QUÁN KINH TỨ THIẾP SỚ
Hòa Thượng Thiện Đạo tập ký
Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch kinh văn
Thích Pháp Chánh dịch sớ văn

Tiểu sử Thiện Đạo Đại Sư
Tổ thứ hai Tịnh độ tông
HT. Thích Thiền Tâm dịch

Thiện Đạo Đại Sư, người đời nhà Đường, nguyên quán Lâm Truy, Sơn Đông (có thuyết cho rằng ngài là người Tứ Châu, An Huy), sinh năm 613, mất năm 681. Trong niên hiệu Trinh Quán, nhân thấy bài văn Tịnh độ Cửu Phẩm Đạo Tràng của Đạo Xước Thiền Sư ở Tây Hà, ngài rất mừng bảo: “Đây mới thật là cửa mầu đi vào cảnh Phật. Tu các hạnh nghiệp khác xa vời quanh quất khó thành, duy pháp môn này mau thoát sanh tử.”

Từ đó ngài siêng cần tinh khổ sớm hôm lễ tụng. Ít lâu sau lại đến kinh sư, khuyên tứ chúng niệm Phật. Mỗi khi ngài vào thất quỳ niệm Phật, nếu chưa đến lúc kiệt sức, quyết không chịu thôi nghỉ. Lúc ra thất, mà vì đại chúng diễn nói pháp môn Tịnh Độ. Hơn ba mươi năm, Đại sư vừa hóa đạo, vừa chuyên tu, chưa từng ngủ nghỉ. Hằng ngày thường nghiêm trì giới hạnh không để sai phạm một mảy may. Khi được cúng dường thức ăn ngon qúi, ngài đem dâng cho đại chúng, còn phần mình chỉ dùng thứ thô dở mà thôi. Tài vật của dân tín cúng cho, ngài dùng tả hơn mười muôn quyển kinh A Di Đà, họa cảnh Tịnh độ được ba trăm bức. Ngoài ra, thì dùng vào việc sửa sang chùa tháp, thắp đèn nối sáng, không chứa để dư.

Kẻ đạo người tục quy hướng theo đức hóa của ngài, niệm Phật rất nhiều kể đến số hàng vạn. Nhóm này thì tụng kinh A Di Đà từ mười vạn đến năm mươi vạn biến. Nhóm khác mỗi ngày đêm niệm Phật từ một muôn đến mười muôn câu. Trong đó những người hiện tiền chứng Tam Muội, lúc lâm chung được thoại ứng vãng sanh, đông không thể kể xiết.

Có người hỏi: “Niệm Phật quyết chắc được vãng sanh chăng?” Ngài đáp: ” Như ông tin tưởng và thực hành, chắc chắn sẽ được toại nguyện.” Nói xong, ngài tự niệm: “Nam Mô A Di Đà Phật”, tức thời một tia sáng từ trong miệng phóng ra. Kế lại liên tiếp từ mười đến một trăm câu, mỗi câu đều có ánh sáng quang minh dài nối nhau, khiến sáng rực cả chùa. Sự thần dị này truyền đến Đế kinh, vua Cao Tôn nghe được, ban cho một tấm biển sắc phong hiệu chùa là Quang Minh Tự.

Đại sư có bài kệ khuyên tu như sau:

Da mồi tốc bạc lần lần,
Lụm cụm bước run mấy chốc.
Dù sang vàng ngọc đầy nhà,
Vẫn khổ suy già bịnh tật.
Ví hưởng khoái lạc ngàn muôn,
Đâu khỏi vô thường chết mất?
Duy có đường tắt thoát ly
Chỉ niệm A Di Đà Phật!

Có người gạn: “Sao Hòa thượng không dạy người quán tưởng Phật, mà chỉ bảo chuyên trì danh?”

Ngài đáp: “Chúng sanh đời nay phần nhiều chướng nặng tâm thô, thức thần tán động, mà cảnh tịnh độ rất tế diệu, nên quán tưởng khó thành. Vì thế đức Phật xót thương, khuyên thẳng nên xưng danh hiệu. Chính vì xưng danh hiệu là hạnh dễ làm, nếu cứ giữ mỗi niệm nối nhau tu như thế suốt đời, thì mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sanh, trăm người tu trăm người về Tịnh độ. Tại sao thế? – Vì không duyên tạp bên ngoài, nên dễ được chánh niệm. Vì cùng với bản nguyện của Phật hợp nhau. Vì không trái với kinh giáo. Vì thuận theo lời Phật và chư Thánh chỉ dạy.

“Nếu bỏ chuyên niệm mà tu xen tạp những hạnh khác, thì trong trăm ngàn người chỉ hy vọng được ba bốn kẻ vãng sanh. Bởi tại sao? – Vì duyên tạp loạn động khiến cho mất chánh niệm. Vì không hợp với bản nguyện của Phật A Di Đà. Vì trái với kinh giáo và lời Phật, Thánh. Vì sự hệ niệm không nối tiếp nhau. Vì tâm không thường nhớ Phật. Vì tuy hành đạo mà thường tương ưng với danh lợi. Vì thích theo duyên tạp, làm chướng chánh hạnh vãng sanh của mình và người.

“Gần đây, hàng đạo tục kiến giải không đồng, kẻ thích chuyên tu, người ưa tạp hạnh. Xin khuyên nhắc: Nếu chuyên niệm Phật, mười kẻ niệm mười kẻ được vãng sanh. Như tạp tu mà không chí tâm, thì trong ngàn người khó mong được một. Nguyện tất cả đều nên chín chắn tự suy xét kỹ!

“Lại người niệm Phật đi đứng nằm ngồi, phải cố gắng nhiếp tâm ngày đêm chớ rời thánh hiệu, thề quyết giữ đến hơi thở cuối cùng. Như thế tới lúc mãn phần, niệm trước vừa thọ chung, niệm sau liền sanh Cực lạc. Từ đây vĩnh viễn hưởng sự vui pháp lạc vô vi cho đến khi thành Phật, há chẳng đáng mừng ư?”

Đại sư cũng từng dạy phương pháp giữ vững chánh niệm trong lúc lâm chung như sau: “Người niệm Phật khi sắp mãn phần, muốn được sanh về Tịnh độ, thì điểm cần yếu là đừng sợ chết. Phải thường nghĩ thân này nhơ nhớp, biết bao điều khổ lụy trói vây! Nếu bỏ được thân huyễn hôi nhơ, sanh về Cực Lạc thọ thân kim cương thanh tịnh, sẽ thoát khỏi luân hồi khổ thú, hưởng vô lượng sự an vui. Ví như bỏ chiếc áo cũ rách đổi lấy đồ trân phục, còn điều chi đáng thích ý bằng!

“Nghĩ như thế, buông hẳn thân tâm không còn lo buồn tham luyến. Lúc vừa có bịnh, liền tưởng đến sự vô thường, một lòng niệm Phật chờ chết. Nên dặn thân thuộc chớ lộ vẻ bi thương, cùng bàn việc hay dở trong nhà. Nếu có ai đến thăm, chỉ khuyên nên vì mình niệm Phật, đừng hỏi thăm chi khác. Cũng không nên dùng lời dịu dàng an ủi, chúc cho sớm được lành vui, vì đó chỉ là chuyện bông lông vô ích. Phải bảo trước cho quyến thuộc biết, lúc mình bịnh ngặt sắp chết, đừng rơi lệ thương khóc, hoặc phát ra tiếng than thở âu sầu, làm kẻ lâm chung rối loạn tâm thần, lạc mất chánh niệm.

“Nói tóm lại, tất cả chỉ giữ một việc xưng danh trợ niệm cho đến sau khi tắt hơi. Nếu lại được bậc tri thức hiểu rành về Tịnh độ, thường đến khuyên thật là diệu hạnh! Như lúc lâm chung biết áp dụng phương pháp này tất sẽ được vãng sanh không còn nghi ngờ chi nữa.

“Việc vượt qua cửa tử là điều rất quan hệ lớn lao, phải tự mình gắng sức mới được. Nếu một niệm sai lầm, tất nhiều kiếp sẽ chịu khổ lụy đâu có ai thay thế cho mình? Phải chú ý nghĩ suy và nghi nhớ kỹ!”

Một hôm, Đại sư bỗng bảo người rằng: “Thân này đáng chán, ta sắp về Tây!” Nói xong leo lên cây liễu trước chùa, chấp tay hướng về Tây chúc nguyện rằng: Xin Phật và Bồ Tát tiếp dẫn con, khiến cho không mất chánh niệm, được sanh về cực Lạc. Nguyện xong, gieo mình xuống nhẹ nhàng như chiếc lá rơi, ngồi kiết già ngay thẳng trên mặt đất.

Đại chúng vội chạy đến xem thì ngài đã tắt hơi viên tịch.

Lời bình:

Các bậc tu thiền đắc đạo, muốn biểu hiện sự sống chết tự tại, có vị đứng mà hóa, có vị trở ngược đầu xuống đất đưa hai chân lên trời mà viên tịch. Nếu chưa phá tan ngũ uẩn, khi từ trên cao rơi xuống, dù bậc phục được hoặc phát ngộ cũng khó giữ vững được chánh niệm. Hành động của Thiện Đạo đại sư, từ trên cây gieo mình xuống đất ngồi kiết già mà hóa, là biểu hiện sự sống chết tự tại, tuỳ niệm vãng sanh một cách tuyệt mức. Đại sư muốn ngầm khai thị: “Niệm Phật được nhất tâm chứng ngộ, thì Tịnh tức là Thiền vậy. [1]

 

QUÁN KINH TỨ THIẾP SỚ
Hòa Thượng Thiện Đạo tập ký
Hòa thượng Thích Thiền Tâm dịch kinh văn
Thích Pháp Chánh dịch sớ văn

Quyển Một: HUYỀN NGHĨA

I – KỆ QUY Y TAM BẢO

Trước tiên khuyến khích đại chúng phát nguyện quy y Tam bảo.

Người xuất gia, tại gia,
Nên phát lòng Vô thượng,
Phần đông mê sanh tử,
Ít kẻ mong Niết bàn,
Hãy phát ý kiên cố,
Vượt khỏi dòng sanh tử,
Nguyện về cõi Di Đà,
Kính lễ cầu quy y,
Thế Tôn! Con một lòng,
Quy mạng khắp mười phương,
Biển pháp tánh chân như,
Báo Phật và Hóa Phật,
Tất cả chư Bồ tát,
Cùng vô lượng quyến thuộc,
Trang nghiêm và biến hóa,
Biển Thập Địa, Tam Hiền,
Thời kiếp mãn, chưa mãn,
Trí hạnh viên, chưa viên,
Phiền não tận, chưa tận,
Tập khí trừ, chưa trừ,
Công dụng, vô công dụng,
Chứng quả, chưa chứng quả,
Diệu giác và Đẳng giác,
Bậc thọ Kim cương tâm,
Sau một niệm tương ưng,
Chứng quả đức Niết bàn,
Chúng con xin quy mạng,
Pháp, Báo và Hóa Phật,
Thần thông lực vô ngại,
Xin nguyện nhiếp thọ con,
Chúng con xin quy mạng,
Các Hiền Thánh ba Thừa,
Bậc học tâm Đại bi,
Lâu dài không thoái chuyển,
Nguyện các ngài gia bị,
Cho con thường thấy Phật,
Chúng con, kẻ ngu si,
Luân hồi từ vô thỉ,
Nay trong đời mạt pháp,
Của đức Phật Thích Ca,
Gặp pháp môn Cực Lạc,
Bổn nguyện A Di Đà,
Hồi hướng cầu vãng sinh,
Mau chứng Vô sanh nhẫn,
Con nương Bồ Tát Tạng,
Biển Nhất thừa đốn giáo,
Nói kệ quy Tam Bảo,
Tương ưng với Phật tâm,
Mười phương hằng sa Phật,
Lục thông soi xét con,
Nay tuân lời hai Phật,
Mở rộng môn Tịnh Độ.
Nguyện đem công đức này.
Bình đẳng thí tất cả.
Đều phát Bồ Đề Tâm.
Vãng sanh cõi Cực Lạc.

II – BẢY MÔN BIỆN BIỆT

Trong bộ Quán Kinh Tứ Thiếp Sớ này, trước tiên chia làm bảy môn liệu giản, sau đó sẽ giải thích nghĩa lý.

1. Nêu rõ tựa đề; 2. giải thích đề kinh; 3. y vào kinh văn giải nghĩa và biện minh tông chỉ không đồng, giáo pháp Đại Tiểu; 4. nêu rõ sự sai biệt giữa những người giảng pháp; 5. biện minh sự khác biệt của hai môn định thiện và tán thiện; 6. dung hòa sự mâu thuẫn giữa kinh và luận, nêu rõ vấn đáp, giải thích nghi vấn; 7. biện biệt về sự thu hoạch lợi ích của bà Vi Đề Hy sau khi nghe đức Phật thuyết pháp.

1 – Nêu rõ tựa đề.

Thiết nghĩ: Chân như rộng lớn, năm Thừa không rõ ngằn mé; pháp tánh cao sâu, mười Thánh khó cùng biên tế. Nói về thể và lượng, thì lượng tánh của chân như, không vượt ngoài tâm của chúng sanh. Pháp tánh tuy vô biên, nhưng biên thể vốn xưa nay bất động. Trong pháp giới thanh tịnh, phàm thánh đều bình đẳng. Hai loại chân như i, bao hàm tất cả chúng sanh. Hằng sa công đức, thể tánh và công dụng đều trong sáng, thế nhưng, do vì phiền não sâu nặng, cho nên tịnh thể không thể chiếu rọi. Bởi thế, đức Đại Bi thị hiện ở Ấn Độ, vội xông vào nhà lửa, rưới Cam lộ cứu mê muội quần sanh, thắp đuốc tuệ soi đêm dài sanh tử. Ngài đầy đủ ba loại bố thí, dùng pháp tứ nhiếp thu phục tất cả chúng sanh, chỉ rõ nguyên nhân của sự khổ, giúp cho tất cả vĩnh viễn chứng nhập quả vị an lạc.

Ngài không ngại chúng sanh mê muội, căn tánh khác biệt. Tuy không có người căn tánh thượng thừa, Ngài cũng đem năm Thừa ra giáo hóa. Đem mây Đại Từ phủ trùm ba cõi, dùng mưa Đại Bi rưới khắp quần sanh. Làm lợi ích cho tất cả, kể cả những người chưa được thấy nghe Chánh Pháp. Hạt giống Chánh Giác nhờ đó sanh sôi, mầm non Bồ Đề nhân đây nảy nở. Y vào tâm mà tu thắng hạnh, có hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn, tùy căn cơ mà có pháp đốn (mau chứng đắc) và pháp tiệm (dần dần chứng đắc). Tất cả tùy theo nhân duyên đều được giải thoát. Thế nhưng, chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, những người căn cơ hạn hẹp khó hiểu thấu được. Tuy có thể dùng nhiều pháp môn làm lợi ích chúng sanh, thế nhưng những kẻ phàm phu nghiệp nặng không thể nào học hết được. Hiện nay, nhân vì bà Vi Đề Hy thỉnh Phật: “Con nay mong được vãng sanh cõi nước An Lạc. Xin nguyện dạy con tư duy, dạy con chánh thọ.” Đức Giáo Chủ Ta Bà, nhân sự thỉnh cầu đó, đã rộng bày yếu môn của pháp Tịnh Độ, và đức A Di Đà cũng nhờ nhân duyên này, mới hiển lộ được những hoằng nguyện kỳ đặc của mình.

Yếu môn” của pháp tu trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh, tức là hai môn “định thiện” và “tán thiện.” Định, tức là ngừng nghỉ vọng niệm, làm tâm an định; tán, là bỏ ác làm thiện. Đem hai hạnh này hồi hướng cầu vãng sanh.

Hoằng nguyện”, nghĩa là như Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Tất cả phàm phu thiện ác đều được vãng sanh, không ai là không nương vào đại nguyện của đức A Di Đà làm tăng thượng duyên.”

Lại nữa, mật ý của Phật rộng lớn sâu xa, giáo lý khó dò, cho nên ngay các bậc Tam Hiền, Thập Thánh cũng chưa hoàn toàn thấu hiểu, huống chi chúng ta là những kẻ ngoại phàm, phước tuệ mỏng ít mà có thể hiểu rõ thâm ý của Phật hay sao?

Ngưỡng nguyện đức Phật Thích Ca đưa đường chỉ lối, đức A Di Đà tiếp dẫn vãng sanh. Chỉ cần chúng ta siêng năng trọn cả cuộc đời, y giáo phụng hành, một khi xả bỏ thân ở cõi này, ắt sẽ chứng được pháp tánh thường lạc ở cõi kia.

2 – Giải thích đề kinh.

Kinh đề: Phật Thuyết Quán Vô Lượng Thọ Kinh.

Phật (Buddha) là âm Ấn Độ, tiếng Hán dịch là Giác (giác ngộ). Đạt đến “tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn” thì gọi là Phật.

Nói “tự giác” để phân biệt với phàm phu. Đây là do Thanh văn chỉ biết tự lợi, thiếu tâm đại bi, không nghĩ việc lợi ích chúng sanh.

Nói “giác tha” để phân biệt với Nhị thừa. Đây là do Bồ tát có trí tuệ nên có thể tự lợi, có đại bi nên có thể lợi tha. Thường có thể vận dụng từ bi trí tuệ, không chấp vào một bên.

Nói “giác hạnh viên mãn” để phân biệt với Bồ tát. Đây là do trí tuệ, công hạnh của Phật đã đến chỗ rốt ráo cùng cực, siêu vượt giai vị Thanh văn, Duyên giác và Bồ tát, nên gọi là Phật.

Nói “thuyết”, nghĩa là dùng âm thanh để giải bày. Lại nữa, đức Như Lai tùy theo căn cơ mà nói pháp môn không đồng, hoặc nói đốn giáo, hoặc nói tiệm giáo. Hoặc là sáu căn của Phật đều nói pháp, hoặc là các tướng (32 tướng), các hảo (80 hảo) của Phật đều nói pháp. Tùy theo duyên với chúng sanh mà Ngài hiện thân nói pháp cho họ, làm cho tất cả đều được lợi ích.

Nói “Vô Lượng Thọ”, đây là âm Hán, còn nói: “Nam mô A Di Đà Phật”, đây là âm Ấn Độ (Phạn). Hơn nữa, “Nam” tức là quy (quy y), “Mô” là “mạng”, “A” là Vô, “Di” là Lượng, “Đà” là Thọ, còn “Phật” là Giác, hợp lại đọc là “Quy Mạng Vô Lượng Thọ Giác.” Đây là so sánh hai âm Phạn, Hán mà suy ra như vậy. Hiện nay, “Vô Lượng Thọ” là pháp, còn “Giác” là nhân (người), “nhân, pháp” đều được nêu lên, cho nên gọi là “A Di Đà Phật.” Lại nữa, “nhân, pháp” là cảnh sở quán (đối tượng), có hai phần: một là y báo, hai là chánh báo.

Y báo có ba phần: 1. sự trang nghiêm dưới mặt đất, tức là quang minh của tất cả bảo tràng chiếu rọi nhau, 2. sự trang nghiêm trên mặt đất, tức là tất cả bảo địa (đất báu), ao, rừng cây, lầu báu (bảo lầu), cung điện báu, v.v…, 3. sự trang nghiêm trong hư không, tức là tất cả biến hóa cung điện báu, lưới báu, mây báu, chim báu, gió, ánh sáng chuyển động phát ra âm nhạc, v.v… Tuy có ba phần khác biệt, tất cả đều là biến tướng của công đức thù thắng của cõi Tịnh độ A Di Đà. Đây là tổng kết sự trang nghiêm của y báo.

Trong phần “Y báo”, từ pháp quán “Mặt trời lặn” đến pháp quán “Hoa tòa”, là nói rõ tổng quát về y báo. Trong phần này, có thông (chung) có biệt (riêng). Biệt, tức là pháp quán “Hoa tòa” là một y báo riêng biệt, chỉ dành cho đức A Di Đà, còn sáu pháp quán đầu là thông (chung), tức là chung cho tất cả phàm phu. Chỉ cần được vãng sanh là có thể cùng chung hưởng dụng. Trong sáu pháp quán này, lại có chân (thật) có giả. Giả, tức là pháp quán “Mặt trời lặn”, quán “Nước”, quán “Băng”, v.v… Còn chân (thật) y báo, tức là từ pháp quán “Mặt đất bằng lưu ly”, cho đến “Lầu báu.” Gọi là “chân”, vì do công đức vô lậu chân thật của cõi nước Cực Lạc mà thấy được cảnh tướng như vậy.

Phần “Chánh báo” cũng chia làm hai phần: 1. “Chủ trang nghiêm”, tức là Phật A Di Đà, 2. “Thánh chúng trang nghiêm”, tức là chư thánh chúng cõi Cực Lạc, cùng với tất cả chúng sanh ở mười phương đang và sẽ sanh về cõi ấy. Trong phần Chánh báo lại cũng phân làm hai phần “thông” và “biệt.”

Biệt (chánh báo), tức là đức Phật A Di Đà.

Trong đây lại có chân và giả.

“Giả chánh báo”, tức là pháp quán “Tượng đức A Di Đà” thứ tám. Quán “Tượng đức Quán Âm” và “Tượng đức Đại Thế Chí” cũng vậy. Đây là vì chúng sanh nghiệp chướng sâu nặng, tâm thức ô nhiễm, đức Bổn Sư e rằng họ không thể quán tưởng được tướng chân thật của đức A Di Đà làm cho hiển hiện, bởi vậy, Ngài mới bảo họ dùng tượng Phật A Di Đà để an trụ tâm, quán tưởng tượng Phật giống như thân thật của Ngài, cho nên mới gọi là “giả chánh báo.”

“Chân chánh báo”, tức là pháp quán “Chân thân” thứ chín. Đây là do tu pháp quán thứ tám (giả chánh báo), dần dần làm cho vọng tưởng ngừng bặt, khai mở tâm nhãn, nhìn được cảnh trang nghiêm của y báo và chánh báo của cõi Cực Lạc. Dùng phương pháp này để diệt trừ hoặc chướng, cho nên thấy được cảnh tướng chân thật của Cực Lạc.

Thông (chánh báo), tức là các pháp quán phần dưới (Quán Âm, Thế Chí, v.v…).

Phần trên nói về thông biệt, chân giả, là chánh thức nói rõ về hai phần y báo và chánh báo.

“Quán”, tức là quán chiếu. Thường dùng lòng tin thắp sáng trí tuệ, soi chiếu y báo chánh báo của cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà.

“Kinh”, kinh có thể duy trì giáo pháp, sự lý tương ưng, tùy theo căn cơ mà tu “định thiện”, “tán thiện”, không làm phân tán nghĩa lý, có thể làm cho hành giả nương vào nhân duyên học giáo tu hành, thừa nguyện vãng sanh, chứng được vô vi pháp lạc. Sanh về cõi ấy rồi, không còn sợ hãi gì nữa. Tiếp tục tu tập lâu dài, cho đến khi chứng được quả Phật, chứng được Pháp thân thường trụ, rộng lớn như hư không. Có thể đem đến sự lợi ích như vậy, nên gọi là Kinh.

3 – Biện biệt tông chỉ, giáo pháp Đại, Tiểu.

1.- Tông chỉ không đồng. Như Kinh Duy Ma lấy “Giải thoát bất tư nghì” làm tông, Kinh Đại Phẩm Bát Nhã lấy “Không tuệ” làm tông, hiện nay, quyển Quán Vô Lượng Thọ Kinh này lấy “Quán Phật Tam Muội” làm tông, cũng lấy “Niệm Phật Tam Muội” làm tông, đồng thời lấy “Nhất Tâm Hồi Hướng Nguyện Vãng Sanh Tịnh Độ” làm thể.

2.- Giáo pháp Đại thừa, Tiểu thừa. Hỏi: Trong hai tạng Đại thừa, Tiểu thừa, kinh này thuộc về tạng nào? Trong hai giáo pháp, kinh này được thâu vào giáo pháp nào? Đáp: Quyển Quán Vô Lượng Thọ Kinh này thuộc về Đại thừa Bồ tát tạng, và thuộc vào pháp “đốn giáo.”

4 – Nêu lên sự khác biệt của người giảng pháp.

Người giảng pháp, trong các kinh, được chia làm năm loại: (a) Phật, (b) đệ tử Phật, (c) trời hoặc tiên, (d) quỷ thần, (e) biến hóa nhân. Hiện nay, quyển kinh này là do chính đức Phật nói. Hỏi: Phật giảng kinh này ở đâu? Giảng cho ai nghe? Đáp: Phật tại vương cung [của vua Tần Bà Sa La], giảng cho hoàng hậu Vi Đề Hy nghe.

5 – Biện biệt hai môn định thiện, tán thiện.

Có sáu phần: (a) người khải thỉnh là bà Vi Đề Hy; (b) người được thỉnh là đức Phật; (c) người giảng pháp cũng là đức Phật; (d) pháp được giảng là hai môn định thiện, tán thiện, cùng mười sáu pháp quán; (e) người chủ động là đức Như Lai; (f) người được lợi ích là bà Vi Đề Hy và đại chúng.

Hỏi: Hai môn định thiện, tán thiện là do ai thỉnh?

Đáp: Môn định thiện là do bà Vi Đề Hy thỉnh, còn môn tán thiện là do đức Phật tự nói.

Hỏi: Không biết tên định thiện, tán thiện xuất phát từ đoạn văn nào? Hiện nay, giáo lý chân thật này, hạng chúng sanh nào được thọ trì?

Đáp: Có hai nghĩa.

1. Những kẻ báng pháp, hoặc không có lòng tin, hoặc sanh vào bát nạn, hoặc sanh vào loài phi nhân đều không thể thọ trì kinh này. Bọn họ giống như củi mục, gạch đá, không còn hy vọng nảy sanh, tăng trưởng, không thể nào tin nhận, hoặc được giáo hóa. Trừ những hạng này ra, những người một lòng tin ưa, cầu nguyện vãng sanh, hoặc hành trì trọn đời, hoặc chỉ niệm mười niệm, nhờ nguyện lực của Phật, đều được vãng sanh.

2. Xuất phát từ đoạn văn nào? Có hai phần thông và biệt.

Phần thông, có ba nghĩa khác nhau: (a) Từ “Vi Đề Hy bạch Phật: Cúi xin đức Thế Tôn vì con giảng giải rộng về những cõi không còn lo buồn khổ lụy”, đây là nêu ý thỉnh cầu một cách tổng quát. (b) Từ “Nguyện đấng Đại Từ soi sáng huệ nhật, chỉ dạy cho con pháp quán để sanh về chỗ nghiệp lành thanh tịnh”, tức là Vi Đề Hy thỉnh cầu đức Phật dạy pháp tu. (c) Từ “Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ nơi tướng bạch hào …”, tức là đức Phật đáp ứng lời thỉnh cầu của bà Vi Đề Hy.

Phần biệt, cũng có hai nghĩa: (a) Từ “Bà Vi Đề Hy quán sát kỹ các Phật quốc rồi thưa rằng”, tức là bà Vi Đề Hy tự mình chọn lựa cõi Phật. (b) Từ “Cúi xin đức Thế Tôn dạy con pháp tư duy …”, tức là bà Vi Đề Hy thỉnh cầu đức Phật chỉ dạy pháp tu để vãng sanh.

Phần kế là giải đáp ý nghĩa về hai môn định thiện và tán thiện.

Hỏi: Thế nào gọi là định thiện? Thế nào gọi là tán thiện?

Đáp: Từ pháp quán thứ nhất (quán Mặt trời) đến pháp quán thứ mười ba (quán xen Phật và Bồ tát) gọi là định thiện, còn phần ba phước, chín phẩm gọi là tán thiện.

Hỏi: Hai pháp định thiện, tán thiện có gì khác biệt, xuất từ đoạn văn nào?

Đáp: 1. Xuất từ đoạn văn nào: Đoạn “Dạy con pháp tư duy và chánh thọ” chính là đoạn văn muốn đề cập đến. 2. Sự khác biệt: Có hai nghĩa: (a) Tư duy: đây là tiền phương tiện của sự tu quán. Tư duy về tổng tướng và biệt tướng của y báo và chánh báo của cõi Cực Lạc. (b) Chánh thọ: Như trong kinh, phần quán tưởng Đất có nói: “Nếu được tam muội, hành giả sẽ thấy rõ ràng cảnh tướng của đất cõi kia, không thể kể xiết.” Đây là phù hợp với câu trên “dạy con pháp tư duy và chánh thọ.”

Lại nữa, sự giải thích ở đây, không giống sự giải thích của các nhà sớ giải khác. Các vị ấy đem “tư duy” liên kết với “ba phước, chín phẩm”, và cho là tán thiện. Lại đem “chánh thọ” liên kết với mười sáu pháp quán, và cho là định thiện. Nếu giải thích như vậy, không hoàn toàn hợp lý. Vì sao? Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tư duy, chánh thọ, chỉ là hai tên khác nhau của tam muội.” Đoạn văn này tương tự với đoạn văn trong phần quán tưởng Đất. Như vậy, đâu có thể dùng chữ “tư duy” để chỉ cho tán thiện.

Hơn nữa, lúc đầu, Vi Đề Hy thỉnh Phật chỉ nói: “Dạy cho con pháp quán để sanh về chỗ nghiệp lành thanh tịnh.” Kế đến, bà lại thỉnh Phật: “Dạy cho con pháp tư duy và chánh thọ.” Tuy thỉnh Phật hai lần, nhưng đều là định thiện. Còn phần tán thiện, không thấy thưa thỉnh, chỉ là do đức Phật tự nói ra. Kế đến, phần Tán thiện nói: “Cũng làm cho tất cả phàm phu trong đời vị lai …”, tức là đoạn văn đức Phật nói về tán thiện.

6 – Hội thông kinh luận.

A – Nêu lên kiến giải của các nhà chú giải.

Trước tiên, nêu lên ba bậc của thượng phẩm vãng sanh. Có người nói bậc thượng phẩm thượng sanh là các Bồ tát từ Tứ địa đến Thất địa. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về đó liền chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Bậc thượng phẩm trung sanh là các Bồ tát từ Sơ địa đến Tứ địa. Vì sao biết như vậy? Vì về đến Cực Lạc, trải qua một tiểu kiếp thì chứng được Vô sanh pháp nhẫn. Bậc vãng sanh thượng phẩm hạ sanh là các Bồ tát chủng tánh đến Sơ địa. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó, trải qua ba tiểu kiếp được chứng Sơ địa. Ba phẩm vị này đều là bậc Đại thừa Bồ tát vãng sanh.

Kế đến, ba bậc của trung phẩm vãng sanh. Các nhà sớ giải nói: “Trung phẩm thượng sanh là bậc Tam quả (A na hàm).” Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó liền chứng quả A la hán. Trung phẩm trung sanh là bậc nội phàm. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó liền chứng quả Tu đà hoàn. Còn trung phẩm hạ sanh là những người phàm tu thiện, sợ khổ cầu vãng sanh. Vì sao biết như vậy? Vì sanh về cõi đó, trải qua một tiểu kiếp chứng quả A la hán.

Ba phẩm vị này chỉ là những bậc thánh giả Tiểu thừa vãng sanh.

Cuối cùng, ba bậc của hạ phẩm vãng sanh đều là các phàm phu sơ học Đại thừa, tùy theo nghiệp ác nặng nhẹ mà được chia làm ba phẩm.

B – Dùng lý luận đả phá.

1.- Thượng phẩm thượng sanh: Phần trên nói Bồ tát Sơ địa đến Thất địa. Như Kinh Hoa Nghiêm nói: “Các Bồ tát từ Sơ địa đến Thất địa là pháp tánh sanh thân, biến dịch sanh thân, không còn bị khổ vì phần đoạn sanh tử. Về mặt công dụng, các ngài đã tu tập phước trí trải qua hai đại a tăng kỳ kiếp, đã chứng nhân không và pháp không, đến trình độ không thể nghĩ bàn, thần thông tự tại, diệu dụng vô cùng. Các ngài thường cư trụ tại báo độ, thường được nghe Báo Thân Phật thuyết pháp, dùng lòng từ bi hóa độ chúng sanh khắp mười phương, trong chốc lát có thể hiện thân cùng khắp. Có việc gì để lo lắng mà phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy cầu vãng sanh Cực Lạc? Đoạn văn trên đã chứng minh rằng lập luận của các nhà sớ giải là sai lầm.

2.- Thượng phẩm hạ sanh: Phần trên cho rằng bậc vãng sanh này là các Bồ tát từ chủng tánh đến Sơ địa. Không hẳn là như vậy! Như trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Các vị Bồ tát này gọi là bậc Bất thoái chuyển. Tuy ở trong sanh tử nhưng không còn bị đắm nhiễm, giống như loài thiên nga tuy ở trong nước mà lông không bị ướt.” Lại như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã nói: “Các Bồ tát ở giai vị này, do vì được hai loại thiện tri thức thủ hộ, cho nên không bị thoái chuyển. Đó là (1) mười phương chư Phật, (2) mười phương chư Đại Bồ tát. Thường giữ ba nghiệp thanh tịnh, không thoái chuyển trong việc tu hành thiện pháp, cho nên gọi là Bồ tát bất thoái. Các vị Bồ tát này có năng lực thị hiện tám tướng thành đạo, giáo hóa chúng sanh. Về công hạnh tu tập, đã trải qua một đại a tăng kỳ kiếp tu tập phước trí, v.v… Nếu đã có những công đức thù thắng như vậy, còn gì để lo lắng mà phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy cầu thỉnh vãng sanh Cực Lạc? Do đây biết rằng lập luận của các nhà sớ giải là sai lầm.

3.- Trung phẩm trung sanh: Các nhà sớ giải cho rằng bậc trung phẩm thượng sanh là bậc Tam quả (A na hàm), thế nhưng, những bậc ở giai vị này đã không còn bị đọa ba đường, sanh vào bốn nẻo. Hiện tại, tuy cũng còn tạo nghiệp, nhưng chắc chắn không còn chiêu cảm quả báo đời sau. Đức Phật từng nói: “Bốn bậc thánh [Tiểu thừa] này, cùng ngồi chung với ta trên giường giải thoát.” Nếu đã có công đức như vậy, còn gì phải lo lắng mà phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy thưa thỉnh, cầu nguyện vãng sanh? Vả lại, chư Phật đầy lòng đại bi, thương xót những kẻ khổ đau, thường lân mẫn những người đang bị ngập chìm trong biển khổ, do đó mà khuyến tấn họ vãng sanh Tịnh độ. Giống như đối với những người đang bị chết chìm, thì phải nên cứu họ trước, còn những kẻ đang ở trên bờ thì cần gì phải kéo họ lên. Dùng đoạn văn này để chứng tỏ rằng sự phán đoán của các nhà sớ giải cũng sai lầm như phần trước.

C – Dùng “Chín phẩm” đả phá.

A – THƯỢNG PHẨM.

1.- Thượng phẩm thượng sanh: Các nhà sớ giải nói: “Bậc thượng phẩm thượng sanh là các vị Bồ tát từ Tứ địa đến Thất địa.”

Nếu vậy, tại sao Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Ba loại chúng sanh có thể vãng sanh [thượng phẩm thượng sanh]. Ba loại chúng sanh nào?

1. Chỉ cần trì giới, tu tập từ bi,

2. Tuy không thể trì giới, tu tập từ bi, nhưng có thể đọc tụng kinh điển Đại thừa,

3. Không thể trì giới, tụng kinh, chỉ có thể niệm Phật Pháp Tăng.

Ba hạng người này, mỗi hạng đều theo hành nghiệp riêng biệt của họ mà tinh tấn hành trì, một ngày một đêm cho đến bảy ngày bảy đêm, tương tục không gián đoạn. Tất cả đều hồi hướng công đức tu tập, cầu nguyện vãng sanh. Lúc sắp mạng chung, đức A Di Đà cùng chư hóa Phật, thánh chúng Bồ tát, phóng quang tiếp dẫn, trong khoảnh khảy ngón tay, hành giả vãng sanh về cõi Cực Lạc.

Đoạn văn này chứng minh, sau khi đức Phật diệt độ, những phàm phu thượng phẩm cực thiện hành trì dũng mãnh tinh tiến, tuy trong khoảng thời gian ngắn, có thể gia nhập vào hàng ngũ của các bậc thượng thánh. Lại nữa, các bậc Bồ tát từ Tứ địa đến Thất địa, về mặt dụng công đã đến trình độ bất khả tư nghì, chả lẽ phải nhờ vào công phu tu tập từ một ngày cho đến bảy ngày để được chư Phật, Bồ tát đến rước, vãng sanh Cực Lạc hay sao?

2.- Thượng phẩm trung sanh: Các nhà sớ giải cho rằng bậc vãng sanh này là Bồ tát từ Sơ địa đến Tứ địa.

Nếu vậy, tại sao Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Không cần phải thọ trì kinh điển Đại thừa.” Thế nào gọi là “không cần phải”? Nghĩa là đã đọc tụng hoặc chưa đọc tụng, thì gọi là “không cần phải.” Trong kinh chỉ nói đến “khéo hiểu ý thú (của kinh điển)”, chứ chưa đề cập đến việc hành trì. Lại nói “Tin sâu nhân quả, không phỉ báng Đại thừa. Dùng những thiện căn này hồi hướng cầu vãng sanh, thì lúc sắp mạng chung, Phật A Di Đà và các hóa Phật Bồ tát thánh chúng đồng đến tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc.”

Đoạn văn này chứng minh rằng sau khi Phật diệt độ, những hành giả phàm phu Đại thừa, công hạnh yếu kém, cho nên đến lúc lâm chung sự tiếp dẫn có điều khác biệt. Vả lại, các Bồ tát từ Sơ địa đến Tứ địa, dụng công của các ngài bất khả tư nghì, lẽ nào lại phải nhờ đến Phu nhân Vi Đề Hy cầu thỉnh mới được vãng sanh hay sao?

3.- Thượng phẩm hạ sanh: Các nhà sớ giải cho rằng bậc vãng sanh này là các Bồ tát chủng tánh (Tam hiền) cho đến Sơ địa.

Nếu vậy, tại sao Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Cũng tin nhân quả.” Thế nào gọi là “cũng tin”? Nghĩa là hoặc tin hoặc không tin, cho nên nói “cũng.” Lại nói: “Không phỉ báng Đại thừa, chỉ cần phát Vô thượng Bồ đề tâm. Hành giả đó dùng đây làm nghiệp chánh, mà không có nghiệp thiện nào khác, hồi hướng thiện nghiệp này, cầu nguyện vãng sanh. Lúc sắp mạng chung, đức A Di Đà và các hóa Bồ tát thánh chúng, cùng đưa tay tiếp dẫn vãng sanh.” Dùng đoạn văn này để chứng minh rằng sau khi đức Phật diệt độ, tất cả các chúng sanh phát tâm Đại thừa, do vì hành nghiệp không mấy tinh tấn, cho nên lúc lâm chung sự tiếp dẫn cũng có sự khác biệt.

B – TRUNG PHẨM

Đối với ba bậc trung phẩm, các nhà sớ giải nói:

4.- Trung phẩm thượng sanh là các bậc Tam quả (A na hàm) Tiểu thừa.

Nếu vậy, tại sao Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu có chúng sanh thọ trì Ngũ giới, giữ Bát quan trai, hoặc tu các giới khác, không tạo tội ngũ nghịch và các điều lỗi lầm, v.v… Khi lâm chung, được Phật A Di Đà cùng các tỳ kheo quyến thuộc vây quanh, phóng kim quang soi đến mình, v.v… Mục kích cảnh ấy, hành giả sanh tâm vui mừng, v.v… Sanh về thế giới Cực Lạc.” Đoạn văn này chứng minh đây là những chúng sanh trì giới Tiểu thừa vào thời kỳ sau khi đức Phật diệt độ. Nào có phải bậc thánh gì đâu?

5. – Trung phẩm trung sanh là những nội phàm đã kiến đạo.

Nếu vậy, tại sao Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu chúng sanh giữ giới Bát quan trai chính chắn, hoặc giới Sa di, v.v…, trong một ngày đêm, v.v… Hồi hướng cầu sanh Cực Lạc. Khi lâm chung, hành giả này thấy Phật A Di Đà cùng quyến thuộc … liền được sanh về ao sen ở cõi Cực Lạc.” Đoạn văn này chứng minh rằng người vãng sanh không phải là bậc nội phàm. Đây là sau khi đức Phật diệt độ, những phàm phu không biết tu thiện, buông trôi ngày tháng, sau đó nhờ gặp nhân duyên, thọ giới Tiểu thừa, hồi hướng công đức trì giới, cầu nguyện vãng sanh. Nhờ nguyện lực của Phật A Di Đà liền được vãng sanh. Nếu nói là các bậc thánh Tiểu thừa vãng sanh cũng không ngại gì. Thế nhưng, Phật nói kinh này cho hàng phàm phu, không liên can đến các bậc thánh.

6. – Trung phẩm hạ sanh là các phàm phu thế tục Tiểu thừa, chưa nhập vào hàng nội phàm, chỉ lo tu phước thế gian để cầu xuất ly.

Nếu vậy, tại sao Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân, hiếu dưỡng cha mẹ, tu hạnh nhân từ thế gian, khi lâm chung gặp thiện tri thức giảng cho nghe về sự vui chơi nơi cõi Phật A Di Đà và bốn mươi tám đại nguyện của tỳ kheo Pháp Tạng. Người ấy nghe xong hoan hỷ niệm Phật mà qua đời, thần thức liền được sanh về Tây phương Cực Lạc thế giới!” Dùng đoạn văn này để chứng minh rằng đây chỉ là những người không gặp Phật pháp, tuy cũng hiếu thảo nhân từ, nhưng chưa hề phát tâm cầu xuất ly sanh tử, đợi đến lúc lâm chung, gặp được thiện tri thức khuyến khích niệm Phật cầu vãng sanh. Người này do sự khuyến khích bèn phát tâm cầu sanh, liền được toại nguyện. Hơn nữa, người này chỉ làm những việc hiếu thảo nhân từ theo nghĩa thế gian, chứ không phải vì cầu ra khỏi sanh tử mà làm những việc này.

C – HẠ PHẨM

Các nhà sớ giải cho rằng “những người vãng sanh ở phẩm vị này là những phàm phu mới học Đại thừa, tùy theo tội chướng nặng nhẹ mà chia làm ba phẩm, chưa có giai vị trong đạo, khó phân cao thấp.” Điều này không đúng! Vì sao biết như vậy? Ba hạng người này, chưa hề có thiện căn thế gian hoặc thiện căn Phật pháp, mà chỉ biết làm ác. Vì sao mà biết?

7. – Hạ phẩm thượng sanh: Trong đoạn kinh đề cập bậc hạ phẩm thượng sanh nói: “Người này tạo đủ tất cả các tội ác, chỉ trừ năm tội nghịch và tội báng pháp, không hề có một niệm biết hổ thẹn. Người này lúc lâm chung, gặp được thiện tri thức, giảng cho nghe giáo pháp Đại thừa, dạy cho niệm Phật một câu. Lúc đó, đức Phật A Di Đà liền sai các hóa Phật và chư Bồ tát đến nghinh tiếp, liền được vãng sanh.” Hạng người ác như vậy đầy dẫy khắp nơi, nếu gặp được duyên lành, sẽ được vãng sanh, nếu như không gặp thiện duyên, ắt sẽ đọa vào ba đường ác, khó mà ra khỏi.

8. – Hạ phẩm trung sanh: “Người này trước đó thọ giới của Phật, thọ xong không chịu gìn giữ mà còn phá hủy. Lại còn ăn trộm vật của thường trụ tăng và hiện tiền tăng, bất tịnh thuyết pháp, lòng không hổ thẹn. Đến lúc lâm chung, các tướng lửa của địa ngục đồng thời hiện ra. Khi ấy, người này may mắn được gặp thiện tri thức, giảng nói cho nghe công đức của cõi Cực Lạc, khuyên nhủ cầu vãng sanh. Người này nghe xong (sanh lòng tin sâu) …. thấy các vị hóa Phật và Bồ tát hiện thân đến tiếp dẫn vãng sanh.” Lúc chưa gặp thiện tri thức, lửa địa ngục đến đón, sau nhờ gặp thiện tri thức, các vị hóa Phật đến đón. Đây đều là nhờ nguyện lực của đức Phật A Di Đà.

9.- Hạ phẩm hạ sanh: “Những chúng sanh này tạo tội ngũ nghịch, thập ác, làm đủ các việc chẳng lành. Những kẻ ngu ấy, do ác nghiệp đáng lẽ phải bị đọa vào ác đạo, trải qua nhiều kiếp chịu khổ vô cùng. Nhưng khi lâm chung, người này nhờ gặp thiện tri thức …. dạy bảo quán niệm Phật A Di Đà …. Người này vâng lời, và do nhờ xưng danh hiệu Phật … Khi mạng chung …. liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc.” Người này nếu như không gặp thiện tri thức, ắt sẽ bị trầm luân, bởi do khi lâm chung gặp thiện tri thức cho nên thất bảo đến nghinh tiếp.

Lại nữa, nếu xem những đoạn kinh trong phần định thiện và chín phẩm vãng sanh, thì sẽ thấy bổn ý của Phật là sau khi ngài diệt độ, các phàm phu trong đời ác ngũ trược, do nhân duyên khác nhau mà đưa đến chín phẩm khác biệt. Vì sao? Các bậc vãng sanh ba phẩm thượng là các phàm phu gặp được Đại thừa, các bậc vãng sanh ba phẩm trung là các phàm phu gặp Tiểu thừa, còn các bậc vãng sanh ba phẩm hạ là các phàm phu gặp bạn ác. Dù tạo nghiệp ác, đến lúc lâm chung gặp được thiện tri thức, nhờ nguyện lực của Phât mà được vãng sanh Cực Lạc. Đến lúc hoa nở mới phát tâm [Bồ đề], làm sao có thể cho rằng họ là những người Đại thừa sơ học? Nếu cố chấp vào kiến giải này, tự mình lầm lẫn, lại còn làm cho nhiều người khác lầm lẫn, quả thật là một điều nguy hại vô cùng.

Hiện nay, chúng ta sẽ đem kinh văn ra chứng minh bổn ý của đức Bổn Sư, đồng thời cũng giúp cho các phàm phu thiện ác hiện đời được cao đăng chín phẩm, sanh khởi lòng tin sâu đậm, nhờ nguyện lực của Phật, đều được vãng sanh Cực Lạc.

D – Dùng kinh văn dẫn chứng.

Hỏi: Từ những lập luận vừa nêu trên, làm sao biết chắc rằng đức Thế Tôn vốn vì phàm phu, không phải vì các bậc thánh mà nói kinh này? Không rõ có phải chỉ dựa trên tình cảm mà kích bác, hay có kinh văn nào để dẫn chứng hay không?

Đáp: Chúng sanh phiền não sâu nặng, trí tuệ thiển cận, bổn ý của đức Phật lại sâu rộng khó dò, chúng tôi đâu dám giảng giải theo ý riêng của mình. Hiện nay đem những lời Phật dạy để làm minh chứng. Trong phần này chúng tôi nêu ra mười điều.

Một, Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Phật bảo Vi Đề Hy: ‘Nay ta vì bà nói rộng các thí dụ, cũng khiến cho đời vị lai, tất cả phàm phu muốn tu Tịnh nghiệp, được sanh thế giới Cực Lạc ở phương tây.’ ” Đây là minh chứng thứ nhất.

Hai, Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Như Lai sẽ vì tất cả chúng sanh bị giặc phiền não bức hại trong đời vị lai mà nói ra nghiệp lành thanh tịnh.” Đây là minh chứng thứ hai.

Ba, Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Nay ta sắp dạy bà Vi Đề Hy và chúng sanh đời sau pháp quán thế giới Cực Lạc ở phương tây.” Đây là minh chứng thứ ba.

Bốn, Quán Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Vi Đề Hy thưa: ‘Bạch đức Thế Tôn, con nay nhờ sức Phật được thấy quốc độ kia. Nếu sau khi Thế Tôn diệt độ, những chúng sanh trược ác không lành, bị ngũ khổ bức não, phải làm thế nào để được thấy Phật A Di Đà và cõi Cực Lạc?’ ” Đây là minh chứng thứ tư.

Năm, trong phần quán Mặt trời, mở đầu nói: “Phật bảo Vi Đề Hy: ‘Bà và chúng sanh nên chuyên tâm buộc niệm một chỗ để tưởng cảnh giới Tây phương, v.v… Phàm tất cả những người, nếu không phải bị mù từ lúc sơ sanh, đều thấy mặt trời lặn.’ ” Đây là minh chứng thứ năm.

Sáu, như trong phần quán Đất nói: “Đức Phật bảo A Nan (và Vi Đề Hy): ‘Ông nên ghi nhớ lời dạy của ta, để vì tất cả chúng sanh đời sau muốn thoát khổ, tuyên thuyết môn quán Đất này.’ ” Đây là minh chứng thứ sáu.

Bảy, như trong phần quán Hoa tòa nói: “Vi Đề Hy được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi đầu đảnh lễ và thưa rằng: ‘Bạch đức Thế Tôn! Nay con nhờ từ lực được thấy Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát, chúng sanh đời sau phải làm thế nào để quán tưởng Tây phương Tam Thánh?’ ” Đây là minh chứng thứ bảy.

Tám, kế đến trong phần đáp ứng lời thỉnh nói: “Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: ‘Bà và chúng sanh, muốn quán tưởng đức Phật kia, trước tiên phải khởi tưởng …’ ” Đây là minh chứng thứ tám.

Chín, trong phần quán Tượng nói: “Đức Phật bảo bà Vi Đề Hy: ‘Chư Phật Như Lai là thân pháp giới, vào trong tất cả tâm tưởng của chúng sanh, cho nên khi tâm (chúng sanh) tưởng Phật…’ ” Đây là minh chứng thứ chín.

Mười, như trong phần chín phẩm, mỗi phẩm đều nói: “Nếu chúng sanh….” Đây là minh chứng thứ mười.

Mười minh chứng vừa nêu trên đều chứng minh rằng đức Như Lai giảng mười sáu pháp quán này là cho các chúng sanh còn đang chìm đắm trong sanh tử, chứ không liên can gì đến các bậc thánh Đại, Tiểu thừa. Lấy đây làm chứng cứ, lẽ nào không đúng!

E – Hội thông ý nghĩa “Biệt thời.”

Có hai phần:

1. Nhiếp Đại Thừa Luận do ngài Chân Đế dịch nói:

Hỏi: “Như có người niệm Phật Đa Bảo, liền được sự bất thoái chuyển trên đường tu tập Vô thượng Bồ đề, v.v…” Bồ đề là một tên gọi khác của Phật quả, tức là chánh báo. Theo nghĩa thông thường, muốn đạt đến quả Phật phải tu tập đầy đủ lục độ vạn hạnh mới được thành tựu. Lẽ nào chỉ một hạnh Niệm Phật mà có thể thành Phật hay sao, không bao giờ có chuyện đó!

Đáp: Tuy chưa chứng quả Phật, nhưng Niệm Phật cũng là một hạnh trong lục độ vạn hạnh. Vì sao biết được? Như trong Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tỳ kheo Công Đức Vân bảo Thiện Tài: “Tôi ở trong biển Tam muội của Phật pháp, chỉ biết một hạnh, đó là Niệm Phật Tam Muội.” Dùng đoạn kinh văn này làm chứng cứ, lẽ nào Niệm Phật không phải là một hạnh? Tuy chỉ là một hạnh, thế nhưng, trong biển sanh tử, cho đến lúc thành Phật, vĩnh viễn không thoái sụt, cho nên gọi là bất thoái chuyển.

Hỏi: Kinh Pháp Hoa, quyển một, nói: “Chỉ xưng Nam mô Phật một lần, đều đã thành Phật đạo.” Như vậy, đoạn kinh này và đoạn văn trong Nhiếp Đại Thừa có gì khác nhau hay không?

Đáp: Trong Luận Nhiếp Đại Thừa, xưng danh hiệu Phật chỉ là muốn mình thành Phật, còn trong Kinh Pháp Hoa, xưng danh hiệu Phật là để phân biệt với chín mươi lăm nhóm ngoại đạo khác. Bởi vì trong các nhóm ngoại đạo, đều không có ai xưng danh hiệu Phật. Do đó chỉ cần xưng danh hiệu Phật một lần là đã được nhiếp vào trong Phật đạo. Cho nên nói là “đã thành.”

2. Trong Nhiếp Đại Thừa Luận nói: “Như có người chỉ phát nguyện sanh cõi Cực Lạc.” Xưa nay các nhà sớ giải không hiểu rõ chân ý của đoạn văn này, lại còn lầm lẫn đem phần hạ phẩm hạ sanh niệm mười danh hiệu để gán ghép vào đoạn văn vừa nêu trên, cho rằng niệm mười danh hiệu Phật không phải được vãng sanh liền. Ví như kinh doanh một đồng, muốn trở thành một ngàn đồng, phải trải qua một thời gian, chứ không phải trong một ngày mà được. Niệm Phật mười tiếng cũng giống như vậy, chỉ là gieo nhân duyên vãng sanh trong đời vị lai, chứ không phải ngay trong hiện đời. Các nhà sớ giải cho rằng mục đích của đức Bổn Sư là chỉ muốn các phàm phu trong đời vị lai bỏ ác, niệm Phật, chứ không phải thực sự được vãng sanh. Cho nên gọi đây là Biệt thời ý.

Lập luận vừa nêu trên, nếu quả đúng như vậy, tại sao Kinh A Di Đà nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân, nghe niệm danh hiệu của đức Phật A Di Đà, hết lòng nhớ niệm, hoặc trong một ngày, … cho đến bảy ngày, một lòng cầu sanh, đến lúc lâm chung, đức Phật A Di Đà và chư Thánh Chúng hiện đến tiếp dẫn.” Kế đến, phần dưới nói: “Hằng hà sa chư Phật ở mười phương, mỗi vị ở tại nước mình, hiện ra tướng lưỡi rộng dài, bao trùm khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, đồng thanh dạy rằng: ‘Này các chúng sanh, các con hãy hết lòng thọ trì kinh này, kinh này là kinh Khen Ngợi Công Đức Chẳng Thể Nghĩ Bàn Được Hết Thảy Chư Phật Hộ Niệm.’ ” Nói “Hộ niệm” tức là đoạn kinh văn “Hết lòng chuyên niệm, hoặc trong một ngày cho đến bảy ngày.” Ở đây chúng tôi dùng những lời dạy của Phật làm minh chứng. Không biết vì lý do gì mà các hành giả đời nay lại tin nhận những lời dạy của các bộ luận do [Bồ tát] phàm phu và Tiểu thừa sáng tác, còn đối với những lời dạy của chư Phật, ngược lại, lại cho là “vọng ngữ.” Khổ thay! Tại sao họ có thể thốt ra những lời bất nhẫn như vậy? Tuy thế, ngưỡng mong các vị hành giả đang cầu vãng sanh, phải nên khéo léo suy ngẫm. Chẳng thà đời này tin lầm lời Phật, còn hơn là lấy những lời dạy trong các sớ giải của [Bồ tát] phàm phu làm chỉ nam. Nếu như chấp vào những lời dạy đó, ắt sẽ tự mình lầm lạc, và cũng khiến cho nhiều người lầm lạc theo mình.

Hỏi: Khởi hạnh như thế nào, mà nói là không được vãng sanh?

Đáp: Nếu muốn vãng sanh, cần phải đầy đủ hạnh, nguyện mới được vãng sanh. Nay trong Luận Nhiếp Đại Thừa chỉ đề cập đến phát nguyện, chứ chưa đề cập đến sự hành trì.

Hỏi: Tại sao không đề cập đến?

Đáp: Các nhà sớ giải không đề cập đến bởi vì họ không để tâm đến sự hành trì, dù chỉ là một câu niệm Phật!

Hỏi: Nguyện và hạnh khác nhau thế nào?

Đáp: Như trong kinh có nói: “Nếu chỉ hành trì, thì sự hành trì đó không định hướng, chẳng đạt đến mục đích nào. Còn nếu chỉ phát nguyện, thì nguyện đó chỉ là hư giả, cũng không đạt đến mục tiêu. Nếu như hạnh, nguyện bổ túc cho nhau, thì sẽ đạt đến mục tiêu mong muốn. Hiện nay, Luận Nhiếp Đại Thừa chỉ bàn đến phát nguyện, không đề cập đến hành trì, cho nên nói “trong hiện đời không được vãng sanh, mà chỉ làm nhân cho sự vãng sanh đời sau”, thì đây là điều chính xác.

Hỏi: Ý nghĩa của phát nguyện thế nào mà nói không được vãng sanh?

Đáp: Nghe có người nói sự khoái lạc ở Tây phương bất khả tư nghì, liền nguyện rằng “Tôi cũng nguyện sanh.” Sau khi phát nguyện xong, chẳng làm gì thêm, cho nên gọi là “phát nguyện [suông].” Theo Quán Vô Lượng Thọ Kinh, xưng danh hiệu Phật mười tiếng, tức là đầy đủ mười nguyện mười hạnh. Thế nào là “đầy đủ”? Xưng “Nam mô”, tức là quy mạng, cũng có nghĩa là “phát nguyện hồi hướng.” Xưng “A Di Đà Phật”, tức là hành. Do đầy đủ ý nghĩa này, nên quyết định được vãng sanh.

Lại nữa, trong Luận Nhiếp Đại Thừa, câu “Niệm Phật Đa Bảo vì cầu Phật quả”, tức là chánh báo. Còn câu “Duy phát nguyện cầu sanh Tịnh độ”, tức là y báo. Một là chánh báo, hai là y báo, hai điều này đâu có giống nhau. Vả lại, Chánh báo khó cầu, dù tu một hạnh tinh chuyên cũng khó thành tựu, còn y báo tuy dễ cầu, nếu chỉ phát nguyện thì cũng chưa thể vãng sanh. Ví như ở vùng biên cương (nhiều loạn lạc, thổ phỉ), đem hàng hóa vào thì dễ (ví dụ phát nguyện), nhưng giữ cho khỏi mất mát thì là chuyện khó (ví dụ vãng sanh). Hiện nay, các người phát nguyện vãng sanh cũng giống như hàng hóa, chẳng lẽ không dễ. (Còn được vãng sanh hay không thì chưa chắc). Thế nhưng, nếu như có thể hành trì trọn cả một đời, hoặc tối thiểu là mười niệm, nhờ nguyện lực của Phật, không ai là không được vãng sanh, cho nên gọi là dễ.

Ý ở đây muốn nói là không nên chỉ bám vào ngôn từ mà giải thích, làm cho những người đang có tín tâm khởi lòng hoài nghi, mà phải dẫn lời dạy của Phật làm minh chứng, hầu mong những người thấy nghe tiêu trừ đi những nỗi nghi lầm.

F – Hội thông ý nghĩa “Người căn tính Nhị thừa không vãng sanh.”

Hỏi: Cõi nước Phật A Di Đà là Báo độ hay Hóa độ?

Đáp: Cõi Cực Lạc là Báo độ, không phải Hóa độ. Vì sao biết được? Như Đại Thừa Đồng Tính Kinh, quyển hạ, nói: “Cõi nước Tây phương An Lạc của tỳ kheo Pháp Tạng là Báo độ, Phật A Di Đà là Báo Phật.” Lại như, Vô Lượng Thọ Kinh nói: “Lúc tỳ kheo Pháp Tạng ở nơi đức Phật Thế Nhiêu Vương hành Bồ tát đạo, đã từng phát bốn mươi tám nguyện, mỗi nguyện đều nói: “Lúc ta thành Phật, mười phương chúng sanh, xưng danh hiệu ta, cầu sinh cõi nước ta, tối thiểu mười niệm, nếu không vãng sanh, ta thệ không giữ ngôi Chánh Giác.” Hiện nay thành Phật, đây là nhân vì bốn mươi tám nguyện mà thành tựu Báo thân.

Lại như trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh, ba bậc thượng phẩm vãng sanh, đều nói là lúc hành giả lâm chung, đức A Di Đà và các hóa Phật đến nghinh tiếp. Do vì Báo Phật và các hóa Phật cùng đến tiếp dẫn nên nói là “và.” Dùng kinh văn chứng minh, cho nên biết rằng Phật A Di Đà là Báo thân Phật. Thế nhưng, sự khác biệt giữa báo thân, hóa thân cũng tương tự như sự khác nhau giữa hai chữ nhãn (con mắt) và mục (con mắt). Phần trên phiên dịch chữ “ứng thân” để chỉ cho “báo thân”, phần dưới phiên dịch chữ “báo thân” để chỉ cho “ứng thân.” Nói “báo”, có ý muốn nói rằng “nhân hạnh” không mất, nhất định sẽ chiêu cảm quả báo đời sau; dùng “quả” để đáp ứng “nhân”, cho nên gọi là “báo.” Lại nữa, tu tập lục độ vạn hạnh trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp, nhất định sẽ được (ứng) quả Bồ đề, hiện nay đã thành Phật, đây tức là “ứng” thân. Đây là chư Phật quá khứ, hiện tại biện biệt lập thành ba thân. Thật ra, ba thân (báo, ứng, hóa) này đều cùng một thể, còn như hiện ra vô lượng tám tướng thành đạo, có nhiều danh hiệu như trần sa, nếu luận về thể tính, đều nhập vào hóa thân. Hiện nay, đức Phật A Di Đà là Báo thân Phật.

Hỏi: Nếu nói Phật A Di Đà là Báo thân, thì Báo thân là thường trụ, vĩnh viễn không còn sanh diệt, tại sao Quán Thế Âm Thọ Ký Kinh nói: “Đức Phật A Di Đà cũng có lúc nhập Niết bàn.” Ý nghĩa này làm sao giải thích?

Đáp: Nhập hay không nhập Niết bàn, đây là cảnh giới riêng của chư Phật, trí tuệ của các bậc thánh Tam thừa còn không thấu suốt, huống là hàng phàm phu, Tiểu thừa mà mong hiểu rõ hay sao? Thế nhưng, nếu như muốn biết, nay cũng xin đem kinh Phật ra làm minh chứng. Như Kinh Đại Phẩm Bát Nhã, phẩm Niết Bàn Phi Hóa (quyển 29) nói:

Phật bảo Tu Bồ Đề: “Ý ông thế nào? Nếu có hóa nhân biến hóa ra một hóa nhân khác, thì sự biến hóa đó có phải là sự thật không?” Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Không.” Phật bảo Tu Bồ Đề: “Sắc tức là biến hóa, thọ, tưởng, hành, thức cũng tức là biến hóa, nhẫn đến Nhất thiết chủng trí cũng tức là biến hóa.” Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu pháp thế gian tức là biến hóa, thì các pháp xuất thế gian cũng tức là biến hóa, như Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần, Bát thánh đạo phần, Tam giải thoát môn, Phật Thập lực, Tứ vô sở úy, Thập bát bất cộng pháp, cùng các quả vị, lại còn các bậc hiền thánh, nghĩa là Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, Bích chi phật, Bồ tát ma ha tát, chư Phật Thế tôn, các pháp này cũng tức là biến hóa hay sao?” Phật bảo Tu Bồ Đề: “Tất cả pháp đều tức là biến hóa. Trong các pháp này, có pháp Thanh văn biến hóa, pháp Bích chi phật biến hóa, pháp Bồ tát biến hóa, pháp chư Phật biến hóa. Tu Bồ Đề! Do nhân duyên này, tất cả các pháp đều tức là biến hóa.” Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Các pháp đoạn trừ phiền não, như quả Tu đà hoàn, quả Tư đà hàm, quả A na hàm, quả A la hán, Bích chi phật đạo, đoạn trừ phiền não tập khí, đều tức là biến hóa hay sao?” Phật bảo Tu Bồ Đề: “Nếu pháp có tướng sanh diệt, đều tức là biến hóa.” Tu Bồ Đề bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Có pháp nào không phải là pháp biến hóa?” Phật dạy: “Nếu có pháp không sanh diệt, pháp đó không biến hóa.” Tu Bồ Đề hỏi: “Pháp nào là không sanh không diệt, không biến hóa.” Phật dạy: “Niết bàn không hư dối là pháp không biến hóa.” Tu Bồ Đề hỏi: “Như đức Phật từng dạy chư pháp bình đẳng, không do Thanh văn, Bích chi phật, Bồ tát, chư Phật tạo tác, chư pháp tánh thường không tịch, Tánh không tức là Niết bàn. Vì sao chỉ có pháp Niết bàn không phải là biến hóa?” Phật bảo Tu Bồ Đề: “Đúng vậy! Đúng vậy! Chư pháp bình đẳng, không phải do Thanh văn tạo tác, nhẫn đến Tánh không tức là Niết bàn. Nếu như hàng sơ học Bồ tát mới phát tâm Bồ đề nghe rằng tất cả các pháp đều là Tất cánh Tánh không, nhẫn đến Niết bàn cũng đều là biến hóa, tâm ắt kinh sợ. Cho nên ta mới nói rằng các pháp sanh diệt là biến hóa, còn pháp bất sanh diệt (Niết bàn) không phải là biến hóa.

Hiện nay, đem những lời Phật dạy ra suy ngẫm, thì biết rằng đức Phật A Di Đà nhất định là Báo thân. Giả sử sau đó [thị hiện] nhập Niết bàn, thì ý nghĩa [nhập Niết bàn] đó cũng không phương ngại [ý nghĩa của Báo thân]. Ước mong các bậc trí giả phải nên hiểu như vậy.

Hỏi: Đã nói đức Phật A Di Đà là Báo Phật, cõi Cực Lạc là Báo độ, thì pháp đó cao thâm vi diệu, các bậc thánh Tiểu thừa còn không hy vọng, huống hồ là phàm phu tội chướng, làm sao có thể sanh về đó?

Đáp: Nếu bàn về chúng sanh tội chướng, quả thật khó mà vãng sanh. Chính vì nhờ nguyện lực của đức Phật A Di Đà làm tăng thượng duyên thù thắng, cho nên năm Thừa đều có thể vãng sanh Cực Lạc.

Hỏi: Nếu như phàm phu cùng các bậc thánh Tiểu thừa được vãng sanh, tại sao Vãng Sanh Luận của ngài Thế Thân nói: “Người nữ, người tàn khuyết, hàng căn chủng Nhị thừa không được vãng sanh?” Hiện nay, cõi Cực Lạc có các bậc thánh Nhị thừa, như vậy làm sao giải thích ý nghĩa của luận?”

Đáp: Ông chỉ đọc văn mà không chịu suy ngẫm nghĩa lý, lại còn chấp vào kiến giải u mê của mình, không chịu tỏ ngộ. Hiện nay, xin dẫn lời Phật dạy để làm tỏ rõ vấn đề. Vì sao? Đây tức là ba hạng người vãng sanh hạ phẩm! Làm sao biết được? Như đoạn kinh “Hạ phẩm thượng sanh” nói: “Hoặc có chúng sanh ngu tối, tạo nhiều nghiệp ác, không biết hổ thẹn. Kẻ ấy khi lâm chung, gặp thiện tri thức nói cho nghe danh đề của mười hai loại kinh Đại thừa … lại bảo phải chắp tay niệm “Nam mô A Di Đà Phật.” Ngay lúc ấy, đức Vô Lượng Thọ Phật cảm biết, liền sai hóa Phật, hóa Quán Thế Âm … hiện đến trước hành giả … ngồi trên hoa sen báu theo hóa Phật sanh về ao thất bảo …. vừa lúc hoa nở, đức Quán Thế Âm … giảng cho nghe nghĩa lý thâm diệu … người ấy nghe rồi tin hiểu, phát tâm Vô thượng Bồ đề.

Hỏi: (Căn) chủng và tâm khác nhau thế nào?

Đáp: Tùy vào sự tiện lợi mà nói, chứ ý nghĩa của hai chữ này không khác. Lúc hoa vừa nở, tâm của người [vãng sanh] này là pháp khí thanh tịnh, có thể nghe hiểu chánh pháp, bất luận là pháp Đại thừa hay Tiểu thừa, chỉ cần nghe là sanh lòng tin. Do đó đức Quán Thế Âm không giảng pháp Tiểu thừa, mà nói pháp Đại thừa trước. Người đó nghe pháp Đại thừa cảm thấy vui mừng, bèn phát tâm Vô thượng Bồ đề, gọi là sanh khởi căn chủng Đại thừa, hoặc gọi là sanh khởi tâm nguyện Đại thừa. Nếu như lúc hoa vừa nở, đức Quán Thế Âm nói pháp Tiểu thừa, người đó nghe pháp Tiểu thừa sanh khởi tín tâm, thì gọi là sanh khởi căn chủng Tiểu thừa, hoặc gọi là sanh khởi tâm nguyện Tiểu thừa. Phẩm này như vậy, hai phẩm dưới cũng thế. Ba hạng người này, đều phát tâm ở ao thất bảo, chính vì nghe pháp Đại thừa mà sanh khởi chủng tánh Đại thừa, hơn nữa, do vì không nghe pháp Tiểu thừa, cho nên chủng tánh Nhị thừa không sanh. Nói “chủng” cũng tức là “tâm.”

Người nữ và người tàn khuyết: nên biết, ở cõi Cực Lạc không có hai hạng người này.

Hơn nữa, mười phương chúng sanh, hoặc giả tu tập giới hạnh Tiểu thừa, cầu nguyện vãng sanh, đều được toại nguyện, không có chướng ngại. Thế nhưng, sau khi sanh về cõi đó, thoạt tiên chứng quả Tiểu thừa, sau khi chứng quả liền chuyển nhập Đại thừa, một khi đã chuyển nhập Đại thừa, không còn thoái sụt, sinh tâm Tiểu thừa trở lại, cho nên gọi là không sanh khởi căn chủng Nhị thừa.

Phần trước nói về những hạng người căn tánh bất định, còn phần sau nói về các bậc đã chứng quả Tiểu thừa.

G – Biện biệt việc bà Vi Đề Hy nghe pháp được lợi ích.

Hỏi: Trong kinh nói bà Vi Đề Hy đắc Vô sanh pháp nhẫn, không biết xuất phát từ đoạn kinh nào?

Đáp: Bà Vi Đề Hy đắc Vô sanh pháp nhẫn, xuất từ đoạn kinh ở phần đầu pháp quán thứ bảy. Kinh nói: “Đức Phật bảo ngài A Nan và bà Vi Đề Hy: “Như Lai sẽ vì các vị giảng thuyết phân biệt pháp trừ khổ não.” Khi Đức Thế Tôn nói lời ấy xong, thì Phật Vô Lượng Thọ đã hiện thân đứng giữa hư không, hai vị Đại sĩ Quán Thế Âm, Đại Thế Chí đứng hầu hai bên. Phu nhân Vi Đề Hy được thấy Vô Lượng Thọ Như Lai, liền cúi đầu đảnh lễ, vui mừng tán thán, liền được chứng Vô sanh pháp nhẫn.” Vì sao biết như vậy? Như trong phần Lợi Ích phía dưới nói: “Phu nhân Vi Đề Hy cùng năm trăm thị nữ thấy tướng rộng dài của thế giới Cực Lạc, sắc thân của Phật A Di Đà và hai vị Bồ tát, tất cả đều sanh lòng vui mừng, khen là việc chưa từng có. Phu nhân hoát nhiên đại ngộ, chứng Vô sanh pháp nhẫn.” Không phải là lúc Phu nhân thấy các cõi nước trong đài quang minh của Phật Thích Ca mà được Vô sanh nhẫn.

Hỏi: Trong đoạn kinh phía trên nói: “Khi hành giả thấy sự vui mầu nhiệm ở cõi kia rồi, sanh lòng vui mừng, liền được Vô sanh pháp nhẫn,” nghĩa của đoạn kinh này phải giải thích thế nào?

Đáp: Ý nghĩa của đoạn kinh này chỉ là đức Thế Tôn đáp ứng lời biệt thỉnh của bà Vi Đề Hy, nêu lên lời khuyến khích phương tiện tu tập được lợi ích. Như trong kinh, đoạn kế đến có nói: “Chư Phật Như Lai có phương tiện lạ khiến cho bà được thấy cõi kia.” Kế đến nói về các pháp quán “Mặt trời”, quán “Nước”, quán “Băng”, nhẫn đến mười ba pháp quán, đều gọi là phương tiện lạ. Đức Phật ý muốn khiến cho chúng sanh, đối với pháp tu này, thành tựu tất cả pháp quán, thấy được sự vui mầu nhiệm của cõi kia, tâm sanh vui mừng, liền được an trụ trong Vô sanh pháp nhẫn. Đây là do lòng từ bi của đức Như Lai, thương xót chúng sanh trong đời mạt pháp, khuyến khích họ siêng cần tu tập, hơn nữa, cũng khiến cho những bậc đa văn không xem thường pháp môn này, nhờ sự gia trì của chư Phật Bồ tát mà hưởng được sự lợi ích.

Phần trên tuy có bảy đoạn lập luận khác nhau, đều là giải thích ý nghĩa sâu xa, phân trần sự khác biệt giữa kinh và luận, mỗi vấn đề đều đem lời Phật dạy làm minh chứng, ước mong độc giả sanh khởi tín tâm, không còn nghi hoặc phân vân.

Pages: 1 2 3 4