho nên gọi là Quán Tự Tại Bồ tát như trên. 
“Phổ” : có nghĩa là bình đẳng khắp cả. 
“Môn” : là chỗ để từ đó mà ra vào.
Các chúng sinh đã ba nghiệp quy y thì (Bồ tát) lục thông ắt sẽ rủ lòng cứu giúp bình đẳng, chỉ cho họ nơi chốn để từ đó họ ra khỏi cảnh khổ mà đi vào cảnh vui, cho nên gọi là “Phổ Môn”. 
Ba thứ : thần thông, ký thuyết, giáo giới là nơi chốn để lìa khổ, làm nhân do để nhập tịch, đó là các hình thái của Phổ Môn. Song, người có khổ phần nhiều phát ra âm thanh để quy niệm, bậc đại bi ắt ứng niệm mà đến cứu vớt, cho nên gọi là “Quan Âm”. Phẩm này thuyết minh rộng về điều ấy, cho nên gọi là phẩm Quan Thế Âm Phổ Môn.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Bồ tát đại bi, quan sát thấy khổ thì cứu, tại sao lại phải đợi niệm, rồi sau mới rủ lòng từ mẫn mà cứu giúp ? 
Đáp : nếu chúng sinh vô tâm mà Phật cứu, thì đó là điều bậc đại thánh chẳng thông. Nếu chúng sinh tự mình phát ý mà cầu duyên, thì các thánh đều cùng giúp đỡ. Trước hết nhân ở tự nghiệp, rồi sau mới mượn đến duyên. Tự mình đã chẳng tu, thì duyên làm sao mà khởi được ? Cho nên phải đợi họ quy niệm rồi sau mới cứu họ. Giả sử họ tự mình tu tập nhưng chưa hiểu phương tiện, thì phải nhờ bạn tốt chỉ bảo cho, thì cái khổ mới diệt được.
-Hỏi : mọi Bồ tát đều có năng lực này, cớ sao chỉ một mình ngài Quan Âm bao trùm danh hiệu của các vị đó ? 
Đáp : vì bản nguyện chẳng giống nhau, lợi sự khác nhau. Quan Âm kế nghiệp Phật Vô Lượng Thọ, sẽ làm Phật Bảo Quang Công Đức Sơn Vương, cho nên nêu riêng vị này.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Vô Tận Ý”    tới    “gọi tên là Quan Thế Âm”. 
Tán rằng : toàn văn phẩm này chia làm 4 đoạn lớn :
1. Vấn đáp về danh nhân (nguyên nhân vì sao mà đặt tên như thế).
2. Vấn đáp về hóa hạnh.
3. Trì Địa tán thán.
4. Kết thành lợi ích đương thời. 
Văn hai đoạn lớn đầu có tụng. Trong đoạn lớn  đầu có 3 phần :
a) Hỏi về danh nhân (nguyên nhân của tên gọi).
b) Đáp về tự nghĩa (nghĩa chữ).
c) So đọ công đức trì danh hơn kém ra sao. 
Đây  là phần đầu.
“Vô Tận Ý” : kinh A Sai Mạt nói : tu hành đủ các thứ hạnh như lục độ, tứ nhiếp v.v… , thề độ cho chúng sinh, chúng sinh giới tận thì ý của Bồ tát mới tận. Chúng sinh chưa tận thì ý của Bồ tát chưa tận. Cho nên gọi là Vô Tận Ý. 
Trong Thập Địa kinh dùng mười câu “giới tận” mà làm thành các đại nguyện :
1) Nhất thiết chúng sinh giới tận.
2) Thế giới tận.
3) Hư không giới tận.
4) Pháp giới tận.
5) Niết bàn giới tận.
6) Phật xuất thế giới tận.
7) Như Lai trí giới tận.
8) Tâm sở duyên giới tận.
9) Phật cảnh giới trí nhập giới tận.
10) Thế giới chuyển pháp luân trí chuyển giới tận.
Câu đầu làm thành đại nguyện là : “Nếu như chúng sinh giới tận thì nguyện của ta mới tận”. Như vậy, nếu chúng sinh giới bất tận thì nguyện của ta cũng bất tận. 
Cho đến câu thứ chín : “Phật trí chứng nhập hết thảy cảnh giới đều tận”, câu thứ mười : “Chuyển pháp luân trí nếu chuyển, các pháp đều tận, thì nguyện của ta cũng vẫn bất tận”. 
Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng : “Tuy đắc Phật đạo, chuyển pháp luân, nhưng chẳng bỏ đạo của Bồ tát, đó gọi là Bồ tát hạnh”. Cho nên vị Bồ tát này tên là “Vô Tận Ý”. 
Tuy hạnh nguyện của các Bồ tát đều giống nhau, nhưng các danh hiệu thì khác nhau, vì bản nguyện khác nhau. Đó là vì muốn thuyết minh kinh này có thể khiến hạnh nguyện đều cũng vô tận. 
“Hỏi về danh” là muốn khiến dựa vào việc trì niệm (danh hiệu Phật, danh hiệu Bồ tát) để mà dứt khổ. 
“Hỏi về hạnh” là muốn khiến tu hành để cầu vui.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Vô Tận Ý”    tới    “đều được giải thoát”. 
Tán rằng : dưới làø đáp về tự nghĩa. Có ba phần :
. Phần đầu : là ngữ nghiệp quy y, dùng Thiên nhĩ thông mà xét tìm âm thanh, cứu khổ.
. Phần hai : là đoạn từ “Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục” trở xuống : là ý nghiệp quy y, dùng Tha tâm thông mà quán tâm, cứu khổ.
. Phần cuối : là đoạn từ “Nếu có nữ nhân nào muốn cầu sinh con trai” trở xuống : là thân nghiệp quy y, dùng Thiên nhãn thông mà quán sắc, cứu khổ.
Phần đầu này lại có ba ý :
1) Ý đầu : nêu chung, nếu có khổ mà niệm Bồ tát Quan Thế Âm thì liền được giải thoát.
2) Ý hai : nêu riêng, nếu có tai ách mà niệm Bồ tát Quan Thế Âm thì đều được giải thoát.
3) Ý ba : kết luận, bảo rõ uy thần cao vời vợi như vậy. 
Đây là ý đầu.
Tức là ba đường tám nạn, hết thảy khổ nạn. Chỉ cần như Pháp Lâm quy mệnh là tránh khỏi hình phạt 7 ngày, như Tế Hoan quy y là thoát khỏi cái họa 3 dao. 
Du Già luận, quyển 9 nói : Nghiệp có hai loại :
a) Định dị thục nghiệp, nghĩa là Cố tư nghiệp, hoặc tạo tác hoặc tăng trưởng.
b) Bất định dị thục nghiệp, nghĩa là Cố tư nghiệp đã tạo tác  mà chẳng tăng trưởng. 
Luận trên quyển thứ 89 nói : các nghiệp đã tạo tác dù chẳng tăng trưởng nhưng nếu không hối hận, chẳng tu đối trị, vẫn còn phải thụ quả, thì gọi là tăng trưởng nghiệp. Nếu hối hận v.v… , thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp. 
Hoặc trước kia là tăng trưởng nghiệp, nay do hối hận v.v… thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp. Như Vị Sinh Oán (tức A Xà Thế) lúc trước khi chưa hối hận, gọi là tăng trưởng nghiệp ; sau khi đã hối hận rồi, thì gọi là bất tăng trưởng nghiệp. 
Luận trên quyển 60 nói rằng : căn cứ vào tình trạng chưa được giải thoát mà kiến lập ra Định thụ nghiệp.
Nói “giải thoát” có nghĩa là Thế đạo phục đoạn, cho đến đắc thánh thành bậc vô học v.v…, tức là chưa nhập Phật pháp như trong kinh Niết Bàn, thì gọi là Quyết định nghiệp. Nếu nhập Phật pháp, thì gọi Bất định nghiệp. 
Đối Pháp luận quyển 7 nói : Có năm Cố tư tạo :
1) Tha sở giáo sắc (sự dạy bảo ép buộc của người khác).
2) Tha sở khuyến thỉnh (sự khuyến khích mời mọc của người khác).
3) Vô sở liễu tri (không hiểu biết gì).
4) Căn bản chấp trước, chỉ các nghiệp do ba độc che lấp bản tâm, hăng hái chấp trước khởi lên.
5) Điên đảo phân biệt, nghĩa là cho đó là thù thắng vô tội, mà sở hành ác nghiệp. 
Trong 5 loại này, 2 loại cuối hoặc khởi tác hoặc tăng trưởng, chẳng phải là chẳng thụ dị thục, vì Tư nặng. Còn 3 loại đầu chỉ có khởi tác mà chẳng tăng trưởng, không hẳn là phải thụ dị thục, vì Tư nhẹ.
Đây nói “tác”, có nghĩa là khởi tác các nghiệp khiến chúng hiện hành. “Tăng trưởng” có nghĩa là khiến tập khí dần dà tăng trưởng. Do đây chỉ nói về Cố tư nghiệp, nên chỉ có 5. 
Nhưng Du Già quyển 9 nói : trừ 10 loại ra, số còn lại đều gọi là Cố tư . Mười loại đó là :
1) Mộng.
2) Vô tri.
3) Vô cố tư (không cố ý nghĩ tới).
4) Bất lợi bất sổ (không cho là lợi, không hề đếm xỉa).
5) Cuồng loạn.
6) Thất niệm. 
7) Phi nhạo dục (chẳng phải ưa muốn).
8) Tự tính vô ký.
9) Hối sở tổn (do hối hận mà giảm đi).
10) Đối trị sở tổn (do đối trị mà giảm đi).
Trừ 10 loại này ra, số còn lại đều tăng trưởng. Đó tức là điều mà Du Già quyển 9 đã nói : “Tăng trưởng nghiệp có 6 loại vậy”. 
Mười loại bất tăng và sáu loại tăng trưởng ở đó, chẳng vượt 3 bất tăng và 2 tăng trong Đối Pháp. Tách ra hay hợp lại là căn cứ phần vị nhiều ít vậy. 
Đối Pháp còn nói : Quyết định có ba :
1) Tác nghiệp quyết định. Do nghiệp lực cũ cảm quyết định thân, ở trong lần sinh này ắt tạo nghiệp này, kỳ hạn quyết định, chẳng hề sai vượt, thần lực của Phật v.v… cũng chẳng thể cứu được.
2) Thụ dị thục quyết định, tức thuận định thụ nghiệp. Quả (nhất) định sẽ thụ, nhưng thời chưa định. Chẳng thế thì Phật xuất thế lẽ ra sẽ không có chúng sinh nẻo ác tạo ác.
3) Phần vị quyết định, là thuận ba thời phần vị định nghiệp. Nếu nghiệp đạo nhiếp thu, thì gọi là thuận định nghiệp. Gia hạnh và hậu khởi thì chung cho cả định (nghiệp) và bất định (nghiệp).
Thêm nữa, chưa hối hận, chưa đối trị v.v… thì gọi là Quyết định nghiệp. Đã hối hận, đã đối trị v.v… thì gọi là Bất định nghiệp. 
Du Già, quyển 10 nói về ba nghiệp : 
a) Thuận hiện.
b) Thuận sinh.
c) Thuận hậu thụ nghiệp. 
Du Già, quyển 60 nói về bốn nghiệp :
1) Dị thục định. 3) Nhị câu định.
2) Thời phân định. 4) Nhị câu bất định.
Duy Thức cũng nói về bốn loại : gồm ba thời và bất định. 
Hiển Dương quyển 9 nói về năm loại, đó là :
–  Ba loại Thuận ba thời.
– Thụ báo định.
– Tác nghiệp quyết định.
Đều giống như Du Già quyển 9, phần toát yếu đã nói, vì ngại rườm rà nên tạm dừng. 
Cho nên niệm Quan Âm sẽ thêm được duyên lành, tự tâm hối lỗi biết hổ thẹn thì thoát khỏi mọi khổ não. 
Cũng có chỗ giải thích rằng : Bất tăng trưởng nghiệp và Bất định nghiệp có thể chuyển diệt được. Còn Tam thời quyết định nghiệp và Báo định thời bất định nghiệp thì chỉ có thể khiến giảm nhẹ, chẳng phải là khiến hoàn toàn diệt tận. 
Kinh Kim Cương Bát Nhã nói rằng : tội nghiệp đời trước lẽ ra phải đọa vào đường ác nhưng do trì kinh mà bị người coi rẻ, thì tội nghiệp đời trước liền được tiêu diệt và sẽ được Bồ đề. Chẳng nói rằng hoàn toàn diệt. 
Thêm nữa, trong Kinh Hiền Ngu, Ương Quật Ma La tuy đắc A la hán, nhưng vì hiện nghiệp có quả (báo) cho nên bị lửa thiêu. 
Còn nói : thành Ca Tỳ La chỉ trừ một đứa con nít, ngoài ra tất cả nam nữ đều là thánh nhân sơ quả, lẽ ra chẳng đáng bị vua Lưu Ly kia giết hại, thế mà quyết định tạo nghiệp ấy, ngay Phật cũng chẳng thể bài trừ được, huống hồ là lại phải thụ quả (báo). 
Tại quả vị giải thoát mà còn nghiệp thì gọi là Bất định, đó là y vào Bất định nghiệp mà nói. Đây thì chẳng thế. Nếu đắc A la hán thì mọi điều bất thiện đều hết. Vậy còn nghiệp gì mà thụ quả ? 
Tại hai quả vị đầu, những điều bất thiện chưa hết hẳn, chẳng ngăn được quả báo kia, thế thì ngại gì mà chẳng thụ ? 
Trong Kinh Bát Nhã chẳng nói là diệt tận, mà chỉ nêu lên cái vi diệu mầu nhiệm của tâm, nghĩa là nếu chí thành khẩn khiết thụ trì kinh đó thì nhất định chẳng thụ (báo). Nếu chẳng thế thì Ngũ vô gián tội đều là Quyết định nghiệp, thế thì vua Vị Sinh Oán làm sao mà sau khi hối lỗi rồi, lại hết thảy chẳng thụ (quả báo) ? 
Thập Địa luận nói : một là Cảm báo định, hai là Tác nghiệp định, ngay đến uy thần của chư Phật cũng chẳng thể chuyển được.
Nói : tự mình chẳng phát tâm hối hận hổ thẹn, chẳng nhập thánh đạo, thì đó là nghiệp quả quyết định. Chẳng phải là đã hối hận hổ thẹn rồi mà vẫn còn gọi là định nghiệp ư ? 
Kinh Pháp Cú nói : “không có nơi nào dù ở trên không hay ở dưới biển, hoặc vào trong núi đá mà thoát được nghiệp khỏi bị nạn”.
Căn cứ theo đó, thì nếu đã tạo tội rồi mà lại chẳng gặp Phật, gặp Bồ tát v.v… để rồi khởi tâm hối hận hổ thẹn và nhập đạo, thì dứt khoát là bị nghiệp báo. 
Do đó mà kinh Nghiệp Báo Sai Biệt nói rằng : Nếu nghiệp là do tăng thượng tâm khởi tác, thì không còn biết hổ thẹn, đã khởi tác rồi còn tạo tác nữa, không có tâm hối cải, thế thì nghiệp ấy là quyết định. Nếu nghiệp chẳng phải là do tăng thượng tâm khởi tác, thì tuy làm nghiệp ác, trong lòng vẫn luôn luôn hổ thẹn, thế thì nghiệp ấy bất định. Chỉ cần biết rằng các nghiệp được tổn giảm điều phục mà chẳng phải do hối cải, cũng chẳng phải do phát lộ, thì khả năng thụ quả được giảm, nghĩa là sẽ không còn phải thụ quả nữa. 
Song kinh nói rằng : Chỉ Man lúc đến quả vị A la hán mà còn phải thụ nghiệp báo, đó là vì lúc ấy vị đó vẫn còn trụ ở phàm vị và ở hai quả vị đầu, thân hiện tại bấy giờ nhất định sẽ đắc A la hán, đó là nói sẽ được danh hiệu đó, chẳng phải là lúc thụ quả (báo) gọi là A la hán. 
Hơn nữa, nếu gặp duyên lành thì phải tự phát tâm hối hận hổ thẹn, nhập thánh đạo thì tội nghiệp mới được diệt trừ. Tuy gặp duyên lành, nhưng không có tâm hối hận hổ thẹn, cũng chẳng phải nhập thánh đạo, thì dù ngay đến chư Phật cũng chẳng thể chuyển nổi. 
Họ Thích ở thành Ca Tỳ La bị giết là vì tuy đắc sơ quả, nhưng biệt báo nghiệp tại sơ quả vẫn chẳng được trừ. Hơn nữa, lại chẳng phải là do đã được nghe pháp đại thừa, thâm tâm thành khẩn hối hận hổ thẹn, cho nên phải thụ nghiệp (báo) trước kia. Nếu như đã được nghe đại thừa, thâm tâm thành khẩn hối hận thì cũng chẳng bị giết. 
Đắc A la hán thì dứt khoát chẳng thụ báo. Nếu có bị giết thì cũng chẳng phải là do nghiệp quả. Chẳng thế thì Chỉ Man giết người chỉ còn thiếu một mạng là đầy một ngàn, cớ sao lại đắc thánh quả được ? Nếu không hối hận hổ thẹn, không điều phục, đoạn trừ, tiêu diệt các tội nghiệp thì chúng sinh sẽ không bao giờ được thụ thánh quả. 
Do đó nên biết rằng, lúc mới thuyết về làm điều thiện thì chủ yếu phải giống như kinh Niết Bàn, luận Du Già đã dẫn. 
*
-Kinh văn : “Nếu có người trì”    tới    “gọi tên là Quan Thế Âm”. 
Tán rằng : dưới làø ý thứ hai : nêu riêng những ai gặp ách nạn, nếu xưng tụng danh hiệu Quan Âm thì đều được thoát. 
Có 7 đoạn chia làm 2 phần : 
. 3 đoạn đầu nói về 3 thứ tai họa : lửa, nước, gió. 
. 4 đoạn sau nói về tạp tai.
Đây là phần đầu. 
“Hỏa tai (lửa cháy)”, thì dù to hay nhỏ đều gây tổn hại, nhưng nếu niệm danh thì hết thảy chẳng cháy.
“Thủy tai (lũ lụt)”, thì nếu nước sâu mới có thể gây tổn hại, cho nên niệm danh sẽ được ở chỗ nông.
“Phong tai (bão giông)”, thì nếu gió nhẹ sẽ chẳng tổn hại, gió mạnh mới gây thiệt hại. 
“Hắc phong (gió dữ)”, ắt sẽ gây thiệt hại cho người, bởi vậy cho nên đã nói riêng về việc gặp loại gió này. Nếu gió chẳng phải là Hắc phong thì nào có tổn hại gì. Trong đoạn nói về phong (tai) có 4 mục :
1) Đi tìm châu báu mà gặp phong (tai).
2) Người thiện bảo niệm danh.
3) Tránh được tai nạn.
4) Nguyên nhân của danh hiệu ấy. 
* “Thuyền” : nghĩa như Chu [舟]. Chữ [舫] có hai âm : Phảng và Phang. Ngọc Thiên giải thích đó cũng là một loại thuyền, ghép hai thuyền lại thì thành Phảng [舫] (thuyền đôi).
*
-Kinh văn : “Nếu lại có người”    tới    “liền được giải thoát”. 
Tán rằng : đây là bốn tạp tai :
1) Hình phạt chẳng tổn thương.
2) Phi nhân chẳng hại được.
3) Bị tù giam tra tấn đều thoát được.
4) Giặc thù chẳng hại được. 
* “Nữu” [杻] là cùm tay. “Giới” [械] là cùm chân, tức là gông cùm. Gông bằng gỗ ở cổ gọi là Già [枷]. Xiềng bằng sắt ở cổ, ở lưng gọi là Tỏa [鎖]. Chữ [獫] Kiểm : có nghĩa là bắt bớ, tra tấn, xét hỏi. Chữ [狡] Giảo : vốn nghĩa là so đọ, so sánh. Ở đây có nghĩa là tra xét. Chữ [繫] Hệ : nghĩa là trói buộc, đây nghĩa là tù ngục giam hãm. 
Trí Độ luận nói rằng : “giống như gió chẳng lọt vào chỗ đặc, như nước chẳng chảy ngược lên chỗ cao, như hư không chẳng bị tổn hại, không có nghiệp (báo) cũng giống như vậy”. Vô tội thì làm sao mà tự dưng lại bị tù hãm tai ương ? Đây là căn cứ vào hiện tại chẳng làm thì gọi là vô tội, chứ chẳng phải là trước kia chẳng làm. 
Bài tụng về Hỏa trạch (nhà lửa) nói rằng : 
          “Người phỉ báng kinh, 
Hoặc mắc tội khác, 
Phản nghịch cướp bóc, 
Ăn trộm ăn cắp, 
Các tội như vậy, 
Ắt bị tai ương ”.
Do trước kia báng kinh, cho nên biết là có tội.
Trong mục “giặc thù chẳng hại được” có bốn ý :
1) Trải qua chốn nguy nan. 3) Vâng mệnh.
2) Khuyên niệm hồng danh. 4) Giải thoát.
Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật bảo Kiên Ý : “có một loại cây thuốc gọi là cây diệt trừ. Lúc đại quân chiến đấu, có vô số người bị trúng tên độc. Bấy giờ lương y mang cây Dược vương đó để bôi lên mặt trống, rồi đem khua vang lên ở giữa mọi người, thế là trong cùng một lúc vô số tên độc liền được tự nhổ ra”. Vì chư Phật Bồ tát trụ ở Thủ Lăng Nghiêm tam muội lực, cho nên nếu có người nào xưng tụng danh hiệu tưởng niệm tới các ngài, thì vô lượng tội cấu sẽ tự nhiên trừ diệt, ví như một loại đề hồ có khả năng làm cho khỏi các hoạn nạn”.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý”    tới    “vòi vọi như vậy”. 
Tán rằng : đây là kết luận bảo rõ thần uy. 
* “Nguy nguy” [巍巍] : đồ sộ, to lớn, vòi vọi.
*
-Kinh văn : “Nếu có chúng sinh”    tới    “thường nên tâm niệm”. 
Tán rằng : đây là ý nghiệp quy y, dùng Tha tâm thông mà quan sát tâm để cứu vớt. Có hai : 
. Đầu tiên quan sát tâm ý. 
. Sau đó kết uy thần. 
Tạm nêu ba độc, chứ chẳng phải chỉ có chừng ấy, vì hết thảy phiền não, niệm đều diệt cả.
*
-Kinh văn : “Nếu có nữ nhân”    tới    “danh hiệu Bồ tát”. 
Tán rằng : đây là thân nghiệp quy y, dùng Thiên nhãn thông mà quán sắc để cứu vớt. Có hai mục :
. Đầu tiên là quan sát hai thân nghiệp.
. Sau đó là kết luận về phúc, khuyên hãy tu trì.
Chẳng phải chỉ có ngần ấy nghiệp, nhưng tạm theo tâm lý chung mà nêu ra.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý”    tới    “phúc đức lợi ích như thế”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba : so sánh công đức hơn kém của việc trì danh. Có bốn mục :
1. Hỏi. 3. Thành.
2. Đáp. 4. Kết.
Bản luận so sánh 62 ức hằng hà sa Phật. Còn kinh này thì lại nói là 62 ức hằøng hà sa Bồ tát. Về điểm này có hai cách giải thích :
1) Cách thứ nhất nói rằng : kinh đúng, luận sai. Bồ tát thì so sánh với Bồ tát, sao lại được đem Phật mà so với Bồ tát. Chỉ được như trong kinh Thập Luân đem Địa Tạng so với Di Lặc, Văn Thù, Quan Âm mà thôi, cũng chẳng so với chư Phật. Nếu chẳng thế thì công đức của Phật hẳn là ít hơn Bồ tát sao ?
2) Cách thứ hai nói rằng : theo luận cũng không sai. Ngài Quan Âm từ lâu đã thành Phật, nhưng vì chẳng xả bỏ hạnh Bồ tát cho nên thị hiện thành Bồ tát. Sao mà chẳng so với Như Lai được ? Chỉ như khi Quan Âm thành Phật, thì công đức, quốc độ cũng thù thắng như Phật Vô Lượng Thọ. Hết thảy Phật thân há lại có chuyện hơn kém ư ? 
Cho nên biết (đó) chỉ là lời khuyến tín, tuy trong kinh là so với Bồ tát, mà luận giải thích thành so với chư Phật cũng không hề có lỗi gì, cả hai đều không sai. 
Luận giải thích về thành tựu, có hai thứ :
1. Tín lực.
2. Tất cánh trí (trí tuệ rốt ráo). 
1. Tín lực. Có hai :
1/- Cầu cho thân ta có được Tất cánh tín như Quan Âm, có nghĩa là cầu cho 62 ức hằng hà sa Phật thân của ta được như Quan Âm, tín tâm không khác. Thánh số sở cầu tuy nhiều ít khác nhau, nhưng công đức không khác vì nguyên nhân là cái tâm bình đẳng.
2) Sinh tâm cung kính. Cầu sao ta rốt ráo cũng sẽ được công đức như vị đó. Có nghĩa là cầu sao có được trí tuệ công đức như bản thân Quan Âm kia thành Phật đã lâu. Ta 62 ức hằng hà sa Phật (thân) cũng rốt ráo sẽ được công đức như chư Phật này, vì tin tưởng công đức của Phật Bồ tát chẳng khác gì nhau. 
Hai thứ này là tín lực. Thoạt đầu chẳng quán cảnh nhiều ít hơn kém, chỉ có tín tâm bình đẳng như nhau. Sau đó quán cảnh nhiều ít tuy có khác nhau, nhưng công đức không hề khác nhau, tín tâm cung kính cũng không có hai. Cho nên phúc không khác nhau. 
2. Tất cánh trí . 
Có nghĩa là quyết định biết rõ pháp giới. Đây là do Quan Âm đã đắc Tất cánh trí pháp giới, cho nên không khác gì Phật, có thể chứng được pháp giới bình đẳng vô nhị, cho nên thành phúc bình đẳng (với Phật). 
Pháp giới tức là pháp tính. Bồ tát nhập sơ địa có thể chứng được “thân bình đẳng” giống như tất cả Phật Bồ tát, huống chi là hàng Thập địa mãn túc..
“Thân bình đẳng” nghĩa là pháp thân chân như. Bởi vậy, thụ trì danh hiệu Quan Thế Âm, công đức sẽ không khác gì công đức của việc thụ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Phật. Chẳng thế thì Bồ tát há lại hơn Phật ư ?
 Tạm đem bấy nhiêu để tán thán, rồi khuyến khích phát tâm. Kinh Thập Luân, quyển nhất nói : “Giả sử đối với hằng hà sa số các vị đại Bồ tát thuộc bậc thượng thủ như các ngài Di Lặc, Diệu Cát Tường, Quán Tự Tại, Phổ Hiền v.v…, trong cả trăm kiếp chí tâm quy y xưng danh, niệm tụng, lễ bái cúng dàng, cầu các điều sở nguyện ; thì cũng chẳng bằng có người chỉ trong khoảnh khắc một niệm chí tâm quy y, xưng danh niệm tụng lễ bái cúng dàng Địa Tạng Bồ tát, cầu các điều sở nguyện chóng được thỏa mãn”.
 Hơn nữa, đối với những người có duyên trong chúng sinh đời mạt như vầy, có những điều họ nên nghe, bởi vậy nên mới tán thán riêng (ngài Quan Thế Âm). Chẳng thế thì hóa ra Bồ tát còn hơn cả Phật và các Bồ tát ngôi vị ngang nhau mà lại có sự hơn kém sao ?
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý”    tới    “sự ấy thế nào”.
Tán rằng : dưới làø đoạn lớn thứ hai : Hỏi đáp về hóa hạnh. Có bốn mục :
1) Hỏi. 3) Hiến dâng.
2) Đáp. 4) Kết luận : bảo rõ.
Đây là mục đầu. 
“Du” : nghĩa là hóa lợi, tức là thần thông.
“Thuyết pháp cho chúng sinh” : là giáo hóa lợi tha. 
“Lực phương tiện” : là chỉ hai loại trên, tức là  khéo léo vận dụng trí tuệ, ứng với tâm của chúng sinh để mà cứu vớt.
*
-Kinh văn : “Phật bảo”    tới    “mà thuyết pháp cho”. 
Tán rằng : dưới làø mục hai : Đáp. Có ba phần :
• Phần đầu : thân hóa thuyết pháp.
• Phần hai : kết luận về phần trước, khuyến khích bảo ban.
• Phần cuối : có thể cứu được hoạn nạn nguy cấp. 
Đây là phần đầu.
Tổng cộng có 19 loại, phần làm 8 hạng : 
1) Ứng thánh thân, có 3 loại. 
2) Ứng thiên thân, có 6 loại. 
3) Ứng quân thần (vua tôi), có 5 loại. 
Tâm bình tính thẳng, nói năng thật thà, hành động đôn hậu, sống lâu, nhiều của, đó gọi là “Trưởng giả”. Giữ đạo điềm đạm, ít dục, tích đức thì gọi là “Cư sĩ”.
Ở ngôi trị người, gọi là “Quan tể”. 
4) Ứng tứ chúng, có 1 loại. 
5) Ứng phụ nữ thân, có 1 loại. 
6) Ứng đồng nam đồng nữ, có 1 loại. 
7) Ứng bát bộ, có 1 loại. 
8) Ứng Chấp kim cương thần, có 1 loại, 
Tay cầm chày kim cương, là một loại hình tượng khác của Quan Âm.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý”    tới    “Thí Vô Úy”. 
Tán rằng : đây có hai :
1) Kết luận về phần trước, rồi khuyến khích bảo ban.
2) Có thể cứu giúp hoạn nạn nguy cấp. 
Đàn độ (tức bố thí), có ba loại :
a) Tài thí.
b) Vô úy thí.
c) Pháp thí.
Thuyết pháp là Pháp thí. Cứu giúp lúc hoạn nạn tức là Vô úy thí. Khiến được châu báu v.v…, đó là Tài thí.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý”    tới    “tháp Phật Đa Bảo”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba : Hiến dâng. 
Có 7  ý :
1) Bạch Phật.
2) Hiến dâng.
3) Quan Âm chẳng nhận.
4) Bẩm bạch, thỉnh nhận.
5) Phật bảo phải nhận.
6) Quán Âm nhận lấy.
7) Chuyển thí cúng dàng. 
Vì phúc điền khó gặp, vì thí thuận đạo lý, vì là chân chính hạnh để cầu Bồ đề, cho nên gọi là “Pháp thí”. 
Quan Âm chẳng thụ vì có ba lẽ :
a) Thiểu dục.
b) Pháp nhĩ (phép phải như thế).
c) Chuyển thí.
Sợ trái với tâm ấy, bởi vậy chẳng thụ. Kệ trong Đại Trang Nghiêm luận nói rằng : 
        “Nếu xòe tay bố thí, 
Tay ấy gọi nghiêm thắng. 
Người nhận rụt tay lại, 
Nghiêm thắng còn hơn thế. 
Nếu nói tôi thí cho,
Lời ấy giá khôn lường. 
Người nhận nói tôi đủ, 
Còn khó lường hơn thế”. 
Trng kinh Thiên Thỉnh Vấn, đức Phật cũng nói rằng : Người bố thí gọi là người được lợi. Người nhận bố thí gọi là người mất lợi. Cho nên Bồ tát chẳng chịu nhận, nhưng vì thương tứ chúng mà phải nhận : một là để khiến họ tùy hỉ, hai là để khiến họ học hành trừ khỏi khổ não. Cho nên nói là “thương xót họ”.
*
-Kinh văn : “Vô Tận Ý”    tới    “thế giới Sa bà”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : kết luận bảo rõ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ”    tới    “gọi là Quan Thế Âm” 
Tán rằng : dưới làø trùng tụng về hai nghĩa Danh Hạnh nói trên. Chia làm hai phần :
– 1 tụng đầu : Hỏi
– 25 tụng sau : Đáp. 
Đây là phần đầu : chỉ hỏi về nguyên nhân đặt tên, nhưng đáp cả về hóa hạnh.
*
-Kinh văn : “Đấng đầy đủ tướng tốt”    tới    “diệt được các cõi khổ”. 
Tán rằng : dưới làø 25 tụng, tụng về Phật bảo.
Trong chia làm 4 phần :
1. Phần đầu gồm 3 tụng : nêu chung hứa thuyết.
2. Phần hai gồm 12 tụng : chính thức giải đáp về nguyên nhân đặt tên.
3. Phần ba gồm 3 tụng : giải đáp về hóa hạnh.
4. Phần cuốí gồm 7 tụng : tán thán công đức, khuyên hãy quy y. 
Phần đầu này chia làm ba :
– 1 tụng đầu, thuật lại lời Phật đáp, ứng với các phương sở mà thuyết về cả hai thứ Danh và Hạnh.
– 1 tụng kế, bàn về nhân hành trước kia, phát nguyện gặp duyên, nhiều kiếp tu hành hạnh bất tư nghị.
– 1 tụng cuối, hứa sẽ trình bày cho về Danh Hạnh. Những thứ đã từng kinh qua tai mắt, tâm niệm không sai, nhất định có thể diệt được khổ.
*
-Kinh văn : “Giả sử có ý hại”    tới    “tức thời bị tiêu tan”. 
Tán rằng : đây là 12 tụng : chính thức giải đáp về nguyên nhân đặt tên, chia làm 9 phần :
1) Một tụng về trừ hỏa tai.
2) Một tụng trừ thủy tai.
3) Hai tụng : trừ nạn núi.
4) Hai tụng : trừ nạn dao.
5) Một tụng : trừ nạn bị bắt bớ giam cầm.
6) Một tụng : trừ nạn chửi rủa.
* Chữ Chú [咒] nghĩa như chữ Chúc [囑], có nghĩa là nhủ bảo, dùng lời thiện hay ác mà nhủ bảo lẫn nhau thì gọi là Chú [咒].
Chữ Trớ [詛], có nghĩa như chữ [阻] : Trở, trong từ trở ngại : khiến người ta hành sự bị trở ngại, bị hạn chế bởi lời nói. Có bản viết là [咀] Tứ, chữ này có nghĩa như chữ Tước [嚼] nghĩa là nhai. Chẳng phải là nghĩa ở đây. 
Như thầy thuốc giỏi thoạt đầu phải làm cho bệnh phát ra, rồi sau đó chữa cho khỏi bệnh. Cho nên thoạt đầu phải tác động vào bản thân người đó rồi sau mới khiến người đó phát ra ý tốt.
7) Một tụng : trừ nạn phi nhân.
8) Hai tụng : trừ nạn ác thú.
9) Một tụng : trừ nạn thiên tai : Mây nổi sấm. 
“Sấm động” : Tây vực gọi là “tiếng mây xòe chớp”. Phương này giải thích là âm dương khích động nhau mà loè sáng. 
* Thích Danh giải thích chữ Xiết [掣] có nghĩa là dẫn. “Điện” nghĩa như chữ Điển [殄], ý nói vừa mới loé ra đã biến mất ngay. Người Quan Trung gọi là Tiễn Điện [    電]. Người Ngô gọi là Sấm Đạn [     ]. Chữ trên (chỉ chữ [    ])đọc là Tiễn. Chữ dưới (chỉ chữ  [    ]) đọc là Điện. Chữ Bão [雹] (mưa đá) : Trịnh Huyền giải thích Lễ Ký nói rằng : khí Dương làm mưa, khí Âm uy hiếp nó, ngưng kết lại mà thành mưa đá [雹].
*
-Kinh văn : “Chúng sinh bị khốn ách”    tới    “khiến dần dần diệt hết”. 
Tán rằng : đây là giải đáp về hóa hạnh. 
– 1 tụng nêu chung về việc trừ khổ.
– 1 tụng về khả năng thị hiện thành các thân. 
– 1 tụng nêu riêng về việc trừ khổ.
*
-Kinh văn : “Chân quán thanh tịnh quán”    tới    “vậy nên cần đảnh lễ”. 
Tán rằng : đây là 7 tụng cuối : tán thán công đức, khuyên hãy quy mệnh. 
Trong chia làm 6 phần :
1) Một tụng nêu ngũ quán, khuyên hãy phát nguyện thường xuyên chiêm ngưỡng. 
* Có bản viết chữ Thường [常] lầm thành chữ Đương [當] thế là sai. Vì hiện “thường” nguyện điều đó, chứ chẳng phải là “đương” bắt đầu nguyện.
2) Một tụng nói rõ Đại trí diệt được tai nạn.
3) Một tụng nói rõ pháp thí có thể trừ được phiền não. 
“Đại bi chế giới” : tựa như sấm vang, có nghĩa là cái biến động có tác dụng cảnh cáo. 
* Phương ngôn gọi là Giới bị (phòng bị). Chữ Giới [戒] cổ văn viết là [誡] Giới (răn bảo). 
“Từ ý” : che khắp giống như đám mây lớn mầu nhiệm. Có bản chép là “Từ âm”, đó là chép sai, vì tiếng Phạm là Mai Đát Lị Mạt Na.
4) Một tụng về Vô úy thí, có thể trừ được bố úy, 
5) Một tụng nói rõ Tài thí, có thể trừ được nghèo khổ.
 Giống như thủy triều ở biển nhất định có thể diệt được các nỗi khổ đúng lúc cần thiết, do thường quán khởi niệm. Đây có năm Âm : Diệu Âm cho vui, Quan Âm cứu khổ, Phạm Âm thâm tịnh, Triều Âm đúng lúc, Thắng Âm xuất thế.
6) Hai tụng cuối : khuyến niệm, khuyến lễ vì lễ có thể diệt khổ ách.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Trì Địa”    tới    “công đức chẳng ít”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba trong phẩm nói về Trì Địa tán thán.
Ở đây luận nêu  2 môn :
1. Mười pháp Trì Địa tam muội.
2. Mười loại Tự tại.
1. Mười pháp Trì Địa tam muội.
Theo Kinh Bảo Vân, Bồ tát có 10 pháp  gọi là Trì địa tam muội :
1) Như đất kia rộng lớn vô lượng vô biên. Bồ tát cũng thế, công đức trí tuệ trang nghiêm, nguyện hạnh vô lượng vô biên.
2) Như đất kia là nơi chúng sinh nương tựa vào, ai nấy tùy theo ý muốn đều được cứu giúp, chu cấp, đều được vừa ý, không trở ngại gì. Bồ tát cũng thế, thực hành Lục độ mọi thứ đều cho chúng sinh, tâm không ngần ngại.
3) Như đất kia không hề có chuyện yêu ghét, (chúng sinh) trút đổ bất cứ thứ gì lên đất để báo đáp lại, đất cũng chẳng mừng chẳng giận. Bồ tát cũng thế, dưỡng dục chúng sinh chẳng mong báo đáp.
4) Như đất, trời đổ mây mưa, thì đất đều tiếp thu cả, đều duy trì được. Bồ tát cũng thế, hết thảy chư Phật nổi mây đại bi, đổ mưa pháp vũ, thì Bồ tát có thể tiếp thu duy trì được tất cả đúng như lời Phật thuyết. 
5) Như đất kia là nơi mà hết thảy cỏ cây rừng rú cùng chúng sinh đi đứng nằm ngồi thảy đều nương tựa vào đó. Bồ tát cũng thế, hết thảy xu hướng tu hành hướng thiện của chúng sinh, nhị thừa học pháp, Niết bàn đều nhân Bồ tát mà có.
6) Như đất kia, mọi chủng tử phải dựa vào đó mà sinh trưởng. Bồ tát cũng thế, hết thảy chủng tử thiện nghiệp của trời người đều dựa vào Bồ tát mà được sinh trưởng.
7) Như đất có thể sản xuất ra mọi thứ báu. Bồ tát cũng thế, công đức thiện bảo, hết thảy mọi thứ lạc cụ của chúng sinh đều do Bồ tát mà ra.
8) Như đất sản xuất ra các thứ thuốc thần diệu có thể chữa khỏi các bệnh. Bồ tát cũng thế, có thể sản xuất ra mọi thứ pháp dược có thể trừ được hết thảy mọi bệnh phiền não.
9) Như đất kia, gió chẳng lay động được, ruồi bọ, ong, bọ cạp chẳng thể làm tổn hại được. Bồ tát cũng thế, hết thảy mọi duyên nội ngoại bức não chẳng thể quấy rối nhiễu loạn được.
10) Như đất kia, sư  tử gầm rống, long tượng sấm sét, chẳng thể làm cho kinh sợ được. Bồ tát cũng thế, hết thảy 95 loại ngoại đạo đều chẳng động đến được. 
Đủ mười sự ấy, thì Bồ tát được gọi là Trì Địa tam muội, vì đắc Trì Địa tam muội cho nên gọi là Trì Địa, hoặc là tu trì Thập địa thì gọi là Trì Địa .
2. Mười loại Tự tại.
Nói về Tự tại, thì Nhiếp luận và kinh Hoa Nghiêm đều thuyết có 10 loại. Kinh Hoa Nghiêm nói :
1) Thọ tự tại, vì vô biên kiếp trụ.
2) Tâm tự tại, vì xuất vô số định, nhập thâm trí.
3) Trang nghiêm tự tại, vì có thể trang nghiêm được mọi cõi đất. Nhiếp luận gọi là “Chúng cụ tự tại”.
4) Nghiệp tự tại, vì tùy thời mà thụ báo.
5) Sinh tự tại, vì thị hiện sinh ra ở mọi cõi.
6) Giải thoát tự tại, vì thấy chư Phật đầy khắp mọi cõi. Nhiếp luận gọi là “Thắng giải tự tại”.
7) Dục tự tại, vì thành Bồ đề vào bất cứ lúc nào, bất cứ cõi nào.
8) Thần lực tự tại, vì thị hiện mọi thứ thần biến.
9) Pháp tự tại, vì thị hiện vô lượng vô biên pháp môn.
10) Trí tự tại, vì trong mỗi niệm đều thị hiện giác ngộ Như Lai thập lực, vô sở úy. 
Song sự giải thích có hơi khác với Nhiếp luận. Còn hành Lục độ cũng được giải rộng như Nhiếp luận.
Ở đây tức là “Thần lực tự tại” vì phổ thị chư môn.
*
-Kinh văn : “Phật thuyết.. đó”    tới    “Tam Bồ đề tâm”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ tư : Kết luận, thành tựu ích lợi đương thời.
 
 
 

***  

PHẨM ĐÀ LA NI

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng : phẩm này mục đích thuyết minh cái lực để cứu hộ cho chúng sinh khỏi các hoạn nạn, như trên đã giải thích. 
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM. 
Tiếng Phạm : Đà la ni, ở đây (tức Trung Quốc) gọi là Tổng trì. Niệm tuệ là Thể, dùng thần lực của một số ít văn tự vô nghĩa bí mật để gia trì, uy linh không gì sánh nổi, phá tà diệt ác, dựng chính nêu thiện, cho nên gọi là Đà la ni. Phẩm này thuyết minh về điều đó, cho nên gọi là phẩm Đà La Ni.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : Tổng trì có bốn loại : để đạt được Pháp, Nghĩa, Biện tài, Từ vô ngại giải, theo đó mà thuyết về bốn loại. Còn ở đây thì thuyết về cái gì ?
Đáp : trên kia trường hàng đã thuyết về Pháp, Nghĩa trì. Nay ở đây thuyết về Chú trì. Để giúp hai thứ trước, bởi vậy mới thuyết minh về vấn đề này. 
Vô đắc, Vô sinh nhẫn : đó là Tổng trì.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Dược Vương”    tới    “công đức rất nhiều”. 
Tán rằng : toàn phẩm chia làm 3 đoạn :
1. Đoạn đầu thuyết minh về phúc của việc trì kinh.
2. Đoạn hai thuyết minh về phương thần chú.
3. Đoạn cuối thuyết minh về đại chúng đương thời được lợi ích. 
Đoạn đầu này có 2 phần : 
– Đầu tiên là hỏi.
– Sau đó là đáp. 
Trong đáp có 3 mục :
1) Hỏi lại. 2) Đáp thẳng. 3) Phật thuyết.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Dược Vương”    tới    “có nhiều điều ích lợi”. 
Tán rằng :  dưới làø thuyết minh về phương thần chú. Có năm, hợp lại thành ba loại :
• Loại đầu là 2 thánh.
• Loại sau là 2 thiên.
• Loại cuối là 10 thần. 
Đây là thánh đầu. Có 4 mục :
1) Nêu. 
2) Thuyết. 
3) Kết thắng (kết luận về sự thắng diệu).
4) Phật tán thán.

*
-Kinh văn : “Bấy giờ Dũng Thí”    tới    “chư Phật đó rồi”. 
Tán rằng : đây là thánh thứ hai. Có 4 mục :
1) Nêu. 3) Chính thuyết.
2) Công năng. 4) Kết thắng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Tỳ Sa Môn”    tới    “không có suy giảm hoạn nạn”. 
Tán rằng : dưới làø 2 thiên. Đây là vị thiên đầu, có 3 mục :
1) Nêu. 2) Thuyết. 3) Kết thắng.
“Tỳ Sa Môn” : đây dịch là Đa văn, là vị thiên (vương) ở phương Bắc trong Tứ thiên vương, thường tán trợ Phật pháp.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Trì Quốc”    tới    “chư Phật đó rồi”. 
Tán rằng : đây là vị thiên vương thứ hai. Có 3 mục :
1) Nêu. 2) Thuyết. 3) Kết thắng. 
Đây tức là Đông diện thiên vương.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ có La Sát nữ ”    tới     “Pháp sư như vậy”. 

Tán rằng : đây là 10 thần. Có 7 phần :
1) Nêu danh.
2) Thỉnh thuyết.
3) Chính thuyết.
4) Khuyên chớ não hại pháp sư.
5) Lại thuyết thêm kệ để ví dụ về tội.
6) Xin đích thân hộ trì.
7) Phật tán dương. 
Phần Phật tán dương có ba :
  1/- Đầu tiên là tán dương chung.
  2/- Sau đó là tán dương riêng.
  3/- Cuối cùng là khuyên ủng hộ Pháp sư.
*
-Kinh văn : “Lúc thuyết phẩm Đà la ni này”    tới    “Vô sinh pháp nhẫn”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ ba trong phẩm nói về đại chúng đương thời được lợi ích.
 

***
 

PHẨM DIỆU TRANG NGHIÊM VƯƠNG BẢN SỰ

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý. 
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Có hai ý :
1. Luận nói rằng : thắng lực công đức là do phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương thị hiện. Phẩm này thuyết minh về việc Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn trì kinh Pháp Hoa, đã ngộ đạo, dựa vào thắng lực công đức mà khiến vua cha vốn có tà kiến được hồi tâm, được thụ ký tương lai sẽ thành Phật. Đó đều là do lực công đức của Pháp Hoa. Nói về bản duyên của vị đó để làm lợi ích cho pháp hội lúc bấy giờ. Cho nên mới có phẩm này.
2. Phẩm Diệu Âm trước kia thuyết minh về việc Hoa Đức Bồ tát xin hỏi về tam muội mà Diệu Âm chứng được, nhờ vậy mà tự mình chứng được Pháp Hoa tam muội. Diệu Trang Nghiêm Vương ở đây chính là Hoa Đức. Trước khi đắc tam muội thì Diệu Trang Nghiêm Vương vốn chấp trước tà kiến. Nay thuyết minh về chuyện hai con khuyên giải thuyết phục vua cha. Làm thiện tri thức thì chẳng chọn kẻ oán người thân mà chỉ bảo cho mọi người biết, khiến họ hoằng dương kinh này. Cho nên mới có phẩm này. 

  1. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
    Khi còn làm vua chúa quyền quý tại thế tục thì dùng châu báu lụa là để mà trang sức, nhưng khi đã bỏ tà kiến nhập chính đạo thì dùng Pháp bảo thắng diệu để khiến bản tâm được trong sáng như ngọc, cho nên gọi là Diệu Trang Nghiêm Vương. Là nhân duyên đời trước, cho nên gọi là Bản sự. 
    III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
    -Hỏi : phẩm này chủ yếu thuyết minh về Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn là thiện tri thức. Cớ sao chẳng lấy đó mà đặt tên phẩm ?
    Đáp : nhờ công đức thắng diệu mà bản thân Diệu Trang Nghiêm Vương bỏ tà nhập chính, chứ chẳng phải là hai con ông ta. Hai con ông tuy là thiện hữu, nhưng cha nhờ công đức mà bản thân nhập chính.
    Thêm nữa, Hoa Đức trước kia tức là Diệu Trang Nghiêm Vương, muốn hợp nhất thân ấy cho nên lấy đó làm (tên) phẩm. Lại nữa, Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn tức Dược Vương và Dược Thượng, trước đã thuyết minh về Dược Vương, sợ tên đầu đề bị phiếm lạm, cho nên chẳng dùng mà đặt tên phẩm.
    *
    – Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo”    tới    “tên kiếp là Hỉ Kiến”. 
    Tán rằng : toàn phẩm – văn chia làm 4 đoạn :
    1. Kể về bản duyên.
    2. Hội kim cổ.
    3. Khuyên mọi người quy lễ.
    4. Kết thành lợi ích của đại chúng. 
    Đoạn đầu lại chia làm 4 phần :
    1) Kể về thời.
    2) Nêu Phật.
    3) Thuyết minh về cha con Bồ tát.
    4) Thuyết minh rộng về nguyên do.
    Đây là hai phần đầu.
    *
    -Kinh văn : “Trong pháp Phật đó”    tới    “thứ hai tên là Tịnh Nhãn”. 
    Tán rằng : đây là phần ba : thuyết minh về cha con Bồ tát.
    *
    -Kinh văn : “Hai người con này”    tới    “cũng đều thông đạt”. 
    Tán rằng : dưới làø phần thứ tư : thuyết minh rộng về nguyên do, chia làm 4 phần :
    1. Tán thán đức của hai con.
    2. Thuyết minh về Phật đương thời thuyết pháp.
    3. Đoạn từ “Bấy giờ Tịnh Tạng Tịnh Nhãn” trở xuống : nói về việc hai con  cảm hóa cha.
    4. Đoạn từ “Vua ấy tức thì đem nước giao phó cho em trai” trở xuống : nói về việc (Diệu Trang Nghiêm) xuất gia được lợi ích. 
    Đây là phần đầu. Có 3 mục :
    A. Mục đầu : nêu thành phúc trí.
    B. Mục hai : liệt kê riêng 4 đức.
    C. Mục cuối : liệt kê 7 định. 
    B. Bốn đức :
    1) Lục độ.
    2) Phương tiện thiện xảo, có 12 thứ : 
    (1) Bi tâm cố luyến. 
    (2) Liễu tri chư hành.
    (3) Thường ở chốn sinh tử.
    (4) Vui được diệu trí Phật. 
    (5) Luân hồi chẳng nhiễm. 
    (6) Hăng hái tinh tiến.
    Sáu thứ này là nội. 
    (7) Khiến chỉ dùng ít thiện mà cảm được vô lượng quả.
    (8) Chỉ dùng lực nhỏ mà thu được thiện căn lớn. 
    (9) Kẻ ghét thánh giáo thì khiến họ trừ được sân não. 
    (10) Kẻ dừng giữa chừng, thì khiến họ thú nhập. 
    (11) Kẻ đã thú nhập rồi, thì khiến họ thành thục. 
    (12) Kẻ đã thành thục rồi thì khiến họ được giải thoát.
    Sáu thứ này là ngoại.
    3) Tứ vô lượng.
    4) Ba mươi bảy phẩm trợ đạo.
    C. Bảy định : 
    Đây là “Các tam muội” : 
    1. “Tịnh (tam muội)” : là vì đã đoạn chướng chứng chân. 
    2. “Nhật tinh tú” : là vì như mặt trời đại phá, như vô vàn tinh tú phá được các ám. 
    3. “Tịnh quang” : là vì phóng đại quang. 
    4. “Tịnh sắc” : là vì hiện các diệu sắc. 
    5. “Tịnh chiếu minh” : là vì soi tỏ Phật pháp. 
    6. “Trường trang nghiêm” : là vì chứng được công đức không hề suy giảm. 
    7. “Đại uy đức” : là vì khởi thần thông.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ Phật đó”    tới    “kinh Pháp Hoa này”. 
    Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : thuyết minh về Phật đương thời thuyết pháp.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn”       tới    “cần phải nghe và vâng theo”. 
    Tán rằng : đây là phần thứ ba : hai con cảm hóa cha. Có 5 phần nhỏ :
    1. (Con) thưa với mẹ xin tới chỗ Phật.
    2. Mẹ sai con cảm hóa cha.
    3. Vâng lời dạy, tiến hành cảm hóa.
    4. Đoạn từ “Bấy giờ tám vạn bốn ngàn người trong hậu cung của Diệu Trang Nghiêm Vương” trở xuống : tín tâm theo Phật.
    5. Đoạn từ “Bấy giờ Phật đó thuyết pháp cho vua” trở xuống : Phật đáp ứng, dẫn đạo làm lợi lạc. 
    Đây là phần đầu. Có 2 mục : đầu là nêu ra, sau là giải thích. 
    * Chữ [爪] (móng vuốt) âm đọc là Trảo. Lại có bản viết là [抓] (Trảo : cào, cấu, ngắt bằng móng vuốt. Sách Ngọc Thiên giải thích [抓] Trảo là cấu, ngắt, cào (bằng móng vuốt).
    Dùng móng vuốt mà cào cấu vật thì gọi là [抓] Trảo, tuy âm đọc giống chữ [爪] Trảo, nhưng ở đây chẳng phải là chỉ móng vuốt.
    *
    -Kinh văn : “Mẹ bảo con rằng”    tới    “cùng nhau cùng đi” 
    Tán rằng : đây là phần thứ hai của 5 phần : mẹ sai con cảm hóa cha.
    *
    -Kinh văn : “Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn”    tới    “nhà tà kiến này”. 
    Tán rằng : đây là phần thứ ba của 5 phần : vâng lời dạy tiến hành cảm hóa. Có 9 mục :
    1) Hai con sinh hận.
    2) Mẹ khiến nghĩ tới cha.
    3) Thuận theo lời, liền hóa độ.
    4) Cha thấy, mừng hỏi.
    5) Hai con giải đáp cặn kẽ.
    6) Cha nói muốn đi.
    7) Bẩm với mẹ, xin xuất gia.
    8) Mẹ bèn cho phép.
    9) Bạch với cha mẹ, xin tới chỗ Phật. 
    Đây là mục đầu.
    *
    -Kinh văn : “Mẹ bảo con rằng”    tới    “đi đến chỗ Phật”.
    Tán rằng : đây là mục thứ hai : mẹ khiến nghĩ tới cha.
    *
    -Kinh văn : “Thế là hai con”    tới    “tâm tịnh tín giải”. 
    Tán rằng : đây là mục – thứ ba : thuận theo lời (mẹ) tiến hành hóa độ (cho cha). Đầu tiên nêu ra, sau đó giải thích, cuối cùng kết luận.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ cha thấy con”    tới    “chúng con  là đệ tử”. 
    Tán rằng : đây là mục thứ tư “cha thấy mừng hỏi” và mục thứ năm “hai con giải đáp cặn kẽ”.
    *
    -Kinh văn : “Cha bảo con rằng”    tới    “xin cho con xuất gia”. 
    Tán rằng : đây là mục thứ sáu “cha nói muốn đi” và mục thứ bảy “báo với mẹ, xin xuất gia”.
    Mục “báo với mẹ, xin xuất gia” có hai phần :
    – Phần đầu : báo rằng cha đã tin hiểu, phát tâm.
    – Phần sau : xin mẹ cho xuất gia. 
    “Xuất gia” : khoan khoáng dụ như hư không. Như khế kinh nói : “chim Công tuy có màu sắc để trang điểm cho thân mình, nhưng chẳng bằng chim Hồng, chim Hạc có thể bay xa. Người bạch y (tức người tại gia) tuy có thế lực giàu sang, nhưng chẳng bằng người xuất gia có công đức thắng diệu”. 
    Thập Luân kinh nói : “hoa Chiêm bác ca tuy héo nhưng vẫn còn hơn các hoa khác lúc đang tươi. Các Bật sô phá giới ác hạnh vẫn còn hơn hẳn các ngoại đạo tinh tiến”. 
    Do đó mà hai con xin mẹ xuất gia.
    *
    -Kinh văn : “Mẹ liền bảo rằng”    tới    “thời cơ cũng khó gặp”. 
    Tán rằng : đây là mục thứ tám “mẹ hiền cho phép” và mục thứ chín “bạch với cha mẹ, xin tới chỗ Phật”. Mục thứ chín có 3 phần :
    – Đầu tiên nêu lên lời xin. 
    – Sau đó giải thích lời xin. 
    – Cuối cùng là kết luận về lời xin.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ tám vạn bốn ngàn người trong hậu cung của  Diệu Trang Nghiêm Vương”     tới    “ưa thích Phật pháp”. 
    -Tán rằng : trong 5 phần nói về hai con cảm hóa cha, thì đây là phần thứ tư nói về tín tâm qui Phật. Có 3 mục :
    – Mục đầu : thuyết minh về đạo khí kham thành.
    – Mục hai : hai con khéo cảm hóa.
    – Mục cuối : mọi người tới chỗ Phật. 
    Đây là hai mục đầu. 
    Trong mục đạo khí kham thành có bốn loại :
    1) Hậu cung. 3) Tịnh Tạng.
    2) Tịnh Nhãn. 4) Phu nhân.
    *
    -Kinh văn : “Thế là Diệu Trang Nghiêm Vương”    tới    “lùi ra đứng ở một phía”. 
    Tán rằng : đây là mọi người tới chỗ Phật.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ Phật đó”    tới    “phóng đại quang minh”. 
    Tán rằng : trong 5 phần nói về hai con cảm hóa cha, đây là phần thứ năm nói về Phật đáp ứng, dẫn đạo làm lợi lạc. Có 4 ý :
    1) Phật khéo thuyết pháp.
    2) Vua cởi hạt châu đem bố thí.
    3) Vua nghĩ tới sắc thân Phật.
    4) Phật hỏi, ký thành. 
    Đây là hai ý đầu.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Trang Nghiêm” tới “công đức như vậy”. 
    Tán rằng : đây là ý thứ ba : “vua nghĩ tới sắc thân Phật” và ý thứ tư “Phật hỏi, ký thành”. 
    Trong mục “Phật hỏi, ký thành” thì đầu là hỏi, sau là ký. Trong ký có sáu :
    1) Nhân. 4) Kiếp.
    2) Thể. 5) Chúng.
    3) Nước. 6) Cõi đất.
    *
    -Kinh văn : “Vua ấy lập tức”    tới    “Trang nghiêm tam muội”. 
    Tán rằng : trong 4 phần của đoạn đầu, thì đây là phần thứ tư thuyết minh rộng về nguyên do, phần này nói về xuất gia sẽ được lợi ích. Có 6 ý :
    1) Xuất gia.
    2) Tu hành đắc định.
    3) Lên trên không bạch Phật.
    4) Tán thán ấn chứng, rồi trần thuyết rộng.
    5) Từ trên không xuống, tán thán, phát nguyện.
    6) Nói rồi thì lui ra. 
    Đây là hai ý đầu.
    *
    -Kinh văn : “Liền lên hư không”    tới    “tới sinh ở nhà ta”. 
    Tán rằng : đây là ý thứ ba : lên trên không bạch Phật. Có ba mục :
    1) Đầu là lên trên không.
    2) Sau đó là chính thức tác bạch.
    3) Mục cuối : kết bằng tán thán.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ Phật Vân Lôi Âm”    tới    “được gặp thiện tri thức”. 
    Tán rằng : đây là ý thứ tư : tán thán ấn chứng, trần thuyết rộng ra. Có 3 mục :
    1) Mục đầu : nói rõ nhờ nhân xưa mới gặp được thiện hữu.
    2) Mục sau : giải thích ý nghĩa của lợi ích do thiện hữu.
    3) Mục cuối : nêu bật cái nhân khiến vua phát tâm Bồ đề, đó là hai người con làm thiện hữu.
    Đây là mục đầu.
    *
    -Kinh văn : “Thiện tri thức ấy”    tới    “Tam bồ đề tâm”. 
    Tán rằng : đây là giải thích ý nghĩa của lợi ích do thiện hữu. Có 2 phần :
    1) Phần đầu nêu rõ lợi hỷ của việc chỉ giáo khiến chứng quả đại Bồ đề.
    2) Phần sau nêu rõ cái nhân khiến được thấy Phật, phát tâm Bồ đề. 
    Kinh Thiện Giới và Bồ Tát Địa luận nói : “Nếu thân cận thiện hữu thì giới không bị khuyết phá. Đa văn, tu chứng, ai mẫn, vô úy, kham nhẫn, không mỏi, ngôn từ biện liễu, đó gọi là tướng thiện hữu. Cầu thí lợi lạc, hiểu biết đúng đắn về điều này, có lực, khéo quyền nghi, làm lợi ích không ngừng, đại bi không thiên lệch, đó gọi là thiện hữu. Làm gì cũng chẳng dối, uy nghi viên mãn, ngôn hành đôn hậu nghiêm túc không hề mỏi mệt, không hề ghen ghét, tiết kiệm xúc tích cần thì thí xả, can gián nêu lỗi, khiến phải nhớ lại, truyền thụ, răn bảo, năng thuyết pháp cho, đó gọi là thiện hữu. 
    Đáng làm chỗ tin cậy, dù có bệnh hay không có bệnh đều kính yêu cúng dàng hầu hạ. Thăm hỏi, rước lễ, tu nghiệp hòa kính, đồ vật bốn sự lúc cần đến đều chẳng thiếu, kính cẩn phụng sự, hỏi nghe không động, đó gọi là thân cận”. 
    Kinh Niết Bàn nói : “Thiện tri thức là người trụ ở khắp nơi trong hình tướng Phật, Bồ tát, Bích chi Phật, Thanh văn và người phàm. Vì sao gọi là thiện tri thức ? Thiện tri thức là người có khả năng giáo hóa chúng sinh xa lìa mười điều ác, tu hành mười điều thiện. Vì nghĩa này mà gọi là thiện tri thức. 
    Thêm nữa, thiện tri thức là người như pháp mà mà thuyết, như pháp mà hành. Thế nào gọi là như pháp thuyết, như pháp mà hành ? Nghĩa là tự  mình chẳng sát sinh, bảo ban người khác chẳng sát sinh. Cho đến tự mình tu hành chính kiến, giáo dục người khác tu hành chính kiến. Nếu làm được như vậy thì được gọi là bậc chân thiện tri thức. 
    Này thiện nam tử ! Như vầng trăng trong hư không, từ ngày mùng một tới ngày rằm dần dần tăng trưởng. Bậc thiện tri thức cũng giống như vậy, khiến các học nhân dần dần xa ác pháp, tăng trưởng thiện pháp.”
    Theo Kinh Hoa Nghiêm thì Bồ tát có mười loại thiện tri thức. Những gì là mười :
    1) Có thể khiến an trụ ở tâm Bồ đề.
    2) Có thể khiến tu tập thiện căn.
    3) Có thể khiến tu hành rốt ráo các Ba la mật.
    4) Có thể khiến phân biệt giải thuyết mọi pháp.
    5) Có thể khiến an trụ thành thục.
    6) Có thể khiến đầy đủ biện tài, hỏi gì cũng giải đáp được.
    7) Có thể khiến chẳng trước mọi thứ sinh tử.
    8) Có thể khiến tu hành hạnh Bồ tát, tâm không hề mỏi mệt chán nản trong mọi kiếp.
    9) Có thể khiến an trụ ở hạnh Phổ Hiền. 
    10) Có thể khiến thâm nhập hết thảy Phật trí. 
    Thêm nữa, thiện tri thức là cha mẹ ta, vì sinh trưởng được hết thảy các thiện căn. Hơn nữa, thiện tri thức còn làm thuốc tốt chữa khỏi các bệnh, còn là con mắt để dẫn dắt tới chỗ sáng, là mặt trăng mặt trời chiếu rọi mở ra con đường chính giác để vượt ra khỏi thế gian, cho tới nói rộng ra nữa thì đó là tất cả Phạm hạnh để cảm hóa chúng sinh, khiến được thấy Phật, gọi là đại duyên ; khiến phát tâm Bồ đề vô thượng, gọi là đại nhân. Do nhân duyên này mà khiến chứng Phật quả, gọi là Phật sự.
    *
    -Kinh văn : “Đại vương ngài thấy”    tới    “khiến trụ chính kiến”. 
    Tán rằng : đây nêu rõ cái nhân khiến vua phát tâm Bồ đề, đó làø hai người con làm thiện hữu.
    *
    -Kinh văn : “Diệu Trang Nghiêm Vương”    tới     “như quả Tần bà”. 
    Tán rằng : đây làø từ trên hư không xuống, tán thán, phát nguyện. Có hai phần :
    1) Phần đầu : tán thán 5 đức.
    2) Phần sau : phát 6 nguyện. 
    * Chữ [紺] có âm đọc là Cam, màu xanh ánh đỏ (tức màu cánh cam). 
    Mắt Phật có sắc đẹp như màu lá của loài sen có hoa đỏ tía. Xanh có ánh hồng bao quanh nên gọi là màu xanh đỏ. 
    “Quả Tần bà” màu đỏ và bóng cho nên lấy làm ví dụ.
    *
    -Kinh văn : “Bấy giờ Diệu Trang Nghiêm Vương”    tới    “các tâm ác”. 
    Tán rằng : dưới làø phát 6 nguyện, trong đó phần đầu tán thán chung Phật pháp, phần sau là phát riêng sáu nguyện.
    Dù là “giáo” (dạy) hay là “giới” (răn) nơi chốn thực hành hai loại này thảy đều yên ổn, vì chúng sinh lìa ác mà tích thiện.
    *
    -Kinh văn : “Nói lời này rồi, lễ Phật mà ra”. 
    Tán rằng : đây là ý thứ sáu : nói rồi thì lui ra.
    *
    -Kinh văn : “Phật bảo đại chúng”    tới    “Bồ tát đấy”.
    Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : hội kim cổ.
    *
    -Kinh văn : “Dược Vương, Dược Thượng này”    tới    “cũng nên lễ bái”. 
    Tán rằng : dưới làø đoạn thứ ba : khuyên mọi người quy lễ : đầu tiên là tán thán, sau đó là khuyên (quy lễ).
    *
    -Kinh văn : “Phật thuyết … này”    tới    “được pháp nhãn tịnh”. 
    Tán rằng : dưới đây là đoạn thứ tư trong phẩm : kết luận tạo thành ích lợi thù thắng. 
    Đối Pháp quyển 9 nói rằng : đạo vô gián có thể xa được trần, đạo giải thoát có thể lìa được cấu. Do hai đạo này mãn cho nên “được pháp nhãn tịnh”, chứng Sơ quả.
     
     

***
 

PHẨM PHỔ HIỀN BỒ TÁT KHUYẾN PHÁT

Ba môn phân biệt :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
Luận nói rằng : lực hộ pháp thì do phẩm Phổ Hiền và phẩm cuối thị hiện. Trong phẩm Chúc Lũy, Phật tự mình ba lần dặn dò phó thác việc hộ pháp. Còn trong phẩm này Bồ tát khuyến phát mọi người hộ pháp. Vì thế cho nên có phẩm này.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM. 
Nhân từ tuệ ngộ thì gọi là “Hiền”. Đức lợi đầy  khắp thì gọi là “Phổ”. Đó là do trong thì chứng được nhất chân, ngoài thì thành tựu muôn đức, bởi vậy đức lợi đầy khắp, nhân từ tuệ ngộ, cho nên gọi là “Phổ Hiền”. 
Bát Nhã Lý Thú luận nói rằng : “hết thảy hữu tình đều là Như Lai tạng, vì Phổ Hiền Bồ tát khắp trong tự thể. Do chứng lý Phổ biến Hiền thiện và đạo năng chứng thì gọi là Phổ Hiền”. 
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “thân tướng Phổ Hiền y vào Như như, chẳng y vào nước Phật. Do trong thì chứng được lý Phổ biến Hiền thiện này, ngoài thì thể hiện ba nghiệp không gì không Hiền, cho nên gọi là “Phổ Hiền”. Đó chính là tên gọi của đức tự lợi. 
Dẫn dụ khích lệ thì gọi là “Khuyến”. Dìu dắt khiến sinh thì gọi là “Phát”. Dạy dỗ, dẫn dụ khích lệ, khiến tín đạo phát sinh thì gọi là “Khuyến Phát”. Đây chính là đức lợi tha. 
Trong phẩm này thuyết minh việc Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát tín tâm, trì kinh nhập đạo, cho nên gọi là phẩm Phổ Hiền Bồ tát Khuyến Phát.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
-Hỏi : vì sao Phổ Hiền tới khuyến phát mà chẳng phải là các vị khác ? 
Đáp : vì muốn thuyết minh về tin thuận theo đạo, chứng nhất thừa, hết thảy mọi thứ trong ba nghiệp không gì không hiền.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phổ Hiền”    tới    “đi vòng quanh bảy vòng theo chiều tay phải”. 
Tán rằng : toàn phẩm văn chia làm 6 đoạn :
1) Đường đi tới của Phổ Hiền.
2) Bẩm bạch, nghe kinh.
3) Phật bảo cho bốn pháp.
4) Phổ Hiền khuyến phát.
5) Thích Ca tán khuyến.
6) Đại chúng đương thời được lợi ích.
Đây là đoạn đầu, có 4 mục :
a) Từ phương đông tới.
b) Tướng nơi trải qua.
c) Đồ chúng đi theo.
d) Tới rồi quy lễ (Phật).
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “thân tướng Phổ Hiền y vào Như như, chẳng y vào nước Phật”. 
Trí Độ luận nói : “mỗi lỗ chân lông của Phổ Hiền Bồ tát đều thường xuyên xuất hiện thế giới chư Phật và chư Bồ tát, đầy khắp mười phương để hóa độ chúng sinh, không có trụ xứ đích xác nhất định nào. Nay nói “từ phương đông tới”, đó là căn cứ vào một hóa thân ứng hiện nhìn thấy nghe thấy của chúng sinh mà nói. 
Kinh Bảo Vân nói : Bồ tát có mười loại pháp gọi là thiện năng tác hóa :
1) Bản thân ở một nước Phật, chẳng hề động mà có thể thăm hỏi thuyết pháp ở khắp mọi nước Phật.
2) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể nghe và tiếp thụ được lý sâu ở khắp các cõi Phật.
3) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể cúng dàng khắp cả mười phương chư Phật.
4) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể trang nghiêm Bồ đề, thảy đều đầy đủ ở khắp các nước Phật.
5) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể cung kính cúng dàng tôn trọng tán thán mỗi khi có vị Phật nào ở mọi nước Phật, mới thành đạo ngồi ở đạo tràng dưới cây Bồ đề.
6) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà tự thân có thể thị hiện ở mọi cõi Phật, ngồi ở đạo tràng, hiện thành Phật đạo.
7) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể thị hiện chuyển pháp luân ở mọi cõi Phật.
8) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể thị hiện nhập Niết bàn ở mọi cõi Phật.
9) Bản thân ở một nước Phật, chẳng động mà có thể vì những ai cần thụ hóa ở mọi cõi Phật mà đều hiện thân.
10) Bồ tát chứng đắc vô tác thần thông, đối với hết thảy mười phương cõi Phật, chẳng khởi ý tưởng là phải biến hóa, chẳng khởi ý tưởng là phải dùng thần thông mà thảy đều thị hiện tùy theo thân cần thị hiện tương ứng để độ chúng sinh cần độ.
Nghiệm theo đây thì thấy Phổ Hiền đã thành Phật từ lâu, nhưng thị hiện làm Bồ tát để khuyến khích việc tu diệu hạnh. 
Kinh Vô Cấu Xưng nói rằng : tuy đắc Phật đạo nhưng chẳng bỏ đạo Bồ tát, đó gọi là Bồ tát hạnh.
*
-Kinh văn : “Bạch Phật rằng…” tới “được kinh Pháp Hoa này”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : bẩm bạch, nghe kinh. Có 2  mục :
1) Mục đầu nói về dụng ý tới đây.
2) Mục sau thỉnh cầu giải đáp nghi hoặc. 
Cho rằng ngay lúc Phật tại thế mà pháp còn khó đạt được, thì sau khi Phật diệt độ rồi không ai làm chủ thì làm sao mà đạt được kinh, được nghe, tư duy và tu hành (Văn Tư Tu) để sinh tin thuận ? 
Thêm nữa, khi Phật tại thế thì chúng sinh Hoặc nhẹ nghiệp mỏng nên còn có thể đạt được kinh này, sau khi Phật diệt độ rồi thì chúng sinh nghiệp dày Hoặc nặng, làm sao mà đạt được kinh, vì khó tin, khó được nghe, khó tư duy, khó tu hành.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Phổ Hiền”    tới    “ắt đạt được kinh này”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ ba : Phật bảo cho 4 pháp. Có 3 bước :
– Bước đầu : nêu lên.
– Bước hai : nói rõ.
– Bước cuối : kết luận.
Bốn pháp đó là :
1) “Được chư Phật hộ niệm” : có nghĩa là đòi hỏi phải căn thục. 
Bát Nhã luận nói rằng : Khéo hộ niệm cho các Bồ tát là thuyết cho Bồ tát căn thục. Người mà căn chưa thục thì chỉ nghe ngôn ngữ mà chưa đạt được  lý. Căn thục thì có thể đạt được Giáo và Lý.
2) “Vun trồng các gốc đức” : nghĩa là đòi hỏi trước hết phải tu cả hai nhân phúc tuệ, khởi các căn như Tín v.v… thì mới đến được cái mức nghe Giáo thì đạt được Lý..
3) “Nhập chính định tụ” : nghĩa là chính kiến quyết định.
4) “Phát tâm đại bi, cứu tế chúng sinh”. 
Pháp đầu là Tư lương đạo, năng văn năng tư. Pháp thứ hai là Gia hành đạo, năng tu định quán. Pháp thứ ba là Kiến đạo, năng chứng thâm lý. Pháp cuối cùng là Tu đạo, năng tập năng chứng. 
Y vào bốn vị này, mỗi vị đều tăng trưởng. 
Thêm nữa, ngoài gặp Phật giúp, trong tu gốc đức, quyết định chẳng hủy báng, từ bi quảng đại, đều tại địa tiền thì mới có thể đạt được cả hai thứ Giáo và Lý của kinh.
Nhưng theo Du Già thì “nhập chính định tụ” nghĩa là phải nhập Sơ địa. Ở đây nói rằng chẳng phải thế.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phổ Hiền”    tới    “trong đời trược ác”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ tư : Phổ Hiền khuyến phát. Có 4 mục :
1. Thuyết minh về việc hộ trì.
2. Lợi ích trong kiếp này.
3. Đoạn từ “Nếu chỉ sao chép thì người ấy sau khi mệnh chung sẽ được sinh trên cõi trời Đao Lợi” trở xuống : lợi ích trong kiếp sau.
4. Đoạn từ “Có những công đức lợi ích như vậy” trở xuống : kết luận khuyên hãy phát tâm. 
Đây là mục đầu. 
Kinh Đại Tập, phần Nguyệt Tạng nói : “Sau khi Phật diệt độ : 
– 500 năm đầu là Giải thoát kiên cố.
– 500 năm thứ hai là Thiền định kiên cố.
– 500 năm thứ ba là Đa văn kiên cố.
– 500 năm thứ tư là Tạo dựng chùa tháp v.v… Phúc đức kiên cố. 
– 500 năm thứ  năm là Đấu tranh kiên cố ”.
“500 năm sau” : có ba cách giải thích :
a) Một là nay đang là 500 năm thứ ba, là Đa văn kiên cố, vì y vào đại thừa chính pháp 1000 năm, sau chính pháp cho nên nói là 500 năm sau.
b) Hai là nay đang là 500 năm thứ năm. “500 năm sau” nói trong kinh này phải là (500 năm) cuối cùng. Căn cứ vào hai cách giải thích trên thì trước đây sau đây nếu có ai thụ trì kinh này tuy chẳng phải là chẳng ủng hộ, nhưng con người trong thời gian sau đây phần nhiều tệ ác, người tin là khó, cho nên cần phải ủng hộ.
c) Ba là Thế tôn ký biệt về thời gian, các chủng loại nhất nhất đều 500 năm, đều gọi là “500 năm sau, sau khi Phật diệt độ”. Trong các khoảng thời gian này, Bồ tát đều ủng hộ cả. 
Do trong việc ủng hộ, Thập Địa luận nói có ba hộ pháp :
1) Hộ giáo pháp : đó là sao chép đọc tụng, diễn thuyết cho người khác.
2) Hộ hành pháp : tư duy tu tập, trong lúc tu hành, nếu có gì khó khăn trở ngại thì nhiếp thụ, cứu giúp.
3) Hộ chứng pháp : tam Phật Bồ đề nhiếp chứng pháp này, giáo hóa truyền thụ. 
Tức là thể hiện Bồ tát trong thời chính pháp ủng hộ ba pháp này, vì vẫn còn có chứng; trong thời tượng pháp thì Hộ giáo (pháp) và Hộ hành pháp, vì không còn có chứng nữa; sau thời mạt pháp thì chỉ có Hộ giáo pháp, vì không còn hành nữa. 
Bí yếu của thiền pháp chẳng phải là tông chỉ của đại thừa, nên chẳng cần hòa hợp. Điều mà kinh Bi Hoa và ngài Chân Đế nói là “năm mươi năm sau sau khi Như Lai diệt độ”, xét về lý mà nói thì e rằng câu văn viết lầm. Có người nói rằng : (đó là nói) sau khi Phật diệt độ tới thời kỳ con người thọ năm mươi tuổi, cho nên cũng chẳng trái ngược nhau.
*
-Kinh văn : “Nếu có người thụ trì”    tới    “đều chẳng được tiện”. 
Tán rằng : dưới làø mục thứ hai : Lợi íchtrong kiếp này. Có 3 phần :
1. Phần đầu thuyết minh về ba phẩm tu được lợi ích khác nhau.
2. Phần hai là đoạn từ “Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành ở cõi Diêm Phù Đề” trở xuống, nói rõ kinh được lưu hành ở đời đó là nhờ lực Phổ Hiền. 
3. Phần cuối là đoạn từ “Nếu có ai thụ trì, đọc tụng v.v…” trở xuống, nói rõ người có khả năng lưu hành kinh này thì phù hợp với hạnh Phổ Hiền. 
Trong văn phần đầu có 3 mục :
a) Mục đầu : ủng hộ cho hạng hạ phẩm thụ trì.
b) Mục hai : ủng hộ cho hạng trung phẩm thụ trì. Đó là đoạn từ “người đó hoặc đi hoặc đứng” trở xuống.
c) Mục cuối : ủng hộ cho hạng thượng phẩm thụ trì. Đó là đoạn từ “Bạch Thế tôn ! nếu đời sau” trở xuống.
Mục đầu có 2 ý :
1) Đầu tiên nêu rõ mọi ác pháp ác nhân đều chẳng làm gì được.
2) Sau đó nói riêng 12  hạng phi nhân cũng chẳng làm gì được. 
* Chữ [伺] đọc là Tứ. Sách Ngọc Thiên giải thích [伺] Tứ có nghĩa là rình mò, dòm dỏ.
*
-Kinh văn : “Người đó hoặc đi hoặc đứng”    tới    “Đà la ni”. 
Tán rằng : đây là ủng hộ cho hạng trung phẩm thụ trì. Có 4 ý :
1) Ủng hộ khi đọc.
2) Ủng hộ cho khi tư duy.
3) Nếu quên thì khiến nhớ.
4) Nhìn thấy thì thêm tinh tiến. 
Thêm tinh tiến có ba :
  a) Nhìn thấy thì vui thích, thêm tinh tiến.
  b) Đạt được định.
  c) Đạt được tổng trì.
 “Pháp âm phương tiện đà la ni” là trí định để tăng thêm lực thực hành việc thuyết pháp.
*
-Kinh văn : “Thế tôn”    tới    “lực thần thông”. 
Tán rằng : đây là ủng hộ cho hạng thượng phẩm thụ trì. Có 5 ý :
1) Dạy cho biết quỹ tắc ba lần bảy ngày tinh tiến.
2) Khiến được thấy, được truyền đạo, được nghe pháp, đạt được tổng trì.
3) Kẻ ác chẳng làm tổn hại được.
4) Chính thuyết thần chú.
5) Kết luận : lực của bản thân mình. 
“Người tìm kiếm” là người cần tu Pháp Hoa hoặc là tất cả những người mà thiện nguyện có ý mong cầu tu tập kinh Pháp Hoa này, thì “trong thời gian ba lần bảy ngày phải nhất tâm tinh tiến”. 
Phổ Hiền Quán Kinh thuyết minh về hành pháp có năm :
1/- Ba lần bảy ngày thì thấy.
2/- Bảy lần bảy ngày được thấy.
3/- Một lần sinh được thấy.
4/- Hai lần sinh được thấy.
5/- Ba lần sinh được thấy. 
Trong này theo thuyết xưa : Thượng phẩm tinh tiến thì ba lần bảy ngày là thấy được. Cho đến phẩm thứ năm phải tu trong ba lần sinh mới được thấy. Thêm nữa, điều này chẳng nhất định. Đầu tiên thấy thân hạ liệt thì có thể chỉ một lần bảy ngày. Cho tới ba lần sinh thì được thấy thân thù thắng. Vì sự tu hành khác nhau, cho nên phải qua thời gian dài mới thấy được (thân) thù thắng. 
Về tinh tiến thì kinh đó (chỉ Phổ Hiền Quán Kinh) nói có 6 pháp :
1) Trang nghiêm đạo tràng.
2) Tẩy rửa bản thân cho sạch sẽ.
3) Sáu thời lễ bái.
4) Khải thỉnh lục sư.
5) Đêm ngày đọc tụng kinh điển đại thừa.
6) Tư duy về đạo lý Không pháp rất sâu. 
Lúc làm pháp quán này thì lập tức thấy Phổ  Hiền, có thể diệt được trăm vạn ức A tăng kỳ tội nặng sinh tử. 
Chưa thấy văn nói về Khải thỉnh lục sư, nay tạm thời giải thích như sau : Thích Ca là Hòa thượng, Văn Thù Sư Lợi là A xà lê. Di Lặc Bồ tát là Giáo thụ sư. Mười phương Phật là Tôn chứng sư. Mười phương Bồ tát Ma ha tát là đồng pháp lữ. Bồ tát Phổ Hiền là Sám hối giới chủ. Đủ lục sư như thế mới có thể sám hối, thụ tam tụ giới v.v… Khải thỉnh như vậy thì mới thấy Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Nếu kinh Pháp Hoa”    tới    “lực uy thần”. 
Tán rằng : đây là phần thứ 2 của mục thứ hai : kinh được lưu hành ở đời là do lực của Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Nếu có ai thụ trì”    tới    “tay xoa đầu người ấy”. 
Tán rằng : đây là phần cuối của mục thứ hai : người nào có thể lưu hành được kinh này thì phù hợp với hạnh Phổ Hiền. Cho nên được Phật xoa đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu chỉ sao chép”    tới    “vui chơi thỏa thích”. 
Tán rằng : dưới đây là mục thứ ba của đoạn lớn thứ tư : Lợi ích trong kiếp sau. Có 3 phần :
1. Hạ phẩm tu thì sinh ở cõi trời Đao Lợi v.v…
2. Trung phẩm tu như thụ trì v.v… thì sinh ở cõi trời Dạ ma v.v… 
3. Thượng phẩm tu thì được ngàn Phật trao tay v.v… 
Đây là phần đầu, có 3 ý :
1) Nơi sinh của người chỉ sao chép.
2) Tướng đón tiếp.
3) Thân trạng. 
Sinh ở cõi trời Tứ Thiên Vương cũng là hạ phẩm sinh, lược đi chẳng nêu.
*
-Kinh văn : “Huống chi thụ trì”    tới    “tu hành đúng pháp”. 
Tán rằng : đây là trung phẩm tu thụ trì v.v… . Sinh ở cõi trời Dạ Ma và hai cõi trời ở trên chẳng thấy Phật. Văn lược đi, vì không có quả.
*
-Kinh văn : “Nếu có người”    tới    “mà sinh ở trong”. 
Tán rằng : đây là thượng phẩm tu, được ngàn Phật trao tay. Có 4 ý :
1) Ngàn Phật trao tay.
2) Khiến không sợ hãi.
3) Chốn vãng sinh.
4) Thấy Bồ tát.
Ba phẩm tu sinh đã nói ở trên mới chỉ nêu một tướng, chẳng phải là đã nói hết lẽ thực. Nói cho hết lẽ thực thì trong mười pháp hành mỗi pháp đều có ba phẩm, vì chỉ như trung phẩm đã có thụ trì cho đến giải nghĩa ; thượng phẩm cũng có, tùy theo sự tự tu tập, có thượng có hạ. 
“Tu hành đúng pháp”, đều có hạ có thượng. Nay chỉ ở trung phẩm nói là có, còn thượng phẩm thì không. Đó là căn cứ vào một tướng mà nói.
Mười pháp hành trên, Biện Trung Biên luận nói :
– Tám pháp hành đầu là Văn tuệ, là hạ phẩm.
– Pháp hành thứ chín là Tư tuệ, là trung phẩm.
– Pháp hành thứ mười là Tu tuệ, là thượng phẩm.
Ở trong văn tuệ : sao chép, cúng dàng, thí tha là hạ, vì là dễ ; nghe giảng, duyệt đọc, phúng tụng là trung ; thụ trì, khai diễn là thượng, vì khó. 
Thêm nữa, tu một, hai, ba pháp hành là hạ ; bốn, năm, sáu pháp hành là trung ; bảy, tám, chín, mười pháp hành là thượng, vì điều mong mỏi của mỗi loại thì khác nhau.
*
-Kinh văn : “Có những công đức lợi ích như vậy”    tới    “khiến chẳng đoạn tuyệt”. 
Tán rằng : trong đoạn lớn thứ tư : Phổ Hiền khuyến phát, đây là mục thứ tư : kết luận khuyên hãy phát tâm. Có 2 ý :
1) Đầu tiên là nói rõ thắng pháp khuyên hãy tu hành.
2) Sau đó là hộ pháp khiến hành.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Thích Ca”    tới    “danh hiệu Bồ tát Phổ Hiền”. 
Tán rằng : dưới đây là đoạn lớn thứ năm trong phẩm : Thích Ca tán khuyến. Có 3 phần :
– Phần đầu : ca ngợi Phổ Hiền.
– Phần hai : tán thán người trì kinh.
– Phần ba : tướng thuận nghịch đối với hành giả. 
Đây là phần đầu, có 3 ý :
1) Tán thán việc hộ trợ kinh (này).
2) Tán thán hạnh nguyện của Phổ Hiền.
3) Hộ người trì danh hiệu Phổ Hiền. 
Tán thán hạnh nguyện có 3 nhân :
a) Tự lợi. 
b) Lợi tha.
c) Khen người.
*
-Kinh văn : “Phổ Hiền nếu có”    tới    “được áo che cho”. 
Tán rằng : dưới làø tán thán người trì kinh. Có 4 điều :
1. Thuận Phật hành.
2. Lìa mọi ác.
3. Sẽ được xuất thế.
4. Nhất định chán sinh tử. 
Điều đầu tiên này có 6  ý :
1) Vì thấy Phật nên biết được ba loại thân : lý, trí, hóa.
2) Như đích thân nghe pháp từ miệng Phật nên hiểu được giáo ý.
3) Là pháp cúng dàng để cúng dàng Phật.
4) Được Phật tán thán, vì hợp với bản tâm của Phật thì Phật tùy hỉ.
5) Được Phật xoa đầu, được Phật giáo hóa gia bị cho bản tâm, như thụ ký cho.
6) Được y Phật che cho, vì có đầy đủ (các hạnh) tàm quý, nhu hòa, nhẫn nhục v.v…
*
-Kinh văn : “Người như vậy”    tới    “hạnh của Phổ Hiền”. 
Tán rằng : đây là lìa các điều ác. Có 5 ý :
1) Chán sự vinh hoa sung sướng của thế gian.
2) Chẳng thích ác duyên.
3) Tâm khéo điều hòa thanh tịnh.
4) Diệt trừ phiền não.
5) Tu hành, ít dục.
“Chẳng thích ác duyên” có 3 thứ :
a) Tà hạnh.
b) Ác nghiệp.
c) Văn chương, nghệ thuật v.v… của ngoại đạo. 
“Tâm khéo điều hòa thanh tịnh” có 3 thứ :
a) Chất trực. 
b) Chính niệm.
c) Phúc đức. 
“Diệt trừ  phiền não” có 3 thứ :
a) Trừ tam độc.
b) Diệt ghen ghét.
c) Trừ tam mạn.
“Tu hành, ít dục” có 3 thứ :
a) Ít dục. 
b) Tri túc (biết đủ).
c) Tu hạnh Phổ Hiền.
*
-Kinh văn : “Phổ Hiền ! Nếu Như Lai”    tới    “trên pháp tòa”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba : sẽ được xuất thế. Có 5 ý :
1) Hướng đạo tràng. 4) Chuyển pháp luân.
2) Phá ma chúng. 5) Thăng pháp tòa.
3) Đăng chính giác.
*
-Kinh văn : “Phổ Hiền ! nếu ở…”    tới    “được phúc báo của mình”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : nhất định chán sinh tử. Có 2 ý : 
 1) Chẳng tham của cải đồ vật.
 2) Được quả báo hiện tiền.
*
-Kinh văn : “Nếu có người”    tới    “được quả báo hiện tiền”. 
Tán rằng : trong đoạn lớn thứ năm của phẩm này : nói về Thích Ca khuyến tán. Dưới đây là phần thứ ba nói về tướng thuận nghịch đối với hành giả. 
Có 5 ý. Trong đây có 2 ý :
1) Kẻ hủy báng (kinh này) thì (sẽ bị quả báo) không có mắt, vì đã hủy báng pháp nhãn thanh tịnh.
2) Người tán thán (kinh này) thì được hiện báo, vì tâm, điền đều thù thắng.
*
-Kinh văn: “Nếu lại thấy người thụ trì”    tới    “phải như kính Phật”. 
Tán rằng : trong này có 3 ý :
1) Kẻ nào bới lỗi lầm của hành giả, thì bị bệnh hủi cùi.
2) Kẻ nào khinh rẻ chê cười hành giả, thì đắc tội.
3) Khuyên hãy sinh tâm cung kính. 
Kẻ khinh rẻ chê cười đắc tội sẽ bị mười thứ bệnh, như trong kinh văn đã nói, có thể biết được. 
* Chữ [繚] trong từ Liễu lệ [繚戾] : xoáy tít – chỉ nước, đọc là Liễu. Trong sách Thuyết Văn chỉ có chữ Liễu [了] trong từ Liễu đạt [了達] (hiểu thấu). Chữ [寥] Liêu trong từ Liêu thái [寥菜] (rau răm), chữ [暸] Liễu trong cụm từ “Mục tinh lãng liễu” [目精朗暸] (con mắt tinh sáng). 
Ngoài ra không có chữ nào đọc âm Liễu như chữ [了] cả. Có hai chữ [燎] Liệu trong từ Liệu trá (đốt nướng) và chữ [繚] Liêu trong từ Liêu nhiễu [繚繞] (vòng quanh, quấn quít). Nay chữ [繚] này đọc là Liễu.
Chữ [睞] trong từ [角睞] đọc là Lai. Theo sách Ngọc Thiên thì từ Giác lai [角睞] có nghĩa là mắt lác.
*
-Kinh văn : “Lúc nói phẩm Phổ Hiền này”    tới    “làm lễ rồi đi”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ sáu trong phẩm nói về đại chúng đương thời được ích lợi. 
Có hai phần :
1) Phần đầu nói về ý được ích lợi.
2) Phần sau nói về ý phụng hành.

***
 

LỜI CUỐI SÁCH

Cơ tôi đây trong thời gian vân du thuyết pháp trên đường dừng lại Bác Lăng, các giới Tăng tục học tập đạo Phật có bảo tôi giảng kinh này. Vì bản thân tôi chẳng thể tu học nghĩa cũ, cho nên đành phải tự mình soạn ra văn mới, tối soạn sớm giảng, khi giảng xong thì kinh sớ (tức bộ Pháp Hoa Huyền Tán này) cũng viết xong. 

Than nỗi, (bản thân tôi) học ít, biết nông, cho nên nghĩa lý biên xong thì ngôn từ cũng hết. Nghĩa kinh vốn rất sâu xa súc tích, (cho nên tôi) tuy vụng về cũng cố gắng tán tụng thêm để thành sáng tỏ. 

Tôi nem nép thận trọng y vào thánh giáo, xoáy vào một mực lấy ở huyền tông. Thế mà vẫn còn sợ là ngôn từ sơ suất, sai với tôn chỉ trong kinh, trái với những điều viện dẫn. 

Kinh này là bộ kinh điển quan trọng nhất đối với người đang tu đạo, người ta ai chẳng tán tụng lời văn sâu xa của kinh này. Đã chẳng thể lặng im không nói, nên đành phải trình bày những suy nghĩ ngông cuồng hời hợt của mình. Những mong các bậc thức đạt quân tử phủ chính cho tôi !

Vậy tôi xin kết thúc bằng bài tụng rằng :

Hạnh, Lý tiếp thu từ các kinh.
Lược tán nhất thừa chân pháp nghĩa.
Đôi lời chân thực thí quần sinh.
Nguyện cùng chóng thành Vô thượng quả.
 

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ MƯỜI 
(HẾT)

Đây là sách đã viết xong tại phòng Trí luận sư  Phiên kinh viện, chùa Đại Từ Ân tại Tây kinh (tức Tràng An, Trung Quốc, đời Đường) vào năm Điều Lộ thứ hai tháng chín. 
Sách này được biên soạn in ấn ra, đó là nhờ công tích của vị sư hoằng pháp dịch kinh, nhờ công đức cao cả tốt đẹp của các vị đại vương, tiểu vương. Sách này phải biên soạn nhiều lần mới xong. Nhưng (đại sư Khuy Cơ) vẫn chuyên tâm vào việc biên soạn, chẳng để ý tới các việc khác. Chưa được bao lâu thì (ngài) đã bỗng nhiên nhập diệt. Thần (của ngài) tuy đi rồi, nhưng phong độ (của ngài) vẫn còn mãi. 
Mỗi khi giảng bộ kinh sớ này lại hằng thương nhớ tới ngài. Những mong nhờ phúc thiện này mà được Tam hội sơ đăng, nhờ sự huân tu này mà tới bậc thượng phẩm, vượt biển Chân như, giỡn sóng Bát nhã, có trí tuệ từ bi xót thương chúng sinh bị đau khổ, đưa họ tới cõi Niết bàn Cực lạc, cùng vô cùng giới, tận vô tận sinh, đều diệt khổ nhân, cùng lên Lạc quả.
– Niên hiệu Bảo An năm thứ ba, tức năm Nhâm Dần, tháng 7 ngày 11, tức ngày Đinh Mão, giờ Thân sao chép xong, sư trụ trì chùa Pháp Long là Tăng Giác đem in.

Nguyện nhờ công đức chép Pháp Hoa.
Cùng ơn từ bi giải đại thừa.
Cha mẹ bảy đời của Đại sư.
Cùng cả pháp giới mau thành Phật.

– Niên hiệu Thiên Thừa năm đầu, tức năm Tân Hợi tháng 6, ngày 21, tức ngày Bính Tuất, sư Nhiếp Kiến bắt đầu từ hạ tuần tháng Giêng năm ngoái đem so với bản của Thiện Minh phòng ở chùa Dược Sư. Đắc nghiệp [xxx] xong.
“để được lợi ích vãng sinh tới cõi Cực lạc [xxx]”.

– Niên hiệu Bảo An năm thứ ba, tháng Chạp ngày 13, lấy bản của Viên Như phòng chùa Hưng Phúc, di điểm xong thì đem in.
“để khiến cho pháp được trụ lâu dài và lợi ích cho cõi người, cõi trời”.

Bản di điểm này đều là bản của bậc cao danh. Thêm nữa, [ x ] bản đều là bản di điểm, những điều di điểm đều viết bằng son, còn các chữ khác đều viết bằng mực thường, để cho hạng mạt học mê muội được sáng tỏ vậy.
– Niên hiệu Đại Chính năm thứ mười, tháng 7 ngày 20, sau khi đối chiếu bản của Sư Tăng Giác in với điểm bản của năm sư, thêm một bản nữa đem giao xong. Ngày đó giảng phẩm Thọ Lượng xong.

Hạ an cư, giảng ba kinh.
Mạt học là Định Dận, quán chủ chùa Pháp Long 
kính bút.
 
 

HỒI HƯỚNG.

Nguyện đem Công đức ấn tống bộ sách này, hồi hướng Tây phương, trang nghiêm Tịnh độ. Nguyện từ đời vô thủy cho đến sau này, hết thảy kẻ oán người thân, Thất tổ Cửu huyền, Sư Tăng Cha mẹ, đời nay và nhiều đời về trước. Rộng cùng mười phương pháp giới, tất cả chúng sinh, thiện ác tri thức, tám nạn ba đường, cỏ cây sâu bọ, loài sinh bằng trứng, loài sinh bằng thai, loài ẩm thấp sinh, loài biến hoá sinh, hoặc nhầm mà giết, hoặc cố ý giết, tất cả muôn loài, nguyện cởi hết thảy các oan khiên, tiêu tất cả các tội nghiệp, đồng chứng đại Bồ đề, đồng sinh Cực lạc quốc.
Nam mô Đại từ Đại bi Cứu nạn Linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát Ma Ha Tát, tác đại chứng minh.