KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA HUYỀN TÁN

QUYỂN THỨ TÁM (PHẦN SAU)
Sa môn KHUY CƠ, chùa ĐẠI TỪ ÂN soạn

PHẨM PHÁP SƯ

Ba môn phân biệt :

  1. NÓI RÕ DỤNG Ý.
    II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
    III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
  2. NÓI RÕ DỤNG Ý.

Có ba ý :

  1. Trên kia phẩm đầu tiên là phẩm Tựa thuật rõ nhân do, thứ đến 8 phẩm gọi là Chính tông. Trước hết, dẫn phẩm Tín Giải nói rằng : “nay trong kinh này chỉ thuyết nhất thừa”. Phẩm này lại nói thêm : “mở môn phương tiện, nói rõ tướng chân thực”, tức là lấy nhất thừa làm tông chỉ của cả bộ kinh (Kinh tông), dẫn dụ loại Bất định tính trong nhị thừa, hơn nữa đều thụ ký cho. 
    19 phẩm cuối gọi là Lưu thông. Phần Lưu thông kinh này chẳng phải là dẫn dụ hạng nhị thừa thoái thất đại tâm (chỉ hạng không phát tâm tu đại thừa), càng không có chỗ nào khai quyền hiển thực, chính thuyết nhất thừa, vì tuy phẩm này và phẩm Trì có ít bát bộ Tỳ kheo ni v.v.. được thụ ký, nhân nói tới tổng ký, nhưng chẳng phải là thuyết thêm về nhất thừa, để khuyến dụ họ khiến họ tu học rồi thụ ký cho, mà đều là lưu thông cả. 

Trong Lưu thông, chia làm ba :

– 4 phẩm đầu là Tán trọng lưu thông : tán thán pháp, tán thán người là đáng tôn đáng trọng, khiến sinh lòng hoan hỉ ngưỡng mộ.

– 7 phẩm sau là Học hạnh lưu thông : học tập hoằng dương kinh này, chính hạnh, trợ hạnh khiến không thương tổn, hủy hoại.

– 8 phẩm cuối là Phó thụ lưu thông : vì thị hiện tướng (Phật) phó chúc và đệ tử vâng mệnh tuân hành. Đây cũng tức là phần lưu thông của ba vòng thuyết pháp.

Hỏi : trong các kinh khác phần Lưu thông văn ít nghĩa gọn, nay trong kinh này cớ sao (phần Lưu thông) lại rộng như vậy ? 

Đáp : dưới phẩm này nói : số kinh mà ta đã thuyết nhiều vô lượng ngàn ức. Trong số đó, kinh này khó tín giải nhất, bí yếu chư Phật thường tự thủ hộ, từ xưa tới nay chưa từng thuyết minh rõ, ý nghĩa tôn chỉ sâu xa, kẻ sinh tín giải ít. Cho nên phần Lưu thông của kinh này nhiều hơn kinh khác. Hơn nữa giáo hóa đại cơ (hạng có căn cơ đại thừa) dễ có thể thành thục, còn giáo hóa loại hồi tâm thì khó tín giải. Cho nên Lưu thông phải nhiều, phải dùng đủ mọi cách để khuyến khích động viên. 

Trong 4 phẩm đầu về Tán trọng lưu thông, 3 phẩm đầu là Tán trọng, phẩm Trì sau là Lưu thông.

Trong 3 phẩm đầu, phẩm Pháp Sư nói rõ : ở kinh này dù người hay pháp đều đáng tôn trọng, đáng làm khuôn phép ; phẩm Bảo Tháp nói rõ pháp đáng trọng, chốn thuyết kinh này, tháp vọt lên để nghe pháp ; phẩm Thiên Thụ tuy cũng thuyết minh về pháp, nhưng dụng ý là thuyết minh về người hoằng dương được kinh này, người đó đáng trọng. Chính là vì trọng pháp, cho nên người đó đã chẳng tiếc thân mệnh, lấy thân mình làm giường. Còn phẩm Trì thì tóm tắt cả nội dung của ba phẩm này : Tán trọng có nghĩa rộng cho nên nguyện lưu thông. Cho nên 4 phẩm trên gọi là Tán trọng lưu thông. 

Hai phần lưu thông khác , tới văn sẽ giải. Đó chính là lý do đầu tiên sở dĩ vì sao mà có phẩm này.
2. Thuyết 19 phẩm gọi là Chính tông. 
12 phẩm đầu thuyết minh về cảnh nhất thừa. Trong chia làm hai phần : 
– 8 phẩm trên chủ yếu thuyết minh về quyền thực, về ba loại căn cơ được thụ ký.
– 4 phẩm dưới khen người khen pháp, khuyến khích trì hành. 
Phân tích 4 phẩm, chẳng khác Lưu thông. Cho nên có phẩm này.
3. Trong luận có bảy dụ, ba bình đẳng, mười vô thượng. Vô thượng thứ mười là Thị hiện thắng diệu lực vô thượng, là dư tàn Tu đa la thuyết. Tức là điều mà luận nói là : dưới là thị hiện hai loại lực : Pháp lực và Tu hành lực.
Pháp lực có năm : 
1) Chứng. 4) Nghe pháp
2) Tín.  5) Đọc tụng trì thuyết.
3) Cúng dàng.
4 phẩm đầu đều là các phẩm nói về Di Lặc ; là các phẩm Phân Biệt Công Đức và Tùy Hỷ Công Đức, vì đều là bảo Di Lặc. Riêng một phẩm Thường Tinh Tiến ở sau tức là phẩm Pháp Sư Công Đức, vì là bảo với Thường Tinh Tiến. 
Tu hành lực có bảy :
1) Trì lực.
2) Thuyết lực.
3) Hành khổ hạnh lực.
4) Giáo hóa chúng sinh hành khổ hạnh lực.
5) Hộ chúng sinh chư nạn lực
6) Công đức thắng lực.
7) Hộ pháp lực
Trì lực có ba phẩm : Pháp Sư, An Lạc Hạnh và Trì phẩm. 

  • Đầu tiên là phẩm Pháp Sư thuyết minh chung về người và pháp, năng trì và sở trì. 
  • Sau đến phẩm An Lạc Hạnh thuyết minh về pháp tu hành của người trì kinh. 
  • Cuối cùng là phẩm Trì thuyết minh về người năng trì.

 Cho nên cả ba phẩm đều gọi là Trì lực. Trên phân tích về quyền thực, chủ yếu là để dẫn dụ cho căn cơ nhị thừa chứ chưa thuyết về năng trì, sở trì đáng tôn đáng trọng. Nay nói rõ nghĩa này. Cho nên mới có phẩm này. 

  1. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM. 

Đáng làm phép tắc, đáng được giữ gìn thì gọi là “Pháp” ; đáng để học tập, đáng làm khuôn mẫu thì gọi là “Sư”. 
Giáo này đáng là phép tắc, Lý này đáng để giữ gìn, hai thứ ấy đều gọi là “Pháp” ; Pháp này đáng để học tập nên gọi là “Pháp Sư”. 
Cho nên kinh Niết Bàn nói rằng : thày của chư Phật, đó là Pháp đấy. 
Kinh Di Giáo nói : Ba La Đề Mộc Xoa là vị thày cả của ngươi. 
Trong phẩm này tán thán kinh là đáng trọng, Pháp chính là thày, cho nên gọi là Pháp Sư. Pháp này là Pháp Sư. Người học được Pháp thì có thể làm khuôn mẫu để dạy dỗ đào tạo muôn vật. Thày có pháp, đó gọi là Pháp Sư. “Người ấy” Pháp Sư, phẩm này thuyết minh rộng về vấn đề này, cho nên gọi là phẩm Pháp Sư. Trong phẩm này nói cả hai : pháp và người học, đều gọi là Pháp Sư. Nghĩa chung cho cả hai là hay. 

III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.

-Hỏi : Pháp Sư là chỉ những người hoằng trì kinh này, cả lúc Phật sinh tiền và sau khi Phật diệt độ, hay là để chỉ những người như thế sau khi Phật diệt độ ?

Đáp : đều gọi là Pháp Sư cả. Trong này, phần lớn là chỉ loại sau khi (Phật) diệt độ, được gọi là Pháp Sư. Còn những vị hiện tại được gọi là đệ tử, song hiện đã được thụ ký, trong này cũng nói là được danh hiệu Pháp Sư.
Thêm nữa, vì người hiện tại thụ trì thì dễ, nên lược đi mà chẳng nói tới. Còn người thụ trì sau khi (Phật) diệt độ mới là khó, cho nên chỉ riêng loại này mới được danh hiệu Pháp Sư. Thêm nữa, người hiện đang học tập gọi là đệ tử. Còn bát bộ v.v… cũng gọi là Pháp Sư.

-Hỏi : phẩm Trì cũng trì kinh này, lại cũng đáng làm phép tắc, cớ sao chỉ riêng phẩm này được gọi là phẩm Pháp Sư ? 

Đáp : tuy nêu tên chung, nhưng lại là tên gọi riêng, vì không có khả năng nào khác. Các phẩm khác còn có nghĩa khác có thể đặt tên. Huống hồ trong này ca ngợi cả hai, người và pháp đều đáng làm thày.
 Thêm nữa, phẩm Trì : hiện tại thuyết pháp thì gọi là Trì. Còn đây là khuyến khích tán thán tài năng nổi trội sau khi (Phật) diệt độ, cho nên gọi là phẩm Pháp Sư.
-Hỏi : phẩm này cũng có thụ ký, cớ sao chẳng gọi là phẩm Thụ Ký ? 
Đáp : vì việc này ít, cho nên đặt tên theo nhiều.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn”   tới   “Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : văn lớn trong  phẩm này có hai đọan :
• Trường hàng và tụng đoạn đầu, thuyết minh về nhân Pháp Sư.
• Trường hàng và tụng đoạn sau, thuyết minh về pháp Pháp Sư.
Đoạn đầu có hai phần :
– Đầu tiên là thuyết minh về Pháp Sư hiện ở trước Phật.
– Sau đó thuyết minh về Pháp Sư chẳng hiện ở trước Phật. 
Đây là phần đầu.
Vì Dược Vương trì kinh này đã lâu, tự thiêu thân mình để cúng dàng, cho nên gọi tên Dược Vương. Nhân Dược Vương mà bảo với tám vạn người, dụng ý chính là bảo các vị đó được  thụ ký. Trong số được thụ ký có các loại Bát bộ Tứ chúng tam thừa khác nhau.
Biện Trung Biên luận nêu 10 pháp hành, mỗi một pháp hành lại có 4 hành :
1) Tự tác (tự mình làm).
2) Khuyến tha (khuyến khích người khác làm).
3) Tán thán (ca ngợi).
4) Khánh úy (chúc mừng, úy lạo). 
Nay tùy hỉ tức là tán thán, chỉ nêu một thứ làm ví dụ cho các thứ khác. Do thiện căn nhỏ mà được Bồ đề, thì chỉ như ánh mặt trời mới mọc có công dụng xua tan bóng tối. Trí cảnh tỏa sáng thì có thể đoạn trừ ngu si. Cũng như mây ráng mới đùn đã có khả năng giúp cho muôn cỏ, (lòng) từ bi mới dấy lên sẽ mang theo bóng rợp che chở cho chúng sinh. Tùy hỉ một câu sẽ được Bồ đề. Tín giải kinh này, nhất định chứng quả, điều đó có gì mà phải nghi hoặc nữa !
*
-Kinh văn : “Phật bảo Dược Vương”   tới   “Tam Bồ đề ký”. 
Tán rằng : dưới là thuyết minh về Pháp Sư hiện chẳng ở trước Phật. Có hai phần :
– Đầu tiên là nói về loại nghe pháp xong thì liền tùy hỉ.
– Sau đó là thuyết minh về sáu loại chính hạnh của Pháp Sư. 
Đây là phần đầu. 
Người thực sự ưa nghe thuyết pháp, công đức vô lượng. Nay chỉ nêu một loại nghe pháp tùy hỉ để làm ví dụ cho các hạnh khác là tự tác, khuyến tha, khánh úy, công đức kể sao cho xiết. Thêm nữa, trên là giải thích về Pháp Sư mới học, còn dưới là giải thích về Pháp Sư học lâu, vì là đại Bồ tát.
*
-Kinh văn : “Nếu lại có người”   tới   “chắp tay cung kính”. 
Tán rằng : dưới là thuyết minh về sáu loại chính hành của Pháp Sư. Có hai phần :
• Đầu tiên thuyết minh về sáu loại chính hành của Pháp Sư bi nguyện tới đây.
• Sau đó là đoạn từ “sau khi ta diệt độ, ai có khả năng riêng vì một người mà thuyết kinh Pháp Hoa” trở xuống :  thuyết minh về sáu loại Pháp Sư là đáng tôn đáng trọng. 
Trong phần đầu lại có hai phần nhỏ :
– Đầu tiên là thuyết minh về một câu kệ ít pháp hành.
– Sau đó là đoạn từ “huống chi là hết sức thụ trì…” trở xuống : thuyết minh về nhiều pháp hành. 
Trong phần đầu nhỏ này lại chia làm hai phần :
+ Phần đầu nêu rõ người tu hành sáu hạnh, đã ở chỗ chư Phật thành tựu bi nguyện mà sinh ở cõi người này.
+ Phần sau là đọan từ “nếu có người hỏi loại chúng sinh nào” trở xuống :  nói rõ thắng nhân này tới đời sau sẽ làm Phật. 
Phần đầu này lại có hai mục :
a. Đầu tiên là thuyết minh về sáu loại Pháp Sư.
b. Sau đó là thuyết minh về bi nguyện quay lại sinh ở nhân gian. 
Đây là mục đầu. 
Sáu loại Pháp Sư gồm :
1) Thụ trì. 4) Giải thuyết.
2) Đọc. 5) Thư tả (sao chép).
3) Tụng 6) Cúng dàng.
Năm loại Pháp Sư đầu chỉ thực hành đối với một bài kệ trong kinh. Còn loại Pháp Sư cuối cùng thực hành hạnh cúng dàng, thì cung kính đối với một bài kệ hay một quyển kinh, cũng đều là tu hạnh cúng dàng. “Hoa hương v.v… đủ các loại”, đó là tài cúng dàng vậy. 
Bắt đầu từ “cung kính coi như Phậ”t cho tới “chắp tay cung kính”, tổng cộng có 13 thứ. Tôn trọng kính coi như Phật, đó là ý nghiệp. Chắp tay cung kính, đó là thân nghiệp. Đây là hai loại nội tài. Tùy hỷ trước đây là ngữ nghiệp. Ngoài các thứ này ra, đều là ngoại tài. 
Mười pháp hành gồm :
1) Thư tảø (sao chép). 6) Thụ trì.
2) Cúng dàng. 7) Chính khai diễn.
3) Thí tha (bố thí cho người khác). 8) Đọc tụng.
4) Thính văn (nghe pháp). 9) Tư duy.
5) Mở đọc. 10) Tu tập.
Đây nêu các hành dễ, chỉ nói tới sáu loại. Còn bốn loại khác là Thí tha, Thính văn, Tư duy, Tu tập là các hành khó, cho nên chẳng nói. 
Đối với cả quyển kinh, nói là cúng dàng. Còn năm thứ pháp hành khác là đối với một kệ, vì là bổ sung thuyết minh lẫn cho nhau, vì nặng nhẹ khác nhau, khó dễ khác nhau.
*
-Kinh văn : “Dược Vương nên biết”   tới   “sinh ở cõi người này”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về bi nguyện nên quay trở lại sinh ở nhân gian. Vì ở đây nếu kể ngôi vị và xem xét về nhân, thì lẽ ra chẳng quay lại nữa.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nếu có người hỏi”   tới   “ắt được thành Phật”. 
Tán rằng : dưới là nói rõ thắng nhân này đời sau sẽ được thành Phật. Có hai phần :
– Đầu tiên là nêu lên.
– Sau đó là giải thích. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Vì sao vậy ?”   tới   “mà cúng dàng vị đó”. 
Tán rằng : dưới là phần giải thích. Có hai phần :
– Phần đầu nói rõ người là bậc tôn quý, đáng để cúng dàng.
– Phần sau nói rõ ngôi cao, bi nguyện sinh ra ở đây. 
Đây là phần đầu.
* Chữ “Chiêm” có nghĩa là xem; “Phụng” : chỉ ý cung kính.
Rất khế hợp với tâm Phật vì khéo thông đạt đạo lý. Do thắng nhân này mà sẽ được thành Phật, vì lợi ích lớn.
*
-Kinh văn : “Phải biết người này”   tới   “kinh Diệu Pháp Liên Hoa”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về ngôi cao, bi nguyện sinh ở nơi đây, vì có khả năng thuyết kinh này là bậc thánh giả. Chẳng thế thì sao lại gọi là đại Bồ tát ? 
Hoặc ngay tại hạng phàm phu nhưng tu học lâu, khác hẳn với hạng nhị thừa cùng hạng sơ học, thì gọi là đại Bồ tát, vì Bồ tát là tên gọi chung cho cả nhị thừa hữu học và hạng sơ học. Hoặc thành tựu phát tâm Bồ đề sẽ được thắng quả, vì đã thành cái nhân rồi cho nên có thể thuyết kinh này.
*
-Kinh văn : “Huống hồ hết sức”   tới   “diễn giảng rộng kinh này”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh về nhiều pháp hành, vì xả bỏ tịnh nghiệp quả, chẳng vãng sinh tới cõi tịnh độ trên trời và hai cõi trên (Sắc giới, Vô sắc giới), mà sinh ở chốn này. 
Trí Độ luận nói : Bồ tát bất thoái vì yêu pháp sâu sắc, cho nên nghe (pháp) thì tâm lắng sâu, lông trên người đều dựng đứng. Nghĩ tới đức từ bi của Phật thì cảm động ứa nước mắt. Nghe pháp thâm diệu thì đại hoan hỉ. Ví như quân thua trận sợ hãi ngã lăn ra đất chết ngất đi, họ hàng thân thiết thấy thế muốn biết là còn sống hay không, bèn cầm gậy mà quất nó, thì nó trở dậy ẩn vào xe. Nếu chẳng dậy ẩn vào xe, thì biết là nó chẳng còn sống. 
Bồ tát cũng thế. Nếu nghe thuyết về công đức diệu lý của Phật mà hoan hỉ, rợn tóc, sắc mặt biến đổi, buồn thương khóc lóc thì phải biết loại này ắt được Bồ đề. Khác với loại trên, loại nghe kinh không hề có tướng gì khác thì nên biết rằng loại này không có phần Bồ đề. 
Bát Nhã luận nói : “Phúc chẳng thú Bồ đề, nhị năng thú Bồ đề”à. Huống chi là hết sức thụ trì đối với kinh này, nếu chẳng phải là đại Bồ tát thì không có sự bi mẫn đó.
*
-Kinh văn : “Nếu thiện nam tử ấy”   tới   “thuyết cho người một cách rộng rãi”. 
Tán rằng : dưới là thuyết minh về 6 loại Pháp Sư đáng tôn đáng trọng. Văn chia làm hai phần :
• Đầu tiên thuyết minh về 5 điều đáng tôn trọng.
• Sau đó là giải thích lý do vì sao. 
Năm điều đáng tôn trọng là :
1) Người thuyết (kinh) là sứ giả của Phật.
2) Phỉ báng người đọc tụng kinh này, thì tội còn lớn hơn là tội đối với Phật.
3) Đọc tụng kinh Phật trang nghiêm.
4) Ở đâu cũng được tán lễ.
5) Đáng được bốn sự cúng dàng. 
Đây là phần đầu. 
Ba nghiệp thuận (theo) Phật cho nên trở thành “Sứ giả của Phật”. 
“Sứ” là ý nghiệp. “Khiển” là ngữ nghiệp. “Sự” là thân nghiệp. 
Thêm nữa, truyền (bá) Phật giáo là “Sứ”. Dùng lời Phật, gọi là “Khiển”. Giống với Phật hành, đó gọi là “Sự”, vì mọi hành vi trong ba nghiệp của Phật đều là dùng pháp này mà làm lợi ích cho chúng sinh.
“Riêng thuyết một câu” thì giống Phật nghiệp, công khai thuyết nhiều lý lẽ thì đúng với Phật hạnh.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! nếu có kẻ ác”   tới   “tội nó rất nặng”. 
Tán rằng : đây là điều thứ hai : kẻ phỉ báng kinh tội còn lớn hơn là tội đối với Phật, vì đời ác gây tổn hại nhiều.
Kinh Đại Tập nói : “phỉ báng chửi bới tỳ kheo phạm giới thì tội lớn hơn làm chảy máu thân mình của vạn ức Phật”. 
Kinh Đại Bát Nhã, hội Thắng Thiên Vương viết rằng : “nếu giết số Phật nhiều như số vi trần của đại thiên thế giới, thì tội vẫn còn nhẹ ; hủy báng kinh này tội còn hơn thế, mãi đọa vào địa ngục không có ngày ra”. 
Nay tội phỉ báng kinh này (Kinh Pháp Hoa) cũng giống như thế. Nếu tổn hại Phật mà chẳng gây tổn hại cho việc tu hành Nhị lợi bởi vì Phật chẳng sinh phiền não. Còn nếu tổn hại người đọc tụng (kinh), gây tổn hại cho việc tu hành Nhị lợi thì người đó sinh phiền não. 
Thêm nữa, dẫu hủy báng Phật, Phật không yêu ghét, chẳng bỏ việc thuyết kinh, lợi ích càng lớn. Còn nếu hủy báng người đọc tụng (kinh), vì họ còn phân biệt kẻ oán người thân, cho nên sẽ phế bỏ việc tu tập. Lại nữa, chửi Phật rất khó. Chửi người đọc tụng (kinh) rất dễ. Để răn đừng làm như vậy, cho nên thuyết giảng điều này. 
Thêm nữa, lúc Phật có ở đó thì chúng sinh căn cơ thắng trội, dẫu có kẻ chửi Phật, nhưng người khác thiện tâm bất thoái, tuy tự mình bị tổn hại nặng, nhưng người khác bị tổn hại nhẹ. Sau khi không có Phật nữa thì cấu uế của chúng sinh nặng nề, nếu phỉ báng người trì kinh, mọi người nghe thấy rồi thì phần nhiều sẽ thoái đạo tâm, tự và tha đều bị tổn hại nghiêm trọng. Cho nên đặt ra thuyết này.
Kinh Hoa Thủ nói : “nếu người nào hoại loạn tâm Bồ đề thì đó chính là đã hủy diệt ánh sáng đại pháp của mọi chúng sinh, tội sẽ lớn hơn tội Ngũ nghịch đọa địa ngục Vô gián, vì Ngũ nghịch vô gián chẳng hủy hoại mọi Phật pháp. Hủy Bồ đề tâm tức là hủy hoại mọi Phật pháp”. 
Thêm nữa, sau khi Phật diệt độ, người y pháp đọc tụng rất khó có, người có thể làm bậc thiện hữu của chúng sinh ở đời ác thế cũng rất hiếm. Cho nên tội chửi bới người đọc tụng kinh này còn nặng hơn là tội chửi Phật. 
* Chữ [    ] đọc là Tử (chửi bới). Chữ Hủy [毀] viết thế là sai. Ngọc Thiên nói : dùng miệng mà bới móc phỉ báng thì gọi là Tử Ha [     呵] (chửi bới quở trách).
*
-Kinh văn : “Dược Vương”   tới   “gánh nặng trên vai”. 
Tán rằng : đây là điều thứ ba : đọc tụng Phật trang nghiêm.
Có đủ mọi đức của Phật, bởi vì đọc tụng kinh này sẽ có đủ mọi thứ trang nghiêm như tướng hảo v.v….
Kinh Hoa Nghiêm nói Bồ tát có mười loại trang nghiêm :
1) Đại từ trang nghiêm : vì cứu hộ mọi chúng sinh.
2) Đại bi trang nghiêm : vì nhẫn được mọi thứ. 
3) Đại nguyện trang nghiêm : vì những thứ đáng phát nguyện thảy đều rốt ráo. 
4) Hồi hướng trang nghiêm : vì kiến lập nhất thiết chư Phật công đức diệu trang nghiêm.
5) Công đức trang nghiêm : vì làm lợi ích cho mọi chúng sinh. 
6) Ba la mật trang nghiêm : vì độ thoát mọi chúng sinh.
7) Trí tuệ trang nghiêm : vì trừ diệt phiền não ngu si ám cho mọi chúng sinh.
8) Phương tiện trang nghiêm : vì sản sinh thiện môn các thiện căn.
9) Nhất thiết trí tâm kiên cố bất loạn trang nghiêm : vì chẳng ưa thích các thừa khác.
10) Quyết định trang nghiêm : vì diệt trừ được mọi nghi hoặc đối với chính pháp. 
Cho nên Kinh Thắng Man nói : “Thiện nam tử nhiếp thụ chính pháp gánh vác nhiệm vụ nặng nề”. Người trì kinh chẳng những có khả năng gánh nổi tứ sinh (chỉ chung mọi loại chúng sinh) mà còn gánh được gánh nặng trên vai Phật. Cho nên được Phật coi trọng vì xứng với tâm Phật.
* Chữ Vi [為] có hai nghĩa : Làm, Bị. Trên kia là nghĩa “Bị”. Nói nghĩa  “Làm” là “tự gánh”, còn gánh cái gánh đại Bồ đề ở trên vai Phật nữa. Tức là gánh cái gánh A Nậu Bồ đề vậy. Chữ [荷] có âm đọc là Hà. Theo Ngọc Thiên còn có âm đọc là Hạ, có nghĩa là gồng gánh, gánh vác.
*
-Kinh văn : “Người đó đến đâu”   tới   “nên đem cúng dàng”. 
Tán rằng : đây là điều thứ tư : ở đâu cũng được ca ngợi lễ bái, được người tôn trọng vì ở vào chỗ tốt.
Điều thứ năm là đáng được bốn sự cúng dàng, vì là phúc điền chân thực, vì đáng được hưởng thụ diệu cúng dàng ! 
* Chữ Soạn [      ] chỉ các thứ ẩm thực (đồ ăn thức uống, cơm nước) chỉ cỗ bàn, có chỗ viết là [撰].
*
-Kinh văn : “Sở dĩ như vậy là vì sao?”   tới   “Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : đây là giải thích nguyên nhân, vì kinh Pháp Hoa này tối thâm mật, cho nên chẳng phó chúc cho A Nan, chỉ phó chúc cho Dược Vương v.v…., vì là cực kỳ bí mật.
Ví như dùng chất độc để làm thuốc trị bệnh, thì chỉ có bậc đại y dược mới dùng được. Hạng thày quèn thì chẳng có khả năng. Cho nên phó chúc cho Bồ tát chẳng phó chúc cho Thanh văn. 
Để giáo hóa hạng Thanh văn, cho nên nói rằng : “Những người này khi được nghe (pháp) trong chốc lát sẽ đắc cứu cánh đại Bồ đề”. Ý nói là vì khế hợp với chân lý nên tự mình đắc quả, nên khiến người khác đắc quả.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn”   tới   “cùng cúng dàng người trì (kinh)”. 
Tán rằng : dưới là 16 tụng chia ra làm ba phần :
– 2 tụng đầu : thuật chung về lý do khiến Pháp sư đáng được tôn trọng, đáng được cúng dàng.
– 13 tụng sau : tụng về đức của Pháp sư trên.
– 1 tụng cuối : kết luận pháp hay, cho nên người đáng tôn trọng. 
Đây là phần đầu, chia làm hai :
– 1 tụng đầu, nói về đắc Nhậm vận trí, tức Chân trí tính, chân lý Nhị không.
– 1 tụng sau, tụng về đắc mọi loại Chân trí tướng, tức là Hậu đắc trí cùng với trí tuệ tức Căn bản trí, vì chia làm hai. Khuyên tự thụ trì và cúng dàng người thụ trì. 
Đối với “Tự nhiên trí” chỉ khuyên cúng dàng, nói rõ do tự thụ trì mà được trí ấy, vậy còn có gì mà phải nghi hoặc nữa !
*
-Kinh văn : “Nếu ai thụ trì được”   tới   “thuyết rộng pháp vô thượng”. 
Tán rằng : dưới là 13 tụng, tụng về đức của Pháp sư nói trên, trong chia làm hai phần :
• Phần đầu gồm 3 tụng, ca ngợi Pháp Sư thắng trội.
• Phần sau gồm 10 tụng, nói về ý đáng tôn đáng trọng. 
Phần đầu này chia làm ba :
– 1 tụng đầu : Sứ giả của Phật.
– 1 tụng sau : xả bỏ cõi tịnh độ.
– 1 tụng cuối : tùy nguyện tự tại.
*
-Kinh văn : “Nên dùng hương hoa trời”   tới   “cúng dàng người thuyết pháp”. 
Tán rằng : dưới là 10 tụng, tụng về đáng tôn đáng trọng. Chia làm hai phần :
– 4 tụng đầu : chính diện ca ngợi Pháp sư đáng tôn đáng trọng.
– 6 tụng cuối : so sánh tội phúc, khuyên phải tôn trọng. 
Bốn tụng đầu chia làm hai :
+ 1 tụng đầu : trọng thuyết pháp.
+ 3 tụng sau : trọng thụ trì. 
Đây là phần đầu.
Vì người thuyết pháp tự nhiên ắt được quả báo thắng diệu, cho nên chỉ tán thán sơ qua. Như Khế kinh nói rằng : “nếu người có giới đủ, tuy yếu kém mà lại có thể biện thuyết làm lợi cho nhiều người, thì cũng coi như Phật, là bậc đại sư, đáng được cúng dàng tương tự như vậy, vì yêu quí người đó đã khéo thuyết pháp”.
Câu Xá luận cũng nói : “Cúng dàng cho cha mẹ ốm, Pháp Sư, Bồ tát tối hậu thân, dù chẳng chứng thánh, thí quả cũng vô lượng”.
*
-Kinh văn : “Ta diệt rồi đời ác”   tới   “làm việc của Như Lai”. 
Tán rằng : đây là 3 tụng nói về trọng thụ trì :
– 1 tụng : khuyên kính.
– 1 tụng : cúng dàng.
– 1 tụng : sứ giả của Phật. 
Diễn thuyết, đọc tụng v.v… đều là thụ trì.
*
-Kinh văn : “Nếu ở trong một kiếp”   tới   “tội ấy còn hơn thế”. 
Tán rằng : đây là 6 tụng nói về so sánh tội phúc, khuyên nên tôn trọng. Chia làm hai phần :
– 2 tụng đầu : so sánh tội.
– 2 tụng sau : so sánh phúc. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Có người cầu đạo Phật”   tới   “phúc ấy còn hơn thế”. 
Tán rằng : 4 tụng dưới chia làm hai phần :
– 2 tụng đầu : so sánh đối với Phật.
– 2 tụng sau : so sánh việc nghe pháp với việc cúng dàng. 
Đây là phần đầu. 
Tán thán Phật dễ, cho nên tâm khinh lợi ít. Tán thán người trì kinh khó, cho nên tâm trọng lợi nhiều. Vì tự tha có sự nhiều ít khác nhau, giải thích theo như trước.
*
-Kinh văn : “Ở tám mươi ức kiếp”   tới   “ta nay được lợi lớn”. 
Tán rằng : đây là đem việc nghe pháp so sánh với việc cúng dàng, vì tài cúng, pháp cúng có sự hơn kém khác nhau. Pháp cúng dàng là chỉ nghe pháp vậy.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nay bảo ngươi”   tới   “Pháp Hoa tối đệ nhất”. 
Tán rằng : đây là phần thứ ba gồm 1 tụng cuối (của 16 tụng chia làm 3 phần, như nói ở trên) : kết luận vì pháp thắng trội, nên người thành ra đáng tôn trọng.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật lại bảo”   tới   “khó tin khó hiểu”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai, thuyết minh về pháp Pháp sư. 
Trong đó, đầu tiên là trường hàng, sau đó là kệ tụng. Trường hàng có 3 phần :
1. Đầu tiên là thuyết minh về pháp khó tin khó hiểu, chớ tuyên truyền bậy.
2. Thứ đến là thuyết minh về xá lợi pháp thân cần phải được cúng dàng. Đó là đoạn từ “khắp mọi nơi chốn, dù là thuyết giảng hay là đọc tụng” trở xuống.
3. Cuối cùng là thuyết minh về nghi thức quy tắc thuyết pháp. Đó là đoạn từ “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào sau khi Như Lai diệt độ muốn vì bốn chúng” trở xuống.
Trong phần đầu lại có 2 phần :
– Đầu tiên nói rõ Pháp, Pháp sư thâm diệu.
– Sau đó nói rõ do nhân Pháp sư này mà lại thành thắng đức. 
Trong phần đầu này lại có 2 phần :
– Phần đầu : pháp khó tin khó hiểu.
– Phần sau : chớ tuyên truyền bậy. 
Đây là phần đầu. 
Trong kinh ba đời, kinh này là khó tin khó hiểu, vì khiến (người ta) bỏ quyền mà lấy thực, vô sinh mà lại hữu sinh, cho nên biết là khó tin; đạo lý u huyền phải vòng vèo rồi mới chứng được, cho nên biết là khó hiểu.
*
-Kinh văn : “Dược Vương !  Kinh này”   tới   “huống hồ sau khi diệt độ”. 
Tán rằng : dưới là phần “chớ tuyên truyền bậy”. 
• Từ “truyền thụ bậy cho người” trở lên : răn bảo chớ tuyên truyền bậy. 
• Từ “Chư Phật” trở xuống : giải thích lý do. 
Phật thường tự giữ, chưa từng diễn thuyết công khai, nay mới diễn thuyết (về kinh này) Phật tại thế, tự mình thuyết (kinh này), mà trong hàng Thanh văn còn có hạng oán giận ghen ghét tăng thượng mạn đứng dậy rời bỏ chỗ ngồi (chẳng nghe), huống hồ là sau khi Phật diệt độ thì họ sẽ phỉ báng, chẳng tin.
*
-Kinh văn : “Dược Vương nên biết”   tới   “tay xoa đầu vị đó”. 
Tán rằng : đây nói rõ do pháp mà “người ấy” Pháp sư lại thành thắng đức. Có bảy thắng đức :
1) Áo Phật che cho, vì nhu hòa nhẫn nhục đủ nết tàm quý (biết hổ thẹn), cho nên được đức từ bi của Phật che chở.
2) Phật hộ niệm cho, do đó căn thành thục. Vì Phật luôn hộ niệm cho các Bồ tát.
3) Có đại tín.
4) Có chí nguyện, vì lấy Dục, Thắng giải làm tự thể.
5) Có thiện căn.
6) Phật ở cùng, vì cùng trụ ở ngôi nhà từ bi tâm, nghĩ tới thắng nghĩa Không.
7) Phật tự tay xoa đầu, vì được Phật giáo hóa, gia bị, được Phật thụ ký biệt, được Phật nhiếp thụ.
*
-Kinh văn : “Dược Vương !  Ở bất cứ đâu”   tới   “tôn trọng tán thán”. 
Tán rằng : dưới nói rõ xá lợi pháp thân ấy đáng được cúng dàng. Có hai phần :
• Phần đầu : thuyết minh về xá lợi pháp thân ấy.
• Phần sau : nói rõ dùng “người này” mà thành Pháp sư thì cũng là thắng đức. 
Trong phần đầu lại có hai phần :
– Phần đầu là nêu.
– Phần sau : giải thích. 
Trong phần nêu có năm xứ :
1) Thuyết xứ.
2) Độc xứ.
3) Tụng xứù
4) Thư xứ (chỗ viết).
5) Kinh quyển trụ xứ (chỗ để kinh quyển). 
Trong mười Pháp hành, thì cúng dàng, thí tha (bố thí cho người khác), văn thính (nghe pháp), thụ trì, tư lường, tu tập, chẳng lìa năm xứ này. Vì sao vậy?  Dưới là phần giải thích, trong đó có hai phần :
1/- Đầu tiên nói rõ đó là xá lợi của “toàn thân”.
2/- Sau đó nói về ý phải nên cúng dàng. Nói rõ vì cả hai thứ Lý, Trí đều viên mãn, tức là có đầy đủ cả pháp thân và báo thân, do đó mà phản chiếu Khai, Thị, Ngộ, Nhập tri kiến Phật, tranh thủ được hết cả hai mặt Bồ đề và Niết bàn, Lý và Sự. Cho nên Phật dạy làm tượng, viết kinh tức là xá lợi của pháp thân – đặt vào trong tượng. 
Các pháp sinh ra từ nhân. Như Lai thuyết là Nhân. Các pháp đó theo duyên mà diệt, Đại sa môn nói đó là xá lợi của pháp thân. Cho nên Kinh Vô Lượng Nghĩa nói rằng : “còn gọi là xá lợi kiên cố”.
Cứ như kinh Kim Quang Minh thì “Như như, Như như trí gọi là pháp thân”, cho nên chỗ nào có kinh tức là có “toàn thân của Như Lai”.
*
-Kinh văn : “Nếu có người”   tới   “Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : dưới là thuyết minh do người đó mà thành pháp thân thì cũng là thắng đức. Có bốn mục :
1) Lễ cúng tháp này, được gần Bồ đề.
2) Thấy nghe kinh này, thiện hành thắng đạo.
3) Thấy nghe kinh này, được gần chính giác.
4) Nghe kinh này sinh kinh nghi, đó là hạng tân học, cụ mạn. 
Đây là mục đầu : vì hướng tới pháp thân, tức là gần với sơ phát tâm Bồ đề.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Có nhiều người”   tới   “đạo của Bồ tát”. 
Tán rằng : đây là mục thứ hai : “thấy nghe kinh này, thiện hành thắng đạo”. 
Vì chính nhân này mà đã nhập vào kiếp số, đó gọi là “hành thiện hạnh”. Trong văn có bảy hạnh :
1) Kiến(thấy). 5) Thư (sao chép).
2) Văn (nghe). 6) Trì.
3) Đọc. 7) Cúng dàng.
4) Tụng.
Cho nên biết rằng : Thuyết, Tư, Tu thực sự là thiện hạnh.
*
-Kinh văn : “Nếu có chúng sinh”   tới   “Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : đây là mục thứ ba : thấy nghe kinh này được gần Sơ địa chính giác. Có ba phần :
1) Pháp. 2) Dụ. 3) Hợp.
Đây là phần đầu. 
Nếu văn là Văn tuệ thì tín giải là Tư tuệ, thụ trì là Tu tuệ.
*
-Kinh văn : “Này Dược Vương ! ví như”   tới   “biết nước ắt gần”. 
Tán rằng : đây là dụ. 
“Có người” : ví với người cầu học pháp quan trọng để mong xuất ly. 
“Khát nước” : ví với cảnh ở trong vòng sinh tử, không có nước chính pháp. 
“Cần nước” : luận nói rằng : đây là ví dụ, ví với nước Phật tính để thành đại Bồ đề, tức là lý tính mà Phật giáo giải thích, là Sơ địa Bồ đề cần đeo đuổi. 
“Ở cao nguyên” : (đất) rộng rãi bằng phẳng thì gọi là nguyên, ví với chính pháp của Phật che chở cho tứ sinh (chỉ tất cả chúng sinh), thâu tóm được mọi vật, hơn hẳn mọi đạo khác; khó mà có thể trèo lên được, nên gọi là cao nguyên. Tức coi giáo của ngoại đạo còn trong vòng sinh tử là đồng bằng, trong vùng đồng bằng thì có cao nguyên. 
“Khoét đào để tìm kiếm” : lấy diệu tuệ làm hàng đầu, ba nghiệp làm công cụ, để lựa chọn tìm kiếm Bồ đề. 
* Chữ Tạc [鑿] là đục, khoét. 
“Vẫn thấy đất khô” : chỉ giáo tích nhị thừa – quyền thừa ngày xưa. Hoàn toàn không có tướng đại thừa, gọi là “biết rằng nước vẫn còn xa”. 
“Thi công không ngừng” : có nghĩa là nhị lợi chẳng dừng. 
“Chuyển sang thấy đất ẩm” : ý nói gặp Bát nhã Không giáo đại thừa, có cái thế của Bồ đề, nên ví với “đất ẩm”. 
“Rồi dần dần tới lớp bùn” : ví với việc nghe giáo pháp kinh này. 
“Biết rằng nước ắt gần” : luận rằng : thụ trì kinh này thì được nước Phật tính, thành A nậu đa la Tam miệu Tam Bồ đề, cho nên gần với Phật trí tuệ sở thuyên. Tức là nêu bật nhị thừa giáo là xa, đại thừa giáo là gần, Không giáo là sơ, Trung đạo giáo là thân.
*
-Kinh văn : “Bồ tát cũng lại”   tới   “Tam Bồ đề”. 
Tán rằng : dưới là hợp thuyết, có hai phần :
– Phần đầu là nêu lên.
– Phần sau là giải thích. 
Đây là phần nêu : nêu lên ba tuệ theo thứ tự : Văn, Giải, Tập. Trong mười pháp hành thì 8 pháp đầu là Văn tuệ, một pháp tiếp theo là Tư tuệ, một pháp cuối cùng là Tu tuệ.
*
-Kinh văn : “Vì sao như vậy”   tới   “mà khai thị cho”. 
Tán rằng : đây là giải thích nguyên do.
Đại Bồ đề pháp có nhân có quả, có chính nhân gần, có bàng nhân xa, Giáo Lý Hạnh Quả, trí tính, trí tướng, năm loại trí tuệ đều thuộc kinh này, vì do kinh này mà đắc, vì kinh này thu nhiếp. 
“Khai phương tiện môn” : tức là nhiếp bàng nhân xa, xưa thuyết Giáo Lý Hạnh Quả nhị thừa. 
“Hiển chân thực tướng” : tức nhiếp chính nhân gần, nay thuyết Giáo Lý Hạnh Quả nhất thừa. Vì hết thảy đều tận, cho nên đều thuộc kinh này. 
“Thâm cố” : “Thâm” có nghĩa là thâm diệu khôn lường. “Cố”: có nghĩa là chẳng thể phá hoại, vì do Phật nhiếp thụ, do Phật bí tàng. Giống như ấn của vua, chẳng giống như vật của người khác. 
“U viễn” (sâu xa) : vì phải trải qua đại kiếp tu nhân, nhờ diệu trí mới chứng được. Nếu chẳng phải là Phật thì chẳng thể đạt được, cho nên nói là “không ai có thể đến được” chân bản nguyên cùng cực. “Nay Phật giáo hóa cho Bồ tát, cho nên gọi là Khai thị”.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nếu có”   tới   “kẻ tăng thượng mạn”. 
Tán rằng : đây là mục thứ tư : “nghe kinh này sinhõ kinh nghi, đó là hạng tân học, cụ mạn”, vì là Bồ tát sơ học, Thanh văn phàm phu. Mới nghe liền kinh hãi, trong tư tưởng sinh ra nghi hoặc. Tu hành mà sợ hãi, đó là hạng mới học và hạng tăng thượng mạn, chưa nhập tam vị.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Nếu có”   tới   “nên thuyết thế nào ?”. 
Tán rằng : dưới là đoạn lớn thứ ba : thuyết minh về nghi quỹ (nghi thức) thuyết pháp. Có hai phần :
• Phần đầu : dạy bảo về nghi quỹ.
• Phần sau : nếu y theo nghi quỹ của ta, thì Phật sẽ tùy thuận. 
Phần đầu có ba :
1. Hỏi. 2. Khai thị. 3. Kết. 
Đây là hỏi.
*
-Kinh văn : “Thiện nam tử ấy”   tới   “thuyết rộng kinh này”. 
Tán rằng : dưới là khai thị. Có hai mục :
– Đầu tiên là nêu lên.
– Sau đó là giải thích.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nhà của Như Lai”   tới   “đó là mọi pháp đều Không”. 
Tán rằng : đây  là giải thích. 
Thường xuyên ở yên, dừng nghỉ thân tâm ở từ bi, cho nên gọi là “nhà” (thất). Duy Ma (Cật) lấy Không làm nhà, vì là nhà tự lợi, lý cứu cánh xứ. Đây nói rõ về sự, vì là nhà thuyết pháp lợi tha. 
Quyển hai trước đây nói rằng : “dần dà du hành, cuối cùng đến nhà cha”, đó là coi đại thừa trung đạo là nhà, vì trong ngoài so với nhau mà gọi là nhà. Đó là nhà của giáo, còn đây là nhà của hành, cũng chẳng trái ngược nhau. 
Tâm hành điều thuận, tâm có thể nhẫn nại chịu đựng được sự lao khổ, nên gọi là “áo nhẫn nhục nhu hoà”, vì ngoại vật chẳng xâm phạm được. Cứ theo thứ tự mà ví với sự nhẫn nại chịu đựng được oán hại, lao khổ. 
Quý chuộng hiền đức, khéo chống ác pháp, tu hành thông suốt cả ba thừa, lấy tàm quý làm y phục thượng hảo. Nay nói người ác, khổ cảnh chẳng làm nao núng được biệt hạnh đại thừa, cho nên nói “nhẫn nhục là áo”, cũng chẳng trái ngược nhau. Hơn nữa vì thể của nhu hòa là tàm quý. Để thân tâm ở vào Không cảnh, nhìn ba sự thấy mênh mông, gọi Không là tòa.
Duy Ma (Cật) lấy bốn tĩnh lự làm giường. Đó căn cứ vào cái do trí sinh ra, lấy tĩnh lự định làm giường, Đây căn cứ vào cái mà trí duyên vào, lấy pháp Không làm giường, cũng chẳng trái ngược nhau, vì là đại từ bi Hữu quán. Áo, tòa là quán nhị Không, theo thứ tự tức là Sinh không và Pháp không. 
Thập trụ Tỳ Bà Sa nói : đó là chỉ chốn thuyết pháp và tòa sư tử. Có bốn pháp :
1. Trước tiên đáp ứng đại chúng cung kính lễ bái, sau đó rồi mới lên tòa.
2. Trong chúng nếu có phụ nữ, thì nên quán bất tịnh.
3. Nhìn ngắm uy nghi, có tướng đại nhân, vẻ mặt vui vẻ hòa nhã, mọi người đều tín thụ. Chẳng thuyết kinh thư ngoại đạo, tâm chẳng khiếp nhược.
4. Đối với những kẻ dùng lời ác độc mà hỏi vặn thì sẽ nhẫn nhục. 
Lại có bốn pháp nữa :
1) Chẳng khinh bản thân.
2) Chẳng khinh người nghe.
3) Chẳng khinh điều sở thuyết.
4) Chẳng vì lợi dưỡng. 
Trong Đối pháp, Hiển Dương, Du Già v.v… đều có các tướng nêu thắc mắc, thuyết pháp v.v… . Nên giải thích rộng như các luận ấy.
*
-Kinh văn : “An trụ trong này”   tới   “Kinh Pháp Hoa này”. 
Tán rằng : đây là kết, là mục thứ ba.
*
-Kinh văn : “Này Dược Vương ! Ta đối với”   tới   “nghe vị đó thuyết pháp”. 
Tán rằng : dưới là phần “nếu y theo nghi quỹ của ta, thì Phật sẽ tùy thuận”. Có ba phần nhỏ :
1. Khiến nghe.
2. Được thấy.
3. Khiến chẳng quên.
Đây là phần đầu, có ba mục :
1) Khiến người giáo hóa tập hợp đại chúng.
2) Giáo hóa tứ chúng khiến họ nghe pháp.
3) Khiến Bát bộ tới nghe.
*
-Kinh văn : “Ta tuy ở nước khác”   tới   “khiến được đầy đủ”. 
Tán rằng : đây là khiến được thấy (Phật) và chẳng quên lãng. 
* Chữ [逗] đọc là Đậu, có nghĩa là trụ lại, dừng lại. Còn viết là [竇]. Nghĩa là Giáo có khả năng tháo gỡ. Theo Thuyết Văn, chữ này còn đọc là Đâu, Thấu; nay thống nhất đọc là Đậu. Có chỗ viết là [讀], chẳng biết xuất xứ từ đâu !
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn”   tới   “người tín thụ cũng khó”. 
Tán rằng : dưới là 18 tụng rưỡi, chia làm hai phần :
– 16 tụng rưỡi đầu, tụng về những điều đã nói trước kia.
– 2 tụng sau, nói rõ năng thuyết, năng thụ cả hai thứ đều có ích tướng. 
Phần đầu lại có ba phần :
– 1 tụng đầu : nói về khó tín giải, chớ tuyên truyền bậy.
– 4 tụng sau : tụng về ý trong xá lợi pháp thân, người gần Bồ đề.
– 11 tụng rưỡi : tụng về nghi quỹ thuyết pháp.
 Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Như người khát cần nước”   tới    “quyết định biết gần nước”. 
Tán rằng : dưới là 4 tụng, tụng trong pháp là xá lợi thì người gần Bồ đề. Có hai phần :
– 1 tụng rưỡi là dụ.
– 2 tụng rưỡi là hợp. 
Đây là phần đầu. 
* Chữ [燥] đọc là Táo, có nghĩa khô kiệt.
*
-Kinh văn : “Dược Vương ! Ngươi nên biết rằng”    tới   “gần với trí tuệ của Phật”. 
Tán rằng : đây là phần thứ hai, là hợp, gồm hai tụng rưỡi.
*
-Kinh văn : “Nếu người thuyết kinh này”   tới   “ở đây để thuyết pháp”. 
Tán rằng : dưới là 11 tụng rưỡi, nói về nghi quỹ thuyết pháp, trong đó có hai phần :
– 2 tụng rưỡi đầu : tụng nghi quỹ.
– 9 tụng sau : Phật tùy thuận. 
Đây là phần đầu, có hai:
1) 1 tụng rưỡi đầu : nêu về giáo.
2) 1 tụng sau : giải thích.
*
-Kinh văn : “Nếu lúc thuyết kinh này”   tới   “nhóm họ khiến nghe pháp”. 
Tán rằng : dưới là 9 tụng, tụng về việc Phật tùy thuận, chia làm sáu phần :
– 1 tụng đầu : thuyết minh về (tu) hành nhẫn hạnh.
– 3 tụng sau : nói rõ ta ở nước khác để giáo hóa tứ chúng cúng dàng, nghe pháp.
– 1 tụng tiếp : nói rõ việc làm hộ vệ cho họ.
– 2 tụng : hiện thân khiến nhớ lại.
– 1 tụng : đủ đức mới được gặp Phật.
– 1 tụng : khiến Bát bộ nghe pháp. 
Đây là hai phần đầu.
*
-Kinh văn : “Nếu người muốn làm hại”   tới   “làm chúng để nghe pháp”. 
Tán rằng : đây có hai ý :
1) Hộ vệ.
2) Khiến nhớ lại.
“Tịch mịch” : chỉ trạng thái trống vắng, không có người nào. 
Hễ “thấy Phật và có đủ đức này”, nghĩa là có đủ hạnh nhẫn nhục. Nếu người đọc tụng kinh này ở nơi trống vắng, thì Phật đều khiến Bát bộ “làm chúng để nghe pháp”.
*
-Kinh văn : “Người ấy thích thuyết pháp”   tới   “được thấy hằng sa Phật”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ hai, nói rõ năng thuyết, năng thụ cả hai thứ đều là ích tướng. 
– 1 tụng đầu, tụng về người năng thuyết là có ích.
– tụng sau, tụng về người nghe pháp được ích lợi.
* Chữ [罣] Quái : nghĩa là chướng. “Ngại” nghĩa như Chỉ [止]  nghĩa là chặn lại, dừng lại.
 

PHẨM KIẾN BẢO THÁP
Phân biệt bằng ba môn :
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC. 
I. NÓI RÕ DỤNG Ý.
 Có bốn ý :
1. Để trừ ba loại mạn mà người không phiền não nhiễm phải thì thuyết về ba bình đẳng.
– Ba mạn là :
a) Tin rằng các thừa khác nhau.
b) Tin rằng sinh tử và Niết bàn khác nhau.
c) Tin rằng thân kia thân này khác nhau.
– Ba bình đẳng là :
a) Thừa bình đẳng như trên đã nói.
b) Để trừ bỏ quan niệm cho rằng sinh tử và Niết bàn khác nhau, cho nên xuất hiện tháp của Đa Bảo Như Lai, sau khi nhập Niết bàn rồi lại hiện thân.
c) Để đả phá quan niệm cho rằng thân ấy thân này khác nhau, thể hiện rõ thân Phật Đa Bảo bao gồm hết thảy thân Phật. 
Luận rằng : tóm lại, thân của Đa Bảo Như Lai một thể thị hiện nhiếp thủ mọi thân Phật. Do thân bình đẳng cho nên chỉ thuyết minh về một thân mà bao gồm được các thân Phật. Hơn nữa, thể hiện rõ tự thân, tha thân không có gì khác biệt. Vì thân Phật ở mười phương tập hợp vào một thân vẫn không có gì khác nhau. Thân kia tức là thân ta. Do hai nghĩa sau, cho nên mới có phẩm này.
2. Trong mười vô thượng thì thứ năm là thị hiện quốc độ thanh tịnh vô thượng, thị hiện tháp của Đa Bảo Như Lai, tháp Đa Bảo vọt lên, phân thân Phật tập hợp lại, Phật phóng ra một luồng hào quang, thấy ở phương đông năm trăm vạn ức na do tha hằng hà sa số quốc độ, đất là pha lê. Thêm nữa, Phật biến tám phương mỗi phương bốn trăm vạn ức na do tha quốc độ trở thành thanh tịnh, thị hiện nước Phật thanh tịnh, thể hiện rõ pháp nay thắng trội, chẳng những giáo hóa chúng sinh ở cõi uế độ, mà còn giáo hóa chúng sinh ở cõi tịnh độ của Phật, nước Phật vốn dĩ thanh tịnh, cho nên mới có phẩm này. Đây là Nghĩa tàn.
3. Bốn phẩm đầu thuyết minh về Tán trọng lưu thông. Phẩm Pháp Sư trên nói rõ đối với kinh này dù là nhân (Pháp sư) hay là pháp (Pháp sư) đều đáng tôn trọng. Nay phẩm này nói rõ pháp đáng tôn trọng. Hễ có chốn nào thuyết kinh (này), Đa Bảo ắt đều nghe cả, để làm linh chứng, khuyến phát tín tâm. Chính vì thế mà có phẩm này.
4. Trí Độ luận nói : “nếu có Phật xuất thế mà không có người nào thỉnh thuyết pháp thì liền nhập Niết bàn”. Như trong kinh Pháp Hoa, Đa Bảo Thế tôn vì không có ai thỉnh ngài thuyết pháp, cho nên ngài liền nhập Niết bàn. Sau để chứng minh cho kinh Pháp Hoa, cho nên Phật hóa thân cùng tháp thất bảo nhất thời xuất hiện. A Nan truyền kinh lấy những người cùng được nghe làm chứng. Phật thuyết kinh này lấy Phật làm chứng. Cho nên mới có phẩm này.
Tuy truyện giải thích như thế, nhưng ý chỉ khó biết. Đa Bảo đã khuyên bảo làm tháp, không thỉnh cớ sao lại có các chúng ?
II. GIẢI THÍCH TÊN PHẨM. 
Chỗ ở của Phật thể, đó gọi là “Tháp”. Do các thứ châu báu làm thành, cho nên gọi là “Bảo tháp”. Do “Bảo” (châu báu) tạo thành nên gọi là Bảo Tháp. Hoặc tháp như trên. 
“Bảo” : chỉ Đa Bảo. Tháp của Phật Đa Bảo, hoặc Đa Bảo cùng Tháp, hai tên gọi đều nêu lên, cho nên gọi là Bảo Tháp. 
Chữ [見] nếu đọc là “Hiện” thì có nghĩa là hiển hiện. Thứ hiện ra là Bảo tháp cho nên gọi là “Hiện Bảo Tháp”. 
Chữ [見] nếu đọc là “Kiến” thì có nghĩa là trông thấy. Do tháp vọt lên, mọi người đều trông thấy, thứ trông thấy ấy là Bảo tháp. Trông thấy Bảo tháp, cho nên (phẩm này) gọi là phẩm “Kiến Bảo Tháp”.
III. GIẢI ĐÁP THẮC MẮC.
-Hỏi : theo luận thì phẩm này đã nói rõ Phật ở tịnh độ mười phương tập hợp lại, cớ sao không lấy đó làm tên phẩm ?
Đáp : nhân tháp dâng lên, muốn mở ra, ắt phải triệu tập chư Phật, định an vị chư Phật cho nên biến cõi Ta bà thành tịnh độ. Tháp hiện ra là nhân, mới có Phật tập hợp lại, biến thành tịnh độ, chứng kinh là nghiệm, chỉ tại “kiến tháp”, cho nên lấy đó làm tên gọi của phẩm này.
-Hỏi : vì sao chẳng ở tịnh độ mà thuyết pháp cho nhị thừa, mà thuyết xong chứng pháp rồi mới có tịnh độ ? 
Đáp : (đó là) muốn nói rõ nhị thừa sau trở lại hướng đại thừa, (cho nên) thoạt đầu ở uế phương, sau mới ở tịnh độ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trước Phật”   tới   “trụ trong hư không”. 
Tán rằng : văn dưới, đầu là trường hàng, có hai phần :
• Phần đầu : Tháp vọt lên, nghe pháp chứng kinh thắng diệu.
• Phần sau : từ “Bấy giờ Phật Đa Bảo ở trong bảo tháp chia một nửa tòa” trở xuống cho đến sắp nói kệ chiêu mộ đại chúng đến để (nghe) thuyết kinh, rồi mới giải bày lời phó chúc. 
Văn phần đầu lại chia làm hai phần :
1. Đầu tiên là tháp vọt lên ấn thuyết chứng kinh (này) là đáng tin cậy. Cho nên tháp chưa mở, Đa Bảo bèn tán thán những điều đã thuyết như trên đều là chân thật.
2. Sau đó là tháp mở ra nghe thuyết chứng kinh (này) là đáng tôn trọng. Đó là đoạn từ “Bấy giờ tứ chúng thấy đại bảo tháp trụ trong hư không, lại nghe trong tháp” trở xuống. 
Đầu tiên là tháp làm chứng, sau đó là thân làm chứng, vì chứng Giáo chứng Lý, chứng theo thứ tự. Văn phần đầu này lại có ba phần :
1) Chi đề ứng hiện.
2) Linh kỳ (thần linh) kính phụng.
3) Tán thán thần công của Phật, ấn chứng diệu, đức của kinh. Đó là đoạn từ “Bấy giờ trong Bảo tháp phát ra âm thanh lớn” trở xuống. 
Văn phần đầu này lại có năm mục :
1/ Nêu lên là có tháp.
2/ Thuyết minh về phân lượng.
3/ Vọt lên rồi trụ lại.
4/  Tướng trang nghiêm.
5/ Mức đạt tới. 
Nay ở đây có ba mục đầu. Song luận giải thích trong mười thứ vô thượng thì thứ năm là Thị hiện quốc độ (cõi nước) thanh tịnh vô thượng, cho nên thị hiện tháp Đa Bảo Như Lai, trong có chín :
1)  Mọi cõi Phật  5) Trụ trì.
 đều thanh tịnh. 6) Thị hiện vô lượng Phật.
2)  Tháp. 7)  Xa lìa uế bất tịnh.
3)  Lượng. 8) Đa Bảo.
4)  Lược. 9) Cùng ngồi.
Đây nói về trong phẩm Kiến Bảo Tháp này có chín loại nguyên do, mỗi loại đều có sự biểu thị riêng :
1) Cõi Phật thanh tịnh : giải thích (hiện tượng) hào quang chiếu dọi, thấy ở mười phương, mỗi phương có số nước Phật nhiều bằng năm vạn ức na do tha số cát sông Hằng, đó là các cõi tịnh độ, đất là pha lê.
2) Tháp : giải thích nguyên do xuất hiện tháp này.
3) Lượng : giải thích lượng cao thấp dọc ngang của tháp này. Hoặc lượng tịnh độ được nhìn thấy cùng các biến lượng của mười phương.
4) Lược : giải thích vì sao tóm lược lại chỉ có một Phật Đa Bảo chứng, không còn có Phật nào khác chứng?
5) Trụ trì : giải thích nguyên do Phật đáp lời Bồ tát Đại Nhạo Thuyết, rằng : Tháp này có xá lợi toàn thân của Phật Đa Bảo trụ trì.
6) Vô lượng Phật : giải thích nguyên do tập hợp các phân thân của Phật Thích Ca mười phương, mỗi phương có vô lượng phân thân Phật tập hợp lại.
7) Xa lìa uế bất tịnh : giải thích nguyên do Phật Thích Ca biến đổi thế giới Sa bà này thành thanh tịnh, lại đem hai lần tám phương, mỗi phương đều biến hai trăm vạn ức na do tha nước trở thành thanh tịnh và cũng không có biển cả núi sông…
8) Đa Bảo : giải thích nguyên do tên Phật.
9) Cùng ngồi : giải thích nguyên do vì sao mà hai Phật Thích Ca, Đa Bảo cùng ngồi, nói rõ mỗi vị đều có sự biểu thị riêng. 
Luận trình bày chẳng theo thứ tự trong kinh, cứ tuỳ theo nghĩa mà giải thích chung. Luận nói rằng :
“Tháp” : là thị hiện Như Lai xá lợi trụ trì. Có nghĩa là toàn bộ xá lợi của Phật đều ở trong tháp này, biểu thị toàn bộ pháp thân Phật đều ở trong kinh này, cho nên mới cần có  tháp vọt lên. Nếu không thế thì chỉ cần Phật hiện ra, cần gì phải có tháp vọt lên nữa ? 
“Cao năm trăm do tuần” : Luận nói rằng : lượng này thị hiện nhất thiệt Phật độ thanh tịnh, hơn hẳn thứ do thiện căn thế gian sinh ra, cho nên to lớn và thanh tịnh. Thứ do thiện căn thế gian sinh ra thì chẳng thanh tịnh mà lại bé nhỏ. Cho nên Kinh Phật Địa nói rằng : Hơn cả thứ do thiện căn thế gian khởi lên. 
“Năm” : là chỉ ngũ căn. 
“Trăm” : là chỉ Bách hạnh. Bách hạnh nghiệp đạo mỗi thứ đều giúp cho ngũ căn thì mới được, vì ngũ thú (năm nẻo, năm đường) không tể với tới được. 
“Ngang dọc 250 do tuần” : vì ra khỏi 25 hữu. 
“Từ đất vọt ra, trụ trong hư không” : tháp tại phương đông, nói “vọt ra, trụ trong hư không” biểu thị việc Phật nhập Niết bàn đã ra khỏi vòng sinh tử rồi, nay lại quay lại ở thế gian để tế độ cho chúng sinh, vì sinh tử và Niết bàn không có gì khác nhau. 
Thêm nữa, “vọt ra” biểu thị thuyết nhất thừa hơn hẳn nhị thừa. “Trụ hư không” biểu thị giáo thuyên nói về chân lý Không.
*
-Kinh văn : “Các thứ bảo vật”   tới   “đầy khắp thế giới”. 
Tán rằng : dưới nói rõ tướng trang nghiêm. Có hai phần :
• Phần đầu thuyết minh về tám thứ trang nghiêm.
• Phần sau thuyết minh lại về nghiêm tướng của tràng phan, bảo cái. 
Đây là phần đầu. 
Các thứ trang nghiêm vẻ bề ngoài của Bảo tháp, biểu trưng cho thân Phật cùng Kinh Pháp Hoa, đều có công đức để làm các thứ trang sức :
1) “Các thứ trang nghiêm” ví với muôn đức đầy đủ.
2) “Năm ngàn lan can” ví với Tín, Tiến, Niệm, Định, Tuệ lực, mỗi thứ lại nhờ Bách hạnh đạo nghiệp giúp đỡ trưởng dưỡng mới thành. Mỗi thứ lại trừ mười ác, cho nên thành năm ngàn.
3) “Ngàn vạn khám thất” : biểu thị thiềân định rất nhiều. 
* Chữ [龕] đọc là Khám, tức là tháp. Có chỗ giải thích là dáng vẻ của rồng, không đúng với nghĩa ở đây. Cho nên theo nghĩa đầu sách Ngọc Thiên nói chữ này có âm đọc là Kham, nghĩa như chữ Thụ [受] : nhận lấy, chịu ; chữ Thịnh [盛] : đứng ; chữ Thủ [取] : lấy.
4) “Tràng” : biểu thị trí đức cao hiển.
5) “Phướn” : tượng trưng cho các Tổâng trì, chuyên diệt các thứ ác.
6) “Anh lạc” : tượng trưng cho Tam niệm trụ.
7) “Lục lạc báu” : tượng trưng cho Tứ biện.
8) “Tỏa ra mùi thơm” : biểu thị tu ngũ phần pháp thân, chứng chân diệt Hoặc. Đó tức là Vô Cấu Hiền Chiên đàn hương, khắp trong tứ sinh, diệt các phiền não, năng chứng chân như.
*
-Kinh văn : “Các tràng phan, bảo cái đó”   tới   “bảy báu hợp thành”. 
Tán rằng : đây là thuyết minh thêm một lần nữa về tướng trang nghiêm của tràng phan bảo cái, biểu thị đầy đủ bảy loại thánh tài.
*
-Kinh văn : “Cao”   tới   “tứ thiên vương cung”. 
Tán rằng : đây là mức đạt tới (sở chí), biểu thị cao hơn hẳn mọi loài chúng sinh, để mà giáo hóa cho họ.
*
-Kinh văn : “Tam thập tam thiên”   tới   “tôn trọng tán thán”. 
Tán rằng : đây là linh kỳ (thần linh) kính trọng cung phụng. Có hai mục : 
1) Tam thập tam thiên mưa hoa.
2) Bát bộ cúng dàng, tán thán.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ trong Bảo tháp”   tới   “đều là chân thực”. 
Tán rằng : đây là tán thán thần công của Phật, ấn chứng diệu đức của kinh. Có hai mục : 
– Đầu là tán thán.
– Sau là ấn chứng. 
Cứ như kinh văn, có thể hiểu được.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ bốn chúng”   tới   “lùi lại trụ ở một phía”. 
Tán rằng : đây là đoạn thứ hai : tháp mở ra, nghe thuyết pháp, chứng kinh này là đáng trọng. Có ba phần :
– Phần đầu : phân tích nguyên do.
– Phần sau : nói về việc mở tháp. Đó là đoạn từ “Bấy giờ Đại Nhạo Thuyết Bồ tát nhờ thần lực của Như Lai, cho nên bạch Phật rằng” trở xuống.
– Phần cuối : thấy rồi tán thán. Đó là đoạn từ “Ngay lúc đó hết thảy đại chúng dự hội đều nhìn thấy Đa Bảo Như Lai ngồi ở trong tháp” trở xuống. 
Phần đầu lại có hai phần :
+ Đầu là thỉnh.
+ Sau là đáp. 
Trong phần thỉnh có hai :
1) Đầu tiên là mọi người tâm thỉnh.
2) Sau đó là Nhạo Thuyết ngôn thỉnh (thỉnh cầu bằng lời). 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ có vị Bồ tát”   tới   “phát ra âm thanh này”. 
Tán rằng : đây là Nhạo Thuyết ngôn thỉnh.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật bảo”   tới   “có toàn thân Như Lai”. 
Tán rằng : dưới là đáp. Có ba phần :
– Đầu tiên là nêu.
– Thứ đến : giải thích.
– Cuối cùng : kết luận. 
Đây là phần đầu. 
Luận nói rằng : trụ trì có nghĩa là để thị hiện chư Phật Như Lai pháp thân tự tại thân lực, Hóa tướng pháp thân tự tại lực, cho nên toàn thân tại tháp trụ trì, để biểu thị Phật pháp thân tự tại lực, cho nên tại kinh giáo này, toàn thân trụ trì.
*
-Kinh văn : “Chính là thời quá khứ xưa”   tới   “hiệu là Đa Bảo”. 
Tán rằng : dưới là phần giải thích, có bốn phần nhỏ :
1) Phật thân. 3) Răn bảo.
2) Bản nguyện. 4) Nguyện toại.
Đây là phần đầu.
Vì sao chỉ có một mình Phật Đa Bảo chứng, chứ chẳng phải là nhiều Phật chứng ? 
Luận rằng : đó là tóm lược trong cùng một thể của Đa Bảo Như Lai thân thị hiện nhiếp thủ hết thảy mọi thân Phật, cho nên một thân mà nhiếp thủ mọi Phật thân, vì thân bình đẳng. Cũng thể hiện rõ nhất thừa bao gồm hết thảy nghĩa. 
Vì sao mà Đa Bảo làm chứng, chứ chẳng phải các Phật khác ? 
Luận rằng : Đa Bảo có nghĩa là thị hiện mọi cõi Phật đều cùng có bảo tính như nhau, cho nên muốn nói rõ cái sự các cõi của báo Phật, hóa Phật đều cùng là bảo tính như nhau, cùng biểu thị cái lý sở thuyên là diệu mầu, thanh tịnh, không hề sai biệt.
*
-Kinh văn : “Phật ấy vốn thực hành đạo Bồ tát”   tới   “khen rằng : Lành thay !”. 
Tán rằng : đây là phần hai : trình bày bản nguyện.
*
-Kinh văn : “Phật đó thành đạo rồi”   tới   “dựng tháp lớn”. 
Tán rằng : đây là phần ba : nêu rõ những điều răn bảo.
*
-Kinh văn : “Phật đó dùng thần thông nguyện lực”   tới   “Lành thay ! Lành thay !”. 
Tán rằng : đây là phần bốn : nguyện toại.
*
-Kinh văn : “Đại Nhạo Thuyết”   tới   “Lành thay !  Lành thay”. 
Tán rằng : đây là phần lớn thứ ba : kết luận, bảo ban.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Đại Nhạo Thuyết”   tới   “thấy thân Phật này”. 
Tán rằng : trên là phân tích nguyên do, dưới là thuyết minh về việc mở tháp. Có bốn mục :
1) Thỉnh. 3) Tái thỉnh.
2) Đáp. 4) Hứa mở. 
Đây là mục đầu.
*
-Kinh văn : “Phật bảo Đại Nhạo Thuyết”   tới   “mới xuất hiện mà thôi”. 
Tán rằng : dưới là đáp, có hai phần :
• Phần đầu : trình bày về bản nguyện của Phật Đa Bảo.
• Phần hai : triệu hóa Phật. 
Đây là phần đầu. 
Phật ấy thuyết kinh, tháp vọt lên làm chứng. Tháp mở, Phật hiện, hóa Phật làm chứng. Thêm nữa, tháp của ta mở, mượn phân thân để được trọng. Ta nay chứng thuyết, chứng tỏ kinh này là đáng tin cậy, nguyện các phân thân Phật của Phật đó tập hợp lại thì mới có thể khiến tháp mở ra.
*
-Kinh văn : “Đại Nhạo Thuyết”   tới   “nay cần phải triệu tập”.
Tán rằng : đây là triệu tập hóa Phật. 
-Hỏi : một Phật hóa ra (các hóa Phật) thì không vượt quá số tam thiên. Vậy cớ sao phân thân (Phật) lại ở khắp mười phương thế giới ?
Đáp : tùy thuận sơ kiến, mới nói hóa thành tam thiên. Thượng vị thì khác, làm sao mà phân thân lại chẳng nhiều. Hơn nữa thân không khác, tha thân tức là ngã thân.
*
-Kinh văn : “Đại Nhạo Thuyết”   tới   “lễ bái, cúng dàng”. 
Tán rằng : đây là tái thỉnh.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật phóng”   tới   “chư Phật ở cõi nước”.
Tán rằng : đây là hứa mở (tháp). Có hai phần :
• Phần đầu : tập hợp phân thân Phật.
• Phần sau : (Phật) chính thức mở tháp. Đó là đoạn từ “Bấy giờ Thích Ca Mâu Ni Phật thấy các phân thân Phật của ngài thảy đều đã đến tập hợp” trở xuống. 
Văn phần đầu có bốn phần :
1.  Hào quang ở đây 3. Biến độ mời khách
 chiếu đi 
2. Phật ở đó nói là tới. 4. Cầm hoa tặng chủ.
Đó là đoạn từ “Bấy giờ chư Phật đều tại cây báu” trở xuống. 
-Hỏi : phân thân của Phật, tâm thánh soi rất rõ, cần gì cứ phải có hào quang soi, mới nói là soi ? 
Đáp : phân thân của Phật chẳng cần tới hào quang (soi tới), cũng vẫn phải tập hợp, song vì muốn khiến chúng sinh thấy được xa, cho nên phóng hào quang để soi dọi. Thêm nữa, nếu chẳng triệu tập mà tới thì chúng sinh sẽ chẳng biết được thần lực của Phật. Để khiến họ biết được thần lực của Phật và kinh mà ngài thuyết là đáng trọng, cho nên phóng hào quang soi dọi. 
Nói “một luồng hào quang” biểu thị chỉ thuyết nhất thừa, không có thừa thứ hai nào khác. Hào quang ở đây chiếu đi, có hai phần :
– Phần đầu : phương đông.
– Phần sau : các phương khác cũng thế.
Phần đầu có sáu mục. Đây là mục đầu : thấy Phật. 
-Hỏi : cớ sao cần hiện vô lượng Phật ? 
Đáp : luận rằng đó là để thị hiện tác nghiệp của vị này vị kia không có gì khác nhau, vì sự nghiệp giáo hóa chúng sinh trước quyền sau thực của Phật này Phật kia, mọi việc làm của các vị ấy đều giống như nhau.
*
-Kinh văn : “Các cõi nước ấy”   tới   “trên trùm lưới báu”. 
Tán rằng : văn này có ba mục :
1) Độ tướng (tướng trạng cõi nước).
2) Quyến thuộc. 
3) Thứ để che phủ. 
-Hỏi : cớ sao lại cần chiếu soi mọi cõi Phật thanh tịnh ? 
Đáp : luận rằng thị hiện trong cảnh giới thực tướng của chư Phật có nhiều loại châu báu trang điểm xen kẽ với nhau, là biểu thị trong nhất thừa có đủ muôn đức.
* Chữ [幔] đọc là Mạn : là màn che bên trên. Màn che ở bên cạnh thì gọi là Duy [帷]. Nếu trùm lên thì gọi là Vãn [輓]. Trên màn còn có lưới làm bằng các thứ báu, giống như để trang trí cho màn, cho nên gọi là “Võng mạn”.
*
-Kinh văn : “Chư Phật nước ấy”   tới   “thuyết pháp cho đại chúng”. 
Tán rằng : đoạn văn này có hai mục :
1) Thuyết pháp. 2) Trợ hóa.
*
-Kinh văn : “Các phương Nam, Tây, Bắc”   tới   “cũng lại như vậy”. 
Tán rằng : các phương khác cũng như vậy.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ mười phương”   tới   “bảo tháp của Đa Bảo Như Lai”. 
Tán rằng : đây là phần hai : các Phật ở mười phương nói “phải tới”.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ thế giới Sa bà”   tới   “treo lục lạc báu”. 
Tán rằng : đây là phần ba : biến đổi cõi nước để đón khách. Có bốn phần nhỏ :
a) Biến đại thiên. c) Lại biến rộng.
b) Phật bèn ngồi. d) Phương Phật yên.
Trong phần đầu lại có hai phần :
– Phần đầu : biến cõi.
– Phần sau : dời người.
Phần đầu này có ba mục :
1) Mục đầu : Hiện tịnh (độ).
2) Mục sau : diệt uế (độ).
3) Mục cuối : rừng hương hoa.
* Về chữ Tẩu [藪] : cây mọc rời nhau thì gọi là Lâm [林] : rừng. Đầm không có nước thì gọi là Tẩu [藪] : rú. 
1. Hỏi : vì sao biến uế thành tịnh ? 
Đáp : Luận rằng đó là để thị hiện hết thảy cõi Phật đều bình đẳng thanh tịnh. Đó là Thích Ca vì chúng sinh ác mà thị hiện, cho nên có cõi bất tịnh này như kinh Vô Cấu Xưng  đã nói. 
2. Hỏi : vì sao tháp Đa Bảo vọt lên mà chẳng biến thành tịnh độ ngay, tới khi phân thân Phật tập hợp rồi mới biến thành tịnh độ ? 
Đáp : Đa Bảo để tỏ ra là tùy thuận nhị thừa, nên thị hiện tướng ở uế độ. Phân thân Phật để tùy thuận Bồ tát, bởi vậy mới biến thành tịnh độ. Thêm nữa, Đa Bảo để thuận với địa vị xưa của nhị thừa, cho nên ở cõi uế độ. Còn phân thân Phật là thuận với thành tựu mai sau của nhị thừa, cho nên ở cõi tịnh độ. Chủ biến có ba thời, khách ngồi có hai vị. 
3. Hỏi : vì sao chủ nhân phải ba lần biến đổi cõi nước ? 
Đáp : vì muốn nêu bật số lượng phân thân Phật rất nhiều, hơn nữa còn nêu bật lần lượt tới ba cực, thể hiện rõ nhất thừa này là cực của tam thừa, còn thể hiện rõ uế độ này là địa vị phàm phu. Lần đầu biến đại thiên, biểu thị tới Thanh văn. Lần thứ hai biến hai trăm vạn ức na do tha nước Phật, biểu thị tới Độc giác. Lần cuối cùng lại biến hai trăm nữa, biểu thị vượt ra khỏi nhị thừa tới địa vị nhất thừa cực đầy đủ. 
4. Hỏi : khách Phật Thế tôn cần gì lại ngồi một lần nữa ? 
Đáp : vì muốn khiến ba biến tới được đạo. 
Hỏi : nếu vậy thì sao lại chẳng ba lần ngồi ? 
Đáp : hai lần chứng Pháp Hoa văn nghĩa sâu, thêm lần Đa Bảo ấn chứng nữa, tức là ba lần ngồi, ba lần chứng, ba lần biến.
*
-Kinh văn : “Chỉ giữ các chúng hội này lại”   tới   “đặt ở cõi khác”. 
Tán rằng : đây là dời người. Người nào căn cơ chín muồi, kham nổi việc nghe pháp thì giữ lại. Kẻ nào vô duyên, chẳng kham nổi thì đi.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ chư Phật”   tới   “mà trang sức cho”. 
Tán rằng : đây là phần thứ hai : hóa Phật bèn ngồi. Có ba phần nhỏ :
– Phần đầu : Phật và thị giả cùng đến.
– Phần hai : tướng cây và tòa.
– Phần cuối : tòa Phật chẳng đủ.
Đây là phần đầu và phần hai. 
1.Hỏi : vì sao chư Phật mỗi vị chỉ có một thị giả ? 
Đáp : chứng kinh, mở tháp không cần tới năng lực của thị giả. Còn việc truyền tin, nghi quỹ chỉ cần một người làm là đủ. 
2.Hỏi : thị giả ngồi ở chỗ nào ? 
Đáp : cần gì phải ngồi. 
3.Hỏi : vì sao Tịnh Danh đãi khách thì phải mượn tòa của Đăng Vương, mà Thích Ca mời khách thị giả lại không ngồi ? 
Đáp : vì đó là tục, còn đây là Phật, cho nên sự chẳng giống nhau.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ chư Phật”   tới   “vẫn chẳng hết”. 
Tán rằng : đây là nói tòa Phật chẳng đủ.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni”   tới   “đều khiến thanh tịnh”. 
Tán rằng : dưới là phần thứ ba : lại biến rộng hơn. Có hai phần :
– Một lần biến đầu : biến hai trăm.
– Một lần biến sau : biến hai trăm vì Phật đã đến, Phật chưa đến có sự khác nhau. 
Văn phần đầu có năm thứ biến :
1) Biến độ lượng (lượng cõi nước).
2) Biến chúng sinh ác.
3) Biến tịnh tướng.
4) Biến ác độ (cõi ác).
5) Biến độ nghiêm (trang nghiêm cõi nước).
Đây là biến đầu : phóng quang nhắc nhở, có duyên triệu Phật, mười phương đều chiếu. Phật ngồi ắt phải bình đẳng như nhau (nhưng) đặt tòa chỉ ở tám phương.
*
-Kinh văn : “Không có địa ngục”   tới   “đặt ở cõi khác”. 
Tán rằng : đây là biến chúng sinh ác.
*
-Kinh văn : “Những nước được biến hóa ra”   tới   “để làm thứ trang sức”. 
Tán rằng : đây là biến tịnh tướng.
*
-Kinh văn : “Cũng không có biển cả”   tới   “các núi chúa”.
Tán rằng : đây là biến cõi ác. 
Cũng có chỗ giải thích là : dưới nói khiến Bồ tát rắc hoa ở núi Thứu Lĩnh, có nghĩa là chẳng biến đổi chốn hội họp, bởi vậy trên nói là chỉ lưu giữ hội này. Lý này chẳng đúng. 
Trên nói chỉ lưu hội chúng này vì đáng được nghe pháp. Năm nẻo đều dời, há lại có sự kiện đã biến cõi nước thành thanh tịnh để đón khách mà lại lưu lại chỗ núi uế tạp để phô với khách sao ? Ắt không có sự này. Căn cứ vào đó thì chỗ núi cũng biến, khiến trở thành không. 
Dưới nói khiến rắc hoa ở trong núi, đó là nói chốn núi cũ. Thêm nữa, lấy tịnh đậy uế thì gọi là Dời (đi). Chưa phát tâm thì thấy uế. Phát tâm rồi thì thấy tịnh. Giấu uế phô tịnh đó gọi là Dời, vì dời tướng tức là chuyển tâm. Chỉ nói là dời các trời, người đặt ở cõi khác. Chẳng nói là dời chốn ác đem đặt ở cõi khác. Cũng chẳng nói dời chốn trời người đến cõi khác.
Thêm nữa, đoạn kinh ở dưới nói ngài Văn Thù ngồi trên hoa sen từ long cung xuất hiện vọt lên đến núi Linh Thứu. Nếu đã dời núi đi rồi, thì chỗ nào còn có núi nữa ? 
Kinh Đại Bát Nhã quyển thứ ba nói : “tam thiên đại thiên thế giới, núi Tô Mê Lô, núi Đại Tô Mê Lô, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi”. Đại Tô Mê Lô tức thành thượng vị, trong cõi Phật có.
*
-Kinh văn : “Thông làm một cõi nước Phật”   tới   “trải khắp đất ấy”. 
Tán rằng : đây là biến trang nghiêm cõi nước. 
“Màn che sương kết bằng các thứ báu” : màn để che sương. Dùng châu báu trang sức cho màn che sương. Thêm nữa, dùng các thứ báu kết lại mà trang sức hoặc để làm cho nổi bật. Hoặc dùng màn mà che. Thêm nữa, dùng báu kết lại che sương cho màn, đều gọi là “Lộ mạn”.
*
-Kinh văn : “Phật Thích Ca Mâu Ni”   tới   “trải khắp đất ấy”. 
Tán rằng : đây là biến lần thứ hai : biến hai trăm. Văn cũng như trên.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ phương Đông”   tới   “đến tập hợp ở đây”. 
Tán rằng : đây là phần thứ tư : phương Phật yên ổn. Có ba phần :
– Phần đầu : một phương yên.
– Phần hai : các phương khác đều yên như thế.
– Phần cuối : đầy khắp mọi chốn đều yên.
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Thứ tự như vậy”   tới   “đầy khắp trong đó”. 
Tán rằng : các phương khác yên, cùng khắp cả đều yên như thế.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ chư Phật”   tới   “cũng lại như vậy”. 
Tán rằng : đây là tập hợp phân thân. 
Trong có bốn mục. Đây là mục thứ tư : cầm hoa tặng chủ. Có hai phần :
• Phần đầu thuyết minh việc sai sứ.
• Phần sau thuyết minh việc sai sứ như lệ trước. 
E rằng văn khác nhau, nên lặp lại lệ trước. Đầu tiên nêu ra chư Phật một phương. Sau đó như lệ trên,  nêu lên bảy phương khác. Văn phần đầu có ba ý :
– Đầu tiên : bảo rõ chốn đi.
– Thứ đến : sai truyền lời.
– Cuối cùng : bảo rắc hoa.
* Chữ [   ] đọc là Tê, có nghĩa là “sai đem đi”, Thiết Vận viết là [齎]. Chữ [掬] âm đọc là Cúc, có nghĩa là “lấy bằng tay”, nên viết là [匊].
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Thích Ca Mâu Ni”   tới    “trụ trong hư không”. 
Tán rằng : dưới là chính thức mở tháp. Có ba phần :
– Phần đầu : xong việc rồi, trụ trong hư không.
– Phần hai : bấy giờ đại chúng đứng dậy mà nhìn.
– Cuối cùng : Thích Ca chính thức mở. 
Đây là phần đầu : vì tháp vọt lên trên không, cho nên theo tháp mà trụ.
*
-Kinh văn : “Tất cả tứ chúng”   tới   “một lòng ngắm Phật”. 
Tán rằng : đây là phần nói về đại chúng lúc ấy đều đứng dậy ngắm.
*
-Kinh văn : “Thế là Phật Thích Ca Mâu Ni”   tới   “mở cửa thành lớn”. 
Tán rằng : đây là Phật chính thức mở. Làm điềm cát tường, nên dùng tay phải.
* Chữ [鑰] đọc là Dược. Sách Ngọc Thiên giải thích : “Dược” là “Môn Kiện” [門鍵] có nghĩa là “cái then cửa”, sách Thuyết Văn giải thích là “cái chốt ở phía dưới cửa” : Quan Hạ Đỗ [關下杜]. Vùng Quan Tây gọi đó là Dược [     ], nghĩa như [鑰] là chữ cổ. Phương ngôn Quan Đông gọi cái đó là Kiện [鍵]. Có chỗ viết là [籥], sách Tự Lâm nói rằng : sách vở tục gọi là Đồng [僮], là Điếm [    ]; sách Toản Văn của Hà Thừa Thiên nói : vùng Quan Tây gọi sách vở là Thư Dược [書籥]. Đó chẳng phải là nghĩa trong kinh này. 
*
-Kinh văn : “Ngay lúc ấy tất cả đại chúng trong hội”   tới   “mà tới nơi đây”. 
Tán rằng : trong đoạn lớn thứ hai nói về việc mở tháp, nghe thuyết, chứng minh kinh này là đáng trọng có 3 phần, thì đây là phần thứ ba thuyết minh về việc nhìn thấy (Phật) và tán thán. Có hai phần nhỏ :
– Phần đầu : nhìn thấy thân (Phật), nghe thấy lời (Phật).
– Phần sau : tán thán rắc hoa. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ tứ chúng”   tới   “và trên Phật Thích Ca Mâu Ni”. 
Tán rằng : đây là tán thán rắc hoa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Phật Đa Bảo”   tới   “có thể tới tòa này”. 
Tán rằng : đây là đoạn lớn thứ hai trong trường hàng : chiêu mộ đại chúng đến nghe thuyết kinh rồi mới phó chúc. Có ba phần :
– Đầu tiên là : cùng ngồi trong tháp.
– Sau đó là : chúng ở trên không.
– Cuối cùng là : khuyến thuyết, phó chúc. 
Văn phần đầu có hai ý : đầu tiên là bảo (mệnh), sau đó là ngồi. Đây là bảo.
*
-Kinh văn : “Tức thì, Phật Thích Ca Mâu Ni”   tới   “ngồi kết già”. 
Tán rằng : đây là ngồi. 
-Hỏi : vì sao hai Phật cùng ngồi một tòa ? 
Đáp : Luận rằng (đó là) để thị hiện các hóa Phật, phi hóa Phật, pháp (thân) Phật, báo (thân) Phật đều là để hoàn thành đại sự, tức là để hoàn thành một đại nhân duyên. Thêm nữa, để biểu thị ba thừa cùng ngồi trên giường nhất thừa, chúng sinh cũng cùng ngồi một tòa nhất thừa.
*
-Kinh văn : “Bấy giờ đại chúng”   tới   “đều ở trong hư không”. 
Tán rằng : dưới là mục đại chúng ở trong hư không. Có hai phần :
• Phần đầu là thỉnh.
• Phần sau là dẫn. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ngay lúc ấy, Phật Thích Ca Mâu Ni”   tới   “đều tại hư không”. 
Tán rằng : đây là dẫn trụ Không, biểu thị ý nghe nhất thừa, trụ Phật quả.
 *
-Kinh văn : “Dùng âm thanh lớn”   tới   “phó chúc cho”. 
Tán rằng : đây là khuyến thuyết, phó chúc. Đây là điều Thích Ca chiêu mộ, khuyến thuyết. Đọc sẽ hiểu. 
*
-Kinh văn : “Bấy giờ Thế tôn”   tới   “chẳng tha thiết vì pháp”. 
Tán rằng : dưới là 48 tụng, chia làm hai phần :
– 12 tụng đầu : tụng việc tháp vọt lên, nghe pháp, chứng kinh thắng diệu, như đã nói trên.
– 36 tụng sau : tụng về mục khuyến mộ các chúng thuyết kinh, nói lời phó chúc. 
Trong phần đầu lại chia làm hai : 
1) Phần đầu gồm 1 tụng rưỡi : tháp vọt lên, ấn chứng việc thuyết pháp, khuyến khích mọi người.
2) Phần sau gồm 10 tụng rưỡi : mở tháp, nghe thuyết để khuyến khích mọi người. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Phật này đã diệt độ”   tới   “thường vì để nghe pháp”. 
Tán rằng : dưới là mục mở tháp, nghe thuyết để khuyến khích mọi người. Có hai mục :
– Mục đầu gồm 2 tụng : tụng về nhân duyên.
– Mục sau gồm 8 tụng rưỡi : tụng về việc mở tháp. 
Chẳng tụng về mục thứ ba trước kia : thấy (Phật) rồi tán thán. 
Đây là mục đầu. 
* Tiếng Phạm : A Tăng Xí Da, ở phương đây gọi là “vô ương số” [無央數]. Chữ Ương [央] có nghĩa là tận. Vậy “vô ương số” có nghĩa là “vô tận số” : số vô tận. 
Chữ Ương có bản chép là [鞅] đọc là Ưởng.  Thuyết Văn giải thích : [鞅] là Cảnh Triệt [頸    ] : tức dây giàm cổ ngựa trong bộ cương ngựa. Chữ [    ] đọc là Triệt. Chẳng đúng với nghĩa ở đây. 
Mấy chữ  “tại tại sở vãng” [在在所往] trong bản này có bản chép là “tại tại sở trụ” [在在所住], “tại tại dĩ trụ” [在在已住]. Nếu nhắc lại “sở trụ” thì văn nghĩa sẽ trùng lặp. Vì vậy nên theo bản này, đọc là “tại tại sở vãng” [在在所往] có nghĩa là “mọi chỗ đi tới, mọi chốn sở tại” (ý nói khắp nơi khắp chốn, đến bất cứ đâu).
*
-Kinh văn : “Và phân thân của ta”   tới   “làm cho nước thanh tịnh”. 
Tán rằng : dưới là tụng về việc mở tháp. Chia làm bốn :
– 3 tụng đầu : phân thân tập ý.
– 1 tụng : biến độ.
– 2 tụng rưỡi : Phật ngồi.
– 2 tụng : hiện thân, tỏa hương, lợi sinh, thuyết pháp. 
Đây là hai phần đầu.
*
-Kinh văn : “Chư Phật ai nấy đều”   tới   “đốt đuốc to lửa sáng”. 
Tán rằng : đây là mục nói về Phật ngồi. 
* Chữ [炬] đọc là Cự. Sách Ngọc Thiên giải thích là “đuốc”, đốt bằng củi bó lại. 
*
-Kinh văn : “Thân tỏa hương kỳ diệu”   tới   “làm cho pháp trụ lâu”. 
Tán rằng : đây là mục nói về (Phật) hiện thân tỏa hương, lợi sinh, thuyết pháp.
Hoặc Thích Ca tự mình xuất hương, hoặc phân thân xuất hương. Nếu đọc qua văn bản thì thấy dường như phân thân xuất hương. Trường hàng chỉ nói Thích Ca thắp hương đãi khách, chẳng phải là khách đem hương ra để thết chủ. Cho nên cần phải biết rằng không nhất định phải là khách xuất hương. Như gió làm gãy cành cây, hóa nhân theo bản thân mình, như gió thổi làm cỏ rạp theo, vì dễ có thể thành tựu.
 *
-Kinh văn : “Bảo với đại chúng rằng”   tới   “phải nên biết ý này”. 
Tán rằng : dưới là 36 tụng, tụng về mục mộ chúng thuyết kinh, nói lời phó chúc, như đã nói ở trên. Trong chia làm ba phần :
– Phần đầu gồm 9 tụng rưỡi : nói về ý khuyến mộ đại chúng để thuyết kinh.
– Phần hai gồm 19 tụng : so sánh hơn kém.
– Phần cuối gồm 7 tụng rưỡi : lại khuyến mộ mọi người, kết thành thắng hạnh. 
Phần đầu lại có ba phần :
– 3 tụng rưỡi đầu : mộ người trì giữ đọc tụng (kinh này) khiến họ tự thề, thể hiện Phật hiện tại biết tâm của họ.
– 4 tụng sau : mộ người hộ pháp khiến họ tự nguyện.
– 2 tụng cuối : mộ người thuyết pháp để được gặp chúng ta (chỉ chư Phật), khuyên hãy phát nguyện. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Các hàng Phật tử thảy”   tới   “các thế giới vô lượng”. 
Tán rằng : đây là khuyến mộ người hộ pháp khiến họ tự nguyện. Chia làm bốn mục :
– 1 tụng : khuyến mộ hộ pháp.
– 1 tụng : hộ pháp tức là cúng dàng ta và Đa Bảo.
– 1 tụng : thuyết Đa Bảo hộ pháp. 
– 1 tụng : hộ pháp tức là cúng dàng hóa Phật.
*
-Kinh văn : “Nếu người thuyết kinh này”   tới   “nên phát nguyện rộng lớn”. 
Tán rằng : 2 tụng này :
– 1 tụng : khuyến mộ thuyết pháp, đó là để được gặp ta (chỉ Phật Thích Ca), gặp Phật Đa Bảo và hóa Phật.
– 1 tụng : khuyên hãy phát nguyện.
*
-Kinh văn : “Bao nhiêu kinh điển khác”   tới   “thế thì là rất khó”. 
Tán rằng : dưới là 19 tụng so sánh hơn kém. Trong đó chia làm sáu phần :
1) Năm tụng đầu : so sánh thuyết khó.
2) Hai tụng sau : so sánh chép khó.
3) Hai tụng sau nữa : so sánh đọc khó.
4) Hai tụng sau nữa : so sánh vì một người thuyết, khó.
5) Ba tụng sau nữa : so sánh nghe khó
6) Năm tụng cuối : so sánh trì khó.
Đây là phần đầu : 4 tụng đầu nêu lên cái dễ ; 1 tụng sau so sánh với kinh này khó tín, khó giải, khó nhập; lý trí thâm diệu cho nên đào luyện khó thành, chẳng giống với bốn thần thông trước đây có thể chứng đắc. 
*Chữ [擲] đọc là Trịch, có nghĩa là ném.  Thời cổ viết là       [     ].
*
-Kinh văn : “Giả sử lại có người”   tới   “đây mới  là rất khó”. 
Tán rằng : đây là so sánh chép khó. 
* Chữ [把] đọc là Bả, có nghĩa là “cầm”, “nắm”. Có bản chép là [爬] (Bà, ba) có nghĩa là “bò”. Nay lấy chữ [    ] với nghĩa “cầm nắm”.
*
-Kinh văn : “Nếu đem cả đại địa”   tới   “đây mới là rất khó”. 
Tán rằng : đây là so sánh đọc khó.
*
-Kinh văn : “Giả sử gặp kiếp thiêu”   tới   “đây mới là rất khó”. 
Tán rằng : đây là so sánh thuyết cho một người khó.
*
-Kinh văn : “Nếu trì giữ tám vạn” tới “đây mới là rất khó”. 
Tán rằng : đây là so sánh nghe khó.
*
-Kinh văn : “Nếu có người thuyết pháp”   tới   “đây mới là rất khó”. 
Tán rằng : dưới là 5 tụng so sánh trì khó. Trong chia làm hai :
– 3 tụng đầu : so sánh.
– 2 tụng sau : kết luận trì thắng. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Ta vì hộ Phật đạo”   tới   “tức là trì Phật thân”. 
Tán rằng : đây là kết luận trì thắng.
*
-Kinh văn : “Các thiện nam tử này”   tới   “nên tự nói lời thề”. 
Tán rằng : dưới là 7 tụng rưỡi : lại khuyến mộ mọi người lần nữa, kết luận thắng hạnh. Chia làm 5 phần :
1) Một tụng rưỡi : khuyến mộ người trì kinh khiến họ thề.
2) Một tụng rưỡi : thuận Phật tâm.
3) Một tụng rưỡi : thuận chính hạnh.
4) Một tụng : nối ngôi Phật.
5) Hai tụng : lợi thế gian. 
Đây là phần đầu.
*
-Kinh văn : “Kinh pháp này khó trì”   tới   “được chư Phật tán thán”. 
Tán rằng : đây là tán thán thuận Phật tâm.
*
-Kinh văn : “Thế là rất dũng mãnh”   tới   “quả Phật đạo vô thượng”. 
Tán rằng : đây là thuận chính hạnh. 
Tiếng Phạm : “Đỗ Đa”, phương đây gọi là “trừ bỏ”. Phiên sai là “Đầu đà”. Đây có 12 (hạnh), như trong Du Già nói về Thanh văn địa.
*
-Kinh văn : “Có thể ở đời sau”   tới   “trụ nơi thuần thiện địa”. 
Tán rằng : đây là nối ngôi Phật. Quyết định tín sậu dày thì gọi là “Thuần thiện địa”. 
* Có bản chữ Thuần [淳] viết là [純] (Thuần), đều chỉ có nghĩa là thiện cả.
*
-Kinh văn : “Sau khi Phật diệt độ”   tới   “đều đáng nhận cúng dàng”. 
Tán rằng : đây là lợi thế gian :
– 1 tụng đầu : là trí nhãn.
– 1 tụng sau : đều đáng nhận cúng dàng. 
Kinh Hoa Nghiêm nói rằng : “Nếu đội cả tam thiên đại thiên thế giới suốt cả một kiếp, việc đó chưa coi là khó, thì việc tin pháp này lại là rất khó. Mọi thứ cúng dàng mọi thứ nhạc cụ của số loài chúng sinh nhiều bằng đại thiên trần số, công đức ấy nếu đem so với công đức của việc tin pháp này, thì việc tin tưởng pháp này có công đức thù thắng hơn”.
“Nếu trì giữ mười phương cõi trong bàn tay trụ trong hư không suốt cả một kiếp, việc làm đó chưa phải là khó thì việc tin ở pháp này lại là rất khó. Mọi thứ cúng dàng mọi nhạc cụ của trần số chúng sinh trong mười cõi Phật, công đức ấy nếu đem so với công đức của việc tin pháp này, thì việc tin tưởng pháp này có công đức thù thắng hơn nhiều”.

KINH PHÁP HOA HUYỀN TÁN
QUYỂN THỨ TÁM – PHẦN SAU
ĐÃ XONG

Niên hiệu Thừa Thiên năm đầu, tức năm Tân Hợi, tháng tư, ngày 24. Ngài Đắc Nghiệp ở Thiện Minh phòng, chùa Dược Sư, nơi Tam Kinh viện, chùa Pháp Long, phụng đọc thụ trì xong, Sư Tăng Giác đem in cùng với Nhiếp Thích.
Ngày mồng 9 tháng 6 năm Bảo An thứ ba, sau khi viết xong, Sư Tăng Giác chùa Pháp Long đem in. Ngày 19 tháng Chạp năm này, dùng bản của Viên Như phòng chùa Pháp Long di điểm xong, Sư Tăng Giác đem in.

“để pháp được trụ lâu, để được vãng sinh Cực lạc”

Các bản chữ son đều là bản di điểm, do bậc cao danh viết.