Phương Pháp Để Sống An Vui
Tỳ Kheo Thích Thông Phương

 

Phương Pháp Để Sống An Vui

I. THƯỜNG TẠO NGHIỆP LÀNH

Chúng ta muốn vui thì phải tạo nghiệp tương ứng với mong muốn quả vui của mình, tức thường tạo nghiệp lành, tránh nghiệp ác, nghiệp dữ làm khổ người, khổ vật. Muốn vui mà làm khổ người, khổ vật tức là tạo cái nhân khổ, mà tạo nhân khổ thì quả khổ đến chứ làm sao vui được? Trái lại, cái nhân đau khổ không có thì cái quả đau khổ đâu thể đến! Không nhân thì làm sao có quả. Đó là điều thực tế.

Người tu đúng theo chánh pháp Phật dạy là phải thực hành đúng với lý nhân quả thì mới thật sự được an vui. Nhờ tránh không tạo nhân đau khổ nên không có quả đau khổ; và đâu bị lo sợ, đâu bị ray rức hay là mặc cảm tội lỗi. Vì trong lòng chúng ta lúc nào cũng thường nghĩ đến việc lành, việc tốt thì làm sao có buồn, có khổ được! Và cũng đâu có lo sợ ai trả thù trả oán, thì tự vui thôi!

Được vậy rồi thì chúng ta cảm thấy lòng nhẹ nhàng thanh thản, khi nghĩ đến quả báo việc làm của mình thì tâm không lo lắng, đó là nhân lành, nhân tốt. Như vậy, tuy chúng ta tu chưa được giải thoát, mà chưa giải thoát là còn đi trong luân hồi thì nhờ có nghiệp lành này làm bạn đi cùng thì rất hay! Không phải là hạnh phúc hay sao? Trái lại làm nghiệp ác thì lo sợ ân hận, rồi đi trong luân hồi với những nghiệp ác theo làm bạn, đúng là khổ. Cho nên, kinh Diệu Pháp Thánh Niệm Xứ, Phật dạy bài kệ:

Các điều thiện đáng yêu,
Như cha và như mẹ.
Thiện đẹp thân an ổn,
Hay lìa sự tranh cãi.
Thiện đẹp người trời vui,
Thiện đẹp thêm siêng gắng.
Thiện đẹp quyến thuộc đông,
Thiện đẹp khỏi tam đồ.
Thiện đẹp dứt các ác,
Thiện đẹp lìa phiền não.
Bỏ được các lỗi lầm,
Nên tu các điều thiện.

Phật dạy cần phải tu điều thiện, vì các điều thiện là các điều đáng yêu nên phải gần gũi coi điều thiện như cha, như mẹ vậy. Đó là con đường an vui, hạnh phúc. Cho nên làm điều thiện rồi thì thân được an ổn, không phải lo sợ ai trả oán trả thù, lại hay xa lìa sự tranh cãi hơn thua. Và làm được điều lành thì người, trời cũng vui theo, nhờ vậy thêm tinh tấn. Ra đường gặp bạn bè quyến thuộc đông vui, còn đi ra đường mà gặp người thù nghịch thì khổ. Rồi làm điều lành thì khỏi đọa tam đồ, tức là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; làm thiện đẹp thì dứt các nghiệp ác, lìa phiền não, bỏ được lỗi lầm nên an vui thật sự. Do đó, Đức Phật khuyên chúng ta nên tu các điều thiện.

Hiện tại, chúng ta tu học Phật là vẫn còn sống trong thiện ác, nếu thường tạo nghiệp thiện, tránh nghiệp ác là con đường an vui hơn cả. Đừng bao giờ nói bắn bổng là không thiện không ác, sau rồi phải ăn năn hối hận.

Trong kinh A-nan Vấn Sự Phật Kiết Hung (kinh Ngài A-nan thưa hỏi những điều lành, điều dữ), Phật dạy: “Người đắc đạo đều từ điều thiện sanh, dùng kinh giới để ngăn ngừa thân, miệng, ý. Thiện là áo giáp lớn chẳng sợ binh đao, thiện là thuyền to qua được sông sâu. Người nào gìn giữ được niềm tin vào điều thiện thì trong nhà hòa thuận, an vui, hiện đời vui vẻ, phước tự nhiên đến. Người làm lành, được quả báo tốt chẳng phải do thần, thánh nào ban cho.”

Phật dạy người được đắc đạo là do làm điều thiện, từ nghiệp lành sanh. Dùng kinh, dùng giới để ngăn ngừa ba nghiệp thân, khẩu, ý. Tức là chúng ta nghe kinh, nghe lời Phật dạy rồi giữ giới để thân không tạo nghiệp ác, miệng không nói lời ác và ý không nghĩ điều ác, gọi là ngăn ngừa thân miệng ý. Nên làm điều lành, điều tốt là áo giáp lớn bảo vệ an ổn, chẳng sợ binh đao.

Thiện là chiếc thuyền to đưa chúng ta qua sông lớn tránh được tai nạn nguy hiểm. Người nào gìn giữ được niềm tin với điều thiện thì trong nhà hòa thuận, an vui, rồi hiện đời được vui vẻ, phước tự nhiên đến. Người làm điều thiện, tạo nhân lành nhân tốt không cần cầu phước mà phước cũng đến. Còn làm điều ác mà cầu Phật ban phước cho mình, Phật cũng không ban nổi, bởi vì quả đi theo nhân.

Cho nên người làm điều lành thì được quả báo tốt, chẳng phải do thần thánh nào ban cho. Người thường làm điều lành, điều tốt thì tâm an, khỏi cần phải đi coi bói cũng biết được mình ra sao nữa. Nếu khi làm điều lành, điều tốt mà lỡ có một hai chuyện không vui, chuyện nghịch ý đến thì mình biết đó là do nghiệp cũ của mình thuở xưa đã tạo còn sót lại, trả hết rồi được nhẹ nhàng cũng khỏi cần đi coi bói. Đó là lẽ thật.

Phật dạy rõ ràng như vậy, nên chúng ta phải có niềm tin chắc chắn thì lòng luôn an ổn, gặp chuyện tốt thì cũng không quá tự hào, hoặc gặp chuyện xấu cũng không quá buồn khổ, lòng lúc nào cũng thanh thản, nhẹ nhàng thì an vui hạnh phúc.

Các bậc Thánh đều dạy mọi người tạo nghiệp lành, nghiệp tốt chứ không có bậc Thánh nào dạy người làm ác. Muốn an vui là thường tạo nghiệp lành, thích làm các việc công đức thì thâm tâm của mình tăng trưởng quả lành.

Trong Phát Bồ-đề Tâm có nói về Trực tâm, Thâm tâm và Đại bi tâm. Chúng ta thường thích làm điều lành, điều tốt đó là tự làm tăng trưởng thâm tâm. Thâm tâm tức là tâm sâu xa, đó là chỗ của bậc Thánh khen ngợi, là chỗ đi của bậc hiền. Lẽ thật đã rõ ràng như vậy rồi thì mỗi người phải tự xét kỹ thực hành để không phải chuốc lấy những ân hận về sau.

Rồi trong Nhập Bồ-tát Hạnh, Bồ-tát Tịch Thiên cũng dạy rằng: “Như trẻ con thích thú theo đuổi những trò chơi, ta nên sinh tâm đam mê, thích thú với việc lành không bao giờ chán”.

Chúng ta phải thích làm việc lành giống như trẻ con thích chơi những đồ chơi vậy. Trẻ con thấy đồ chơi liền thích, còn chúng ta cũng phải thấy thích điều lành. Hãy tập làm như vậy thì đời mình bảo đảm an vui, hễ thấy điều lành là muốn làm, chứ không phải thấy điều lành liền tránh. Phải tập cho được như vậy.

“Tất cả hành động con người cốt đạt đến hạnh phúc mà chắc gì đã được. Còn việc làm vừa tự lợi, lợi tha nhất định đem lại an vui, nếu không làm thì đâu có được niềm vui ấy”.

Ngài dạy tất cả hành động của con người nhằm mong cầu hạnh phúc, nhưng có cái được, cái không được. Bởi vì mình làm ác thì đâu thể có được an vui. Còn nếu mình vừa tự lợi, lợi tha tức là làm lợi mình, lợi người thì đó là việc làm tốt, nhất định sẽ đem lại an vui; và không làm điều lành thì cũng đâu có được niềm vui. Việc nhất định đem đến an vui mà không làm thì làm sao có được niềm vui ấy! Nên ở đây Ngài dạy rất thực tế.

Đó là điểm mà các ngài muốn nhắn nhủ cho tất cả chúng ta hiểu, rồi tập sống cho đúng theo chánh pháp là: Hãy xem nghiệp lành, nghiệp tốt, việc lành việc tốt giống như là cha, là mẹ thân yêu của mình, thấy là thích liền. Giống như những đứa bé thích đồ chơi, thấy đồ chơi là muốn chạy tới lấy liền. Cũng vậy, chúng ta thấy việc lành việc tốt là thích, muốn làm liền. Tập cho tâm làm như vậy thì bảo đảm là thường được an vui.

II. TẬP TÌM CÁI TỐT CỦA NGƯỜI ĐỂ TÙY HỶ

Tìm cái tốt của người để tùy hỷ thì bảo đảm lúc nào cũng cười, cũng vui hết. Bởi vì người đời thường chỉ tìm cái xấu của người ta để chê, nhất là những người mình không ưa, vậy thì đâu có vui được. Cho nên, ở đây chúng ta phải tập tìm cái tốt của người để tùy hỷ thì bảo đảm sẽ thường sống an vui. Vô lý là muốn vui mà cứ tìm cái xấu của người rồi vạch bày, chê bai hoặc chỉ trích thì bao giờ được vui! Thấy cái xấu của người ta là bực mình, bực mình thì làm sao vui được ?

Bởi vậy, hễ càng tìm cái xấu của người để chê bai hoặc chỉ trích thì càng thêm bực bội, khó chịu, là càng khổ thêm. Vì vừa nhìn thấy là mình muốn trách tức là lòng không vui; trái lại thường tìm cái tốt của người để tùy hỷ thì đó mới là cách có an vui thật sự. Tùy hỷ tức là vui rồi. Thấy người ta làm tốt là muốn khen, khen thì lòng mình được vui. Điều này cũng dễ làm chứ đâu có khó. Cứ thấy điều tốt của người là khen thôi! Đâu có tốn tiền tốn bạc gì! Một điều tốt, lại không phải tốn tiền, thì sao không chịu làm ?

Thí dụ như nghe ở núi Châu Đốc có chuyện lạ là Phật Di-lặc hiện, nghe rồi liền bao xe đến để cầu ban cho hạnh phúc, cầu vui. Tốn tiền bạc, tốn công, bỏ mấy ngày làm việc, nhưng đâu phải cầu là được vui. Còn việc này chỉ ngồi ở nhà làm cũng được, lại thực tế mà cũng không phải khó làm tại sao không chịu làm? Trên đời này ai cũng có điều tốt chứ không phải xấu hết. Dù là người xấu đi nữa mà mình cố tìm thì họ cũng có một hai điều tốt nhỏ để mình khen. Khi thấy điều tốt của người thì lòng ta nhẹ bớt.

Là con người thì ai cũng đều có tâm, dù là kẻ ác làm điều xấu nhưng họ cũng có tâm, có tâm tức là họ cũng biết đó là điều xấu nhưng vì vô minh không tự chủ chứ đâu ai muốn mình thành người xấu. Dù cho tên ăn trộm, tên ăn cướp cũng không muốn bị chê là người xấu. Cho nên, tuy làm xấu nhưng nó cũng muốn che đậy, cũng sợ người ta biết tức là cũng còn ẩn cái tốt bên trong. Do đó, chúng ta cần phải nhìn những cái tốt để bớt bực bội, bớt nhìn cái xấu thì lòng mình sẽ nhẹ nhàng và thông cảm vì họ là người đáng thương.

Chính vì Phật thấy người đang lúc còn vô minh nên bị mê mờ, tuy vậy vẫn còn tiềm ẩn bản tánh tốt trong đó, nếu khéo khơi dậy kịp thời thì cũng có thể chuyển hóa. Cho nên Phật mới ra đời để giáo hóa chúng sanh, nếu không thì Ngài cũng không ra đời làm chi!

Trong thời Phật có những vị là kẻ giết người không gớm tay như Ngài Ương-quật-ma-la, nhưng rồi cũng được Phật giáo hóa tỉnh ngộ tu hành, chứng được bậc Thánh. Như vậy rõ ràng trong cái ác ngài vẫn còn có cái tốt nên khéo chuyển được. Ngay như bản thân của chúng ta cũng vậy, khi chưa học đạo, chưa biết tu thì cũng có nhiều điều xấu, nhưng nhờ học đạo mới biết đó là những điều xấu, nên bỏ bớt rồi chuyển dần mới thành người tốt. Được vậy chính nhờ tu. Nhờ thấy được như vậy mà chúng ta bớt cách nhìn tiêu cực bi quan thấy sao ai cũng xấu hết, đời sao đáng chán quá! Mà đáng chán quá thì sao? Thì thôi chết đi cho rồi.

Nếu nhìn theo cái nhìn của ông Khuất Nguyên thì phải trầm mình chết dưới sông Mịch La.

Ông Khuất Nguyên làm quan sống thanh liêm rất tốt, nhưng bị mấy vị quan trong triều ghét rồi gièm pha lên vua, thành bị tội truất phế không cho làm quan. Ông buồn tức rồi chán đời mới đến sông Mịch La muốn trầm mình tự vận. Khi ấy, có ông chài lưới đang thả câu thấy ông mới hỏi:

– Sao thấy quan đi mà vẻ mặt buồn thảm quá vậy?

Ông nói: “Ta muốn chết. Cả thế gian này đều say hết có mình ta tỉnh. Cả thế gian này đều đục hết chỉ có mình ta trong”.

Người có cái nhìn như thế thì làm sao sống nổi? Cả thế gian này đều say hết có mình ông tỉnh. Rồi cả thế gian này đều đục hết, chỉ có mình ông là trong. Chỉ mình ông tỉnh, chỉ mình ông trong thì ông sống với ai? Thì chỉ có cách là chết thôi!

Lúc đó, ông câu cá mới khuyên bằng cách đọc bài thơ: “Thí như dòng nước, nếu nước trong thì mình dùng để giặt dải mũ; còn nếu nước đục thì dùng nước đó để rửa chân, cũng tốt thôi!”.

Nước trong cũng xài được, nước đục cũng xài được, đâu phải nước đục rồi bỏ đi. Nước trong, nước đục đều có lợi ích. Nhìn như vậy thì thấy lạc quan sống vui vẻ, đâu cần phải chết. Chỉ cần chuyển cái nhìn là thành tốt lành.

Chúng ta cũng vậy. Nếu nhìn theo chiều xấu thấy ai cũng xấu nên chán rồi chê bai, chỉ trích mang thêm khẩu nghiệp thì càng khổ thêm. Còn thấy người xấu nhưng cũng có những cái tốt, rồi tùy hỷ với điều tốt của người thì mình sẽ quên bớt điều xấu phải không? Nhờ vậy chúng ta khơi dậy cái tốt của người để nó phát triển thì cái xấu sẽ bớt đi. Cái tốt mà trồi ra thì cái xấu phải ẩn đi. Chúng ta phải tập có cái nhìn như vậy thì sẽ bớt bi quan, cuộc sống sẽ an vui hạnh phúc. Đó là cách sống, cách nhìn tốt lành để vươn lên.

Nhìn thấy cái tốt của mọi người để khơi dậy niềm tin cho họ, rồi phát triển điều tốt thì họ sẽ bớt mặc cảm tội lỗi. Nhờ vậy cũng giúp mọi người thêm niềm tin để họ chuyển hóa vươn lên. Nên chúng ta cũng có lợi mà người cũng có lợi, lợi cả hai. Nhưng tại sao mình không làm ?

Khi thấy được điều tốt của người rồi tùy hỷ với điều tốt của người thì quên bớt nghĩ xấu về người, nhờ vậy chúng ta đâu có thành kiến với ai, thì tâm vui, an ổn. Đó chính là phát triển tâm lành, nghiệp lành nơi mình, là tạo nhân duyên để chúng ta sống thông cảm với nhau, bớt ngăn cách nhau. Được vậy là cuộc đời chúng ta càng ngày càng thêm nhiều bạn tốt, phát xuất từ tâm nghĩ tốt. Chúng ta nghĩ tốt cho người, gây cảm tình với người thì càng có thêm bạn tốt, mà càng có thêm bạn tốt thì không phải là vui hơn sao!

Sáng mở cửa ra gặp bạn tốt đến, thấy mặt là hớn hở rồi. Còn sáng mở cửa ra thấy anh này đáng ghét thì mặt xịu xuống, hết vui. Thành ra càng có bạn tốt chừng nào thì càng vui chừng đó, cuộc đời càng tươi sáng. Cho nên, chúng ta tập tìm cái tốt của người để mình tùy hỷ là cuộc sống an vui chân thật. Đó cũng chính là trừ bớt tâm niệm xấu nơi mình, tức là không nghĩ xấu người thì đau khổ làm sao đến với mình được. Lẽ thật rõ ràng như vậy.

Bởi khi tâm nghĩ tốt, nghĩ lành thì nó sẽ phát ra làn sóng lành tốt, êm dịu mát mẻ, cảm đến người cho nên ai cũng thấy thích gần gũi với mình. Các vị là bác sĩ nghiên cứu kỹ thì sẽ hiểu được điều này. Nếu không tạo ra phản ứng nghịch lại thì người ta đâu thấy khó chịu với mình. Vậy là sống an vui thôi! Ai xét sâu chỗ này thì sẽ có kinh nghiệm rõ ràng.

Thí dụ như hai người giận nhau thì nghĩ gì về nhau? Nghĩ xấu với nhau. Thành ra cái nghĩ xấu đó phát làn sóng đối nghịch với làn sóng kia, nên hễ gặp nhau là tóe lửa. Hai người giận nhau ở xa xa biết là người kia thì muốn tránh chỗ khác. Chưa chạm tới nhưng đã có phản ứng rồi. Đó là phản ứng nghịch do làn sóng từ trong nội tâm. Còn nghĩ lành, nghĩ tốt với nhau, khi thấy từ xa là muốn ngoắc tay đến gần, đó là do từ trường tốt lành khế hợp với nhau. Cho nên chúng ta cần phải tìm cái tốt của người để nghĩ về người đó. Nghĩ tốt cho người thì đó là con đường an vui, tốt đẹp.

Mỗi người chúng ta phải cẩn thận với tâm niệm xấu của mình. Phải xem tâm niệm xấu đó như kẻ thù, làm tiêu mất công đức nơi mình nên cần phải tránh. Người trí biết cái gì không lợi ích thì đâu chịu giữ. Lúc còn mê không biết thì tạm cho qua, nhưng từ đây về sau có học đạo hiểu rõ đó là những thứ không lợi ích thì ứng dụng sao cho cái thấy, cái nhìn đúng trở lại. Chúng ta phải tập vui với tâm tùy hỷ điều tốt của người, để bớt nghĩ xấu về người. Phải tập như vậy thì bảo đảm là ta sẽ thường sống trong sự an vui.

Lại trong tập Nhập Bồ-tát Hạnh, có một đoạn Bồ-tát Tịch Thiên dạy: “Hãy thầm khen công lao kẻ khác và cùng người nói về thiện đức của kẻ khác. Nghe ai nói đến công đức của mình thì hãy tự xét xem mình thực có như vậy hay không.

Ngài bảo chúng ta hãy thầm khen ngợi công lao của kẻ khác. Thấy người có công lao là mình thầm khen ngợi rồi cùng với người nói về những đức lành của kẻ khác. Người ta có đức, có việc lành tốt, ta sẵn sàng khen ngợi thì bảo đảm là tâm sẽ thường huân tập điều lành. Còn nghe ai nói về công đức của mình thì đừng vui liền, mà phải xét lại xem chúng ta có xứng đáng với lời khen đó hay không? Được vậy là sống đúng với tâm sáng suốt, chân thật, vừa không bị người ta gạt. Thí dụ chúng ta không tốt mà người ta khen tốt liền vui, tưởng đâu mình tốt thiệt, là bị người gạt, thành ra đâu thấy được cái dở của mình mà chuyển. Ở đây Ngài dạy kỹ như vậy.

Nói vậy là để nhắc tất cả biết cố gắng để thường tập nhìn cái tốt, cái hay của người rồi mình tùy hỷ theo. Qua đó chúng ta cũng huân tập tâm tốt lành rồi bớt những tâm niệm xấu nơi mình. Vậy mới là đi theo con đường an vui, hạnh phúc, chân thật.

III. TẬP XẢ CHẤP TRƯỚC

Muốn an vui, hạnh phúc thì phải xả bớt chấp trước. Còn chấp trước nhiều thì bảo đảm là khó an vui. Bởi vì tâm chấp trước là cái nhân để chuốc lấy đau khổ. Xét cho kỹ thì bao nhiêu khổ đau trên cuộc đời này cũng từ tâm chấp trước mà ra. Nếu người có tâm hỷ xả thì đâu có khổ. Chính từ tâm chấp trước đó mà đưa đến bao nhiêu khổ đau trên thế gian này, nhưng ít ai thấy được.

Đơn giản như ngồi thiền mà nghe những tiếng nói ồn ào bên ngoài, nếu người có tâm chấp trước thì khó chịu và khổ liền. Còn nếu buông xả thì cứ lo ngồi, mặc ai nói gì nói, buông xả thì lòng nhẹ nhàng. Ngay đó liền thấy chính tâm chấp trước khiến chúng ta khổ.

Điều này chính tôi cũng có kinh nghiệm. Mấy lần đi qua Ấn Độ, đến Bồ-đề Đạo Tràng những lúc cao điểm thì người chiêm bái rất đông. Mỗi người, mỗi đoàn có lối tu riêng, hoặc là tụng kinh, hoặc là niệm Phật hoặc lễ bái, tọa thiền v.v… Khi vào đó thì tôi tìm chỗ ngồi thiền, tuy ngồi thiền nhưng mọi người đi qua, đi lại ồn ào, có khi cũng nói chuyện, rồi tụng kinh phát loa lớn vang khắp bên tai. Nhưng khi ấy vẫn ngồi thiền an nhiên thanh thản, không bực bội khó chịu cũng không dính dáng, không bị ảnh hưởng. Nếu ngồi ở nhà mà có ai bên ngoài nói chuyện ồn ào thì thấy khó chịu, đó là do tâm chấp trước thành khổ; còn buông xả, không quan tâm thì nhẹ nhàng.

Hiểu rồi thì chúng ta thấy trên cõi đời này có nhiều chuyện không đáng, nhưng do tâm chấp trước mà trở thành chuyện lớn, thành khổ đau, đáng tiếc. Như chúng ta đi chợ, người tới lui rất đông, lỡ có người nào đó đi nhanh đạp trúng bàn chân mình, nếu thấy người ta lỡ vô ý đạp thì đi luôn là đâu có chuyện gì; nếu giận kéo người ta lại rồi sừng sộ, không khéo thành ẩu đả với nhau; nếu chưa dừng thì đưa đến thưa kiện rồi vô tù.

Một chuyện không đáng gì mà trở thành chuyện lớn, thành khổ đau. Cho nên chúng ta cần chuyển hóa, tập tâm buông xả, bớt chấp trước.

Hòa thượng Quảng Khâm ở Đài Loan, là vị Hòa thượng tu hành có công phu, có đạo đức, rất được mọi người kính quý. Ngài có kể câu chuyện là một hôm mấy người đệ tử của Ngài đi nghe một vị pháp sư ở chùa khác giảng kinh. Vị pháp sư này khi thuyết giảng ngầm chỉ trích Ngài Quảng Khâm nên những người đệ tử của Ngài thấy khó chịu. Sau đó về thuật lại cho Ngài Quảng Khâm nghe.

Nghe rồi, Ngài chẳng những không buồn giận mà còn bảo đệ tử phải đi đến sám hối vị thầy kia. Ngài nói: “Các con đừng có hiểu lầm người ta! Vị đó giảng đoạn kinh rất sâu xa, mà các con nghĩ xấu cho người ta”. Rồi Ngài đem đạo lý giải thích những lời của pháp sư kia đã giảng. Vậy là xong chuyện.

Không chấp trước nên lòng nhẹ nhàng, thanh thản. Còn nghĩ người ta nói móc mình, thành ra mới bực bội khó chịu thì cũng do tâm chấp trước mà ra.

Để thấy rằng: Chấp trước là tự làm khổ mình, thiệt thòi cho mình chứ không có gì vui, đâu có lợi ích. Vậy tại sao chúng ta vẫn làm? Đó là điểm muốn nhắc cho tất cả nhớ cần xét kỹ lại. Mỗi người nên nhớ điều này: “Hễ càng chấp thì càng khổ, bớt chấp thì bớt khổ, còn hết chấp thì hoàn toàn giải thoát, không còn khổ”. Con đường đi rõ ràng vậy thôi. Nhưng do đâu mà có chấp? Do tâm chúng ta thiếu trí tuệ quán chiếu. Tức là thiếu tu. Thiếu tu nên mới chấp.

Vì vậy, chúng ta cần trách trở lại chính mình. Biết trách trở lại chính mình, thường dùng trí tuệ quán chiếu tu kỹ hơn, để xả bớt những chấp trước thì sẽ nhẹ bớt khổ đau, cuộc đời sẽ tươi sáng hơn.

Như chuyện Đức Phật đi trên đường bị ông Bà-la-môn theo chửi, Ngài đọc lên bài kệ để nhắc đệ tử:

Kẻ hơn thì thêm oán,
Người thua ngủ chẳng yên.
Hơn thua hai đều xả,
Duỗi thẳng hai chân ngủ.

Nếu chúng ta thấy người ta hơn mình tức là mình thua, thấy mình thua thì ngủ không yên; còn nếu mình hơn người ta thì bị người ta oán. Người ta thua mình, do chịu không nổi thì họ sanh oán. Như vậy, người còn chấp hơn thua là còn khổ. Cho nên xả hết hơn thua thì an ổn nằm duỗi thẳng hai chân ngủ khỏe. Chúng ta tập buông bớt chấp trước đó là con đường an vui, hạnh phúc chân thật.

IV. HẠNH PHÚC CHÂN THẬT Ở TRONG TA

Hạnh phúc chân thật là ở trong chính ta, khỏi phải tìm bên ngoài. Người ta thường đi tìm hạnh phúc nhưng lại tìm ở bên ngoài nên được đó rồi mất đó không như ý nguyện. Không được như ý nguyện nên gặp nhau cứ chúc nhau hạnh phúc, nếu mà thật sự hạnh phúc rồi thì đâu cần chúc chi nữa.

Sự thật, cái khổ hay vui vốn ở ngay trong tâm của ta mà không ở đâu khác. Người khéo thanh lọc nội tâm, trừ bỏ những tâm niệm xấu dở thì lòng sẽ thường nhẹ nhàng, an ổn.

Khi thanh lọc được nội tâm, tâm được trong sạch thì chúng ta thường nghĩ điều lành, điều tốt. Mà nghĩ điều lành, điều tốt thì sẽ phát ra hành động lành, làm tốt. Vậy là thường tạo nghiệp lành, sẽ chiêu cảm quả lành thì được an vui. Chúng ta khéo tu tập để giữ tâm tỉnh sáng rồi cẩn thận trong từng hành động, đó là điều thiết yếu để có được hạnh phúc chân thật. Hạnh phúc này bảo đảm không ai lấy đi được, còn hạnh phúc bên ngoài có khi bị người ta lấy đi.

Thí dụ như lo tìm người bạn cho hợp cho vui, nhưng sống ít lâu không hài lòng với bạn đó rồi bị người kéo qua đi với người khác thì cũng khổ, vì hạnh phúc từ bên ngoài là không an ổn. Còn từ nội tâm của chúng ta đã an vui thì không ai lấy đi được hết. Khéo sáng suốt như vậy thì chúng ta thường được hạnh phúc, còn không khéo cứ muốn làm theo cái muốn của mình, mà cái muốn của mình là thuộc tâm vô minh thì kết quả là chuốc lấy khổ đau. Vậy được để làm gì? Được để rồi khổ thì được đó để làm gì? Nên chúng ta cần sáng suốt là vậy đó.

Người sáng suốt luôn soi lại chính mình, biết cách suy nghĩ và hành động đúng pháp. Rồi chọn đúng con đường để đi đến hạnh phúc chân thật. Đó mới thật là người trí theo Phật dạy. Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:

Người nói được thận trọng,
Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác,
Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo Thánh nhân dạy.

Phật dạy chúng ta phải thận trọng lời nói, rồi khéo hộ phòng tâm không để cho nghĩ bậy, thân thì chớ làm những điều ác. Tức là giữ gìn thân, khẩu, ý được thanh tịnh. Đó là con đường chánh đạo của bậc Thánh nhân, là con đường chứng đạo, là lối đi tiến đến hạnh phúc an vui chân thật ngay chính mình. Chỉ cần tự mình khéo tu tập ba nghiệp của chính mình thì đó là con đường an vui chân thật, chứ không phải tìm ở đâu khác.

V. TÓM KẾT

Tất cả con người sống ở trên đời ai cũng muốn sống an vui, hạnh phúc, không ai muốn sống khổ đau. Mà muốn sống an vui, hạnh phúc thì phải đi con đường an vui, hạnh phúc. Nhưng thường người ta vì bị vô minh, mê lầm che mờ nên hành động tạo tác trái với nhân quả; muốn an vui hạnh phúc nhưng mà đi con đường khổ đau vì tạo cái nhân khổ đau, cuối cùng rồi thì cũng chuốc lấy khổ đau.

Chúng ta là những người học đạo, tu hành, biết rõ những lẽ thật trong giáo pháp của Phật đã dạy, thì cần phải có cái nhìn đúng đắn để hành động sáng suốt theo trí tuệ, và thật sự đạt được an vui, hạnh phúc.

Căn bản là tất cả phải giữ cho nội tâm thường nhớ điều lành, nghĩ đến điều lành thì đó là cái nhân để đưa đến làm lành. Tức là có nghĩ lành rồi đưa đến hành động lành, tốt. Đó là cái nhân chân chánh để đưa đến an vui, hạnh phúc chân thật. Nên nhớ, hãy làm lợi mình lợi người, còn không thì quên mình vì người, chứ đừng vì mình mà hại người thì an vui sẽ thường đi theo với mình.

Đó là yếu chỉ để sống an vui, hạnh phúc. Mong rằng tất cả mỗi người, luôn hiểu kỹ để rồi tiến sâu trên con đường an vui, hạnh phúc chân thật để cuộc sống càng ngày càng gần gũi với nhau hơn, cuộc đời tươi sáng hơn.

Hãy Khéo Chăm Sóc Cái Tâm

I. TÂM BÁU

Tâm là của báu chí cao vô thượng, mà chúng ta lâu nay bỏ quên ít chăm sóc, lại chăm sóc thân nhiều hơn. Đa số thường lo chăm sóc thân, hoặc nhà cửa, xe cộ, ruộng vườn sự nghiệp bên ngoài, mà bỏ quên cái tâm. Đây là thiếu sót rất lớn. Tâm quý hơn những thứ đó, là linh hồn của cuộc sống. Nếu chúng ta sống thiếu tâm thì sự sống này thành sự chết. Tâm quan trọng như vậy nhưng ít ai quan tâm đến, bỏ qua chỗ quý báu này.

Như vậy cái đáng chăm sóc lại không chăm sóc, lại chăm sóc những cái ít đáng chăm sóc.

Chính vì thiếu chăm sóc tốt cho tâm, thường bỏ bê có khi mặc kệ không biết tới nó nữa, khiến nó sanh bệnh hoạn, hoặc mất thăng bằng. Cái tâm mất thăng bằng sẽ thành tâm bất thường, tâm phiền não sống trong khổ đau. Sống mà để cho những tham sân si, phiền não lấn áp là làm cho tâm phải chịu thiệt thòi, thương tổn, thành tâm lang thang không có chỗ nương tựa bị dẫn đi trong đường điên đảo, đó là sống mất gốc.

Tâm vốn là gốc của con người mà chúng ta lại bỏ quên, để nó trôi dạt không có điểm tựa, vì không biết tựa vào đâu? Vậy mà ít ai thấy được trách nhiệm của mình, là phải lo chăm sóc tâm, không khéo để thành bệnh hoạn. Và cũng chính vì tâm có bệnh nên chúng ta mới đến đây học Phật, nhà chùa trở thành bệnh viện trị bệnh tâm. Học Phật là để điều trị tâm mình. Nếu tâm mỗi người không bệnh hoạn đương nhiên không tới đây.
Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:

Tâm khó thấy tế nhị,
Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm,
Tâm hộ an lạc đến.

Phật dạy tâm con người không hình tướng khó thấy, rất tế nhị. Cũng có khi chúng ta thấy tâm mình nhưng không kiểm soát được. Nó lên chùa tụng kinh niệm Phật, sơ suất một chút nó chạy ra chợ lúc nào không hay. Cũng vậy, mới thấy nó lên ngồi thiền, mới bắt chân lên chưa ngồi nó lại chạy về nhà. Nên Phật dạy người trí phải khéo lo phòng hộ tâm, giữ gìn, chăm sóc, ngăn ngừa tâm nghĩ xấu. Tâm được phòng hộ tốt tức là an lạc đến. Ngài nói thêm:

Hãy vui không phóng dật,
Khéo phòng hộ tâm ý.
Kéo mình khỏi ác đạo,
Như voi bị sa lầy.

Người khéo tu không phóng dật, không để tâm phóng đi lang thang, khi có phòng hộ giữ gìn tâm ý sẽ kéo mình ra khỏi đường ác. Tâm nếu được chăm sóc kỹ, được ngăn ngừa không tạo những tội lỗi thì kéo người ra khỏi ác đạo, như voi bị sa lầy được kéo lên. Người khéo tu Phật là phải hăng hái chăm sóc, phòng hộ tâm thật kỹ, không để nó chạy rong giống như ngựa hoang, không gì kềm chế được, mặc tình cho những thứ phiền não, tham, sân, si tung hoành, làm khổ mình. Chúng ta cần phải luôn giữ gìn không cho nó sanh tội lỗi, tà ác, gây khổ đau cho mình, cho người.

Những thứ gây khổ đau cho thế gian này, gốc cũng từ tâm. Tâm vốn không hình tướng nhưng nó lại là cội gốc. Khi tâm khởi lên thì thân làm, miệng nói. Thí dụ muốn mắng ai đó tâm phải khởi trước miệng mới nói. Nếu ngay khi tâm khởi lên ý muốn chửi người liền dừng ngay đó thì miệng không nói. Muốn nghĩ đánh ai đó, nếu dừng thì đâu có đánh nhau, nên giữ tâm là gốc, còn không giữ thì thành tâm bệnh hoạn hoặc thành tâm giặc trộm, trộm của báu công đức của mình, làm tiêu mất công đức; hay thành ra tâm ngông cuồng, không còn biết phải quấy, giết chết cuộc sống tinh thần, đánh mất sự bình an trong nội tâm của mỗi người. Biết vậy rồi chúng ta hãy khéo chuyển tâm bất bình thường thành tâm bình thường; còn không khéo thì chuyển tâm bình thường thành tâm bất thường.

Nếu ai sống với tâm bất thường thì phải biết chuyển hóa lại, vì đó là nhân đưa đến con đường khổ đau đang chờ sẵn trước mắt. Người học Phật cần phải quý trọng tâm báu nơi mình, của báu bên ngoài không quý bằng tâm báu. Vàng, kim cương, chúng ta chỉ dùng tạm một lúc thôi, nhắm mắt rồi cũng bỏ lại. Chính tâm báu quý hơn hết, nó đi theo ta, giúp ta tạo an vui, hạnh phúc chân thật. Đó là thứ báu mà thế gian không có gì sánh kịp.

Tổ Bồ-đề Đạt-ma khi còn là thái tử, cha là Vua Hương Chí cúng dường hạt châu quý cho Tổ Bát-nhã-đa-la. Tổ Bát-nhã-đa-la muốn biết chỗ tâm đắc, chỗ hiểu Phật pháp sâu cạn của ba vị vương tử thế nào, nên đưa hạt châu lên hỏi ba vị vương tử (lúc đó Tổ Bồ-đề Đạt-ma là hoàng tử Bồ-đề-đa-la, cùng với hai người anh):
– Ở thế gian có thứ châu nào sánh kịp châu này không?

Hai vị vương tử kia đều nói hạt châu này rất quý, so với bảy báu thì không có báu nào sánh kịp. Vương tử thứ ba, tức Ngài Bồ-đề Đạt-ma đáp: “Hạt châu này là của báu ở thế gian chưa phải là tột quý, trong các thứ báu chỉ có Pháp bảo là quý hơn hết. Ánh sáng của hạt châu này là ánh sáng của thế gian cũng chưa cho là tột, trong các thứ ánh sáng chỉ có trí sáng mới là quý hơn hết. Sự trong sáng của hạt châu này là sự trong sáng của thế gian, cũng chưa cho là tột; trong các thứ trong sáng chỉ có tâm trong sáng mới là hơn hết.”

Tâm trong sáng có thể đưa con người thành Phật, còn sự trong sáng của kim cương, hột xoàn đâu có đưa người thành Phật, cũng không giúp người giác ngộ.

Ngài nói thêm: “Châu này sáng chiếu nhưng chẳng hay tự chiếu, cần nhờ có ánh sáng trí tuệ. Để rõ châu là quý báu thì phải từ nơi ánh sáng trí tuệ biện biệt mới biết nó là châu; đã biết nó là châu thì liền rõ nó là báu. Như vậy nó là châu mà chẳng tự biết nó là châu, cần phải nhờ có trí châu để biện biệt mới biết nó là thứ châu ở thế gian. Cũng thế, nói báu mà chẳng tự biết nó là báu, phải nhờ có trí báu soi sáng mới rõ nó là vật báu. Song nếu thầy có đạo thì báu kia hiện tiền, chúng sanh có đạo thì tâm báu tự bày”.

Tức là hạt châu sáng nhưng không thể tự biết, phải nhờ có ánh sáng trí tuệ mới biết. Nó tuy là châu báu nhưng nó không tự biết nó là châu báu, nhờ trí con người phân biệt mới biết nó là quý. Như vậy nó quý mà nó không tự biết phải nhờ đối tượng khác. Nên trí báu còn quý hơn kim cương, châu báu ở thế gian.

Tổ Bát-nhã-đa-la hết lòng khen ngợi, sau đó Ngài phương tiện tiếp dẫn vương tử thứ ba xuất gia, sau này là Tổ Bồ-đề Đạt-ma.

Cho thấy tâm báu nơi mọi người là thứ quý báu hơn hết trên thế gian này, không có vật báu nào trên thế gian này sánh bằng. Nhưng người ta lại thường bỏ quên nó, đây là điều thiếu sót lớn. Mỗi người đều có tâm báu nhưng không biết lo chăm sóc giữ gìn, để nó chạy theo những thứ tạm thời, tạo thành khổ đau rồi tự chôn vùi, mất đi những công đức chính mình. Đó là điều rất đáng tiếc!

Chúng ta khéo nhìn lại cho đúng đắn, để giữ gìn cái quý báu nơi mình, và để sống cho đúng ý nghĩa.

II. TÂM TRỘM

Mỗi người khéo xem chừng tâm trộm của mình, tâm báu không lo giữ để thành tâm trộm, trộm của báu trong nhà làm mất đi những gia tài quý báu, trộm những thiện nghiệp công đức mà chúng ta đã tạo. Trộm ở ngoài thì dễ giữ, trộm ở trong làm sao giữ?

Người thế gian lo giữ gìn trộm bên ngoài nhưng lại thường nuôi trộm trong nhà mà không hay, nên không biết của báu trong nhà bị trộm phá tan. Có khi tu hành tích lũy cả năm công đức, nhưng chỉ sanh một niệm quấy thì làm tiêu hao đổ vỡ hết, phải làm lại từ đầu. Thí dụ hằng ngày tụng kinh, ngồi thiền tốt, nhưng chợt khởi niệm uống rượu rồi theo nó đi uống rượu say, tạo nghiệp nói năng hành động thô tháo, thành ra đổ vỡ hết công đức an lành niệm Phật, tụng kinh suốt năm. Có khi đang tụng kinh rất tốt, nhưng nó lén trộm một chút thời gian ra ngoài nghe nhạc. Lúc đó tâm nào ở đó tụng kinh? Thành ra miệng tụng suông không có thành tâm, công đức bị tổn hao.

Hoặc đang ngồi thiền là đang tạo công đức, nó lén trộm ra ngoài chợ ngồi ăn hàng, rồi buồn vui v.v… cũng làm hao tổn công đức. Có khi đi bố thí cúng dường là tạo phước lành tốt, nhưng nó cũng lén trộm thời gian sanh cái ngã trong đó, khiến mất mát một phần công đức, phước đức. Và còn nhiều chuyện nữa, đây chỉ thí dụ một ít. Để chúng ta thấy, dù cố công tu hành tạo công đức phước đức nhưng không khéo giữ tâm, để nó lén trộm rồi làm tổn thất công đức của mình, là điều cần phải cảnh tỉnh.

Đưa ra những thí dụ trên cho mọi người nghiệm xét để từ đó suy ra tiếp, tự bổ túc thêm mà ngăn ngừa. Đó là khéo biết chăm sóc không cho tâm trộm, thường tỉnh giác canh chừng tâm trộm của mình vì nó hay gạt chúng ta lắm. Biết vậy rồi chớ đem của báu công đức mà tiêu xài phung phí rồi chính mình phải chịu khổ.

Vì tâm trộm ở trong nhà chúng ta nên nó biết hết, nó gạt mình rất tinh vi. Thí dụ như phát tâm ăn chay, nó gạt là coi chừng ốm bệnh, đừng ăn. Đi chùa cũng vậy, lâu lâu mệt lười, nó nghĩ hôm nay thân thể không khỏe, đi nhiều sợ trúng mưa cảm nặng rồi bệnh, thôi hãy ở nhà. Nó gạt mình đủ thứ vì nó ở trong mình, nó biết tâm lý của mình nên gọi là nuôi trộm ở trong nhà, trộm hết của báu mà không hay không biết. Chúng ta phải sáng suốt tu tập, nhận định rõ ràng, chăm sóc kỹ lưỡng tâm mình. Không giữ được là nó lén đi ra ngoài, đem những cái xấu bên ngoài vào nhà, làm loạn trong nhà thành tâm điên đảo, cuồng loạn rất nguy hiểm, nhưng ít ai biết. Vì vậy, chúng ta cần phải sáng suốt để ngăn ngừa.

Trong kinh Pháp Cú, Phật dạy:

Chúng ngu si thiếu trí,
Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí không phóng dật,
Như giữ tài sản quý.

Phật dạy người ngu si thiếu trí tuệ, thường quen sống phóng dật buông lung. Người có trí thì không phóng dật, như người lo giữ tài sản của mình, đó là người khéo biết tu.
Như vậy, người si mê, sống đời phóng dật để tâm trộm hoành hành làm tiêu hao tài sản quý. Tài sản quý là tài sản về pháp. Nên người có trí phải biết giữ gìn, ngăn ngừa tâm trộm để chuyển hóa trở về tâm lành mạnh, tốt đẹp, tinh tiến tu tập theo chánh pháp. Đó là người có trí tuệ khéo biết giữ gìn, chăm sóc tâm.

Một Thiền sư Thái Lan chỉ dạy trong chúng: “Tâm vốn an tịnh, tĩnh lặng, khi tâm ra khỏi sự an tịnh, tĩnh lặng thì bất an rối loạn sẽ nhảy vào. Khi nhìn thấy được bất an, rối loạn này thì an tịnh, tĩnh lặng sẽ trở về”.

Tâm vốn an tịnh, tĩnh lặng. Người nào không giữ được tâm tĩnh lặng, để tâm rời khỏi sự an tịnh thì bất an sẽ nhảy vào làm rối loạn. Người khéo tu là biết nhìn lại, thấy được bất an rối loạn này, thì sự an tịnh tĩnh lặng sẽ trở về. Ngược lại thì sẽ theo sự bất an đi mãi, dẫn chúng ta đi ra ngoài tiêu xài hoang phí làm hao mất của báu trong nhà, là những gia tài công đức, thiện nghiệp của mình đã tạo.

Ngài nói thêm: “Phật giáo là đạo của tâm, người nào đào luyện tâm người đó thực hành Phật giáo”. Đạo Phật là đạo của tâm, nếu người biết lo đào luyện tâm, giữ gìn tâm đó là đang thực hành Phật giáo.

Mỗi người tự nắm yếu chỉ này thì không sợ lạc, tâm mình không lo giữ mà lo chạy lung tung, cầu cạnh thế này thế kia thì có khi chúng ta ở trong Phật giáo mà chưa thực hành Phật giáo. Thí dụ tâm mình không giữ gìn cho tốt, ngăn ngừa những phiền não sân si, nghe ở núi nào linh, liền chạy tới cầu Phật ban cho con phước lành, an vui hạnh phúc, đó là bỏ gốc theo ngọn.

Vì vậy, tất cả phải khéo luôn chăm sóc, giữ gìn tâm trộm của mình cho kỹ, phòng ngừa để nó không buông lung phóng dật, đó là đang thực hành Phật giáo. Được vậy mới xứng đáng là đệ tử Phật, bảo đảm phiền não sẽ tiêu dần, an lạc chân thật sẽ đến, gọi là không cầu mà được. Còn cái kia nhiều khi cầu cũng không được. Chúng ta thấy một bên có cầu cũng không bảo đảm được, còn cái không cầu mà vẫn được, vậy tại sao không làm? Mỗi người nên tự suy nghĩ sáng suốt: Cái đáng làm mà không làm, còn cái không đáng làm lại cố làm, đó là đi sai đường.

Canh chừng tâm trộm của mình, trong nhà thiền gọi là chăn trâu. Chăn trâu tâm của mình không cho trộm lúa mạ người khác, thì đâu có bị người khác đuổi đánh. Thí dụ lúa mạ của người ta mà mình để trâu đi vào ăn, khi người bắt được thì bị đuổi đánh. Chúng ta cứ việc canh giữ trâu tâm của mình, khi nó muốn leo vào ruộng người phải kéo lại liền. Người mà tu hay, khi thấy nó vừa liếc mắt là phải kéo lại. Đi ngang đám lúa mà nó liếc mắt là phải kéo lại liền vì nó muốn tới chỗ sáu trần lúa mạ đó, đừng để nó bước xuống, vậy mới là tu hay, là không khổ, là không tổn hại gia tài pháp bảo của mình.

Chúng ta học Phật biết rõ đường đi rồi, phải ráng giữ gìn canh chừng con trâu tâm của mình, gọi là chăm sóc tâm. Mỗi người có tâm báu mà không lo chăm sóc, để nó buông lung chạy theo những cái không đáng để tạo thành khổ đau, tự mình làm khổ mình. Chính mình làm khổ mình, thì chính mình chuyển hóa cho mình được an vui, chứ không ai xen vào được. Và đó mới là an vui chân thật. An vui của người khác đem lại không phải là an vui chân thật.

Thí dụ chúng ta cầu ai đó ban cho mình an vui, an vui đó cũng tạm bợ không phải thật. Vì người ta ban cho mình được thì người ta lấy lại được. Còn ngay nơi mình tạo an vui không cần ai cho, đó là cái thật sự của mình thì không ai lấy lại được. Vậy tại sao mỗi người còn không chịu làm?

Việc làm này đâu khó khăn gì! Nó ngay nơi mình. Thường khó khăn là khi nó ngoài tầm tay của mình. Còn cái trong tầm tay, mình có quyền làm chủ giữ gìn thì làm sao khó được. Như vậy, tâm mình ở ngay nơi mình, trong tầm tay mình thì không khó, khó là do người chưa đủ lòng tin, nên chạy theo cầu bên ngoài mới là khó.

Học Phật hiểu rồi thì mỗi người có đầy đủ niềm tin để chuyển hóa trở lại. Việc làm này bảo đảm ngay trong tầm tay của mỗi người, có thể chuyển hóa được. Chuyện này là chuyện ai làm cũng được chứ không phải không làm được. Nếu không làm được thì Phật không ra đời, Phật ra đời cốt yếu là chỉ dạy cho chúng ta thực hành. Phật biết chúng sanh làm được nên Ngài ra đời thuyết pháp chỉ dạy nhắc nhở cho mọi người tu. Nếu Ngài biết chúng sanh làm không được thì nói pháp làm chi? Mỗi người tự thấy được lý do để đầy đủ niềm tin tiến tu.

III. THỰC TẬP CHUYỂN HÓA

Người học Phật cần khéo biết chuyển hóa mê lầm, thường soi xét lại nội tâm mình để thấy được những lỗi lầm, điên đảo và kịp thời chuyển hóa, ngăn ngừa. Còn nhìn ra ngoài thì không thấy. Thông thường người ta hay thích nhìn ra ngoài nhiều hơn nhìn lại mình. Phật dạy chúng sanh hay sống hướng ngoại, chính thói quen đó làm cho người ta thường sống mất mình. Thật đáng tiếc !

Nhờ học Phật chúng ta biết được cái hay cái quý, nhưng vẫn không chịu thực hành là sao? Vậy có đáng trách không? Lúc chưa biết thì không nói gì, bây giờ rõ rồi, biết chỗ cần làm mà không làm thì phải nói sao đây! Mỗi người cần tự mình ghi nhớ rồi chuyển hóa trở lại, không để làm mờ tâm tánh sáng suốt của mình. Những tội lỗi, ác nghiệp từ nơi tâm tạo thành, tâm là nhân, là gốc, chủ động tạo nghiệp. Chúng ta không kiểm soát ngay từ cội gốc nên mãi tạo thành những nghiệp khổ đau cho mình, cho người.

Lúc chưa học đạo còn mê không biết thì thôi, cũng còn tạm tha thứ. Bây giờ học đạo biết đó là những điều mê lầm, tội lỗi thì phải sáng suốt nhận biết trở lại, quyết tâm chuyển hóa nó, tập làm chủ trở lại. Khi nghĩ những điều xấu thì ngừng không nghĩ nữa, đó là làm chủ trở lại. Những điều xấu dở có khi mình cũng biết nhưng vẫn làm. Như những tên ăn trộm, đều biết trộm là điều quấy nhưng vẫn làm, đợi người ta không thấy liền hành động. Đó chính vì vô minh che mờ tâm nên không tự chủ được, sống nô lệ cho tâm trộm khiến bị nó dẫn đi.

Đa số chúng ta không tự làm chủ, mà thường sống trong nô lệ như thế. Như ai cũng biết sân là xấu, nhưng gặp chuyện cũng sân, đó không phải đang nô lệ cho nó sao? Người sống mà không tự làm chủ được, sống như vậy là mất ý nghĩa rồi.

Mỗi người phải tập làm chủ trở lại, để chuyển hóa tâm xấu, tâm trộm. Ai cũng có tâm Phật sáng suốt từ nguyên thủy, là của báu quý nhất trong thế gian không có gì sánh kịp. Nếu không chịu sống trở lại thì thật đáng tiếc, có một của báu vô giá như vậy cớ gì không chịu sống trở lại với nó, để biến thành những tâm trộm xấu xa tội lỗi để tự chuốc lấy phiền não, khổ đau? Đó là mình tự phụ bạc quá lắm!

Thiền sư Bàn Khuê dạy: “Điều mà tôi từng nói với quý vị là gì? Tôi chỉ nói duy nhất là tâm Phật bất sinh mà tất cả quý vị đều bẩm sinh có sẵn. Việc chính yếu là nhận ra tâm Phật này, lúc đầu không có cái gì xấu xa nơi quý vị, nhưng chỉ cần đổi một chút là thành tâm ma, biến tâm Phật thành những tư tưởng xấu. Lấy trường hợp một người trộm cướp, lúc đầu anh ta chỉ chôm chỉa vài thứ lặt vặt, rồi nghĩ rằng mình được những thứ này không cần tốn xu nào, chắc chắn không còn cách nào kiếm sống dễ dàng hơn thế. Từ đó trở đi anh ta trở thành một tên trộm cướp chuyên nghiệp, táo tợn, và điều không thể tránh khỏi là anh ta bị tóm cổ, xiềng xích, bỏ tù rồi đưa ra hành quyết. Nhưng khi gặp hình phạt anh ta lại quên tất cả những việc quấy của mình, chửi rủa những người xử tử mình là tàn nhẫn, vô nhân đạo, cho rằng việc làm của mình không đáng bị xử phạt nặng thế. Có phải là lầm lẫn ghê gớm không, cách mà người ta biến tâm Phật quý báu thành quỷ đói và quỷ chiến đấu, tất cả đều do một bước sẩy chân ban đầu”.

Điều muốn nói của Thiền sư Bàn Khuê với tất cả duy nhất chỉ một điều là: “Ai cũng có tâm Phật bất sinh”. Ban đầu tâm Phật đâu có xấu, nhưng lệch một chút thì chuyển qua tâm ma, quan trọng là chỗ đó. Ở trong tâm Phật sáng suốt nhưng không giữ được, nhích một chút là biến nó thành những tư tưởng nghĩ lung tung. Những cái nghĩ lung tung là từ tâm Phật chợt biến thành những tư tưởng, rồi dẫn mình đi xa, nhích một chút là vào chỗ nguy hiểm. Chúng ta nhớ kỹ, chủ yếu là từ bước sẩy chân ban đầu. Tên trộm ban đầu chỉ chôm chỉa một hai thứ lặt vặt nhỏ nhỏ không đáng kể, nhưng không biết cảnh tỉnh thì từ cái nhỏ đi tới cái lớn rồi bị bắt, ở tù, xử tử. Ngài nói nếu không khéo là biến tâm Phật quý báu thành quỷ đói, những cái xấu xa tất cả đều do bước sẩy chân ban đầu. Ngay bước sẩy chân ban đầu không khéo giữ để cho đi luôn, người ta thường mắc kẹt chỗ đó.

Người biết tu cần phải chăm sóc tâm thật kỹ, ngay từ đầu cố gắng giữ gìn tâm Phật sáng suốt, canh chừng tâm trộm lén lút ra ngoài, đừng để bị nguy hại. Nhiều khi chỉ cần một niệm sai lầm không làm chủ được là nó dẫn đi xa, rất phải cẩn thận ngay từng tâm niệm. Người tu Phật là để chuyển hóa, sửa đổi, đó là khả năng sẵn có nơi mỗi người không phải cầu ai đem cho mình. Ai ai cũng có Phật tánh sáng suốt, hay là tâm Phật bất sinh, chính đó là điểm quan trọng. Chính vì có tâm Phật sáng suốt nên mới có bậc Hiền, bậc Thánh, có chúng sanh thành Phật. Nhờ có nó mà các Ngài giác ngộ, chuyển chúng sanh thành Phật. Nếu không có thì tất cả làm chúng sanh mãi mãi, không có nó thì tu thế nào cũng không chuyển được. Đó là một ân huệ lớn, là niềm tin để mọi người tu tập chuyển hóa.

Bởi vì sao có giác ngộ? Vì có mê nên có giác, giác là giác cái mê, chúng ta không mê thì giác cái gì? Mà tâm mới biết giác, cái đầu đâu có biết giác; mắt, tai, mũi, lưỡi cũng không biết giác. Nhiều khi nói theo thế gian cái đầu biết giác, biết nghĩ lung tung, nhưng sự thật cái đầu cũng không biết nghĩ nữa. Khi tắt thở, đầu vẫn còn mà đâu biết nghĩ, tâm mới biết nghĩ cái này cái kia, chính nó mới là gốc. Mà ai cũng có tâm, tức là khả năng giác ngộ nơi mọi người đều có đủ. Từ nơi tâm mình soi trở lại, chuyển hóa rồi vươn lên, đó là con đường của bậc Hiền Thánh đã đi, đang đi và sẽ đi.

Chúng ta muốn tiến lên thì cũng phải đi con đường này, soi trở lại tự tâm của mình để sáng lên. Còn những phương tiện này phương tiện khác, đó là những phương tiện sai biệt, điểm gốc là ở chỗ tâm này.

Nhiều người đọc kinh Phật nghe nói mê giác, phiền não, Bồ-đề, giải thoát, Niết-bàn tưởng ở chỗ xa xôi; hoặc nghĩ giải thoát là đi đâu đó, Niết-bàn là cảnh giới nào để đến, đó là những suy nghĩ lầm tưởng. Giải thoát là tâm giải thoát, không phải giải thoát cái gì khác, tâm sạch hết những phiền não mê lầm không còn những mầm móng trói buộc, đó chính là giải thoát. Niết-bàn cũng là tâm Niết-bàn, Niết-bàn không có cõi, đừng nghĩ có cõi Niết-bàn nào để đến, ngoài tâm còn có cõi nào để đến thì không phải là Niết-bàn chân thật.

Chúng ta học Phật nhiều khi lầm theo chữ nghĩa, nghe nói cảnh giới Niết-bàn, hay cõi Niết-bàn là chỗ an vui tốt đẹp, rồi muốn về cõi đó, là bị ngôn ngữ gạt. Niết-bàn là vô sanh, không còn sanh tử. Nếu có sanh thì có tử, có sanh tử thì không phải Niết-bàn.

Như vậy, tâm mình phiền não rồi tâm mình giải thoát phiền não, tâm mình sanh tử cũng tâm mình Niết-bàn chứ không đâu khác. Tìm ngay trong tâm mình có đủ hết, ngay trong tầm tay mỗi người, chỉ cần đủ lòng tin tiến tu.

Chúng ta tuy chưa thể ngay đây một lần tiến thẳng được, nhưng biết rồi phải từng bước đi cho đúng đường, từng bước đi lên, bảo đảm đi lên không sợ lạc. Như trong nhà thiền có bài kệ:

Hôm qua mặt Dạ-xoa,
Sáng nay tâm Bồ-tát.
Bồ-tát và Dạ-xoa,
Không cách một đường tơ.

Bồ-tát và Dạ-xoa ngay tâm mỗi người. Hôm qua là Dạ-xoa, hôm nay chuyển tâm thành Bồ -tát, con đường đi rất sáng sủa rõ ràng.

IV. TÓM KẾT

Ai cũng đều có tâm, sống chung với tâm nhưng lại thường bỏ quên không ngó ngàng đến. Có mà bỏ quên không chăm sóc để nó thành tâm bệnh, mê lầm điên đảo, che mờ tâm tánh sáng suốt, ốm yếu tàn tật đau thương. Có khi thành tâm nổi loạn, tâm ngông cuồng, sống trong khổ não, do không biết chăm sóc giữ gìn nó. Đó là đánh mất gốc của sự sống, là sống mất gốc. Bây giờ biết có gốc phải sống trở về, đừng để sống mất gốc nữa.

Người học đạo rồi cần phải khéo chuyển lại, biết chăm sóc tâm cho kỹ, chuyển hóa thành tâm lành mạnh, sáng suốt, thuần thục giống như con trâu ngoan. Lâu nay nó là trâu hoang phải sống trở lại thành trâu ngoan.

Trong nhà thiền, có câu chuyện ông Quách Công Phụ thường tham thiền với Thiền sư Bạch Vân – Thủ Đoan. Một hôm Sư bảo ông: “Trâu của ông đã thuần chưa?”. Ông thưa: “Đã thuần rồi”. Sư liền quát mắng lớn tiếng, ông khoanh tay đứng. Sư bảo: “Thuần rồi, thuần rồi! Nam Tuyền, Đại Quy cũng không có khác việc này.” Sư bèn tặng ông bài kệ:

Trâu đến trong núi,
Đủ nước đủ cỏ.
Trâu ra khỏi núi,
Húc đông húc tây.

– Đúng là trâu ngoan! Trâu ngoan!

Ngoan là vậy đó. Còn nếu ngay đó mà ông đỏ mặt lên thì trâu hết ngoan.

Ngay bây giờ tất cả hãy khéo tu tập để đầy đủ sức sống chân thật, thành trâu ngoan tăng trưởng công đức. Bảo đảm an vui, hạnh phúc chân thật sẽ đến, không cầu mà đến. Đó là khéo biết sống và sống có trí tuệ, cũng gọi là người biết sống thương mình. Không phải người biết thương mình là lo thu góp tạo nhà cửa, sự nghiệp để được sang cả, cái đó chưa hẳn là biết thương mình. Nhiều khi thành tạo nghiệp chịu khổ không hay. Đó là tự hại mình!

Mong rằng từ đây tất cả đều tỉnh ngộ, biết chăm sóc tâm của mình cho kỹ, để mỗi ngày luôn được mới mẻ tinh khôi, đừng để tâm của mình hư cũ đáng bỏ. Mong tất cả luôn cố gắng.

Ở Đâu Có Ta Là Ở Đó Có Đau Khổ

I. TA LÀ GỐC MỌI TẠO TÁC TRÊN THẾ GIAN

Xét cùng tột thì tất cả con người sống ở thế gian là sống vì cái gì? Có người nói sống vì cha mẹ, sống vì con cái, sống vì sự nghiệp, sống vì xã hội, đất nước v.v…, mọi cái đều có vì v.v… hết. Nhưng nếu xét cho kỹ thì đều vì cái Ta, tức là từ cái Ta này mà nhân ra tất cả, nếu ngoài cái Ta thì còn cái gì, quý vị kiểm thử xem.

Ngay khi mới ra đời là chúng ta đã mang nó theo rồi, và trong suốt cuộc đời không lúc nào vắng mặt. Có ta mới có thương yêu, có ghét bỏ, có hơn có thua, có được có mất, người nào thuận với ta thì ta thương, còn không thuận thì ghét. Nếu không có ta thì lấy ai để mà hơn thua, lấy ai để được mất? Tất cả mọi sự sống ở trên đời này từ khổ đau cho đến hạnh phúc của thế gian cũng đều từ cái ta mà ra. Ai đau khổ? Chính ta đau khổ. Ai hạnh phúc? Cũng ta hạnh phúc, đâu có ngoài cái ta này.

Quý vị sinh hoạt, làm việc thì cũng ta làm, rồi nghỉ cũng ta nghỉ, ta ăn, ta mặc, và vui buồn, giận ghét gì cũng từ cái ta đó hết. Cho đến ngủ cũng là ta ngủ, thức cũng là ta thức, thấy nghe cũng là ta thấy nghe. Như vậy cái ta này nó theo mình suốt đời, không những đời này mà còn mãi về sau nữa, cho đến chứng A-la-hán mới hết, còn chưa chứng A-la-hán là nó vẫn còn theo hoài. Tức là chứng A-la-hán mới hết sanh tử, hết sanh tử mới hết cái ta, còn ta là còn đi trong sanh tử.

Quý vị thấy sợ chưa! Nó theo sát mình hoài như vậy. Nếu xét ngược trở lại từ ban đầu khi chúng ta có một niệm bất giác đi vào trong cuộc luân hồi sanh tử, là có mặt cái ta này không hề thiếu vắng. Cho nên tìm khắp nơi cõi ta-bà này không có chỗ nào là không có nó, làm điên đảo tất cả chúng sanh là cũng vì cái ta. Nếu không có nó thì không có ta-bà, tất cả đều thành cõi Phật. Có bài thơ:

Ta ơi là ta,
Mi ở đâu ra,
Mà làm điên đảo,
Khắp cõi ta-bà.

Một mình nó mà làm điên đảo hết cõi ta-bà, nó nguy hiểm như vậy mà tất cả chúng sanh đều mê lầm theo rồi sống trong vòng vây của nó. Ai cũng đều lệ thuộc vào nó.

Trong kinh Viên Giác, Phật dạy: “Này thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, vọng tưởng chấp có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả. Nhận bốn thứ điên đảo làm ngã thể thật, do đây liền sanh hai cảnh yêu, ghét. Hai vọng nương nhau mà sanh ra vọng nghiệp đạo, vì có vọng nghiệp nên vọng thấy lưu chuyển, còn người chán sự lưu chuyển lại vọng thấy niết-bàn. Do đây chẳng thể vào được tánh giác thanh tịnh, chẳng phải tánh giác chống cản không cho mọi người vào”.

Trong kinh Viên Giác, Phật bảo là tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, vọng tưởng chấp có ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả…, nói cho gọn là chấp ngã, chấp có cái ta này nên mới có mình có người, từ đó nhận bốn thứ điên đảo làm ngã thể thật của mình mới sanh ra có yêu có ghét hơn thua. Do có yêu có ghét mới tạo nghiệp, mà tạo nghiệp cũng là vọng nghiệp từ đó mới có vọng lưu chuyển trong sanh tử, do có lưu chuyển nên mới cầu Niết-bàn, thành ra một vòng lẩn quẩn trong hư vọng!

Do đó chúng ta không thể vào được tánh giác thanh tịnh của mình, chứ không phải tánh giác ngăn cản không cho mình vào. Hiểu kỹ như vậy thì mới thấy từ cái chấp ta, chấp ngã mê lầm điên đảo mà dẫn mình đi trong luân hồi sanh tử, chịu biết bao khổ đau. Thành ra tất cả con người chúng ta sống trong thế gian này hoặc khổ, hoặc vui đều nằm trong cái ta hết, tức là do chấp cái ta mà có ra.

Thiền sư Bạch Ẩn cũng dạy: “Đâu là cội gốc sanh tử? Đó là thời khắc vô minh xâm chiếm tâm ta qua vô lượng kiếp. Nó tiến hóa qua các tầng trời và địa ngục, qua cõi ngũ trược ác thế và tịnh độ. Sở dĩ có ba nẻo dữ và sáu đường là vì động lực của cội gốc sanh tử“. Tức là từ vô minh dẫn chúng ta đi trong sanh tử luân hồi, rồi qua các tầng trời, địa ngục, các cõi ngạ quỷ, súc sanh v.v… cũng từ đó mà đưa đi.

“Tuy như thế, nó chỉ là mộng huyễn, là vọng tưởng điên đảo chứ không có thật. Nhưng nó lại khóa cứng đại sự kiến tánh hữu hiệu hơn cả đội ngũ trăm ngàn quân ma, đôi khi nó được gọi là vọng tưởng, là cội gốc sanh tử. Có khi lại mang tên là phiền não, hoặc là ma chướng, nó chỉ là một nhưng mang nhiều thứ tên. Nhưng khi xem xét kỹ thì ông sẽ thấy chung quy đó chỉ là một ý niệm cho rằng “cái ta là thật”. Vì kiến chấp này mà có cái ngã, rồi có sanh và tử, có Niết-bàn, có phiền não, giác ngộ. Đó là lý do trong kinh nói: “Tâm sanh các pháp sanh, tâm diệt các pháp diệt”.”

Đây Thiền sư Bạch Ẩn cũng nói rõ, sở dĩ có sanh tử, luân hồi, lẩn quẩn đi đây đi kia là do nhiều nhân duyên, nói có nhiều thứ tên. Nhưng chung quy là do ý niệm chấp ngã mà ra, tức cho rằng “cái ta này là thật”, từ đó mà có ra mọi thứ. Do chấp có cái ta này thật, là cội gốc của tất cả sanh tử luân hồi, cũng như phiền não hay là an vui hạnh phúc, cho đến giải thoát Niết-bàn cũng từ đó. Nếu người chưa thật chứng đến chỗ vô sanh, hay là chưa thật chứng quả A-la-hán thì chạy đi đâu cũng không khỏi, nó bao vây kín hết. Nhưng chúng ta được duyên lành học Phật là đã có hé được lối ra, thấy chỗ sáng, đó là nhờ Phật chỉ dạy, là duyên lành hi hữu cần phải biết trân trọng.

II. TA LÀ GÌ?

Chúng ta phải nắm vững điều này để biết cách chuyển hóa khổ đau. Cái ta là gì mà nó làm điên đảo cả thế gian? Tìm trở lại xem cái ta gây rối lớn lao như vậy, rốt ráo là gì? Song, nếu có là gì thì chẳng phải là ta thật, mà nó là cái ta thứ hai, thứ ba rồi; còn nếu chính là ta rồi sao còn là gì nữa? Nhưng ngày nay đa số chúng ta sống thì thích có ta là gì, nếu ta không là gì thì không chịu. Hoặc ta là bác sĩ, ta là kỹ sư, ta là ông thầy, ta là cô giáo, ta là cha, ta là mẹ, phải có ta là gì mới được. Nhưng nếu có ta là gì thì không phải thật, có là gì là có khổ đau, nên hiểu kỹ điều đó!

Chính đây đã nói lên sự mê lầm lâu nay của chúng ta, do mê lầm không thấy được lẽ thật nên mới chấp thành ra điên đảo. Nói ta nhưng lại không biết sự thật nó là cái gì, chỉ ra không được rõ. Quý vị kiểm lại xem, cái mà mọi người nhận là ta thì nó là gì? Nó chỉ là cái ta khái niệm, cái ta quy ước thôi chứ nó không có thật, bảo chỉ ra thì chỉ không được. Thí dụ quý vị chỉ thân tứ đại này là ta, được không? Ở đây đa số ai cũng nói thân này là mình, nhưng mà thật là mình không? Nó do bốn đại hòa hợp, tức là đất nước gió lửa hòa hợp thành, nếu nhìn theo hình tướng thô thì nó là da thịt, gân xương, máu huyết trong đó hợp thành, thì cái gì là mình trong đó? Quý vị kiểm xem mình là da, là thịt, hay là gân xương, không có gì chỉ ra được hết. Cái thân này nếu xét thêm thì nó gồm có tướng đang thấy, hoặc nam, hoặc nữ, hoặc cao, hoặc thấp, hoặc trắng, hoặc đen v.v… đó là tướng bên ngoài và còn máu mủ, ruột gan v.v… thân thể bên trong.

Tức là có tướng bên ngoài, rồi có thân thể bên trong nữa, xét tìm cả hai không thấy cái nào là ta thật hết. Mình là những cái ruột gan, tim phổi lòng thòng trong đó hay sao? Cho nên Phật dạy cần phải quán kỹ thân trong thân là để cho mình thấy rõ lẽ thật của nó, để không bị tướng bên ngoài lừa. Tướng bên ngoài này gọi là tướng ngụy trang chứ không phải thật, nó còn có tướng bên trong nữa. Hơn nữa quý vị kiểm lại coi, khi mình mới thọ thai, thì cái ta mấy chục ký lô này nó chưa có, bây giờ nó mới có, vậy thì nó từ đâu mà có? Cho nên thân này là cái nó mới mượn ráp lại sau này, chứ nếu thật có là phải có từ đầu.

Rồi trong khoảng giữa đang có đây cũng luôn luôn biến đổi, không đứng dừng một chỗ. Chúng ta đang ngồi đây thì nó có dừng chỗ này không, hay nó đang làm gì? Mấy người trẻ thì nó đang chuyển biến để thành già, còn già thì nó cũng đang chuyển biến để thành thây ma ra ngoài nghĩa địa, con đường nó đi là như vậy. Vậy thì cái gì là ta trong đó? Cho nên rốt ráo bản chất của nó là vật phải vứt bỏ đi ra ngoài nghĩa địa. Như vậy nếu chấp nó là ta, thì thành ra ta là vật phải bị vứt bỏ đi hay sao, đó là cái lầm của tất cả con người chúng ta.

Rồi chấp tâm này là ta, thì tâm hiện giờ của mình cũng luôn luôn biến đổi, không đứng dừng một chỗ. Khi suy nghĩ điều này, khi suy nghĩ việc khác, lúc buồn, lúc vui thay đổi luôn. Một ngày chúng ta suy nghĩ chừng bao nhiêu việc? Có thể là hàng ngàn thứ, vậy thì cái nào là mình? Nếu lúc vui là mình thì lúc buồn là ai? Vậy mình bao nhiêu thứ. Mình vui, mình buồn, mình giận, mình ghét đủ thứ mình trong đó hết. Cái này giống như tuồng cải lương, lúc lên đóng tuồng này lúc lên đóng tuồng kia, nếu gỡ hết mặt nạ đó ra thì còn cái gì? Tìm không ra cái mình thật. Hiểu kỹ như vậy thì mới thấy, đó là điều lầm lẫn của chúng ta lâu nay mà không hay biết.

Đức Phật từng dạy: “Các Tỳ-kheo, hãy quán cho kỹ cái sắc này không phải là ta, không phải của ta, thọ tưởng hành thức cũng vậy. Cho đến mắt, tai, mũi, lưỡi, sắc, thanh, hương, vị, xúc cũng không phải ta, không phải của ta. Cho đến nhãn, thức, giới cũng vậy.” Tức là những cái từ thân tướng cho tới thọ, tưởng, hành, thức là phần tâm của mình; rồi mắt, tai, mũi, lưỡi cũng không phải là mình. Cũng vậy, sắc, thanh, hương, vị bên ngoài, tìm kỹ không có cái gì thật là của mình hết, nó chỉ là một nhóm nhân duyên hòa hợp tạm thời hiện có thôi. Nói theo danh từ bây giờ thì thân mình đây là một tổ hợp, theo nhà Phật gọi là tổ hợp năm uẩn, còn nếu nhìn theo chiều khoa học thì đó là tổ hợp các tế bào chung lại. Trong là da thịt, gân xương, tim phổi, một tổ hợp tạm gọi là thân của mình. Nếu trong tổ hợp đó mà chia ra thì hết còn là thân của mình. Nhưng do vì mê lầm, không rõ biết con người này là tổ hợp đang tạm mượn, tạm sống với nó trong khi nó còn đang kết hợp với nhau, khi tổ hợp đó nó hết ký hợp đồng nữa thì đưa ra ngoài nghĩa địa. Tùy theo hợp đồng đã ký của mỗi người hoặc ngắn hạn, hoặc dài hạn, người thì ký hợp đồng 10 năm, 20 năm, 60 – 70 năm, hoặc 80 – 90 năm. Hết hợp đồng thì thân này tan rã. Chúng ta phải thấy được lẽ thật này để cuối cùng mới thấy cái mà mình cho là mình, chấp là mình thì nó không có thật, chỉ do mê mà lầm chấp, vọng chấp vậy thôi.

Có một bà lão lớn tuổi đi đến Thiền viện của một Thiền sư Thái Lan, thưa: “Bạch thầy! Con già lớn tuổi rồi mà cũng ở rất xa, đến đây không có thời gian ở lâu được. Xin thầy thuyết cho con một thời pháp ngắn, gọn để con ứng dụng sống cho tuổi già gần ngày đi này”. Thiền sư nói: “Này bà lão, bà hãy nghe kỹ! Trong đây không có ai cả, không có ai già, không có ai trẻ, không có ai sanh, không có ai tử, không có ai tới ai lui gì hết, nó chỉ là vậy thôi”. Thiền sư đã chỉ lẽ thật là không có cái ta thật, nếu bà về cố gắng thường quán chiếu hiểu rõ như vậy, thì bảo đảm bà sẽ sống an vui, ngày bà ra đi được nhẹ nhàng.

Ngài nói trong đây không có ai hết, không ai già, không ai trẻ, cũng không ai tới, không ai lui, không ai sanh, không ai tử gì hết, nó chỉ là tổ hợp thôi chứ gì! Nếu khi gần ra đi mà quý vị nhớ kỹ như vậy thì bảo đảm ra đi nhẹ nhàng, nhớ lại trong đây không có ai đi hết, chỉ là tổ hợp này rã thôi. Nhờ vậy chúng ta không bám chấp vào nó, buông nó rồi đi nhẹ, tức là chết nhẹ nhàng. Còn chúng ta nghĩ nó là mình, là tôi khi lỡ bỏ nó đi thì tiếc không dám bỏ cứ nắm hoài, mà nắm hoài thì khó chết. Ngài dạy đơn giản nhưng chí lý. Cho nên chúng ta học Phật thì cũng phải khéo biết, nắm vững ý nghĩa chân thật đó để ứng dụng.

III. GIẢI TRỪ BẢN NGÃ – CON ĐƯỜNG CHÂN HẠNH PHÚC

Biết rõ đó là chỗ mê lầm điên đảo, muốn được hạnh phúc chân thật thì phải giải trừ mê lầm này. Đó là gốc của an vui của hạnh phúc, trái lại mê nó là gốc của khổ đau. Có ông tăng Pháp Đạt tụng kinh Pháp Hoa 3000 bộ, nghe tiếng Lục Tổ nên đến thưa hỏi. Nhưng khi lễ Lục Tổ mà lễ dối, đầu không sát đất, tức là chưa tin lắm. Lục Tổ mới quở: “Lễ vốn bẻ cờ mạn, sao đầu không sát đất, có ta tội liền sanh, không ta phước vô kể”.

Bởi ông tăng Pháp Đạt nghĩ là ông tụng kinh Pháp Hoa tới 3000 bộ là công đức rất lớn, Lục Tổ chưa chắc bằng mình nên lễ mà chưa có nể lắm. Quý vị nghĩ tụng Pháp Hoa mà 3000 bộ thì tụng chừng bao lâu, chừng bao nhiêu năm? Nhưng Lục Tổ biết, Ngài nói, nếu ông tụng kinh mà còn chấp vào kinh, thì đó không có phước nhiều. “Có ta thì tội liền sanh, còn không ta thì phước vô kể.” Tức là làm mà quên cái ta thì mới có phước lớn, còn làm mà chấp vào cái ta thì phước sẽ bị tổn bớt. Đây cũng là kinh nghiệm để chúng ta học, mình làm việc tốt, việc lành, tụng kinh là có phước nhưng nếu chấp vào đó, tức là “sanh cái ta” thì sẽ tổn bớt phước. Thấy mình tụng kinh nhiều, có công đức lớn rồi chấp vào đó khinh người khác thì sẽ tổn phước, nên nói “ở đâu có ta là ở đó có đau khổ” là vậy.

Cuộc sống hằng ngày của chúng ta cũng vậy, nhớ hễ ở đâu có sanh cái ta là có đau khổ theo đó. Đi chùa mà sanh cái ta đi chùa cũng có khổ, chứ không phải là không có khổ. Thí dụ như người đi chùa nhiều nên thấy mình là người lâu năm còn người kia mới đi chùa, do có phân chia thì sẽ có khổ theo đó. Nếu lỡ để người đi chùa lâu năm đứng sau người mới đi chùa thì các vị buồn liền, thì có khổ theo ngay. Rồi đi nghe pháp mà sanh cái ta đi nghe pháp, thì ai ngăn không cho đi cũng khổ, hoặc là sanh cái tôi đi nghe pháp, muốn vào nghe pháp mà giảng đường hết chỗ ngồi, vừa tìm được chỗ, mới ngồi xuống thì có ai tới giành nên cũng khổ nữa. Cho nên hễ ở đâu có ta là ở đó có khổ.

Đi làm từ thiện cũng vậy. Làm từ thiện bố thí là tốt rồi, mà nếu có sanh cái ta thì khổ. Làm từ thiện là mình có lòng tốt, đem của cải đến chia sẻ cho người, nhưng cho người rồi ít hôm gặp lại mà người đó ngó lơ không chào hỏi, không biết ơn gì hết, thì cũng khổ nữa. Hiểu như vậy thì mới thấy cái ta nó rất nguy hiểm, hễ ở đâu có sanh cái ta là ở đó có khổ theo. Ngoài đời có cái ta là kỹ sư, là bác sĩ gì đó thì có những cái khổ theo đó, cho nên chúng ta phải cẩn thận.

Xưa có vị lãnh chúa tu học đạo nhưng tập khí thế gian còn nhiều, ông rất yêu thích hoa cúc. Vì vậy trong vườn của ông trồng toàn là hoa cúc, và ông để rất nhiều thời gian để chăm sóc, ông đối với hoa cúc còn thân hơn cả thê thiếp của mình. Nhiều người giúp việc trong nhà khi lỡ làm gãy một bông hoa là bị phạt nặng, và cứ bị phạt hoài. Một hôm, có một gia nhân rủi làm gãy một hoa cúc, ông giận quá tống giam anh chàng này. Anh này phẫn uất quá, định mổ bụng theo truyền thống của võ sĩ đạo. Bên Nhật có truyền thống võ sĩ đạo không chịu nhục thà là mổ bụng chết, anh này cũng vậy định mổ bụng chết chứ không chịu nhục như thế.

Khi ấy, Thiền sư Tiên Nhai tình cờ nghe được mới gọi anh đến can ngăn, và Sư tìm cách ngăn trừ tận gốc, để từ đây về sau không còn người khác bị trường hợp như vậy nữa.

Bấy giờ, hoa cúc trong vườn lãnh chúa đang nở rộ, Thiền sư lén vào trong vườn lãnh chúa, dùng liềm cắt trụi hết hoa cúc không để một bông nào. Vị lãnh chúa trong nhà nghe tiếng động, ông cầm kiếm chạy ra vườn, gặp ngay Thiền sư Tiên Nhai, hỏi sao Sư làm như vậy? Thiền sư bình tĩnh đáp: “Ngay cả một mớ cỏ dại này cuối cùng cũng trở thành giai cấp, nếu như nó không bị cắt đứt đi, nên tôi cắt đứt nó”. Tức là Sư nói hoa cúc giống như mớ cỏ dại, nhưng cỏ dại này nếu không bị cắt đi thì nó cũng trở thành giai cấp. Hễ ai đụng đến nó là bị phạt, hoa cúc cũng là một cây cỏ chứ có gì đâu, mà lại trở thành giai cấp như thế!

Nghe Sư nói, vị lãnh chúa thức tỉnh, ông nhận ra lỗi lầm của mình nên từ đó không còn trồng hoa cúc nữa. Đó là bài học cho chúng ta cần học. Để thấy, dù trồng cúc mà sanh cái ta vào đó thì có khổ đi theo, đụng tới hoa cúc là đụng tới ta. Người ta đụng tới hoa cúc thôi chứ không có dính dáng gì đến mình, nhưng mình thấy khổ. Quý vị thấy ở trong nhà nhiều khi mình trồng hoa, hay trồng cây kiểng để trang điểm cho nhà cửa đẹp đẽ thì tốt, nhưng mà sanh cái ta vào thì mang theo những khổ đau trong đó. Ai đi qua đụng vào là không chịu, đôi khi con cái trong nhà lỡ làm đổ thì khổ, nhiều khi còn la mắng, thành ra quý hoa hơn cả con người.

Câu chuyện này là bài học cho chúng ta học và biết khi làm việc gì mà bớt sanh cái ta vào trong đó thì sẽ bớt khổ. Ở đây tất cả chúng ta còn phàm phu hết, thì ai cũng còn cái ngã, cái ta, nhưng có học đạo thì biết giảm bớt giúp mình bớt khổ, còn không giảm bớt thì khổ y nguyên. Đó là tinh thần của người học đạo, cần phải hiểu kỹ để biết cách ứng dụng cho cuộc sống bớt vướng mắc, sẽ bớt khổ còn tạo không khí an vui, hài hòa.

Có những chuyện xảy ra thấy không đáng gì, nhưng do mê lầm của con người mà gây thành đau khổ cho mình, cho người. Thí dụ quý vị sắm chiếc xe mới mà ai đi ngang đụng vào là thấy khổ liền, vì sanh cái ta trong đó, rõ ràng như vậy.

Như câu chuyện quý thầy hay nhắc là, hai gia đình họ Trương, họ Lý. Gia đình họ Lý sống hài hòa vui vẻ, còn gia đình họ Trương cứ lục đục gây nhau. Nên ông họ Trương mới sang hỏi thăm gia đình họ Lý sao cả nhà vui vẻ thấy thích, có bí quyết gì anh chỉ cho tôi. Họ Lý đáp: “Gia đình của tôi được như thế này bởi vì ai cũng là người xấu hết, còn gia đình của anh chắc ai cũng là người tốt nên mới như vậy”. Anh họ Trương ngạc nhiên nói: “Người tốt tại sao lục đục hoài, còn gia đình anh người xấu tại sao thấy sống an vui quá?”. Anh họ Lý giải thích: “Thí dụ gia đình của tôi có ai đó lỡ để cái ly, cái tách ở gần mé bàn, có người khác đi ngang qua lỡ vô ý làm rớt bể, thì người làm bể liền xin lỗi. Người để cái ly đó cũng liền nhận lỗi vì sơ ý để cái ly gần mé bàn”. Vậy là xong, ai cũng vui vẻ, ai cũng thấp mình quên bớt cái ngã nên vui vẻ hết. “Còn gia đình anh nếu như vậy chắc liền la lối đổ thừa rồi cãi với nhau thành ra bất hòa, liền sanh buồn khổ”. Do vì ai cũng đều chấp mình đúng, không chịu nhường nhau thành lục đục hoài chứ có gì đâu, thấy cái ta này là quan trọng thành ra bất hòa thôi. Còn gia đình của tôi ai cũng chịu mình là xấu hết, chính xấu đó mà thành tốt. Đây cũng là kinh nghiệm để chúng ta học trong cuộc sống. Sống trong gia đình chúng ta cứ nhận cái tốt về mình thì cái xấu để cho ai, như vậy làm sao sống vui được. Còn đây, mình sẵn sàng nhận cái xấu để cái tốt cho người thì sẽ vui, đó cũng là nguyên nhân để chúng ta giảm bớt chấp ngã, giảm cái ta thì sẽ bớt khổ, sống hài hòa an vui với nhau. Đó là yếu chỉ để chúng ta sống được an vui hạnh phúc.

Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn nói rằng: “Khi ai đi biển gặp gió dữ thổi thuyền bè trôi dạt vào nước quỷ La-sát, khi ấy niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thì sẽ được qua khỏi”. Tướng công Vu Địch dẫn lời này đến hỏi Thiền sư Đạo Thông: “Thế nào là gió dữ thổi thuyền bè trôi dạt vào nước quỷ La-sát?”.

Thiền sư Đạo Thông đáp: “Gã Vu Địch này! Ông hỏi chuyện đó làm gì?”. Ông này nghe nói tự ái đỏ mặt lên, lộ sắc giận. Thiền sư Đạo Thông mới chỉ: “Chính đó là gió dữ thổi trôi dạt vào nước quỷ La-sát”. Ngay đó ông có tỉnh.

Sư nói “Gã Vu Địch này! Ông hỏi chuyện đó làm gì?” nên ông chạm tự ái. Tự ái vì chạm tới cái ta, ông mới lộ sắc giận. Sư liền nói: “Chính đó là gió dữ thổi vào nước quỷ La-sát”. Để thấy rằng do thấy có ta, có sanh cái ta nên đụng nó là nổi sân, nổi sân thì bị thổi vào nước quỷ La-sát, tức là chỗ nguy hiểm, chỗ đau khổ. Còn người giải trừ cái ngã, quên ngã đi thì sẽ nhẹ nhàng, mà nhẹ nhàng tức là vào nước Phật, là qua khỏi tai ách.

Nhưng chúng ta nhớ kỹ là, trừ cái lầm mê chấp, chứ không phải là thật có cái ngã để mình trừ. Đừng nghe nói phá chấp ngã là lo trừ cái ngã, mà trừ là trừ cái điên đảo, cái chấp đó, gọi là cái tình chấp mê lầm, chứ không phải lo kiếm cái ngã để trừ, hoặc là hủy hoại thân này coi như đó là trừ. Không phải như vậy. Cái thân này là tứ đại, nó là đất nước gió lửa, nó là da thịt, gân xương, nó đâu có lỗi lầm gì. Lỗi lầm là do anh chàng chấp ở trong này, chứ còn nó đâu có lỗi gì mà hủy nó, cho nên trừ là trừ cái tình chấp thôi.

Các bậc Thánh nhân cũng mang cái thân này đi làm Phật sự, nhưng các Ngài không lầm chấp nó, nên tự tại đâu có khổ. Còn chúng ta cũng mang nó rồi lầm chấp mới khổ, cho nên lỗi không phải nó mà lỗi ở anh chàng lầm chấp này, trừ là trừ cái tình chấp đó. Thấy được như vậy mới hiểu được ý nghĩa rồi cởi mở tiến tu thì sẽ bớt nặng nề, đó cũng là cách để chúng ta đặt bớt gánh nặng xuống, được nhẹ nhàng, là bớt khổ.

Cho nên chúng ta tu hành nói cho nhiều, chứ quan trọng là khéo biết đặt bớt những gánh nặng xuống, chứ không gì hết. Thí dụ người đi xa gánh một gánh nặng chừng 30 ký, càng đi xa trời nắng đổ mồ hôi mệt mỏi, giờ muốn cho bớt nhọc, bớt mệt thì phải đặt gánh xuống nghỉ. Còn không chịu đặt xuống mà cứ gánh đi hoài, càng ráng thì càng nặng thêm. Ban đầu 30 ký mà lúc mệt rồi gánh đi thì thấy thành 40 ký, mà đi một lúc mệt nữa thì thấy thành 50 ký, đi hoài tới chừng mệt quá muốn lếch, còn đặt xuống thì thấy nhẹ nhàng liền.

Cũng vậy, khi biết đây là những gánh nặng mang đau khổ vào mình, khéo đặt nó xuống thì sẽ nhẹ nhàng bớt khổ, an vui. Bởi vậy, trên đường học đạo chúng ta nên khéo biết giải trừ bớt cái ta này, đó là nói chung; còn nếu ai hay hơn tiến thêm một bước nữa, sâu hơn là nhận ra trong hư dối này có cái chân thật thì càng hay. Tức là trong cái ngã hư dối nhận ra cái ta chân thật, sống trở lại cái ta đó thì sẽ vượt khỏi khổ đau đi sâu vào trong đạo.

Vua Trần Thái Tông có bài kệ Nói Rộng Về Sắc Thân:

Vô vị chân nhân thịt đỏ au,
Hồng hồng trắng trắng chớ lầm nhau.
Ai hay mây cuộn trời trong vắt,
Ven trời sương biếc núi một màu.

Vô vị chân nhân tức là con người chân thật không có ngôi vị nào hết, đó là chỉ cho tâm chân thật của chính mình. Con người chân thật đó ở ngay nơi cục thịt đỏ au này, nhưng chớ có lầm với cái hồng hồng trắng trắng đó. Nó là hiểu biết, là sáng suốt, là linh tri v.v…, chứ không phải là mấy cục thịt đỏ đỏ, trắng trắng đó, đừng có lầm nhận. Mấy cục thịt đỏ đỏ trắng trắng này cuối cùng cũng đi ra ngoài nghĩa địa.

Rồi nếu khéo biết vén hết những mây mờ lầm chấp vô minh để trời trong vắt, sáng suốt thì sẽ thấy suốt núi xanh sương biếc, bầu trời một màu hiện tiền, không còn phân biệt kia đây, không còn có gì che đậy được. Lẽ thật sẽ hiện bày trước mắt, đó là tiến lên bước nữa, ở trong cái ta hư dối nhận ra cái ta chân thật là càng quý, tiến sâu thêm trong đạo.

Còn nếu chưa nhận được, chúng ta cũng quên bớt cái ta hư dối là bớt khổ rồi. Nhưng quan trọng ở đây là phải khéo quên cái ta hư dối, quên cái ta sanh diệt thì mới sống được với cái ta chân thật không sanh diệt, đó là chỗ đến của con đường giác ngộ. Hiểu kỹ thì sẽ thấy được chỗ tu hành, chỗ đến của mình. Tức là muốn đi trên con đường an vui hạnh phúc thì phải khéo biết như vậy, giải trừ bớt cái ta, bớt sanh cái ta này thì sẽ nhẹ nhàng.

III. TÓM KẾT

Tất cả nên nhớ là hễ “ở đâu có ta là ở đó có đau khổ”, lẽ thật này rõ ràng từ xưa đến nay, cho đến mãi về sau này. Giải trừ tình chấp ngã thì đó là việc làm cấp bách, đó là tối cần thiết trong cuộc sống nhiều đau khổ này. Nếu còn nuôi dưỡng cái ta thì đừng nói chuyện hết khổ đau. Hãy nhớ kỹ, học Phật là học giải trừ bản ngã để đưa đến chấm dứt phiền não khổ đau. Học Phật là đưa đến chỗ đó, chứ không phải học Phật để thêm khổ đau, tích chứa phiền não thì trái với con đường học Phật, cũng như trái với chánh pháp.

Mỗi người cần phải sáng suốt nhận định rõ con đường học Phật để đi đúng. Học Phật không lầm thì bảo đảm càng học Phật sẽ càng bớt khổ. Quên mình thì lấy ai để khổ, có mình mới có khổ, tức là có tôi khổ; còn không ta thì ai khổ? Người tu đúng như vậy bảo đảm không lạc đường, mà cũng không ai gạt được. Cho nên hạnh phúc chân thật hay đau khổ là ở ngay nơi mỗi người, chứ không phải tìm đâu khác.

Muốn có hạnh phúc chân thật thì phải quên bớt cái tôi này, còn nếu muốn có đau khổ thì giữ nó cho nhiều, bảo đảm khổ đến thôi, còn bớt nó thì sẽ bớt khổ, đó là lẽ thật. Chân lý được phơi bày cho tất cả, Phật, Tổ chỉ thẳng không che giấu ai. Phần còn lại là mỗi người có chịu nhận để thực hành hay không? Nếu khéo ứng dụng thực hành đến đâu thì sẽ được lợi ích đến đó, cho nên quyền quyết định là ở nơi mỗi người.

Mong mỗi người nắm vững được lý này rồi ứng dụng sống đúng theo chánh pháp. Chúc tất cả thật sự sáng suốt để lên đường đi cho thật tốt, khiến lúc nào cũng thấy tâm xuân luôn đến với mình.