Thập Mục Ngưu Đồ – Mười Bức Tranh Chăn Trâu Giảng
Tỳ Kheo Thích Thông Phương

 

Lời Tựa

CỦA HÒA THƯỢNG QUÁCH AM, Ở TẠI LƯƠNG SƠN CHÂU ĐẢNH VỀ MƯỜI BỨC TRANH CHĂN TRÂU

***

Nguồn gốc của chư Phật và chúng sinh vốn sẵn có, nhân mê mới chìm đắm trong ba cõi, nhân ngộ chóng ra khỏi bốn loài. Do đó có chư Phật có thể thành, có chúng sinh có thể làm.

Vì vậy, bậc tiên hiền thương xót mới rộng lập bày nhiều lối. Lý có ra thiên viên, giáo lập thành đốn tiệm, từ thô đến tế, từ cạn đến sâu. Cuối cùng thì chớp mắt với hoa sen xanh, khiến được Đầu-đà Ca-Diếp mỉm cười. Kho tàng con mắt chánh pháp từ đây lưu thông trên trời, cõi người, nơi này cõi nọ. Người thấu được lý thì vượt khỏi khuôn phép thông thường, như đường chim không dấu vết. Người nhận ở sự thì kẹt câu mê lời, như rùa linh lê đuôi.

Trong đây có Thiền sư Thanh Cư, xem xét căn khí của chúng sinh hợp bệnh mà cho thuốc. Đem việc chăn trâu giả họa thành tranh, tùy cơ lập giáo. Ban đầu từ đen dần dần trắng, hiển bày sức mạnh chưa đủ, kế dần dần thuần chân, biểu hiện căn cơ từ từ soi sáng. Đến người trâu đều chẳng thấy, nêu rõ tâm pháp cùng quên, lý đã tột hết cội nguồn, mà pháp vẫn còn che đậy. Khiến cho kẻ căn cơ cạn phải nghi lầm, hàng trung hạ không khỏi phân vân hoặc nghi ngờ là rơi vào không ngơ, hoặc cho là rớt vào thường kiến.

Nay Thiền sư Tắc Công nghĩ đến khuôn phép của bậc hiền đời trước, phát ra từ hông ngực của chính mình, làm những bài tụng hay, khiến rọi sáng lẫn nhau. Ban đầu từ chỗ mất trâu, sau cùng là chỗ trở về cội nguồn, khéo ứng hợp với quần cơ, như cứu người đói khát.

Rồi Từ Viễn mới theo đó xét tìm diệu nghĩa, chọn lấy chỗ sâu mầu, như con thủy mẫu muốn đi tìm thức ăn phải nương theo con tôm biển làm mắt. Ban đầu từ tìm trâu, sau cùng đến vào chợ.

Gượng làm dậy sóng, mọc ngang đầu sừng, còn không tâm có thể tìm, nào có trâu có thể kiếm? Rồi đến thõng tay vào chợ, đó là ma mị gì?

Huống là cha ông chẳng tỏ rõ, làm họa ương đến con cháu, chẳng ngại hoang đường, thử vì đề xướng.

 

Phần Giảng Lời Tựa

CHÁNH VĂN:

Nguồn chân của chư Phật và chúng sinh vốn sẵn có, nhân mê mới chìm đắm trong ba cõi, nhân ngộ chóng ra khỏi bốn loài. Do đó, có chư Phật có thể thành, có chúng sinh có thể làm.

GIẢNG:

Cái gốc chân thật của chư Phật, cũng là cái tâm thể nguyên vẹn tinh khôi của chúng ta ban đầu trước khi động niệm, là chỗ mình và chư Phật đồng có, cho nên gọi là sẵn có. Đây là chỗ gặp nhau của tất cả, người đã nhận ra chỗ đó xem như đồng cảm với nhau. Thế nên, đây nói rằng nhân ngộ chỗ đó mà chóng ra khỏi bốn loài, tức là thai sinh, thấp sinh, hóa sinh và noãn sinh. Còn  chỗ đó là chìm đắm trong ba cõi, thật là chỗ quan trọng. Bởi vì do sự sai biệt giữa mê và ngộ nên có chư Phật có thể thành và chúng sinh có thể làm. Mê thì chìm đắm trong ba cõi làm chúng sinh, giác ngộ được hoàn toàn thì ra khỏi ba cõi và thành Phật. Cho nên sai biệt là chỗ mê và ngộ.

 

CHÁNH VĂN:

Vì vậy, bậc tiên hiền thương xót mới rộng lập bày nhiều lối. Lý có ra thiên viên, giáo lập thành đốn tiệm, từ thô đến tế, từ cạn đến sâu. 

GIẢNG:

Vì do chỗ này nên những bậc tiên hiền, tức các bậc Thánh đời trước thương xót mới rộng lập bày ra nhiều đường, nhiều lối. Do mê không phải chỉ một hạng mà có nhiều loại, có người mê sâu, có người mê cạn, trình độ không đồng, căn cơ sai khác. Vì vậy các bậc Thánh hiền muốn hướng dẫn họ trở về phải lập bày ra nhiều phương tiện, nhiều lối, không phải một lối như nhau được. Do đó, mà phải lập bày giáo lý có ra thiên viên. Thiên có nghĩa là còn nghiêng một bên, cái lý chưa được viên mãn. Viên là lý đã được tròn đầy viên mãn. Ví dụ kinh Hoa Nghiêm thuộc về lý viên đốn, các kinh A-Hàm còn thiên về một bên chưa có tròn vẹn. Cũng vậy, về giáo lập thành đốn, tiệm. Đốn là nhanh chóng, người nhận ra chóng giác ngộ. Ngộ có khi thì chóng ngộ, song cần phải tu dần dần, huân tập từ từ mới tỏ suốt được. Tiệm là dần dần, từ từ huân tập mới ngộ được. Thế nên, không thể chấp một bên. Nếu chấp một bên kẹt một chiều, không thể đi đến nơi được. Nên đây nói rõ, tùy theo trình độ căn cơ dẫn dắt từ từ, từ thô đến tế, từ cạn đến sâu.

 

CHÁNH VĂN:

Cuối cùng thì chớp mắt với hoa sen xanh, khiến được Đầu-đà Ca-Diếp mỉm cười. Kho tàng con mắt chánh pháp từ đây lưu thông trên trời, cõi người, nơi này cõi nọ. Người thấu được lý thì vượt khỏi khuôn phép thông thường, như đường chim không dấu vết. Người nhận ở sự thì kẹt câu mê lời, như rùa linh lê đuôi.

GIẢNG:

Cuối cùng khi ở trên hội Linh Sơn, Phật đưa cành hoa sen xanh lên, ngài Ca-Diếp mỉm cười. Đây là trích câu chuyện trong kinh Phạm Thiên Vương Vấn Phật Quyết Nghi. Vị Phạm Thiên Vương cúng dường Phật cành hoa sen xanh khi Phật đang ngồi giữa đại chúng thuyết pháp. Phật cầm cành hoa sen đưa lên, và đưa mắt nhìn khắp đại chúng, toàn chúng đều yên lặng, chỉ khi Phật nhìn đến ngài Đại Ca-Diếp thì Ngài mỉm cười, tức là Ngài thông cảm với Phật, cho nên Phật mới gọi là “Trao Phó”. Trao phó cái gì? Trao Phó Chánh Pháp Nhãn Tạng tức là trao kho tàng con mắt chánh pháp cho ngài Ca-Diếp và bảo phải Khéo Giữ Gìn Truyền Bá Không Khiến Cho Đoạn Dứt.

Ban đầu thuyết pháp nói giáo lý, cuối cùng đưa cành hoa sen xanh lên im lặng không nói gì, nhưng ngài Ca-Diếp cảm thông được và mỉm cười. Việc này không có trong giáo lý, không ở trong kinh điển, nên đầu mối của Thiền Tông bắt đầu từ đây.

Sau này Thiền sư Chân Nguyên cũng tỏ ngộ được chỗ này, nên Ngài gọi đây là chỗ BỐN MẮT NHÌN NHAU (Tứ Mục Tương Cố). Hai mắt Phật nhìn ngài Ca-Diếp, hai mắt Ngài nhìn lại Phật, rồi cảm thông trong đó, trực tiếp mà không qua lời nói, không qua kinh sách. Đó chính là mạch sống của Thiền Tông vậy.

Nên ở đây nói rằng: Người đạt lý thì vượt khỏi khuôn phép thông thường, vì các mẫu mực thông thường được gọi là làm đắm chết người trong chữ nghĩa. Còn người này giống như đường chim bay qua không để lại dấu vết. Trái lại, người nhận nơi sự thì kẹt câu mê lời, mắc kẹt trên chữ nghĩa, chạy theo ngôn ngữ không ra khỏi, giống như rùa linh lê đuôi. Nghĩa là rùa bò ở chỗ đất sình, đuôi nó kéo bết dưới đất, đi tới đâu cũng kéo một lằn, không thoát khỏi dấu vết.

 

CHÁNH VĂN:

Trong đây có Thiền sư Thanh Cư, xem xét căn khí của chúng sinh hợp bệnh mà cho thuốc. Đem việc chăn trâu giả họa thành tranh, tùy cơ lập giáo. Ban đầu từ đen dần dần trắng, hiển bày sức mạnh chưa đủ, kế dần dần thuần chân, biểu hiện căn cơ từ từ soi sáng. Đến người trâu đều chẳng thấy, nêu rõ tâm pháp cùng quên, lý đã tột hết cội nguồn, mà pháp vẫn còn che đậy. Khiến cho kẻ căn cơ cạn phải nghi lầm, hàng trung hạ không khỏi phân vân hoặc nghi ngờ là rơi vào không ngơ, hoặc cho là rớt vào thường kiến.

GIẢNG:

Nói về Tranh Chăn Trâu.

Ban đầu do Thiền sư Thanh Cư vẽ thành tranh chỉ có tám bức. Từ đầu là trắng, rồi trắng dần lên, để nêu bày cho thấy sức mạnh ban đầu chưa đầy đủ, dần dần mới có sức mạnh. Cho đến được thuần chân, có sức làm chủ trở lại, dần dần được chiếu sáng và cuối cùng người và trâu cả hai đều mất, năng sở đều quên. Như vậy là chỉ có tám bức thôi.

Về lý thì đây đã tột đến cội nguồn, nhưng đúng pháp vẫn còn có một chút gì chưa ổn, giống như còn hơi che đậy một chút, nên những người căn cơ cạn vẫn chưa qua khỏi, còn nghi ngờ …, cho là hoặc rơi vào không ngơ, hoặc rớt vào thường kiến. Vì đến đây cả hai người và trâu, năng và sở đều quên, giống như còn có cái vòng tròn không. Và nếu chỉ ngưng ngang đây thôi, có người sẽ nghi và tu đến đây rồi thành trống không hay sao? Vậy là đoạn diệt hết sao? Thế nên nghi ngờ. Năng sở đều quên, không có gì để làm nữa sao? Ra làm sao đây?

 

CHÁNH VĂN:

Nay Thiền sư Tắc Công nghĩ đến khuôn phép của bậc hiền đời trước, phát ra từ hông ngực của chính mình, làm những bài tụng hay, khiến rọi sáng lẫn nhau. Ban đầu từ chỗ mất trâu, sau cùng là chỗ trở về cội nguồn, khéo ứng hợp với quần cơ, như cứu người đói khát.

GIẢNG:

Như vậy Thiền sư Tắc Công vẽ thêm tranh số IX là Trở Về Nguồn Cội. Nghĩa là vượt qua hai bên năng sở, trả lại nguyên vị của các pháp, các pháp như thế nào đó, nó như thế thì như thế. Đến đây đâu đâu cũng sáng ngời, chỉ hiện bày cái chân thật ở khắp nơi, như ánh sáng Phật hiện bày đều hết, chứ không phải cuối cùng là thành không ngơ. Nên người tu không phải lo sợ. Nhưng như thế cũng chưa được đầy đủ.

 

CHÁNH VĂN:

Rồi Từ Viễn mới theo đó xét tìm diệu nghĩa, chọn lấy chỗ sâu mầu, như con thủy mẫu muốn đi tìm thức ăn phải nương theo con tôm biển làm mắt. Ban đầu từ tìm trâu, sau cùng đến vào chợ.

Gượng làm dậy sóng, mọc ngang đầu sừng, còn không tâm có thể tìm, nào có trâu có thể kiếm? Rồi đến thõng tay vào chợ, đó là ma mị gì?

Huống là cha ông chẳng tỏ rõ, làm họa ương đến con cháu, chẳng ngại hoang đường, thử vì đề xướng.

GIẢNG:

Đến đây Ngài Từ Viễn vẽ thêm mục thứ X là Thõng Tay Vào Chợ, tức là hòa mình vào trần lao hóa độ chúng sinh. Vì đâu thể khi xong việc rồi chúng ta thọ hưởng cái vui của riêng mình thôi, còn bao người đang mê mình bỏ họ sao? Thế nên, phải thêm mục thứ X này nữa là Thõng Tay Vào Chợ, hòa bùn hợp nước, hòa mình trong trần lao hóa độ chúng sinh, như thế mới đầy đủ ý nghĩa. Do đó, đây được gọi là mười bức tranh của Thiền Tông.

– Trong tranh Thiền Tông, vòng tròn ở tranh thứ VIII, còn bên tranh Đại Thừa thì vòng tròn thứ X. Như vậy, tranh bên Thiền Tông thêm hai bức là Trở Về Nguồn Cội và Thõng Tay Vào Chợ.

– Về con trâu, tranh bên Đại thừa vẽ lúc mới ban đầu trâu đen rồi từ từ trắng dần, đến sau cùng mất trâu mất người. Còn tranh bên Thiền Tông, trước sau trâu vẫn là trâu đen, đây được gọi là con đường Nhất Thừa, vì hoặc là Phật hoặc là chúng sinh, không có chỗ làm Phật từ từ, nên gọi là đi thẳng.

Hòa Thượng Quách Am dạy: Nếu xét cho tột lý, vẽ thành mười bức tranh cũng là chỗ không gió mà làm dậy sóng hay mọc ngang đầu sừng. Giống như con cọp không có sừng mà làm cho nó mọc sừng. Vì sao? Trong tự tánh của chúng ta vốn thanh tịnh, là một thể sáng ngời, đâu có thứ lớp để chia ra thành VIII hay X. Chia ra như vậy càng làm lờ mờ thêm, giống như chia xẻ hư không vậy. Bản tâm mình vốn sẵn có nơi mình nên không tâm có thể tìm thì đâu có trâu để kiếm, như thế còn có cái tâm nào nữa để đi kiếm, mà bày đặt ra Tìm Trâu, rồi Mang Bầu Vào Chợ. Ở mục thứ VIII người trâu đều mất, đã sạch hết chỉ còn vòng tròn, đến đây lấy đâu ra mà có mang bầu vào chợ, vậy là dệt thêm một cái nữa hay sao? Ở đây ngài Quách Am mới bảo là ma mị gì là như thế.

Rốt ráo cũng chỉ là phương tiện từ bi của các bậc Thánh Hiền, muốn cứu giúp mọi người quên đi niệm lấy bỏ, không chấp cũng không bỏ, để sống trọn vẹn trong bản tâm thanh tịnh của mình, rồi tự có lối đi riêng, không mắc kẹt ở khuôn phép dấu vết nào. Đây chính là tinh thần vô trụ của kinh Kim Cang, nghĩa là lập rồi liền phá, không cho chúng ta mắc kẹt. Không phải lập ra mười bức Tranh Chăn Trâu để cho chúng ta dính mắc thứ lớp trong đó. Hiện nay cũng có nhiều người tu mắc kẹt trong thứ lớp của tranh. Cứ tu được ít lâu rồi nhìn xem đang ở bức tranh nào? Được tới được bức thứ VII thứ VIII gì chưa? Nếu xét đang ở bức thứ VI hay VII gì đó thì sanh kiêu mạn. Như thế là mắc kẹt rồi, mắc kẹt theo thứ lớp.

Thế nên, các Ngài lập ra rồi các Ngài phá không cho chúng ta mắc kẹt, là phương tiện không cho người tu tự mãn. Các Ngài e ngại người tu được chút gì đó cho là đủ, là mình đã xong việc rồi. Nhưng ở đây cho thấy rõ chưa xong việc, còn phải qua mục này mục kia nữa mới trọn vẹn, đó chính là ý nghĩa của mười bức Tranh Chăn Trâu, trong lời tựa đã nêu lên rất rõ.

 

Tranh Số 1 – Tìm Trâu

CHÁNH VĂN:

Lời dẫn:

Từ trước đến giờ vốn chẳng mất, cần chi phải đuổi tìm, do trái với tánh giác mà thành xa cách, hướng theo trần lao mà thành khuất lấp. Đối với quê nhà càng xa xa dần, lối tẻ chợt sai lầm, được mất dấy lên, phải quấy đua nhau khởi.

GIẢNG:

Bức tranh đầu tiên là “Tìm Trâu”. Vậy tìm trâu là tìm cái gì? Tức là tìm lại bản tâm mình chứ gì? Như thế phải chăng là tìm con trâu tâm của chính mình chớ không gì khác? Và nếu như thế thành ra mình mất bản tâm cho nên mới đi tìm, chứ không mất đi tìm làm chi? Tại sao bản tâm chính mình lại mất? Phải chăng mình mất chính mình? Đây là điều chúng ta thấy mâu thuẫn nhưng phải làm. Chúng ta thử tìm lại kỹ việc làm này, là việc làm gì? Nếu mà tìm bản tâm , lấy cái gì đi tìm bản tâm mình? Rõ ràng là đem tâm đi tìm tâm hay là đem chính mình đi tìm chính mình. Trong nhà Thiền các Thiền sư thường nhắc hình ảnh cỡi trâu đi tìm trâu là do vậy.

Nếu là người lanh lợi, khi gọi là đi tìm trâu, tìm bản tâm, tìm tánh giác, ngay đó tìm lại cái đang đi tìm mới là chính xác. Còn gọi là tìm bản tâm, tìm tánh giác mà tham cứu cái này cái kia, rồi quên mất cái đang đi tìm, quên soi tìm lại cái đang đi tìm thì tốn rất nhiều công phu. Chỉ cần ngay đó nhớ soi trở lại cái đang đi tìm đó là điều chính xác nhất, xem như đỡ công phu biết bao nhiêu.

Các Thiền sư không dạy chúng ta đi tìm chỗ này chỗ kia, khi chúng ta đến với các Ngài, các Ngài thường dạy: “Ta không có một pháp cho người thì tìm cái gì?” Nghĩa là các Ngài muốn nói: Ta chỉ nhổ đinh tháo chốt, phá các tình chấp cho các ông thôi, không có gì khác hết thì đến tìm cái gì?

Thiền sư Huệ Hải dạy: Thiền khách! Tôi không có hội Thiền, trọn không có một pháp chỉ dạy cho người, vậy thì không phiền các vị đứng lâu. Thôi hãy tự đi nghỉ đi. Hãy đi nghỉ đi, là vì Ngài không có gì để dạy cho các vị ấy. Tìm trâu là tìm như vậy.

Thiền sư Lâm Tế bảo: Vì tâm các Ông chạy khắp tất cả chỗ, tìm cầu không thể thôi dứt. Sau đó Ngài quát to, trách: Bậc trượng phu ôm đầu tìm đầu, các ông hãy ngay lời nói tự soi sáng trở lại chẳng tìm kiếm riêng gì nữa, thì biết rõ thân tâm cùng Phật Tổ không khác, Ngay đó vô sự mới gọi là được pháp. Tìm trâu là như vậy. Ngay đây dừng và quay trở lại, soi trở lại nơi mình, thì biết rõ thân tâm cùng Phật Tổ không khác, là thấy được trâu, chứ không phải tìm cái gì khác. Còn tìm thì Ngài bảo là: “Ôm đầu tìm đầu.”

Thay vì nói chúng ta đi tìm cái này cái kia, các Ngài nhắc chúng ta tìm trở lại ngay cái đang đi tìm, đó là cái căn bản. Còn không biết cứ chạy ra ngoài tìm, càng tìm càng xa.

Một hôm, Thiền sư Địa Tạng thượng đường, có hai vị tăng bước ra làm lễ. Vừa mới bước ra lễ Ngài liền bảo:

– Cả hai đều lầm.

Hai vị tăng ấy lầm chỗ nào? Vừa mới bước ra chưa thưa hỏi thì lầm cái gì? Bởi vì bước ra làm lễ, lễ là định hỏi, hỏi tức hướng ra bên ngoài, cho nên Ngài nói là lầm. Đó là nhắc chúng ta trở về. Nghĩa là ngay khi vừa hỏi là mình phải soi trở lại hỏi cái đang hỏi là cái gì. Đó là xong việc. Tìm trâu là tìm ngay chỗ đó.

Ở đây nói: Từ trước đến giờ vốn chẳng mất, cần chi phải đuổi tìm, bởi do trái tánh giác mà thành xa cách, hướng theo trần lao mà thành khuất lấp. Như vậy, ở đây đi tìm là tìm cái chẳng mất, chứ không phải tìm cái đã mất. Vì bản tâm là cái của chính mình mà sao mình lại đi tìm nó? Nếu mà tìm được thì tâm của ai chứ không phải của mình.

Thiền sư Đơn Hà nhấn mạnh: Tất cả mọi người các ông đều có một chỗ đất ngồi, lại nghi cái gì? Thiền đâu phải là vật để cho các ông hiểu? Đâu có Phật mà khá thành. Nghĩa là mọi người đều có một chỗ ngồi vững vàng không ai động đến được, còn tìm cái gì nữa. Đây gọi là từ trước đến giờ vốn không mất, không phải đi tìm.

Bây giờ kiểm lại chúng ta mới thấy thật đáng thương cho chính mình. Đang có một chỗ sống vững vàng, vậy mà không hay biết rồi đi kiếm, gọi đó là cái mê của mỗi người. Ở đây gọi là bất giác. Do bất giác tự quên mình, tưởng đâu là mất mình, mất bản tâm cho nên đi tìm. Thành ra đang ở trong cái không hai mà biến thành ra có hai, tức có người đi tìm, có đối tượng đi tìm là con trâu. Như vậy là sao? Có tâm đi tìm, lại có thêm một cái tâm nữa bị tìm. Kinh Lăng Nghiêm có nói: “Trong chỗ không đồng khác mà biến thành đồng khác.” Ban đầu không có hai, nhưng rồi biến thêm thành có cái nữa. Chúng ta ai cũng vậy, luôn luôn tưởng tượng có một bản tâm nào đó để mà hướng về, vậy là có thêm một cái bóng gì nữa, nên đã thành hai rồi, do đó gọi việc làm của chúng ta đây là sai khiến tâm đi tìm tâm.

Như trong chiêm bao khi chúng ta đang nằm mơ mơ rồi ngủ, khi ngủ thì mơ màng có thêm một người thứ hai nữa. Người này cũng đi đây đi đó …, có khi cũng lo buồn sợ hãi …, có khi sống cả cuộc đời trong đó nữa. Nếu như thật có người đó, thì có người nào thấy lại người đó? Lại có khi trong chiêm bao chúng ta thấy bị giặc đuổi, chạy bán sống bán chết. Vậy ai thấy lại cái người đang chạy đó? Thành ra giống có hai người, (có thêm cái bóng của mình trong đó). Nếu không có người thấy lại, chỉ có một người thôi, thì ai thấy người bị rượt chạy? Thế nên, chúng ta thấy rõ từ một người biến thành hai. Đây cũng vậy, trong một biến thành hai, có người đi tìm và có người bị đi tìm. Và hiện giờ có phải mỗi người chúng ta đang sống với tình trạng đó không? Ai cũng có hai cái tôi: Một cái tôi đi tìm và một cái tôi bị đi tìm, do đó gọi là bất giác.

Do gốc bất giác, trái với tánh chân của mình mà thành xa cách, hướng theo trần lao mà thành khuất lấp. Vì đã chạy theo duyên trần, mà duyên trần luôn luôn thay đổi vì thế mà thành xa cách rồi bị khuất lấp. Duyên trần thay đổi, theo nó mình cũng thấy luôn luôn thay đổi theo, rồi chúng ta tưởng đâu mình thiếu cái gì và bắt đầu khởi sự đi tìm kiếm. Sự thật chúng ta không thiếu mà dư một cái tôi, rồi dư quá nhiều nữa, nếu kiểm lại thì việc đó rất nguy hiểm mà ít ai để ý.

Thiền sư Vân Môn nói rằng: Tại vì các ông gốc tin cạn mỏng, nghiệp ác quá sâu dày cho nên đột nhiên mọc quá nhiều sừng ở trên đầu, rồi quãy đãi bát đi ngàn dặm muôn dặm chịu khuất người. Vả lại các ông có chỗ nào chẳng đủ, kẻ trượng phu ai mà vô phần. Ngài dạy, vì do lòng tin của chúng ta quá cạn mỏng, không tự tin nên quảy đãy bát đi xa, chịu khuất phục người, gọi là mọc quá nhiều sừng ở trên đầu. Đầu mọc sừng là khởi đủ thứ niệm, mọc đủ thứ tâm, nào là buồn, thương, giận, ghét, được, mất, hơn, thua …, mọc đủ thứ sừng là như thế. Ban đầu từ trong cái thể không hai, vốn không chân vọng, rồi chia ra gọi là có chân có vọng, có thức có trí, có mê có giác …, có tâm tật đố, có tâm kiêu mạn, giận hờn …, tức là đã chia ra quá nhiều, nên mới nói dần dần xa cách khuất lấp bản tâm. Thế nên, nhìn lại chúng ta thấy mình quá dư chứ không thiếu, mà ai cũng tưởng mình thiếu nên đi tìm.

Bây giờ tu là không thêm gì hết chỉ “buông” thôi, chúng ta dư quá nhiều rồi, buông hết những cái dư đó là xong việc, còn có thêm cái gì nữa là chưa phải. Ở đây nói rõ Do trái tánh giác mà trở thành xa cách, bởi theo vọng trần thành khuất lấp, nên sanh đủ thứ chuyện, đó là chỗ đau đớn cho mọi người tu chúng ta. Hiện mỗi người chúng ta đang ngồi đây mà ông chủ ở chỗ nào? Con trâu của chúng ta đâu? Thế nên gọi là chúng ta đang sống theo tình thức phân biệt, vì thế mà Đối với quê nhà càng xa dần, lối tẻ chợt sai lầm, phải quấy đua nhau khởi. Lối tẻ là theo tình phân biệt rồi đi mãi trong sáu trần, lúc thì ở sắc trần này, rồi qua thanh trần kia …, cứ thế mà xa mất quê nhà, quên mất bản tâm mình, không còn thấy dấu trở về.

Bây giờ đây chợt tỉnh trở lại, muốn trở về nhưng không biết đâu là lối về, vì trâu đã đi hoang quá lâu, mất dấu trở về, nên trông quê nhà như còn xa xôi diệu vợi vậy. Do vì biến mất, phải tìm trở về, qua hình vẽ chúng ta thấy chú mục đồng đứng ngơ ngác, chơ vơ, ngó quanh không biết ở đâu! Nhưng nếu biết nhìn kỹ, thấy được “con mắt” trong đây là thấy được chỗ trở về chỗ nào? Nghĩa là muốn tìm lại là phải buông các niệm được mất, phải quấy …, đó gọi là lối tẻ thì chợt sai lầm, phải quấy đua nhau khởi, thảy đều do thức tình phân biệt mà có. Tóm lại, người muốn trở về thì “con mắt” trở về đó là buông các niệm phải quấy, tốt xấu …, đó là ngầm chỉ trở về. Người mà thấy được “con mắt” đó gọi là khéo thấy chỗ trở về.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Mang mang bát thảo khứ truy tầm

Thủy khoát sơn diêu lộ cánh thâm

Lực tận thần bì vô mích xứ

Đản văn phong thụ vãn thiền ngâm.

Dịch:

Bôn ba vạch cỏ ruỗi rong tìm

Nước rộng non xa lối xa thêm

Đuối sức mệt đừ không chỗ kiếm

Phong chiều riêng chỉ tiếng ve ngâm.

GIẢNG:

Bôn ba vạch cỏ ruỗi rong tìm: Biết mất trâu bây giờ bôn ba chạy tìm, cũng là điều hay. Còn hơn bao nhiêu người cứ để mặc nó mất, hoặc là không biết đến. Đây chỉ là hình ảnh Thiền giả có tâm tỉnh lại, lo đi tìm thầy hỏi đạo, để quyết tìm cho ra cái lẽ thực mà mình đã quên, tức cái bản tâm của mình xưa nay sẵn có.

Nước rộng non xa lối xa thêm: Càng tìm càng thấy xa, xa diệu vợi, phải làm sao đây? Lỗi tại chỗ nào? Nếu thấy được lỗi này là thấy được lối ra. Đó là vì rong ruỗi tìm nhưng mà hướng ngoài tìm kiếm, nên càng tìm càng xa. Bản tâm chúng ta đâu phải tìm ờ ngoài hay đâu đó. Con trâu thật không có ở trong ngôn ngữ hay sách vở, moi móc trong đó tìm thì không bao giờ thấy.

Thiền sư Lâm Tế có bảo rằng: Người học đạo hiện nay cốt phải tự tin chớ có tìm kiếm bên ngoài, thảy là lên trên cảnh trần rỗng của người khác thôi, đều chẳng nhận rõ tà chánh, chẳng hạn có Phật có Tổ chỉ là việc ở trên kinh giáo để lại thôi.

Ngài dạy: Người học đạo hôm nay cốt phải tự tin lại nơi mình đó là việc chính, không nên tìm cầu bên ngoài. Bên ngoài được xem như chạy lên cảnh trần rỗng của người khác để lại. Nếu tìm được đó là của ai chứ không phải của mình. Khi hiểu được đạo lý này, đạo lý nọ chúng ta tưởng rằng hay. Song cái lý đó cũng là cái lý bị hiểu thôi, là cái lý chết, không phải cái lý sống vì của người khác nói lại. Còn Phật Tổ cũng chỉ là danh từ. Vậy muốn tìm lại chính mình thì phải dừng lại, chớ hướng ra ngoài tìm, vì càng tìm càng xa.

Đuối sức mệt đừ không chỗ kiếm: Tìm mãi, mệt mỏi phí sức mà không thấy bóng dáng trâu, hết còn sức để đi tìm và không biết tìm đâu nữa, đuối sức mệt rồi.

Phong chiều riêng chỉ tiếng ve ngâm: Cuối cùng khi bóng chiều buông xuống (chúng ta giống như chú mục đồng), đứng bơ vơ một mình giữa cảnh rừng núi bao la, chỉ nghe giọng ve sầu kêu réo rắt trên cây phong. Cho thấy một cảnh thật cô đơn – Rất cô đơn. Buổi chiều buông xuống là đêm sắp về, trâu chẳng biết ở đâu, một mình cô đơn, giữa cảnh đất trời mênh mang. Song chính sự cô đơn này lại là hay. Tại sao? Nếu có thêm một chú chăn trâu nữa là có thêm bạn bè, sẽ rủ nhau đi chơi, hướng ra ngoài rong ruổi quên mất trời tối lại càng nguy hiểm hơn nữa. Chính sự cô đơn đó là chỗ tìm được trâu, nếu không có sự cô đơn, không bao giờ tìm được trâu. Phải ghi nhớ.

Bức tranh thứ nhất này nói lên tâm trạng của người đang ở trong vòng luân hồi tỉnh trở lại, phát tâm trở về, chạy nơi này nơi kia nhọc nhằn tìm thầy hỏi đạo. Do còn đang ở trong tình mê nên chạy tìm bên ngoài, càng tìm càng xa. Nhưng chính tiếng ve ngâm đó nhắc nhở cho người tìm phải soi trở lại mình. Ở buổi ban đầu này biết mình có bản tâm nhưng đã quên mất, bây giờ mới tìm trở lại, cần phải khao khát, thiết tha khổ nhọc đem hết tâm lực mà tìm. Ở đây gọi đuối sức mệt đừ là tìm hết sức mình, mệt nhọc chứ không phải dễ dàng, làm chơi chơi mà được.

Thiền sư Lâm Tế có thuật lại tâm trạng của Ngài trong buổi đầu:

Này các Đại đức! Chớ có lần lựa qua ngày, sơn tăng trước kia khi chưa có chỗ thấy, còn tối tăm mù mịt thì chẳng dám để thời giờ luống qua, lòng bức rức nôn nao, lo chạy tìm hỏi đạo. Sau khi đắc lực mới đến ngày hôm nay cùng huynh đệ nói bàn như thế.

Ban đầu chưa có chỗ thấy, chưa tìm được trâu, còn tối tăm mù mịt nên không dám để thời gian luống qua. Lúc đó thì một giây một phút rất là quí, lòng luôn bức rức, nôn nao chạy đi tìm thầy hỏi đạo, tìm cho ra cái lẽ thật. Không phải để thời gian trôi qua suông gọi là lơ là, mãi cho đến khi được đắc lực, mới có ngày hôm nay nói chuyện với các ông. Điều đó cho chúng ta thấy người xưa đâu có được dễ dàng! Còn chúng ta ngày nay đôi khi nói là tu mà vẫn còn dễ dàng, chưa hết lòng, vẫn còn thời gian rảnh rỗi. Ở đây, nhắc mọi người phải dồn hết tâm lực, quyết tâm tìm cho ra lẽ thật này. Tuy biết rằng trâu vốn không ở đâu, nhưng bây giờ chưa rõ, giống như đã mất phải tìm cho ra. Mà có tìm thì ắt có gặp.

Thế nên, mục ban đầu này rất quan trọng. Trong đây con trâu là bản tâm của mình, nên trâu vừa là vọng cũng vừa là chân, vì bản tâm này còn lẫn trong vọng, cho nên đi tìm. Giống như, biến nó thành bóng (thứ hai), nhưng bóng không rời cái thật, nên gọi đây là cái tâm bị đi tìm. Còn mục đồng giống như cái tâm đi tìm. Tất cả cùng đều là tâm hết. Cái tâm bị đi tìm giống như cái thể, còn cái đi tìm giống như cái dụng. Đem cái dụng đi tìm cái thể, cho đến bức tranh số VIII mới gọi là người trâu đều quên. Sự thật không ai đi tìm ai, cũng chỉ là tâm thôi chớ tìm gì đâu. Tóm lại: Mới đầu giống như có đi tìm, cuối cùng quên hết chỉ còn cái thể tròn sáng.

Để chúng ta hiểu thêm, Hòa thượng Thạch Cổ Di có làm bài họa:

Tụng:

Chỉ quản khu khu hướng ngoại tầm

Bất tri cước để dĩ nê thâm

Kỷ hồi phương thảo tà dương lý

Nhất khúc Tân Phong không tự ngâm. 

Dịch:

Chỉ cứ một bề hướng ngoại tìm

Gót chân đâu biết lún bùn thêm

Cỏ thơm chiều nắng bao lần đấy

Một khúc Tân Phong luống tự ngâm.

GIẢNG:

Chỉ cứ một bề hướng ngoại tìm. Gót chân đâu biết lún bùn thêm. Hai câu này nói lên rằng chúng ta chỉ lo một bề hướng bên ngoài tìm, vì lo chạy bên ngoài nên càng tìm càng xa, gót chân bị lún bùm thêm nữa mà không hay. Vì thế các Ngài luôn luôn dạy cần tìm thật, nhưng mà dừng lại là hay hơn. Cỏ thơm chiều nắng bao lần đấy: Bao nhiêu lần cỏ thơm, bao nhiêu lần ánh chiều buông xuống mà chúng ta vẫn chưa tìm ra. Một khúc Tân Phong luống tự ngâm: Tân Phong là chỗ ở của Thiền sư Động Sơn Lương Giới. Ngài có làm một bài ngâm. Ở đây nếu chúng ta tìm chưa rõ bản tâm thì cũng chỉ luống ngâm thôi mà quên mất chính mình. Người khéo thì ngay tâm dừng lại, ngay đó là chỗ tìm của mình. Còn chạy ra ngoài thì càng xa. Đó cũng là một cách nhắc nhở chúng ta tìm mà không biết tìm thế nào.

Và Hòa thượng Thiên Nham Trường cũng có làm bài họa:

Tụng:

Tạm thời bất tại cấp tu tầm

Mạc đãi cừ nông nhập thảo thâm

Mãn mục thanh sơn vô biệt tích

Chỉ tiêu hồi thủ nhất trầm ngâm.

Dịch:

Tạm thời vắng bóng phải đi tìm

Chớ đợi y vào cỏ sâu thêm

Đầy mắt núi xanh không dấu khác

Chỉ có xoay đầu với trầm ngâm.

Tạm thời vắng bóng phải đi tìm: Biết rằng trâu không mất đi đâu nhưng bây giờ vắng bóng, không thấy nên phải đi tìm. Nếu xét kỹ bản tâm chúng ta cũng vậy, không có mất, nhưng bây giờ không biết nên được xem như mất. Chớ đợi y vào cỏ sâu thêm: Nếu không tìm thì cứ để cho nó vào sâu trong trần lao, mỗi ngày huân tập thêm những tập khí tham sân si …, càng chôn sâu thêm, càng bị che nhiều hơn. Nay biết được một chút rồi phải tìm cho ra, không thể chạy theo y nữa. Đầy mắt núi xanh không dấu khác: Ở trước mắt núi xanh rõ ràng là nhắc chúng ta ngay trước mắt phải quay lại. Chỉ có xoay đầu với trầm ngâm: Chỉ cần quay đầu trở lại là xong chuyện. Tìm là tìm như thế đó, chớ không phải tìm là dạy chúng ta tìm bên ngoài.

 

Tranh Số 2 – Thấy Dấu

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Nương theo kinh mà hiểu nghĩa, xem giáo lý biết được dấu vết. Rõ mọi thứ vòng, xuyến… đều là vàng. thể nhận muôn vật là chính mình. Tà chánh chẳng biện biệt, chân ngụy nào phân chia. Chưa vào được cửa này tạm cho là thấy dấu.

GIẢNG:

Từ chỗ sai biệt mà quên sai biệt để trở về cái chân thật không hai. Đây là phương tiện dẫn khởi cho chúng ta.

Nương theo kinh mà hiểu nghĩa, xem giáo lý biết được dấu: Trâu ở đâu chúng ta không biết, bây giờ biết mất cho nên đi tìm. Sở dĩ biết mình mất, biết mình có trâu tức là bản tâm, là do chúng ta nhân xem kinh giáo, rồi nghe Thầy Tổ khai thị nên mới tin mình có bản tâm. Như kinh Pháp Hoa nói: “Bản hoài của chư Phật ra đời là khai thị chúng sinh ngộ nhập tri kiến Phật của chính mình”, tức là bản tâm mình. Do đó kinh giáo là dấu vết của các bậc giác ngộ, các Ngài đã đi qua, được ghi lại để cho chúng ta thấy người đã có việc đó, thì mình cũng có việc đó. Cũng như kinh nói rằng: Kia đã là trượng phu, ta đây cũng vậy, đâu có thiếu gì. Do nhờ như vậy mà chúng ta lần lần thấy được dấu. Nhất là trong lúc nào đó ngồi cô đơn một mình, ngồi yên và đối diện với chính mình, lúc đó giống như mình cảm nhận có cái gì đó, thấy được chút dấu vết nơi mình và từ đó mới hiểu ra, biết rõ vòng, xuyến …, đều là vàng, thể nhận muôn vật là chính mình. Nghĩa là hiểu rõ tâm là gốc của muôn pháp. Muôn pháp hiện tiền ở đây là do có tâm, nếu không có tâm thì pháp làm sao hiện được? Cái gì biết được pháp? Như không có tâm cái gì biết đây là cái bàn, kia là bình hoa …, nếu không nhờ có tâm. Có tâm mới biết pháp, pháp mới hiện. Không có tâm thì thế giới này giống như thế giới chết. Muôn pháp hiện bày đó cho chúng ta biết là có tâm, nên kinh có nói: Tâm sanh thì các pháp sanh, tâm diệt thì các pháp diệt. Lục tổ nói rằng: “Ta không tất cả tâm, đâu cần tất cả pháp”. Thế nên tâm là gốc, pháp là dấu hiệu của tâm biểu hiện ra. Do đó chúng ta cần phải thấu qua sự sai biệt đó để trở về bản tâm, giống như mọi thứ vòng, xuyến …, vạn thứ sai biệt nhưng thể của nó là vàng. Chúng ta phải quên những thứ sai biệt nhận lấy cái thể vàng, đó là người khéo trở về. Vậy, muốn vào cửa này cần phải tà chánh chẳng biện, chân ngụy nào phân chia, quên đi những niệm phân biệt mới trở về được. Người học đạo cứ ôm chặt niệm phân biệt thì khó vào cửa này được.

Ngài Văn Đạo nghe tiếng Thiền sư Tuệ Huân ở trong hang núi tu hành là bậc mắt đã sáng. Từ xa xôi lặn lội, vượt núi trèo non đến xin học đạo. Khi đến nơi trời đã tối, Thiền sư Tuệ Huân mới bảo:

– Ông hãy ở đây ngủ một đêm rồi sáng nói chuyện.

Sáng hôm sau Thiền sư Tuệ Huân dậy trước nấu cháo. Cháo nấu xong rồi, đến lúc mời ăn cháo không có cái gì để múc cho ngài Văn Đạo. Thiền sư Tuệ Huân liền với tay ra phía sau lấy cái sọ người khô múc một sọ cháo đưa cho ngài Văn Đạo. Ngài Văn Đạo thấy thật khó xử, không biết có nên nhận hay không. Vì nhận thì ăn làm sao nổi! Cháo mà đựng trong sọ người làm sao dám ăn! Nên còn chần chờ chưa biết tính sao. Thiền sư Tuệ Huân thấy thế thì biết liền, bèn quở:

– Thôi, ông hãy đi đi, ông chưa phải thành tâm học đạo, không phải chân chánh vì pháp mà đến. Ông còn đem theo vọng tình nhơ sạch, yêu ghét để mà tiếp vật thì làm sao có thể được đạo. Bèn đuổi đi.

Chúng ta thấy người xưa tiếp người như thế đó! Muốn được cái lẽ thật này phải quên đi niệm phân biệt, vì chính những niệm phân biệt là chỗ làm cho mất trâu. Ở bức số I chỉ rõ do chúng ta hướng ra bên ngoài, khởi sanh những niệm phân biệt cho nên chia chẻ thành nhiều lối tẻ, dấu trâu mất là từ ngay đó. Ở đây nhờ xem kinh, giáo, Thầy Tổ khai thị nhắc nhở chúng ta phải buông niệm phân biệt, đó là dấu vết để trở về. Như thế cũng từ tâm mê, rồi cũng từ tâm giác, hai tâm này vốn cũng chỉ là một tâm thôi. Tâm phân biệt là MÊ là MẤT TRÂU, còn tâm quên niệm phân biệt là Giác, là TRỞ VỀ, là nhận ĐƯỢC TRÂU. Như ở đây theo vòng, xuyến …, là quên vàng, còn nhớ vàng là quên vòng, xuyến …, quên các sai biệt. Cũng như chúng ta khi nhìn gương, chỉ lo nhìn bóng trong gương mà quên mất tánh sáng của gương. Còn nhớ tánh sáng của gương là quên bóng của vật… Như lúc chúng ta ngồi thiền chỉ nhớ bóng của người, của vật hơn là nhớ tánh sáng của gương, lâu lâu bóng này hiện lên, rồi bóng kia hiện lên …, chỉ nhớ bóng mà quên tánh sáng của gương, đó gọi là Quên Trâu. Còn nhớ trở lại tánh sáng của gương là quên mất các bóng kia, yếu chỉ trở về là chỗ này.

Trong nhà thiền luôn luôn phá các niệm hai bên, không cho chúng ta chạy theo, phải biết rõ được việc đó, đây gọi là thấy dấu. Nhưng vì chỉ mới tin biết thôi, chưa giáp mặt nên gọi là MỚI THẤY DẤU, nghĩa là đã có tin tức của tâm mình, hết bơ vơ tìm kiếm.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Thủy biên lâm hạ tích thiên đa

Phương thảo ly phi kiến dã ma?

Túng thị thâm sơn cánh thâm xứ

Liêu thiên tỷ không chẩm tàng tha.

Dịch:

Mé nước ven rừng dấu dấu kìa!

Cỏ thơm ngang ngửa trốn đâu a!

Dẫu cho núi thẳm sâu sâu thẳm, 

Lỗ mũi chọc trời đã hiện ra.

GIẢNG:

Mé nước ven rừng dấu dấu kìa: Mé nước ven rừng chỉ cho bên kinh điển, bên giáo lý, bên các pháp, dấu trâu đã hiện đã lộ ra rồi. Tu hành đến đây – Thấy được dấu – là có được niềm vui rồi. Tin tưởng việc làm của mình không uổng công, có tin tức đáng mừng. Lại thêm cỏ thơm ngang ngửa trốn đâu a: Trâu đã dẫm qua đây, đã nhai gặm, đã để lại đám cỏ nằm ngang ngửa bừa bãi làm tang vật. Không thì cỏ tươi tốt xanh rì, chứ đâu có ngang ngửa lung tung nằm như thế này. Nên quyết chắc là trâu quanh quẩn đâu đây thôi, tìm là phải gặp, chắc chắn như vậy. Trên kinh giáo để lại cho chúng ta biết rằng, mình có bản tâm xưa nay không mất. Và muôn pháp đang hiện bày dọc ngang trước mắt mình đây, từ đâu có như vậy? Đó là mang dấu hiệu của tâm rõ ràng, không thể nào dấu được. Tin tức đã lộ bày rồi. Dẫu cho núi thẳm sâu sâu thẳm:Dầu cho muôn pháp mênh mông, trần cảnh dẫy đầy nhưng không còn che lấp được nữa. Bởi vì Lỗ mũi chọc trời đã hiện ra: Lỗ mũi chọc trời là chỉ cho dấu hiệu của tâm nay đã hiện ra, đã có chỗ nắm bắt, cầm chắc trong tay không còn nghi ngờ. Tuy nhiên đây là có tin tức nên chỉ là dấu, còn con trâu đã đi qua rồi. Nếu còn bám theo dấu này là mình còn mê, bởi vì dấu là cái chết còn trâu là cái sống đã đi qua, nó không còn ở trong cái dấu đó mà chỉ còn dấu để lại. Chúng ta cần phải vượt qua mọi cái dấu ấy. Thiền giả tu đến đây được xem như đã vượt qua khoảng thời gian chạy tìm nhọc nhằn, bơ phờ mệt đừ, ý thức phân biệt hết còn bén nhạy như xưa nữa, mới chợt nhận ra: trâu không có mất – Nghĩa là có dấu rồi. Đến đây nhìn lại rừng núi của muôn pháp dọc ngang đó thì trâu đã dẫm và đi qua, để lại dấu vết phân biệt nên có đủ thứ sai biệt hiện bày chứng tỏ trâu đã đi qua. Nếu không có tâm làm sao có muôn pháp đó. Nên có tên này thứ nọ rõ ràng trốn đâu khỏi được. Tuy rằng núi sâu phân biệt còn che cách, nhưng tin tức trâu đã lộ ra rồi, có chỗ cho chúng ta nắm chắc không nghi ngờ. Thiền giả tin được bản tâm mình chắc chắn không nghi, nhưng vẫn còn ở xa, còn đứng ngoài cửa, vì chưa thấy được trâu. Song biết chắc là nó quanh quẩn đâu đây thôi, điều quan trọng bây giờ là phải hăng hái phấn khởi tiến tới để bắt gặp được trâu, nên ở đây chỉ gọi là Thấy dấu. Kinh điển giáo lý cũng là dấu vết chết, con trâu không có trong đó, cần phải tiến tới để làm sao gặp được trâu.

Ngài Hồi Thạch Đầu khi còn ở ngoài đời là thợ mài ngọc, không biết chữ. Sau xuất gia làm tăng nhờ người tụng kinh Pháp Hoa để nghe và thầm tụng theo cho đến khi thuộc trọn bộ kinh. Sau đó mới theo thiền sư Nguyên Tĩnh ở Nam Đường, được sai làm quét dọn trong thiền viện. Một hôm được thầy bảo là dùng dùi gỏ vào đá để tụng kinh, khi Ngài đang tụng liên tục thì thiền sư Nam Đường mới cảnh tỉnh bảo rằng:

– Hôm nay lốc cốc, lốc cốc, ngày mai cũng lốc cốc, lốc cốc, ngày kia lốc cốc, lốc cốc …, thì khi sanh tử đến làm sao chống trả, làm sao tính cho ra đây?

Ngay đó Ngài buông dùi xuống, xin ngài Nam Đường chỉ dạy cho pháp cứu cánh. Thiền sư Nam Đường mới dạy Ngài khán công án Triệu Châu khám phá bà già ở Đài Sơn. Ngài tham cứu một thời gian, một hôm nhân đẻo một viên đá, vì gặp viên cứng quá nên Ngài cố hết sức đập xuống một nhát thật mạnh, đá tóe lửa ra, ngay lúc ấy, Ngài tỏ ngộ và làm bài kệ:

Dùng hết sức mình, Trọn không chỗ bám

Ánh lửa lóe ra, Vốn ở trong mình.

Như vậy, vốn ngay đây thôi, chưa từng mất. Chúng ta thấy rõ ban đầu ngài Hồi Thạch Đầu cũng tin là mình có nhưng rồi vẫn tụng kinh Pháp Hoa, nên được thiền sư Nam Đường nhắc: “Bửa nay lốc cốc, lốc cốc, ngày mai cũng lốc cốc …, cứ lốc cốc vậy hoài làm sao sáng tỏ được việc sanh tử”. Việc này là chính, còn chữ nghĩa kinh văn chỉ là việc phụ, nếu cứ bám vào đây hoài thì cũng bám trong cái chết, làm sao xác định được vấn đề sanh tử. Thế nên khi đã thấy dấu rồi, phải vượt qua làm sao tìm được trâu mới là điều quan trọng.

Đây là bài họa của ngài Thạch Cổ Di:

Tụng:

Khô mọc nham tiền sai lộ đa

Thảo hoa lý cổn giác phi tha?

Cước cân nhược dã tùy tha khứ

Vị miễn đương đầu sai quá tha.

Dịch:

Cây khô trước núi lối sai nhiều

Nằm trong đám cỏ giác hay chưa?

Gót chân nếu cũng theo người chuyển

Trước mặt lại đành để lầm qua.

Cây khô trước núi lối sai nhiều: Trước núi cây khô đó có nhiều lối sai. Nằm trong đám cỏ giác hay chưa? Trâu nằm ngay trên đám cỏ, chúng ta đã thấy rõ nó chưa, dấu của nó đã lộ bày rồi. Gót chân nếu cũng theo người chuyển. Trước mặt lại đành để lầm qua: Nếu mà cứ chạy theo bên ngoài, theo người, theo ngôn ngữ, theo sáu trần thì cũng quên mất chính mình, là theo cái chết gọi ngay trước mặt để lầm qua là thế, rất đáng thương!

Ở đây muốn nhắc chúng ta phải vượt qua chữ nghĩa của kinh điển, dấu vết của ngôn ngữ, những lời nói của các bậc Thầy bên ngoài, mà phải soi lại mình để tìm cho được trâu.

Và bài họa của ngài Mộng Am Cách.

Tụng:

Thâm thâm thiển thiển tích tung đa

Bất thị cừ hề thị thậm ma?

Tùng thử cước cân cần trước lực

Tất tu địch diện nhất phùng tha.

Dịch:

Cạn cạn sâu sâu dấu dấu kìa!

Chẳng phải là y đó là gì?

Từ đây gót chân siêng ra sức

Phen này quyết phải gặp được y.

Đây là chỉ cho thiền giả thấy được dấu chân con trâu, có dấu cạn dấu sâu rõ ràng hiện ra. Thấy dấu rồi chẳng phải là trâu thì là gì? Từ đây phải ra sức thêm nữa, để phen này phải bắt được trâu, chứ không thể bỏ qua được. Thấy được dấu thì quyết là trâu quanh quẩn quanh đây, không có đâu xa, quyết phải bắt được trâu mới thôi, nhất định không buông.

Thiền giả đến đây xem như có niềm tin, là thấy được dấu, có niềm vui trong đạo là mình có bản tâm ấy gần đây chứ không xa, chỉ chưa giáp mặt thôi. Thế nên cần phải ra sức thêm để gặp cho bằng được.

Tóm lại: Người tu chúng ta khi đang thực hành phần nhiều cũng có được chỗ này. Nghe tin, hiểu, biết chắc là có rồi, nhưng chưa giáp mặt, tức chưa thấy thôi. Cần phải ra sức để giáp mặt, để thấy được trâu, gọi là mở ra chân trời mới.

 

Tranh Số 3 – Thấy Trâu

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Từ tiếng mà được vào, ngay chỗ thấy gặp được nguồn. Cửa sáu căn rõ ràng không sai, trong động dụng rành rành hiển lộ. Vị muối mặn ở trong nước, chất keo xanh ở trong màu. Nhướng lông mày lên chẳng phải là vật gì khác.

GIẢNG:

Ở trước đã nói: Từ trước đến nay vốn chẳng mất, cần chi phải kiếm tìm. Đến đây thì thấy rõ quả là không mất. Người đến giai đoạn Thấy Trâu này mới nhận ra Nó Đây Rồi, không hề mất đi đâu. Nếu mất sao còn thấy, còn nghe? Con mắt, lỗ tai, là thứ vô tri nào có biết gì sao vẫn thấy, vẫn nghe? Vậy rõ ràng chính ngay chỗ Thấy Nghe Giác Biết (Kiến Văn Giác Tri) sáu căn đó, trâu đã hiện ra trong đó rồi.

Thế nên ở đây mới nói từ tiếng được vào, ngay chỗ thấy gặp được nguồn: Nhận ra được chỗ này thì còn gì vui sướng hơn. Người đến đây có được niềm vui, thấy rõ nơi sáu trần là chỗ trâu hiện ra. Gọi sáu trần là cỏ non, mạ tốt, vì trâu ở đó từ bao thuở nhưng vì không biết nên hành giả bảo là mất, sự thật trâu vẫn quanh quẩn nơi sáu trần này. Người đến chỗ này thấy rõ vì do bất giác, mê mờ, hoảng hốt chạy tìm kiếm lăng xăng bên ngoài, tưởng tượng xa xôi là mất trâu, rồi quên mất mình, biến mình thành vật để đi tìm. Bây giờ tỉnh trở lại mới thấy Trâu Đây Rồi, Chưa Từng Mất. Đây là chỗ mỗi người cần phải một phen soi trở lại chỗ này chớ không phải tìm đâu khác.

Thiền sư Đại An có dạy: Cả thảy các ngươi, mỗi người đều có hòn ngọc lớn vô giá, từ của con mắt phóng quang soi sáng núi sông, cây cỏ. Từ cửa lỗ tai phóng quang nhận lãnh phân biệt tất cả âm thanh lành dữ. Như vậy sáu cửa này ngày đêm thường phóng quang sáng, gọi là PHÓNG QUANG TAM MUỘI. Tức là ngay cửa sáu căn của chúng ta đây, luôn luôn có ánh sáng của hòn ngọc quí đó phóng quang, mà Ngài gọi là Phóng Quang Tam Muội. Như vậy, trong chúng ta đây đâu có ai thiếu mà chưa chịu nhận, nên khéo nhận thì nơi sáu căn trâu sẵn sàng.

Đây là câu chuyện Bà Già Mất Trâu:

Có một bà già đi đến thiền sư Đại Đồng thưa rằng:

– Con vừa mất một con trâu, thỉnh thầy bói cho một quẻ.

Ngài gọi:

– Bà già!

Bà ứng thinh:

– Dạ!

Ngài bảo:

– Đây rồi.

Ngay đây bà nhận được trâu. Trâu chẳng mất đi đâu cả.

Đây là chỗ rõ ràng nên khi thiền giả sống đến đâu thấy rõ ngay nơi cửa sáu căn trâu hiện bày rành rẽ. Trong nhà thiền thỉnh thoảng có lối diễn tả đặc biệt riêng của thiền, có đôi phần hơi khó hiểu.

Thiền sư Thạch Thê hỏi thị giả:

– Ông đi đâu?

– Con đi lên trai đường.

– Ta đâu không biết ông đi lên trai đường.

– Vậy trừ ngoài việc này còn riêng nói cái gì khác?

– Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ông.

– Nếu mà hỏi việc bổn phận thì con thật đi lên trai đường.

– Ông quả thật là thị giả của ta.

Như vậy, ông thị giả thấy được trâu luôn luôn hiện nơi mình. Khi thiền sư Thạch Thê thấy thị giả đi lên trai đường, là biết thị giả đi lên trai đường nhưng Ngài hỏi là còn có ý sâu ở trong đó. Nhưng ông thị giả hỏi lại Ngài là nếu như thế thì ngoài cái việc này còn có việc thứ hai nữa sao? Nếu có cái thứ hai nữa thì thật sai lầm nguy hiểm. Nhưng thiền sư Thạch Thê bảo: “Ta chỉ hỏi việc bổn phận của ông thôi”, như là muốn nhấn mạnh, gạn lại xem ông thị giả này có thật là thấy trâu luôn luôn hiện hay không. Thị giả trả lời Ngài: “Nếu hỏi việc bổn phận của con thì con thật đi lên trai đường”, tức là trâu của thị giả luôn luôn hiện, ngay khi lên trai đường, trâu cũng đang đi lên trai đường. Đi lên trai đường mà biết rõ mình đi lên trai đường một cách rõ ràng, không mê không lầm, là trâu đã hiện trong lúc mình đi lên trai đường – Trâu luôn luôn hiện tiền. Khi nghe như thế thiền sư Thạch Thê liền chấp nhận nên bảo: “Ông đúng là thị giả của Ta”.

Chứng tỏ rằng trâu không đi đâu mất, ngay lúc chúng ta đi tới đi lui, đi lên đi xuống trâu đã hiện trong đó rồi. Người lanh lợi thì nhận ra ngay trong đó thôi. Đây là chỗ khó THẤY khó BIẾT mới nói rằng: Cửa sáu căn rõ ràng không sai. Trong động dụng rành rành hiển lộ. Hiển bày ngay trong động dụng thi vi hằng ngày, giống như Vị muối mặn trong nước, chất keo xanh trong màu. Nghĩa là nó lẫn lộn như thế, chúng ta làm sao phân biệt đây! Nhìn nước biển làm sao phân biệt cái nào là nước, cái nào là muối, dù đã biết trong nước biển có muối, nhưng muốn phân biệt được không phải dễ. Chúng ta phải đem nước biển ra phơi nắng, nước bốc hơi lên còn lại muối, hoặc phải đem vào phòng thí nghiệm điện giải…

Ở đây trâu hiện mà còn lẫn cái chân trong cái vọng, chưa phải toàn thể hiện tiền. Thế nên, người nhận gọi là khéo thầm nhận trong đó vậy thôi, thật khó mà phân tích phân biệt kỹ lưỡng, nên gọi là phải ngay trong vọng mà khéo nhận ra cái chân. Bởi vì đồng là cái biết, chân cũng là cái biết, vọng cũng là cái biết, tới đây người khéo kinh nghiệm tự mình thầm nhận ra. Nhưng cũng chỉ là thoáng thấy, chưa phải thấy hoàn toàn gọi là trâu trắng sờ sờ trước mặt được.

Vì thế khi nhìn vào hình vẽ, chúng ta chỉ thấy phần sau con trâu – Chỉ phần đuôi và phần mông của trâu thôi, tức là chưa thấy hết toàn vẹn con trâu. Tu đến đây đã có niềm vui rồi, niềm vui không thể nghĩ bàn được, vì chúng ta đã phá được một phần vô minh từ vô thủy đến nay – việc này không phải chuyện thường – Từ vô thủy đến bây giờ, chúng ta vì mê nên không biết mình có cái mặt mày chân thật này, bây giờ nhận ra được là phá được cái mê rất sâu dày, tuy vậy chỉ mới phá được một phần thôi, chưa phải là phá hết trọn vẹn, còn cần phải nhiều công phu nữa.

Ở đây nói rõ Chỉ cần nhướng lông mày lên thì xem thấy không phải vật gì khác: Mọi người cần phải nhướng lông mày lên một lần, chớ có nhắm mắt ngủ mê hoài.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Hoàng ly chi thượng nhất thanh thanh

Nhật noãn phong hòa ngạn liễu thanh

Chỉ thử cánh vô hồi tỵ xứ

Sâm sâm đầu giác họa nan thành.

Dịch:

Hoàng oanh từng tiếng hót trên cành

Nắng ấm gió hòa bờ liễu xanh

Chỉ thế còn đâu nơi tránh né

Đầu sừng lồ lộ vẽ khôn thành.

GIẢNG:

Hoàng oanh từng tiếng hót trên cành: Trâu đang gặm cỏ, cái gì nghe tiếng hót? Người khéo thấy được liền. Nắng ấm gió hòa bờ liễu xanh: Trâu đang nằm phơi mình nhai cỏ, cái gì thấy được bờ liễu xanh? Trâu đang hiện hữu nên đối diện trước mắt mình là thấy sắc nghe tiếng. Chuyện đó ai đang không có trong này? Thiền sư Chân Nguyên có bài kệ:

Rõ ràng bày hiện suốt ngày đêm

Đây là tự tánh đang phô bày

Sáu căn động dụng thể chân thường

Muôn pháp dọc ngang đều biết khắp.

Trâu luôn luôn bày hiện suốt cả ngày đêm mà chúng ta không hay. Nghĩa là tự tánh của chúng ta luôn luôn phô bày trong sáu căn động dụng suốt ngày đêm. Thể chân thường tức là trâu luôn luôn hiện nơi sáu căn động dụng không hề thiếu sót, không có xen hở lúc nào. Muôn pháp dọc ngang đều nhận biết suốt không mê lầm, gọi đó là trâu luôn luôn hiện tiền.

Nhưng điều quan trọng là trong chớp mắt phải nhận liền, không cho chần chờ, không được do dự. Nếu vừa chần chờ, do dự hay là nghĩ ngợi là trâu qua mất. Đó là điều đặc biệt, do đó phải thấy ngay.

Thiền sư Sùng Tín khi còn ở chỗ thiền sư Đạo Ngộ. Ngài Đạo Ngộ khai thị cho Ngài ở chỗ rót nước, bưng cơm là chỉ dạy tâm yếu cho rồi. Ngài Sùng Tín nghe mà chưa nhận, cúi đầu trầm ngâm suy nghĩ. Thiền sư Đạo Ngộ mới bảo:

– Thấy thì ngay đó liền thấy, suy nghĩ là trái.

Ngay đó, thiền sư Sùng Tín đại ngộ.

Ngay chỗ chúng ta sống hằng ngày, bưng cơm, rót nước, uống trà, trâu luôn luôn hiện trong đó rõ ràng, nhưng vì chúng ta không hay không biết, nên thiền sư Sùng Tín đánh thức ngay trong đó, nếu khéo nhận là nhận ngay liền, nếu chúng ta không nhận được là lỗi ở tâm suy nghĩ phân biệt. Bởi suy nghĩ phân biệt nên làm dậy sóng, khiến bản tâm xưa nay mờ đi, mới khó hiện. Đây là chỗ nhắc chúng ta phải khéo nhận.

Hoàng oanh từng tiếng hót trên cành. Nắng ấm gió hòa bờ liễu xanh: Đó là trâu hiện tiền không có gì là thiếu sót. Chỉ thế còn đâu nơi tránh né: Ngay cái thấy nghe rõ ràng thì trốn tránh đâu được nữa. Đầu sừng lồ lộ vẽ khôn thành: Đầu và sừng trâu đã lộ ra rồi, nhưng muốn vẽ thì vẽ không thành. Ở trên bức tranh chỉ vẽ phần sau mông và đuôi của trâu, trong bài kệ lại nói đầu sừng lồ lộ. Tuy thấy được đầu sừng lộ ra, vẫn chưa thấy hoàn toàn con trâu. Song đặc biệt ở đây muốn nhắc nhở chúng ta đầu sừng lộ ra nhưng không có ngòi bút nào vẽ được, không thể nào diễn tả được cho người hiểu. Do đó khi hành giả công phu đến đây thì tự mình nhận ra, tự mình cảm thấy nơi mình, nóng lạnh tự mình mình biết, còn người đứng bên ngoài muốn biết cũng không biết được. Nếu có nói cái gì ra cũng đều là khái niệm thôi, chứ không nhận biết được. Nên bắt buộc chúng ta phải hạ thủ công phu, chỗ quan trọng là phải thực hành.

Có ông tăng hỏi thiền sư Quảng Trừng:

– Thế nào là người xưa nay?

– Ngồi chung mà không biết nhau.

– Thế ấy thì học nhơn lễ tạ đi vậy.

– Thầm viết lòng buồn biết gởi cho ai.

Người xưa nay là nguyên thể của con trâu, mình ngồi chung với nó lâu nay, nay muốn biết nó thành ra biến nó thành cái thứ hai nữa rồi. Còn muốn vẽ nó ra thành hình, thành ảnh để chỉ cho người là biến thành văn tự chữ nghĩa, chỗ này chỉ thầm nhận biết thôi. Cũng như khi lòng buồn mình đâu biết gởi cho ai đây! Khi buồn chúng ta chỉ tự cảm nhận nơi mình thôi. Người nào đến chỗ này cũng tự thầm nhận, thầm biết thôi.

Chỉ thế còn đâu nơi tránh né. Đầu sừng lồ lộ vẽ khôn thành: Con trâu này không nằm nơi giấy mực, mà nó vốn ở ngay nơi mỗi người chúng ta.

Đây là bài họa của thiền sư Mộng Am Cách để cho chúng ta thấy sáng tỏ hơn.

Tụng:

Độc lộ khê biên khiếu nhất thanh

Thông thân mao phiến sắc thanh thanh

Hướng lai uổng tự không tầm mích

Thử tế khán lai bổn hiện thành.

Dịch:

Riêng lộ bên khe một tiếng kêu

Toàn thân lông hiện mảng xanh xanh

Trước giờ luống uổng tự tìm kiếm

Đến đây xem lại vốn hiện thành.

Riêng lộ bên khe một tiếng kêu. Toàn thân lông hiện mảng xanh xanh: Nghe tiếng kêu ở bên khe là biết có trâu rồi, bắt gặp nó rồi, lông tướng đã hiện bày ra trước mắt, là trâu đấy rồi, không còn mất đi đâu nữa. Trước giờ luống uổng tự tìm kiếm. Đến đây xem lại vốn hiện thành: Từ trước đến nay tưởng trâu đã mất nên phải tự tìm kiếm. Bây giờ thấy rõ nó sẵn đây rồi (vốn hiện thành).

Khi hành giả nhận được trâu rồi, có những cảm xúc mạnh, giống như là từ trước giờ tưởng đâu mất cái gì đó, lo tìm lăng xăng, bây giờ nhận lại vốn thấy sẵn nơi mình, đâu có mất gì cả, nên có được niềm vui lớn.

Một hôm, thiền sư Trí Thông ở trong hội ngài Qui Tông. Nửa đêm chợt đại ngộ bèn la lên: Tôi ngộ rồi, tôi ngộ rồi. Sáng ra ngài Qui Tông gọi tất cả chúng đến hỏi:

– Ban đêm ai nói ngộ đó thì ra xem?

Ngài Trí Thông liền đi ra. Thiền sư Qui Tông hỏi:

– Ông thấy cái gì mà la ngộ?

Ngài Trí Thông liền thưa:

– Ni cô vốn là người nữ làm thành.

Chuyện thật đơn giản, tưởng đâu ngộ là cái gì siêu phàm, tuyệt lắm. Ni cô vốn là người nữ, cũng như cái mà mình sống hằng ngày mà quên bây giờ nhớ lại, cho nên đến đây xem lại nó hiện thành sẵn vậy.

Và đây là bài họa của cư sĩ Nạp Duẫn Am 

Tụng:

Viễn viễn hốt văn khiếu kỷ thanh 

Cách khê nhất vọng thảo thanh thanh

Bổn lai tỷ khổng đoan nhiên tại

Túng sử Tung Công họa bất thành.

Dịch:

Văng vẳng chợt nghe mấy tiếng kêu

Cách xa trông thấy cỏ xanh xanh

Xưa nay lỗ mũi còn nguyên đó

Cho dẫu Tung Công vẽ khó thành.

Văng vẳng chợt nghe mấy tiếng kêu: Nghe phía xa mấy tiếng kêu liền biết là trâu ở đâu rồi. Cách xa trông thấy cỏ xanh xanh: Lại thêm trông thấy cỏ xanh xanh ấy nữa tức nhiên trâu hiện ra rồi. Ngay cái thấy nghe trâu đã hiện bày trong đó. Xưa nay lỗ mũi còn nguyên đó. Cho dẫu Tung Công vẽ khó thành: Cái bộ mặt thật của chúng ta xưa nay chưa từng mất. Còn dẫu ngài Tung Công vẽ hay đến thế nào cũng không vẽ thành được, vì việc này không nằm trên giấy mực, phải trực tiếp nhận không qua khái niệm.

Đến chỗ thấy trâu này phải trực tiếp mở con mắt tâm mà thấy, không phải dùng lý luận, khái niệm, đứng bên ngoài mà bàn nói gì được.

Tóm lại: Thiền giả khi đến đây đã thấy bản tâm mình nhưng chưa sống được, nghĩa là nó còn lẫn trong tập khí vô minh chấp ngã, chưa ra khỏi tình thức phân biệt. Vì thế trên tranh IV chỉ thấy phần sau của con trâu, chưa thấy toàn thể con trâu. Nên hành giả thấy được đến đây không được tự mãn, phải gia công nhiều nữa, vì đây chỉ mới là thấy thôi, chưa nắm bắt, chưa xỏ mũi được trâu. Song đã thấy rõ chỗ đến của mình, thấy được mục tiêu của mình, không còn nghi ngờ, không ai có thể dối mình được nữa. Đây là niềm vui lớn, chỉ còn sẵn sàng hy sinh tất cả để mà tiến tới bắt cho được trâu.

 

Tranh Số 4 – Được Trâu

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Từ lâu vùi lấp ở ngoài đồng. Hôm nay mới gặp được y. Bởi do cảnh đẹp khó đuổi xua, luyến đắm cỏ thơm chẳng thôi. Tâm ngang ngạnh còn mạnh, tánh hoang dã vẫn còn. Muốn cho được thuần hòa hẳn phải thêm roi vọt.

GIẢNG:

Từ lâu vùi lấp ở ngoài đồng. Hôm nay mới gặp được y. Bởi do cảnh đẹp khó đuổi xua, luyến đắm cỏ thơm chẳng thôi. Người thực hành đến đây nắm được dây mũi, xỏ được mũi trâu, nhưng chưa phải dễ dàng, an ổn, vì con trâu bị thói ngông cuồng huân tập từ lâu. Đây gọi là bị vùi lấp ở ngoài đồng hoang đã lâu, bây giờ chỉ mới bắt được nên nó còn xem như người xa lạ, chưa chịu tuân phục theo, vì còn đang mãi thích cỏ thơm, cỏ non tức còn thích cảnh thích duyên, quen theo duyên trần, đuổi theo phân biệt phải trái, hơn thua …, chưa chịu buông. Trên tranh chúng ta thấy trâu muốn giựt dây chạy nên gọi là Tâm ngang ngạnh còn mạnh, tánh hoang dã vẫn còn, nên vẫn còn muốn giựt dây chạy tuôn vào lúa mạ hoài. Hình ảnh chú mục đồng nắm dây kéo giựt mạnh lại, vì trâu chưa chịu tuân phục, rõ ràng như vậy.

Chúng ta đã thể nhận được tâm mình, như là chúng ta nắm một vật trong tay, không còn nghi ngờ, không còn sợ mất. Nhưng các phiền não sân si vẫn còn dấy khởi, chưa chịu yên, chưa sạch hết. Do đó mà cây roi tỉnh giác phải cầm trong tay, để khi nó bất giác thì phải quất nó liền. Gọi là thấy sắc, nghe tiếng đúng là trâu luôn luôn hiện đấy, nhưng bây giờ thấy sắc nghe tiếng trâu thỉnh thoảng khởi phân biệt, thế nên ngay đó phải phản tỉnh lại, phải tự nhắc mình. Tranh số III ở trước xem như thấy được tâm, còn đây là bắt đầu sống với nó, để mà chuyển hóa tập khí lâu đời của mình. Xỏ mũi là thấy được đầu mối mê và ngộ của tâm, chính ngay đầu mối này chúng ta phải đưa nó trở về chỗ vô sanh, đó là chỗ xỏ mũi, nắm được dây mũi trâu. Nhưng dây mũi trâu là gì? 

Một hôm, thiền sư Nam Tuyền đi qua phòng tắm, thấy vị tăng trưởng phòng tắm đang nấu nước cho đại chúng tắm. Bởi vì ngày xưa, trong thiền viện có cả ngàn hoặc hai ngàn vị tăng, mà khí hậu Trung Hoa lại lạnh, cho nên tăng chúng cần nước nóng tắm, phải tắm theo thứ tự, do đó phải có một người đứng ra trông coi nấu nước đàng hoàng. Thế nên, khi thiền sư Nam Tuyền thấy vị tăng trưởng phòng tắm nấu nước, Ngài bèn hỏi:

– Ông đang làm gì?

– Bạch Hòa thượng con nấu nước tắm.

– Nhớ kêu con trâu đực đi tắm nghe.

– Dạ.

Đến chiều ông tăng ấy mới đi vào phương trượng. Thiền sư Nam Tuyền hỏi:

– Làm gì?

– Dạ mời con trâu đực đi tắm.

Ngài Nam Tuyền nghe vậy liền bảo:

– Nhưng mà ông có đem dây mũi theo không?

Ông tăng trưởng phòng tắm không đáp được.

Mời đi tắm mà không đem theo dây mũi. Vậy chúng ta có biết dây mũi ở đâu không?

Sau đó thiền sư Triệu Châu đến. Ngài Nam Tuyền mới thuật lại việc đó. Thiền sư Triệu Châu thưa:

– Con có câu đáp.

Thiền sư Nam Tuyền mới hỏi lại ngài Triệu Châu:

– Có đem được dây mũi theo không?

Thiền sư Triệu Châu tiến tới gần, Ngài nắm lỗ mũi của ngài Nam Tuyền kéo mạnh một cái. Ngài Nam Tuyền bảo:

– Phải thì phải đó nhưng mà cũng rất thô.

Đó là dây mũi – Nắm mũi kéo mạnh một cái biết đau liền, chính ngay chỗ “biết đó” là dây mũi. Nắm được chỗ đó là nắm được dây mũi trâu, xỏ mũi được trâu.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Kiệt tận thần thông hoạch đắc cừ

Tâm cường lực tráng tốt nan trừ

Hữu thời tài đáo cao nguyên thượng

Hựu nhập yên vân thâm xứ cư.

Dịch:

Đem hết thần thông bắt được rồi

Bao nhiêu tâm sức vẫn bị lôi

Có khi vừa đến cao nguyên đứng

Lại chạy sâu vào chốn khói mây.

GIẢNG:

Đem hết thần thông bắt được rồi. Bao nhiêu tâm sức vẫn bị lôi: Chúng ta đã dùng hết công phu qua phần kiến đạo (phần III Thấy Trâu), đến đây là phần thực hành (tu đạo). Xỏ mũi được con trâu tức là thấy được chỗ nó sanh mà kéo mũi lại, ngay chỗ niệm khởi đó xỏ mũi nó liền, không để chậm trể đi theo sau đuôi nó. Gọi là chân ngay đầu trâu ăn cỏ, đó là chỗ chúng ta sống, chúng ta nắm bắt được trâu, cũng gọi nắm mũi là được trâu. Bây giờ thấy được tâm rồi, có thể sống với nó, nhưng lâu lâu vẫn còn tập khí niệm khởi tình phân biệt xen vào, chưa có xong việc, thế nên gọi là dùng bao nhiêu công sức vẫn bị nó lôi. Có khi vừa đến cao nguyên đứng. Lại chạy sâu vào chốn khói mây. Mới thấy nó đứng an ổn trên cao nguyên đó, chợt lại chạy vào trong khói mây mờ tối. Thật là đúng với tâm trạng của chúng ta. Bây giờ chúng ta chưa đến chỗ này mà cũng giống như vậy. Lâu lâu ngồi thiền yên yên được một chút, vừa mới yên yên là thấy chạy tuốt vào khói mây tức bị che mờ. Đây là trâu chưa chịu phục, vẫn còn ở trong giai đoạn gọi là giai đoạn dằn co. Niệm khởi lên thì mình buông, buông rồi nó lại khởi, khởi rồi buông, cứ dằn co như vậy.

Thật vậy, chúng ta muốn nắm được trâu không phải chuyện dễ dàng, nói lý suông ở trên môi. Ở đây cho thấy là cả một công phu, đừng có vội nói lý rằng: “Xưa nay không một vật, còn tu hành gì nữa”. Trên sự thật cái thể nó là như vậy, nhưng còn sống được như thế chưa phải dễ dàng, vì tập khí hung hăng của chúng ta vẫn còn sâu dầy. Phải có một sức gọi là sức định tuệ sâu mới thắng được, mới có sức làm chủ trở lại tâm mình. Do đó, ở đây nhắc nhở chúng ta không nên tự mãn, phải sống cho đầy đủ. Nhìn lại hình ảnh trong tranh thứ IV này, diễn tả con trâu bị mục đồng nắm dây lôi trở lại, còn con trâu chạy lôi tới trước, còn rất khó khăn chưa được dễ dàng.

Thiền sư Dũng Tuyền Hân bảo rằng: “Ta bốn mươi chín năm ở chỗ này có có lúc bị chạy lọt, bọn các ông chớ có vội ăn to nói lớn. Kẻ kiến giải thì nhiều, người hạnh giải thì ít, trong muôn người mới có một”. Ngài Dũng Tuyền nói hạnh giải là hiểu và hành chưa có được một người trong muôn người, muốn nhắc nhở chúng ta phải thấy rõ như thế, để xoay nhìn lại mình, sách tiến mình tiến lên. Còn không, khi thấy mình học hiểu được đến đó rồi hài lòng, có thể lơi lỏng công phu, không hết lòng cố gắng tiến tu. Chỉ khi hiểu được, thấy còn cách xa chưa có tiến được bao nhiêu, cần phải gia công nhiều hơn nữa, mới có thể đắc lực.

Ở bức tranh thứ tư này, thiền giả xem như công phu đến đây bắt đầu có đắc lực. Được trâu là có đắc lực rồi, có sức làm chủ trở lại mình, nhưng sức làm chủ ấy chưa được hoàn toàn. Sức làm chủ còn yếu, có khi cũng bị trâu kéo lôi đi, rồi làm chủ trở lại, xong lại tiếp tục như thế. Nghĩa là chúng ta thấy được, nhận được ngay chỗ đầu của niệm khởi để kéo lại, nhưng rồi cũng có lúc niệm vẫn khởi, tức là nó chưa chịu phục. Vì thế mục đồng chưa thể buông roi để mà ngồi yên. Đúng như ngài Trần Tôn Túc nói: “Việc lớn chưa sáng như đưa ma mẹ, việc lớn đã sáng cũng như đưa ma mẹ”. Lúc chưa thấy trâu, chưa được trâu là việc lớn đó, thì chúng ta phải hết lòng thiết tha giống như đưa đám ma mẹ mình, mình buồn khổ thiết tha, hết lòng tận lực mà lo toan đám. Việc của người tu cũng như vậy, chưa sáng được việc lớn, phải làm cho sáng không thể lơ là. Khi việc lớn đã sáng rồi cũng phải giống như đưa đám ma mẹ, phải cố gắng hết lòng mà sống cho được cái đó, nếu còn chưa được thì không nên hài lòng. Mỗi người chúng ta phải ghi nhận kỹ như vậy mới không uổng công phu của mình.

Thiền sư Thạch Cổ Di có làm bài họa để làm sáng tỏ bức tranh thứ IV này.

Tụng:

Lao bả thằng đầu mạc phóng cừ

Kỷ đa mao bệnh vị tằng trừ

Từ từ mạch tỷ thiên tương khứ

Thả yếu hồi đầu thức cựu cư.

Dịch:

Nắm chặt đầu dây chớ thả y

Bao nhiêu bệnh xấu vẫn chưa trừ

Từ từ nắm mũi mà dẫn dắt

Cốt phải xoay đầu nhận chỗ xưa.

Nắm chặt đầu dây chớ thả y. Bao nhiêu bệnh xấu vẫn chưa trừ: Vì trâu chưa được thuần thục, nên mục đồng không dám lơi lỏng, do tập khí vẫn chưa trừ hết cần phải từ từ dẫn dắt trâu quay đầu về chỗ xưa. Từ từ nắm mũi mà dẫn dắt. Cốt phải xoay đầu nhận chỗ xưa: Muốn trở về chỗ xưa là phải lìa các cảnh duyên bên ngoài, xoay đầu trở lại, không thể để cho chạy theo duyên trần. Chỗ xưa này không phải là chỗ quen thuộc với mình lâu nay, là chỗ sống thật mà chúng ta đã quên, đã bỏ qua tự lúc nào, nay phải quay đầu trở lại chỗ đó.

Và cư sĩ Nạp Duẫn Am có làm bài họa:

Tụng:

Thủy tận sơn cùng thỉ đắc cừ

Thử thời dã tánh thượng nan trừ

Nhất điều man sách lao xuyên trụ

Bất hứa cuồng bôn hướng ngoại cư.

Dịch:

Cùng tột nước non mới được y

Tánh hoang đây vẫn khó trừ đi

Một sợi dây thừng xỏ buộc chặt

Chẳng cho tung chạy hướng ra ngoài.

Cùng tột nước non mới được y: Phải hết sức tận lực công phu mới bắt gặp được trâu, cho nên gọi là cùng tột nước non, chớ không phải là chuyện dễ. Tánh hoang đây vẫn khó trừ đi: Tuy đã bắt được trâu rồi mà tánh hoang cuồng của tập khí cũ vẫn còn, trâu cứ muốn giựt dây chạy trở lại, chưa chịu yên, chưa chịu phục. Một sợi dây thừng xỏ buộc chặt. Chẳng cho tung chạy hướng ra ngoài: Thế nên cần phải nắm giữ kỹ, đừng để trâu theo thói quen cũ tung vó chạy ra ngoài. Cũng vậy, người tu tuy nắm được tâm rồi, còn phải công phu nhiều nữa, chưa phải xong. Mục này gọi là Được Trâu, qua từng mục như vậy để cho chúng ta thấy bước đi của mình còn xa lắm chưa phải dễ dàng, không có gì để mình tự hào, cần phải nỗ lực công phu nhiều hơn.

 

Tranh Số 5 – Chăn Trâu

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Niệm trước vừa dấy lên, niệm sau lại tiếp theo, do giác cho nên thành chân, bởi mê nhân đó thành vọng. Chẳng riêng do cảnh khởi, chỉ là tự tâm sanh. Nằm chặt dây mũi, chẳng cho nghĩ bàn. 

GIẢNG:

Với hình ảnh mục đồng dẫn con trâu đi về, dẫn trâu đi nên từ đây chú mục đồng đã hơi nhẹ nhàng rồi, chính đây là Công Phu Bảo Nhậm. Các phần trước là nhận được trâu, nắm dây, xỏ mũi, bây giờ gọi là công phu bảo nhậm tức là kéo dài ánh sáng chánh giác của chính mình không để cho gián đoạn. Một phen đã sáng phải giữ cho sáng mãi không cùng, không để cho những niệm bất giác xen vào, dẫn con trâu chúng ta chạy bậy, nên gọi là Chăn Trâu.

Bởi do vọng niệm của chúng ta nhạy bén lắm, một niệm vừa khởi lên kéo theo hàng loạt niệm tiếp nối. Những hành giả có công phu lâu ngày, khi nhìn thấy chỗ này rất là vui, nghĩa là thấy rõ một niệm vừa khởi lên là kéo theo hàng loạt niệm, nên mới có câu Nhất Ba Tài Động Vạn Ba Tùy (Một đợt sóng vừa khởi lên thì vạn lượn sóng chạy theo). Niệm chúng ta cũng vậy, vì thế công phu bảo nhậm của chúng ta cần phải miên mật.

Người chăn trâu khéo phải luôn luôn tỉnh giác, nhạy bén. Trâu vừa liếc mắt là phải thấy liền, giựt dây mũi trâu ngay tức là phải giác ngay, không được chần chờ, để tình thức phân biệt chen vào. Đây là chỗ phải nhận cho kỹ. Tổ Lâm Tế có đoạn nói kỹ chỗ này:

Này các ông! Tâm tâm mà chẳng khác gọi đó là Phật Tổ sống. Còn nếu tâm có khác thì đó là tánh tướng khác liền. Nghĩa là tâm tâm phải không khác thì ngay đó là Phật Tổ sống, là sức sống chân thật luôn luôn hiện bày. Còn nếu tâm vừa khác thì tánh tướng khác liền. Thế nên phải chăn thật kỹ. Và Tổ Lâm Tế còn dạy tiếp:

Cái đã dấy lên chớ có cho tiếp tục, và cái chưa dấy lên thì chẳng cho dấy, như vậy còn hơn các ông đi hành cước mười năm.

Tổ Lâm Tế dạy cũng giống Hòa thượng Trúc Lâm dạy chúng ta đang sống đây. Ngài tuy là Tổ tông Lâm Tế, mà bây giờ có các vị tu theo thiền Lâm Tế gọi là tu khán thoại đầu, vậy mà Ngài dạy rất rõ ràng như đường lối chúng ta đang đi. Tức là niệm vừa dấy lên chúng ta thấy đừng cho nó tiếp tục. – Việc này nói thì chúng ta cho đó là việc dễ dàng và thấy là tầm thường, giống như mình hiểu quá rồi, sự thật thì làm là chưa làm. Tổ dạy: Nếu niệm dấy lên chớ cho tiếp tục, còn chúng ta bây giờ niệm dấy lên cứ tiếp tục, dù thấy rõ cũng cho nó tiếp tục. Ví dụ: Vừa dấy lên thấy huynh này làm mình buồn chuyện gì đó, vừa dấy lên nhìn biết là không xong rồi, nên vừa nhớ liền không cho tiếp tục. Đó là khéo công phu. Còn nếu vừa dấy lên nói huynh đó làm buồn mình, rồi tiếp tục dấy khởi là mình phải xử trí lại cách này cách nọ …, thành ra mình có thành kiến với người đó, cứ thế mà tiếp tục nhiều lần thì tâm niệm ấy cứ đồ đậm thêm lên. Như vậy đã dấy lên rồi lại tiếp tục thêm nữa. Còn ở đây dạy đã dấy lên rồi, ngay đó dừng là xong việc. Còn niệm nào chưa dấy lên thì chẳng cho dấy, nếu được như thế Tổ bảo là còn hơn các ông đi hành cước mười năm. Chính đó là chỗ sống bình an, gọi là Chăn Trâu, sống thật là như vậy.

Do giác nên thành chân, bởi mê nhân đó thành vọng: Ở đây nhấn mạnh chỗ ánh sáng Giác ngộ, Chân và Vọng ở ngay nơi tâm mê giác của mình, chứ không ai xen vào trong đó được.

Chẳng riêng do cảnh khởi mà chỉ là tự tâm sanh thôi: Chúng ta thấy rõ chỗ này là biết chỗ sống của mình. Đây xem như chặt thẳng vào gốc tâm, chính là then chốt tu hành, không phải do cảnh khởi chỉ do tâm sanh thôi. Cảnh vốn không sinh, như cái bàn, cái ghế, tiếng chim, tiếng nhạc nào có biết gì đâu, cái hoa nó đâu biết đẹp xấu gì. Nhưng do tâm chúng ta thấy nghe, rồi trụ vào đó – Chính do sự trụ này mới thật là nguy hiểm. Vì trụ vào rồi mới khởi phân biệt, từ đó mới có đẹp xấu, từ đẹp xấu sanh ra yêu ghét, cuối cùng phiền não theo đó khởi. Còn ngay khi thấy cái hoa, tâm này dừng liền, không trụ vào là xong việc. Ngay khi thấy chỉ nguyên vẹn là thấy, nghe cũng chỉ là nguyên vẹn nghe, không thêm gì cả thì cả thấy nghe ấy nguyên vẹn, không có lỗi lầm gì hết.

Kinh Kim Cang Phật dạy: “Muốn an tâm phải vô trụ tướng bố thí”, mà vô trụ tướng bố thí là dạy buông xả sáu trần chứ không có gì cả. Tâm không có dừng lại trần nào, là trâu luôn luôn ở bên mình, sờ sờ trước mặt, không chạy mất đâu cả. Còn vừa trụ vào trần nào đó là trâu mất liền. Đơn giản là không trụ. Công phu Vô Trụ quan trọng vô cùng. Sống với Vô Trụ là An Tâm. An Tâm là trâu được yên, không còn chạy nữa.

 Nằm chặt dây mũi không cho nghĩ bàn: Dây mũi phải luôn luôn nắm chặt, không cho nghĩ ngợi, không cho tình thức xen vào. Niệm khởi lên phải tự giác. Nếu không giác kịp khiến cho mình ở trên tâm rồi lại sanh tâm, từ trên cái biết sanh cái biết nữa. Còn ở đây cho nó thuần trở về tính giác, đó là chăn trâu khéo. Ba ngài Trường Khánh, Quế Sâm, Bảo Phước đi vào trong thành, thấy đóa hoa mẫu đơn, ngài Bảo Phước nói:

– Một đóa hoa mẫu đơn đẹp.

Ngài Trường Khánh liền nói:

– Chớ để con mắt sanh hoa.

Ngài Quế Sâm liền nói thêm:

– Đáng tiếc một đóa hoa.

Chuyện này chúng ta phải suy nghiệm cách sống trong đó. Từ một đóa hoa bình thường trong sáng, vô tư, nhưng vừa có tâm xen vào thì thành chuyện. Ở đây ngài Bảo Phước giống như không gió mà dậy sóng. Ngài nói thế không phải không biết gì hết mà nói – Không gió mà dậy sóng, để gợi ý cho hai vị kia nhảy vào, chứ thật sự không phải là Ngài dở không biết gì. Nếu chúng ta chỉ chạy theo tình thức phân biệt của mình cho rằng Ngài còn phân biệt đẹp xấu là không đúng và ngài Trường Khánh cũng chưa hay nên quở: “Chớ để con mắt sanh hoa”. Ở đây, ba vị thật ra không hơn kém gì nhau cả, vì chỉ muốn cho chúng ta thấy cách sống thiền rất là sâu xa. Còn thấy hơn kém là tự nơi chúng ta. Một đóa hoa bình thường nếu không khéo chúng ta làm thành sanh chuyện có đẹp xấu, có mắt sanh hoa, có đáng tiếc một đóa. Sự thật hoa là hoa không có gì khác. Ở đây, người khéo là trả lại đóa hoa bình thường nguyên vẹn, vô sự, bèn chỉ chắp tay nói: Nam mô đóa hoa, đóa hoa – Thế thôi, chẳng thêm gì hết. Tức là xoay ngay lại đầu nguồn của tâm mà hạ thủ.

Thiền sư Quảng Trí có dạy trong phần chăn trâu của Ngài là:

Trước kia, ở dưới cửa Tổ sư chỉ ra một con đường chính tu hành, dạy người là ngay tại đầu nguồn mà khởi công. Nếu đầu nguồn đã trong sạch rồi thì lý thật luôn luôn hiện tiền, thức và niệm tự nhiên ô nhiễm chẳng được. Ví như mặt trời đã lên cao giữa hư không thì ma quái đều bặt dấu. Một pháp môn tâm địa này chính là đạo của ngàn Thánh xưa nay chẳng đổi. Trái với nó thì phàm, thuận với nó là Thánh, mê nó thì sanh tử bắt đầu, còn ngộ nó thì luân hồi ngừng dứt.

Ngài dạy công phu của chúng ta phải xoay trở lại ngay chỗ đầu nguồn mà hạ thủ. Nếu ngay đầu nguồn tâm trong sạch rồi, thì cái gì cũng trong sạch hết, lý thật luôn luôn hiện tiền. Đây là việc quan trọng nên Ngài gọi là Pháp môn tâm địa, phàm Thánh có ra từ đây, nghĩa là trái với đầu nguồn chân thật thì thành phàm, còn thuận nó là Thánh. Chính đây gọi là mấu chốt căn bản, người chăn trâu phải nắm vững chỗ này để mà sống.

Tuy nhiên đây không phải là chuyện dễ dàng, phải có một phen thấy được trâu rồi mới nắm được cái đầu nguồn này, sống miên mật được chỗ này là chăn trâu giỏi.

Thiền sư Thạch Sương khi ngộ đạo rồi không phải ra giáo hóa liền, lại ở ẩn trong một xóm lò gốm của người bình thường để chăn trâu, miên mật bảo dưỡng. Một hôm có vị tăng từ Động Sơn đến, Ngài mới hỏi:

– Ông từ đâu đến?

– Từ Động Sơn đến.

– Động Sơn có dạy gì không?

– Ngày mãn hạ Hòa thượng có dạy: Đầu thu cuối hạ huynh đệ có đi đâu thì đi, nhưng phải nhằm chỗ không một tấc cỏ mà đi.

– Trong chúng có ai đáp được không?

– Trong chúng không ai đáp được.

– Sao không đáp “vừa ra khỏi cửa liền là cỏ.”

Công phu của chúng ta nếu miên mật phải thấy được chỗ này. Vừa ra khỏi cửa liền là cỏ. Cửa tức là cửa sáu căn, vừa ra khỏi cửa gặp cỏ liền là gặp sáu trần sẵn, chúng ta phải tu thế nào đây? Phải luôn luôn tỉnh giác ngay đầu nguồn tâm, nó vừa phóng ra thấy ngay liền, tu như vậy mới gọi là miên mật. Còn bây giờ chúng ta để nó phóng ra xa, vào sâu trong cỏ mà không hay, thì sao gọi là miên mật, là chăn trâu kỹ được!

Thế nên, cần phải miên mật như thế thì trâu mới thuần. Khi trâu thuần rồi mới buông dây mũi mà không cần ngăn dẹp, trâu vẫn luôn luôn hiện trước mặt không chạy đi đâu cả. Đó mới gọi là trâu trắng sờ sờ. Bây giờ chúng ta vừa buông dây ra là trâu tuôn chạy ngay, còn khi công phu thuần thục rồi dầu buông dây ra chẳng cần công phu nữa, trâu vẫn không chạy đi đâu, lúc bấy giờ chúng ta muốn quên nó cũng không quên được, khi ấy mới gọi là công phu an ổn.

Thiền sư Quảng Trí cũng còn dạy thêm chỗ này: “Đi đứng nằm ngồi tâm tâm phải luôn luôn ở ngay con trâu này, không thể một sát na quên mất chiếu soi hay là thoáng chốc trái nhau.” Nghĩa là chăn trâu cần phải miên mật, kỹ lưỡng, nếu còn lơi lỏng quá mà tự hào thì phải coi chừng. Cần phải thấy được đầu nguồn kia mới gọi là biết chăn trâu. Ở đây nói Nắm chặt dây mũi không cho nghĩ bàn cũng đồng nghĩa miên mật như thế.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Tiên sách thời thời bất ly thân

Khủng y túng bộ nhập ai trần

Tương tương mục đắc thuần hòa dã

Ky tỏa vô ức tự trục nhân.

Dịch:

Dây roi không lúc tạm rời thân

Phòng nó chạy tuôn vào bụi trần

Chăn giữ bên mình cho điều thuận

Dây vàm buông thả vẫn theo gần.

GIẢNG:

Dây roi không lúc tạm rời thân. Phòng nó chạy tuôn vào bụi trần: Cần phải nắm chặt dây vàm và roi, phải luôn luôn sát bên mình, không để cho rời, không buông ra hở được, đề phòng trâu chạy vào bụi trần. Chăn giữ bên mình cho điều thuận. Dây vàm buông thả vẫn theo gần: Luôn luôn chăn giữ kỹ, không cử chỉ nào của trâu qua mắt được chúng ta. Cho đến khi thuần thục rồi dây vàm buông ra trâu vẫn theo bên chúng ta, không mất, đó mới là công phu được an ổn, người khéo chăn là như thế.

Thiền sư Thạch Củng Huệ Tạng trả lời Mã Tổ về chăn trâu cũng đồng một ý về chỗ này.

Một hôm thiền sư Thạch Củng đang nấu ăn ở nhà bếp. Mã Tổ đến gặp, hỏi:

– Ông đang làm gì?

– Đang chăn trâu.

– Ông chăn làm sao?

– Một khi nó chạy vào trong lúa mạ của người thì kéo mũi nó lại.

– Ông thật khéo chăn trâu.

Khéo chăn trâu là lúc nào cũng tỉnh giác, hễ trâu ăn lúa mạ của người thì kéo lại liền, tức là người chăn cần phải thấy lại ngay đầu nguồn của nó. Như thiền sư Thạch Sương nói: “Vừa ra khỏi cửa liền là cỏ”, phải chăn kỹ như thế trâu mới thuần thục. Khi thuần thục rồi mới an ổn – Trâu khi thuần rồi sẽ giống như câu chuyện xảy ra giữa thiền sư Bạch Vân Thủ Đoan và ông quan Quách Công Phụ. Ông quan này có tham thiền học đạo và sáng tỏ được lý thiền.

Một hôm Quách Công Phụ đến viếng ngài Bạch Vân Thủ Đoan. Ngài Bạch Vân hỏi:

– Trâu ông đã thuần chưa?

– Đã thuần rồi.

Ngài Bạch Vân Thủ Đoan bèn trợn mắt lên quát mắng tơi tả. Ông Quách Công Phụ khi bị mắng vẫn thản nhiên khoanh tay bước tới, cúi đầu trước ngài Bạch Vân Thủ Đoan. Ngài Bạch Vân Thủ Đoan cười nói:

– À, thuần rồi, thuần rồi.

Chúng ta thấy trâu thuần phải được như thế. Sau đó mới có bài tụng:

Trâu ở trong núi,

Đủ nước đủ cỏ.

Trâu ra khỏi núi, 

Húc đông húc tây.

Trâu ở trong núi đủ nước đủ cỏ thì an ổn, nhưng ra khỏi núi thì húc đông húc tây xem như chạy tầm bậy. Thế nên chúng ta phải khéo giữ gìn để chăn con trâu.

Thiền giả khi đến được chỗ chăn trâu này là đã có sức sống thiền mạnh rồi, thường có mặt trong mọi nơi, tức là để cho ánh sáng chánh giác luôn luôn chiếu khắp, rồi từng niệm từng niệm đưa trở về chân, tức con trâu tâm được thuần hòa hết chạy bậy, cho đến lúc buông dây mũi mà trâu vẫn theo bên mình, công phu mới thật nhẹ nhàng an ổn. Đó mới thật là chăn trâu.

Thiền sư Thiên Nham Trường cũng có làm một bài họa:

Tụng:

Bách thảo đầu biên bách ức thân

Như hà đắc bất phạm tiêm trần

Tỷ thằng duệ chuyển tùng đầu khán

Thùy thị ngưu hề thùy thị nhân?

Dịch:

Bên đầu trăm cỏ trăm ức thân

Thế nào được chẳng phạm mảy trần?

Dây mũi kéo xoay xem thẳng đó

Ai là trâu đấy ai là người?

Bên đầu trăm cỏ trăm ức thân. Thế nào được chẳng phạm mảy trần? Ngay bên đầu trăm cỏ, các cảnh vật, các duyên trần, trăm ức hóa thân quá nhiều hiện trước mắt, trâu sẵn sàng chạy theo, chúng ta phải làm sao để cho trâu khỏi phạm? Cũng vậy hóa thân của chúng ta cũng quá nhiều tức niệm này niệm kia sẵn sàng sinh khởi. Mỗi niệm là một hóa thân, vì sẵn sàng sinh nên đụng một cái là duyên theo, chạy ra ngoài liền. Vậy muốn không phạm một trần cần phải miên mật, giống như thiền sư Thạch Sương đã nói là ngay nơi đầu nguồn trâu vừa thoáng ra phải thấy liền, dừng lại liền nên “vừa ra khỏi cửa, liền là cỏ”, đừng để cho chạy sâu lún quá sâu vào trong cỏ.

Dây mũi kéo xoay xem thẳng đó. Ai là trâu đấy ai là người? Đây mới thật là chăn kỹ, nắm dây mũi kéo thẳng tức phải thấy liền trở lại ngay chỗ nó khởi, rồi nhìn lại xem ai là trâu, ai là người? Hết niệm phân biệt thì trâu hết chạy. Đó là cách chăn trâu kỹ của người chăn.

Cư sĩ Nạp Duẩn Am có làm bài họa:

Tụng:

Thủ bả tiên thằng khẩn bức thân

Mạc giao tính thiệp đạp hoàn trần

Nhất hồi nhập thảo man khiên chuyển

Na khẳng tùy tha khứ phạm nhân.

Dịch:

Tay nắm dây roi sát bên mình

Chớ cho càn bướng đạp bụi trần

Mỗi lần vào cỏ liền kéo lại

Đâu để mặc tình phạm của người.

Bốn câu này muốn bảo mục đồng phải chăn trâu của mình cho thật kỹ, không được rời trâu, không cho chạy càn vào bụi trần, dây roi không được buông lỏng phải luôn luôn sát bên mình. Cũng vậy, mỗi lần bất giác khởi lên, thiền giả phải kéo lại liền, cứ như thế dần dần công phu thuần thục. Khi công phu đã thuần rồi, dầu có buông dây ra trâu vẫn không đi, không mất, đó mới gọi là chăn trâu kỹ.

 

Tranh Số 6 – Cưỡi Trâu Về Nhà

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Chiến tranh đã hết, được mất trở về không. Hát bài ca thôn dã của ông tiều, thổi khúc nhạc đồng quê của chú mục đồng. Ngồi ngang trên lưng trâu mắt nhìn trời mây. Kêu gọi chẳng quày đầu, bao giữ cũng chẳng đứng lại.

GIẢNG:

Cỡi trâu về nhà là trâu đã thuần, trâu chịu đi theo mục đồng. Công phu đến giai đoạn này đã qua được nhọc nhằn khổ sở, được nhẹ nhàng nên bây giờ cỡi trâu về nhà. Gọi là chiến tranh đã hết, không còn phải dằn co với trâu nữa, được mất cũng là trở về không, cho biết rõ bây giờ mục đồng đã thắng được trâu, làm chủ được tâm, công phu đến đây được vui vẻ nhẹ nhàng, hát lên bài ca thôn dã của ông tiều, thổi khúc nhạc đồng quê của mục đồng, ngồi ngang lưng trâu mắt nhìn trời mây. Tâm đã trở lại gốc, tức niệm đã trở về chân. Cảnh duyên ở trước mắt không còn kéo lôi được, bây giờ chỉ một mạch đi thẳng về nhà thôi, nên gọi là kêu gọi chẳng quày đầu lại, chỉ một bề làm sao sống ngay bản tâm xưa nay của mình. Đến đây thiền giả chứng nghiệm rõ ràng Tâm Sanh Các Pháp Sanh, Tâm Diệt Các Pháp Diệt.

Ở các giai đoạn trước chúng ta nghe nói thì hiểu cũng có hiểu, nhưng chỉ là khái niệm. Đến đây mới chứng thật cảnh giới bên ngoài vốn tịch diệt cho nên nó không sanh, do tâm dấy khởi nó mới gây thành sóng, khi tâm không sanh muôn pháp không có lỗi. Nghĩa là cảnh có mà tâm đã không thì có là có mà không chi phối được tâm. Cho nên đây được gọi là đi thẳng về nhà, cảnh kêu gọi cũng không quay đầu.

Có một vị tăng hỏi thiền sư Cự Tuần ở Lang Nha.

– Người xưa được cái gì mà liền thôi dứt.

– Như giặc cướp vào nhà trống.

Khi tâm của các Ngài (người xưa) trống rỗng không có gì hết, thì giặc vào lấy được cái gì? Sở dĩ chúng ta bị giặc cướp vào lấy cái này cái kia, là do nhà chúng ta chứa nhiều đồ đạc quá, còn nhà mình trống trơn thì giặc vào lấy cái gì đây! Chỗ tu, công phu của chúng ta là ở ngay đó. Cũng vậy, khi tâm rỗng không, cảnh đến thì đi thôi đâu có dính dáng chuyện gì. Chúng ta tâm chứa nhiều thứ, khi cảnh đến là mắc kẹt, rồi hóa thành phiền não … Đến được chỗ này thiền giả mới cảm nhận được như vậy, công phu đến đây gọi là Cỡi Trâu Về Nhà, còn gọi là Tùy Duyên Tiêu Nghiệp Cũ, sống tùy theo duyên cho nghiệp cũ của mình mỗi ngày mỗi tiêu mất, và không còn tạo thêm nghiệp mới, đó gọi là sống trở về quê xưa.

Ngày nay, chúng ta có khi cũng tùy duyên tiêu bớt nghiệp cũ, nhưng rồi lâu lâu cũng tạo thêm nghiệp mới. Nghiệp cũ chưa hết rồi tạo thêm nghiệp mới – Đây là chỗ tế nhị. Nếu chúng ta tu mà không để ý, có khi cũng xem thường. Tạo nghiệp mới xong tu lại buông và cứ tiếp tục như thế, làm tốn công thêm rất nhiều. Như bây giờ tu là buông hết những nghiệp cũ, để cho tâm được trong sáng giống như ngôi nhà trống, nhưng mới buông được ít cái lại thâu cái khác vào.

Ví dụ chúng ta có thói quen thích đọc báo, đọc tiểu thuyết – Tiểu thuyết kiếm hiệp chẳng hạn. Khi đọc thì say mê bỏ ngủ quên ăn, dù có bị cấm cũng len lén đọc. Tức là huân tập cái mới thêm vào, lại là huân tập pháp thế gian, đó gọi là niệm cũ chưa hết lại huân tập thêm cái mới. Đến buổi tối ngồi thiền nhớ lại, nhớ lại liền buông, cứ buông rồi nhớ … Buông được ít hôm, rồi lâu lâu lại huân cái mới vào. Đọc báo cũng vậy, cái cũ chưa hết cái mới lại thêm.

Ở đây gọi là Tùy Duyên Tiêu Nghiệp Cũ, nhưng không tạo thêm nghiệp mới. Phải nhớ rõ như vậy. Có được thế công phu mới thuần thục, tâm mới trống sạch, khi tâm trống sạch hết những chủng tử rồi, khi đó chúng ta tiếp duyên đối cảnh tất cả đều chuyển hết, như thế mới gọi là Tùy Duyên mà không còn thêm cái gì khác. Như nước đã được lọc trong rồi, không còn có cặn bã nào, lúc đó muốn quậy sóng cách mấy đi nữa, nước vẫn cứ trong. Bấy giờ muốn đọc sách gì thì đọc vì nước đã trong rồi, không còn bị ô nhiễm. Còn bây giờ chưa phải vậy, có lúc thì cũng tạm lặng yên, nhưng mà cặn bã còn nằm ở dưới, khi quậy lên nước bị nhiễm dơ, bị đục.

Người tu đến đây phải tâm không, duyên cảnh có đến cũng không trói buộc, gọi là kêu gọi cũng không quay đầu trở lại là thế, cứ đi thẳng thôi. Trong Chứng Đạo Ca của thiền sư Huyền Giác có đoạn:

Tụng:

Tòng tha báng, nhậm tha phi

Bả hỏa thiêu thiên đồ tự bì

Ngã văn kháp tợ ẩm cam lộ

Tiêu dung đốn nhập bất tư nghì.

Dịch:

Mặc cho người báng, mặc người dèm

Cầm lửa đốt trời khổ nhọc thêm

Ta nghe như uống cam lồ vậy

Tan hết vào trong chẳng nghĩ bàn.

Hoặc như Thiền sư Vạn Hạnh cũng có nói:

Mặc cuộc thịnh suy không sợ hãi

Thịnh suy như cỏ hạt sương đông.

Đối với thịnh suy ở thế gian không còn làm bận lòng nữa. Bởi thịnh suy là cái duyên bên ngoài, còn đây là làm chủ trở lại, sống trở lại với chính mình, nên các duyên bên ngoài không chi phối được, cứ đi thẳng một mạch về nhà, gọi là Cỡi Trâu Về Nhà.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Kỵ ngưu dĩ lệ dục hoàn gia

Khương địch thanh thanh tống vãn hà

Nhất phách nhất ca vô hạn ý

Tri âm hà tất cổ thần nha.

Dịch:

Ven đường trâu cỡi trở về nhà

Sáo thổi vi vu tiễn chiều tà

Một nhịp một ca vô hạn ý

Tri âm nào phải động môi nha.

GIẢNG:

Ven đường trâu cỡi trở về nhà: Buổi chiều kẻ mục đồng cỡi trâu đi men theo con đường, thong thả trở về nhà. Đã qua rồi một thời nhọc nhằn kéo lôi có roi vọt. Trâu bây giờ đã thuận theo người, cái vọng thuận trở về cái chân.

Sáo thổi vi vu tiễn chiều tà: Mục đồng thổi sáo, tiếng sáo vi vu như tiễn đưa, vẫy chào buổi chiều tà hay là vẫy chào cả ngày dài ở ngoài đồng hoang ngoài rừng sâu. Tức cái tâm lang thang nay đã khép lại, hết lang thang rồi.

Một nhịp một ca vô hạn ý: Gõ từng nhịp ca hát, lòng thanh thản vô tư. Tâm trạng mục đồng rất nhàn nhã, bao nhiêu duyên ngoài cắt đứt, gọi là đi qua mà không ngoái lại, không có luyến tiếc đi thẳng về nhà. Người tu bây giờ còn luyến tiếc nhiều duyên trần, những cái vui của thế gian, đi qua lâu lâu còn ngoái lại, liếc lại, có khi còn quày trở lại để xem chơi nữa. Vì thế mà chưa đi thẳng một mạch về nhà, thế nên cần xét lại công phu của chúng ta, cần phải còn gia sức thêm nhiều, không thể dể duôi tự hào được.

Tri âm nào phải động môi nha: Tri âm tức là người cảm thông nhau, thầm hiểu nhau, không cần nói thành lời, không phải động môi, động lưỡi. Chữ NHA là tiếng trợ từ của miền Nam bộ, ví dụ: Tôi đi nha! Thôi nha! Và chữ NHA cũng là chữ Hán, nghĩa là cái răng. Cho nên một chữ mà hai nghĩa. Hai chữ MÔI NHA đứng vào vị trí này để thầm nhận cái ý sâu trong đó, là về nhà mình, không để tâm phóng ra ngoài.

Đến được bức số VI là Cỡi Trâu Về Nhà này, thiền giả đến đây tâm hết còn chạy lang thang theo trần cảnh, trâu đến đây đi thẳng một mạch về nhà, gọi là trả tâm về ngay nguồn cội ban đầu của nó (tức là trở về nhà). Tuy gọi là về nhà đó song vẫn còn hơi xa chưa phải thật sự hoàn toàn trở về. Nhưng đã được gọi trở về nhà là tốt rồi.

Nay thử kiểm lại trên mỗi người chúng ta từ mục I cho đến mục này, bước đường đi đã đến đâu? Nếu còn xa mà cứ mãi lo ngắm cảnh xem hoa, thử hỏi sẽ đi về đâu? Đã thấy đoạn đường của mình còn dài, mà không dồn hết công phu để tiến tới, có lúc phải hối hận! Nghĩa là cứ sống lơ là, tập khí tức thói quen cũ lâu lâu khởi lên, khiến sanh phân biệt hơn thua tốt xấu …, rồi lộ ra tướng ngã tướng nhân …, phiền não sanh khởi, công phu lui sụt dần, thật là nguy hiểm! Khi thấy được điều này chúng ta phải tự kiểm lại đường đi của mình, mỗi người phải thật tình ngồi xét trở lại rồi mình sẽ ra sao, khi chết đi về đâu? Thời gian không đợi, cũng không có lâu. Nhất là mấy vị còn trẻ, cứ nghĩ mình còn trẻ, sức khỏe nhiều nên sanh lơi lỏng. Nếu xét thật kỹ, chính việc này chúng ta phải thực hành trong khi đang mạnh, khi sức khỏe còn tốt, tinh thần còn sáng suốt là lúc công phu tốt nhất. Nếu sức khỏe yếu, nghị lực cũng yếu theo, lúc muốn làm, làm không được, vì nghị lực yếu muốn buông cũng khó buông. Khi tinh thần sáng suốt, sức khỏe mạnh nghị lực mạnh buông rất dễ.

Thiền sư Tuyệt Chiếu Huy Công ở Thọ Xương có bài kệ tụng:

Tụng:

Công phu vị đáo phương viên địa

Kỷ độ bằng lan độc tự sầu

Kim nhật thị tam minh nhật tứ

Tuyết sương dung dị thướng nhân đầu.

Dịch:

Công phu chưa đến chỗ vuông tròn

Bao lần tựa cửa tự sầu vương

Hôm nay là ba mai là bốn

Đầu người thoáng đã điểm màu sương.

Công phu chưa đến chỗ gọi là đầy đủ thuần thục. Biết bao nhiêu lần đứng tựa cửa tự mình buồn, tự sầu vì thấy công phu chưa đến đâu. Giống như ngài Y Am Quyền mỗi lần chiều xuống là rơi nước mắt: “Hôm nay lại một ngày nữa trôi qua, mà công phu của ta chưa có được chi cả”. Đây cũng vậy, mỗi lần nhớ lại công phu mình chưa được vuông tròn thì tự thấy buồn, rõ ràng hôm nay mồng ba mai là bốn, thật tế là ngày tháng sát nhau như vậy, nên đầu người thoáng đã điểm màu sương. Nhìn lại xem thì cái già sắp đến rồi. Đó là nhắc nhở mỗi người phải nhớ lại công việc của mình để mà tiến, không nên lơ là.

 

Tranh Số 7 – Quên Trâu Còn Người

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Pháp không có hai pháp, trâu gọi là tâm. Dụ tên khác của thỏ bẫy, bày sai biệt của cá nơm. Như vàng ra khỏi khoáng, tợ trăng ra khỏi mây. Một đường ánh sáng lạnh, ngoài kiếp Oai âm.

GIẢNG:

Đến đây xem như trâu đã mất chỉ còn có người, nên trong bức tranh chỉ còn chú mục đồng ngồi bên cạnh mái nhà cỏ, được rảnh rang. Nhưng mất ở đây không giống cái mất ban đầu. Ban đầu cũng mất trâu rồi đi tìm trâu, đến đây cũng mất trâu nhưng lại khác. Vì ban đầu do bất giác, bởi bất giác nên quên mất mới đi tìm. Còn trâu bây giờ đang hợp về với người, trâu với người giống như là một, nên không còn thấy trâu nữa thì còn gì phải chăn giữ, dòm ngó. Đến đây xem như vọng đã lặng, đã không, đã trở về với bản tâm xưa nay của mình, không còn chia đây là chân kia là vọng. Chỉ riêng còn cái bản tâm thầm hợp thôi, nên cũng còn dấu vết là còn người (Tranh VII) tức đây là còn cái thường giác.

Trong công phu tu hành của thiền giả trước đây xem như có hai, bây giờ thì quên, gọi là pháp không hai pháp. Có trâu, có người chăn trâu là hai pháp, do có hai pháp nên có tu, rồi có chăn có giữ. Còn đến cái lý thật, sự thật thì tâm thể hay bản tâm của mình không có hai thứ. Trong bản tâm không có chân, không có vọng hay là đây kia … Như vậy trong đó không có một pháp thật nào ngoài tâm mà có. Nhưng ở đây lập ra có con trâu, tức ngoài tâm có thêm con trâu, như thế trâu đây cũng chỉ là phương tiện thôi. Vì là phương tiện nên gọi là dụ tên khác của thỏ bẫy, bày sai biệt của cá nơm. Tức con trâu là phương tiện lập ra để nhắc lại cho chúng ta nhớ. Sự thật vốn chỉ có một tâm chứ không phải riêng có cái pháp thứ hai nào khác, hay có một cái tâm nữa để cho mình tìm hay mình chăn giữ. Ví dụ như cái bẫy lập ra để bẫy con thỏ, khi bắt được thỏ rồi phải bỏ cái bẫy. Dùng cái nơm để bắt cá, bắt được cá thì quên nơm. Con thỏ không phải là cái bẫy, con cá không phải là cái nơm. Nếu nhận cái bẫy là thỏ, cái nơm là cá đó gọi là lầm mê. Cũng vậy, ngay khi nhận được lẽ thật rồi phải quên đi phương tiện.

Đến đây chúng ta thấy rõ con trâu là phương tiện ban đầu lập ra để nhắc nhở mình trong lúc còn mê, nhân đó mà tìm nhớ lại bản tâm của mình, hay là tìm lại chính mình. Chúng ta không thể lầm cho là thật có trâu để tìm, rồi cứ giữ hoài giữ mãi, lúc nào cũng lo giữ con trâu thành ra chướng ngại.

Bây giờ tâm đã trở về cái gốc thuần chân ban đầu tức đã vượt ra khỏi phương tiện. Ví như vàng ra khỏi khoáng hay tợ trăng ra khỏi mây. Vàng bây giờ đã được lọc ra, lấy ra khỏi khoáng, đã thành vàng tinh ròng, không còn lẫn lộn trong khoáng. Cũng tợ như trăng đã ra khỏi mây, không còn bị che tức phương tiện không còn che đậy được nữa. Chú mục đồng thật an nhàn, Chân tâm mới thật lộ ra rõ ràng.

Thiền giả tu đến khi Chân tâm hiện tiền phải trải qua quá trình rất dài chứ không phải đơn giản. Nếu có người tu nào mới hiểu loáng thoáng một chút ít mà nói chân tâm trước mặt rồi, nhiều khi đó là vọng ngữ. Vì trăng ra khỏi mây, tức mây vọng niệm hết rồi thì chân tâm lộ ra khỏi đám mây vọng niệm. Tâm thiền giả thanh tịnh rõ ràng không cần dụng công nữa, gọi là quên công phu chăn giữ nhưng vẫn có mặt.

Một đường ánh sáng lạnh vượt ngoài kiếp Oai Âm. Oai Âm là chỉ cho một vị Phật ở trong kinh Pháp Hoa có nhắc đến. Vị Phật này sống rất lâu xa, Ngài sống trước cả Không Kiếp tức Không Kiếp về trước lúc đó chưa có tên Phật và chúng sinh, ở đây muốn nói là vượt ra ngoài phương tiện dựng lập, chặt đứt hết mọi niệm phân biệt đối đãi, vượt ngoài những tình thức sanh diệt, mà thẳng trở lại nguồn chân. Tới đây là thẳng trở về nhà, công phu chăn giữ cũng phải buông. Người tu khi này mới gọi là an nhàn, niềm tin vững chắc, không còn thoái chuyển, hết cả nhọc nhằn.

Thiền sư Nghĩa Thanh đến chỗ thiền sư Viên Thông Tú, Ngài đi thẳng đến tăng đường, không thưa hỏi, cũng không tu hành gì cả. Chỉ ăn xong rồi nằm ngủ. Vị tri sự thấy vậy, không chịu nổi, mới lên bạch với ngài Viên Thông Tú:

– Trong tăng đường có vị tăng cả ngày cứ lo ăn rồi ngủ, vậy xin bạch Hòa thượng bây giờ cứ theo qui chế của thiền môn mà phạt.

Thiền sư Viên Thông Tú nghe xong, liền hỏi:

– Đó là người nào?

– Dạ thưa là Thượng tọa Thanh.

– Thôi hãy khoan, đợi ta đến khám phá, xét qua cái đã.

Ngài liền cầm cây gậy vào trong tăng đường, gặp ngài Nghĩa Thanh đang nằm ngủ. Ngài mới dùng gậy gỏ vào cái giường mà thiền sư Nghĩa Thanh đang nằm và bảo:

– Ở trong đây tôi không có cơm dư canh thừa để cho Thượng tọa ăn xong rồi ngủ.

– Vậy thì Hòa thượng dạy tôi làm cái gì?

– Sao không lo tham thiền?

– Món ăn ngon không cần với người đã no bụng.

Sau đó hai ngài cười và nắm tay nhau đi về phương trượng.

Đến được chỗ như thế mới thật sự nhẹ nhàng. Tức là xong việc rồi, giống như bụng no rồi thì dù là món ăn ngon cũng không cần thêm nữa. Nếu chúng ta chưa gì hết, nghe cái lý này cũng bắt chước nói vậy, nhưng sự thật là chưa đến, đó là vọng ngữ. Nghĩa là mình chưa no bụng mà bỏ cơm ngon sẽ bị đói, thật là nguy hiểm – Vì chưa phải thật no bụng.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Kỵ ngưu dĩ đắc đáo gia san

Ngưu dã không hề nhân dã nhàn

Hồng nhật tam can du tác mộng

Tiên thằng không đốn thảo đường gian.

Dịch:

Cỡi trâu về đến tận nhà rồi

Trâu không người cũng thật thảnh thơi

Trời đã lên cao còn say giấc

Ném trong nhà cỏ bỏ dây roi.

GIẢNG:

Khi trở lại cái nguồn tâm lặng lẽ ban đầu, là cội nguồn bất sanh bất diệt nên gọi là:

Cỡi trâu về đến tận nhà rồi – Nhà là nguồn tâm lặng lẽ ban đầu hay gọi là chỗ trước khi niệm khởi. Trở về đến nhà là sống được trong đó rồi, chứ không phải chỉ mới hiểu mới ngộ thôi. Hiểu và ngộ thì chưa gọi là sống được chỉ khi đến nhà mới gọi là sống được.

Trâu không người cũng thật thảnh thơi: Trâu đã không rồi không cần phải chăn gì nữa, nên người cũng nhẹ nhàng thảnh thơi tức là quên đi sự công phu – Nghĩa là hết có chỗ để chiếu soi hay là giữ gìn, vì niệm đã lặng bây giờ chiếu soi cái gì đây! Thế nên cái Ngộ cũng mất luôn vì không còn trâu để cho mình ngộ, mình chiếu soi.

Trời đã lên cao còn say giấc: Bên ngoài mặt trời đã lên cao, trong này chú mục đồng vẫn còn ngủ say, không hề biết mặt trời đã lên cao. Đây là thảnh thơi vô sự, không cần biết chuyện bên ngoài.

Ném trong nhà cỏ bỏ dây roi: Dây mũi, roi đến đây ném bỏ không cần dùng nữa, tức là buông hết công phu, chỗ này trong nhà thiền có nói: TU LÀ HỌA. Bởi vì trâu đã mất rồi, tu cái gì? Chỉ còn một tâm thanh tịnh không thêm gì khác, đó gọi là:

Tùy duyên tiêu nghiệp cũ

Hồn nhiên mặc áo xiêm. 

Nghĩa là thuận với tánh mà mình sống, cho dứt hết các nghiệp cũ, nhưng không tạo thêm nghiệp mới. Đó là chỗ sống ở đây.

Thiền sư Duy Nghiễm Dược Sơn một hôm đang ngồi trên tảng đá, Hòa thượng Thạch Đầu đến hỏi thăm:

– Ở đây ông làm gì?

– Tất cả chẳng làm. (Tức là buông hết, không tạo tác không thêm gì hết)

– Tại sao ngồi yên?

– Nếu ngồi yên tức là làm. (Chính ngay chỗ vô sự là chỗ sống)

– Ông nói chẳng làm là chẳng làm cái gì?

– Ngàn Thánh cũng không biết.

Gọi là buông, là vô sự, là ngồi yên mà chẳng làm đó là chỗ sống ở đây. Nhưng còn phải tiến thêm một bước nữa, phải tiến đến chỗ ngàn Thánh cũng chẳng biết. Nếu dừng ở chỗ đó thì cũng còn chỗ ngàn Thánh ngó được. Ở bức tranh thứ VII này gọi là Còn Người là còn có chỗ dòm thấy. Thiền giả khi tu đến đây không khéo lại tưởng mình như là Phật, thật là nguy. Bởi vì quên trâu rồi còn người, là chỉ còn lại một tâm thanh tịnh, nên tưởng mình giống như Phật. Vì vậy cần phải bước qua bức tranh thứ VIII là Người Trâu Đều Quên.

Ngài Sở Thạch Kỳ có làm bài họa:

Tụng:

Vạn trùng vân thọ vạn trùng san

Đảo ngọa hoành miên nhậm ngã nhàn

Thử cảnh họa đồ thu bất đắc

Thùy ngôn thân tại họa đồ gian.

Dịch:

Ngàn lớp rừng mây ngàn lớp non

Ngã thân nằm ngủ thật an nhàn

Cảnh này tranh vẽ thu chẳng được

Ai bảo thân nằm trong bức tranh.

Ngàn lớp rừng mây ngàn lớp non. Ngã thân nằm ngủ thật an nhàn: Dù cho rừng mây non núi trùng trùng, nhưng vẫn mặc kệ nó, thân vẫn nằm ngang ngủ, thật an nhàn vô sự. Cảnh này tranh vẽ thu chẳng được. Ai bảo thân nằm trong bức tranh: Đây là chỗ thoát ra mọi phương tiện, nghĩa là không nằm trong tranh vẽ. Vẽ không được tả không xong. Phải là người thật sống trong đây thôi, vượt qua ngoài những phương tiện.

Cu sĩ Nạp Duẫn Am cũng có làm bài họa:

Tụng:

Tiên thằng phao hạ nọa đăng san

Vô liễu ngưu nhi tâm tự nhàn

Thùy túc bất tri song ngoại sự 

Tịch dương dĩ sạ thảo đường gian.

Dịch:

Dây roi ném bỏ biếng lên non

Trâu đã không rồi tâm tự nhàn

Ngủ say chẳng biết ngoài song việc

Nhà cỏ nắng chiều đã rọi sang.

Bỏ hết dây roi rồi cũng làm biếng lên non lên núi. Khi không còn trâu nữa nên các công phu đã buông bỏ, tâm được an nhàn rảnh rang. Vì thế mà chú mục đồng ở trong này cứ nằm ngủ say, công việc bên ngoài không cần biết đến. Chú ngủ say mãi đến chiều nắng rọi sang cũng không hay, tức khi này chú quên hết tất cả duyên bên ngoài.

 

Tranh Số 8 – Người Trâu Đều Quên

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Phàm tình rơi rớt sạch, Thánh ý thảy đều không. Chỗ có Phật cũng chẳng được dừng ở, chỗ không Phật chạy nhanh qua. Chẳng kẹt ở hai đầu, ngàn Thánh khó dòm thấy. Trăm chim ngậm hoa một phen hổ thẹn.

Đến đây chỉ còn một vòng tròn, sạch hết hai bên trâu và người, gọi là Người Trâu Đều Quên.

Ở bức tranh số VII trước, vọng hết rồi trở về chân, song vẫn còn cái chân chẳng quên được, thế nên quên hai nhưng lại “còn một” tức là còn người. Do đó vẫn còn dấu vết cái chân, dấu vết cái thanh tịnh, tức dấu vết chú mục đồng ngồi vô sự bên ngôi nhà cỏ. Vì còn dấu vết nên còn có chỗ để thấy, chưa phải là chỗ ngàn Thánh khó dòm thấy.

Đến đây đã tiến lên một bước là buông bỏ cả người luôn, tức là chỗ bản tâm khế hợp hay là chỗ thanh tịnh kia cũng quên sạch hết. Chỗ này gọi là Phàm tình rơi rớt sạch, Thánh ý thảy đều không, nghĩa là phàm tình ý Thánh sạch hết không còn chỗ bám.

Theo bức tranh số VI trước, xem như cỡi trâu về nhà, đến đây thật sự cũng không có đâu là nhà, hoặc là có chỗ để về. Sở dĩ nói cỡi trâu về nhà là phương tiện mà nói, sự thật là chỉ sống ngay đây thôi – Ngay đây thôi, chứ không có chỗ nào mà về hết. Khi mê chúng ta thấy giống như cách xa, tâm một nơi, người một nơi nên mới có tìm tâm để quay về trở lại, hay có cỡi trâu về nhà. Tất cả đó đều là mê, là tưởng tượng, chứ sự thật không có cái tâm nào khác để trở về. Chính là chúng ta đang sống trong bản tâm thanh tịnh hằng ngày mà quên. Cuối cùng khi thấy rõ mình đang sống trong đó hằng ngày nên quên cả niệm phàm Thánh, bặt dứt có không, người trâu đều quên là như thế. Chớ không có cái chỗ nhà để chúng ta trở về. Phải nhớ như vậy.

Chỗ có Phật cũng chẳng được dừng ở, chỗ không Phật chạy nhanh qua: Chỗ có Phật không được dừng ở là vượt qua ý niệm về có; Chỗ không Phật chạy nhanh qua là vượt qua ý niệm về không. Có không đều vượt qua, nếu còn mắc kẹt hoặc bên có, hoặc bên không thì chưa qua được chỗ này. Phải sạch hết, không còn một chút dấu vết nào gọi là để cho bên ngoài nhìn thấy được. Cho nên trong tranh chỉ còn vòng tròn, chỉ vậy thôi, không ai biết có cái gì ở trong đó. Chỉ có người ở trong cảnh đó, gọi là người chứng ngộ tự biết thôi. Thế nên ở đây nói Chẳng kẹt hai đầu, ngàn Thánh khó dòm thấy là không dính mắc bên nào cả, nên không chỗ trụ để mà dòm thấy. Đây gọi là chỗ trở về tột ngay chỗ ban đầu khi niệm chưa sanh.

Thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung ban đầu Ngài tu ở núi Ngưu Đầu. Ngài ngồi thiền suốt ngày do đó cảm được các loài chim thường ngậm hoa đến cúng dường. Đến khi được gặp Tứ Tổ Đạo Tín khai thị cho Ngài về chỗ yếu chỉ của thiền tông, Ngài mới cảm ngộ sâu và sau đó thì chim hết ngậm hoa cúng dường.

Đối với cái nhìn thông thường cho là Ngài tu hết linh rồi. Ban đầu Ngài tu còn linh nên chim ngậm hoa đến cúng dường, nhưng sau khi gặp Tổ thì chim không còn cúng dường nên cho là Ngài tu hết linh. Sự thật với cái nhìn của thiền tông thì chính chỗ chim không còn cúng dường, mới gọi là chỗ chư Tổ ấn chứng. Vì trước tu nhưng còn có tâm để cho bên ngoài thấy, nên chim mới cảm được chỗ đó mà ngậm hoa đến cúng dường. Còn bây giờ bặt hết dấu vết của tâm, không còn có chỗ thấy để cúng dường. Đó là chỗ ngàn Thánh dòm không thấy, quỉ thần xem cũng không được, người tu chúng ta phải vượt qua hai bên để đến chỗ này.

Thiền sư Đạo Ưng khi còn ở hội ngài Động Sơn, Sư có cất thảo am nơi Tam Phong, trải qua tuần nhật không xuống trai đường để dùng cơm. Ngài Động Sơn thấy lạ mới hỏi:

– Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?

Sư thưa:

– Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.

Động Sơn bảo:

– Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiều lại.

Chiều Sư đến, Động Sơn gọi:

– Ưng Am Chủ!

Sư ứng thinh dạ!

Động Sơn bảo:

– Chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác là cái gì?

Sư trở về am ngồi lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường.

Chúng ta đi tu mà có được thiên thần dâng cơm cúng dường thì sung sướng quá phải không? Ví dụ bây giờ có ông thầy nào đó ở Yên Tử ngồi tu mà được thiên thần dâng cơm, chắc có lẽ chúng ta đua nhau đến lạy sát đất? Lạy không nghỉ? Nhưng thiền sư Động Sơn nghe vậy liền quở ngài Đạo Ưng, cho rằng vẫn còn kiến giải chưa quên, thôi chiều nay ông hãy đến đây. Đến chiều ngài Đạo Ưng đến, thiền sư Động Sơn mới bảo: Chẳng nghĩ thiện chẳng nghĩ ác là cái gì? Ngay đó ngài Đạo Ưng bặt hết niệm, về thất ngồi ba ngày, thiên thần không còn tìm thấy mới hết dâng cơm, đó là chỗ các Tổ ấn chứng.

Với người thường cho là chắc ngài Đạo Ưng tu hết linh rồi, vì thiên thần hết dâng cơm là hết linh. Nhưng đây chính là chỗ sống chân thật, nếu còn có chỗ cho thiên thần thấy dâng cơm là còn có tâm, còn có dấu vết của tâm cho thiên thần thấy được. Vì có tâm là có tướng, có tướng nên thiên thần bên ngoài mới nhìn thấy. Khi tâm bặt hết, không có khởi thì thiên thần không có chỗ để thấy, không có chỗ thấy làm sao dâng cơm!

Có những người tu bị ma đến quấy phá là do có tâm khởi niệm bậy, nên ma dòm thấy được mới đến quậy phá. Chứ còn tu giữ tâm được an định thanh tịnh, ma làm sao thấy được tâm mà đến phá, ngay đây Phật còn thấy không được thay, nên chúng ta phải tu đến chỗ các Tổ ấn chứng. Thế nên phải Bặt hết hai đầu có không …, ngàn Thánh dòm cũng không thấy. Trăm chim ngậm hoa một phen hổ thẹn. Tức là chim hết chỗ để ngậm hoa cúng dường vì không còn chỗ nào để thấy. Đến đây xem như là còn một thể rỗng rang, không có chỗ cho niệm khởi, mới đến được chỗ gọi là Không Thể Nghĩ Bàn.

Một hôm Hòa thượng Thạch Đầu dạy thiền sư Duy Nghiễm:

– Nói năng động dụng chớ giao thiệp.

Sư thưa:

– Chẳng nói năng động dụng cũng chớ giao thiệp.

– Ta trong ấy mũi kim hạt bụi chẳng lọt vào.

– Còn con trong ấy như trồng hoa trên đá.

Đoạn đối thoại này có nghĩa là: Nói năng động dụng chớ cho dính mắc, mà không nói năng động dụng cũng chớ cho dính mắc, tức là không cho dính kẹt hai đầu. Còn hoa trồng trên đá thì không mọc rễ được. Chúng ta phải nỗ lực đạt cho đến chỗ này, tức là không có chỗ cho tâm mọc rễ, tâm mọc được rễ tức là tâm sanh khởi, phải thật sự hết dấu vết, cho nên đến đây mới gọi là Người Trâu Đều Quên.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Tiên sách nhân ngưu tận thuộc không

Bích thiên liêu quách tín nan thông

Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyết

Đáo thử phương năng hiệp Tổ Tông.

Dịch:

Người trâu roi gậy trọn về không

Thăm thẳm trời xanh tin khó thông

Lửa rực lò hồng đâu chứa tuyết

Đến đây mới thật hợp Tổ Tông.

GIẢNG:

Người trâu roi gậy trọn về không: Người không, trâu không, roi gậy cũng không, không hết thảy, tức là tâm pháp đều quên, trong ngoài đều vắng bặt, không còn dấu vết đây kia gì cả. Như thế là trở về chỗ xưa nay không một vật thì người trâu hiện vào đâu trong chỗ đó. Đến đây mới gọi là Vô Công Dụng Đạo, không còn chỗ nào gọi là dụng công nữa. Phải thẳng đến đây mới gọi là vượt qua bức tranh thứ VII.

Có một lần thiền sư Động Sơn đang đi tham học, Ngài gặp Hòa thượng Long Sơn là bậc tu đã đắc đạo nhưng ở ẩn, không ra giáo hóa. Ngài mới hỏi:

– Hòa thượng được đạo lý gì mà ở núi này?

– Tôi thấy hai con trâu đất húc nhau, rồi nhảy ùm xuống biển, thẳng tới đây bặt hết tin tức.

Vậy ngài Long Sơn được cái gì? Hai con trâu đất húc nhau nhào xuống biển là xem như lúc này Ngài sạch hết phàm tình ý Thánh, năng sở, động tịnh …, đều bặt sạch. Giống như hai con trâu nhào xuống biển là bặt hết tin tức, không còn chỗ nào để tâm sanh khởi. Còn bây giờ chúng ta tuy tu nhưng còn muốn thu thập tin tức nhiều. Tin tức là duyên bên ngoài. Để cho duyên bên ngoài đến nên tâm sanh khởi hoài. Còn ngài Long Sơn thì bặt hết tin tức nên không còn khởi được nữa.

Thăm thẳm trời xanh tin khó thông: Đến chỗ này nhìn lên bầu trời xanh cao thăm thẳm không vết mây, không chút dấu vết gì để khởi, như tin tức lọt vào không được, đây gọi là Tin khó thông. Không một tin tức lọt đến, tức không có duyên nào lọt đến, do đó không có chỗ cho tâm khởi vì vậy gọi mắt Phật nhìn cũng không thấy, nên trăm chim ngậm hoa không có chỗ để cúng dường, gọi là một phen hổ thẹn.

Ngài Đại Đô An là một giảng sư, giảng kinh Kim Cang nổi tiếng, đến gặp thiền sư Kiệt Phong Anh. Thiền sư Kiệt Phong Anh hỏi:

– Giảng chủ thường ưa giảng kinh gì?

– Giảng kinh Kim Cang. Đã từng tỉnh ngộ qua câu “Không từ đâu đến cũng không đi về đâu.”

– Nếu mà không đến không đi sao ông đến đây được?

– Cũng chính là người không đến đi đó thôi.

– Vậy thì ngay đây người đó ở đâu?

– Hét một tiếng.

– Thôi hãy gát lại cái chuyện hét với thoi đó đi. Bây giờ khi mà bốn đại này tan rã, thì ông sẽ đi về đâu để an thân lập mạng? (Nếu mà người học lóm thì đến chỗ này lúng túng rồi)

– Khắp cả quả đất này cái ấy không phải là chính ta ư?

– Nhưng rồi bỗng gặp thời kiếp hỏa lửa bùng cháy, đốt tan cả đại thiên thế giới, lúc đó ông ở đâu? (Chỗ này mới là chỗ khó, vì trong kinh nói thời kiếp hỏa gọi là thời đại tam tai, lửa đốt sạch cả tam thiên, cháy lên đến cõi trời, quả đất này cháy tiêu hết, thì ông ở chỗ nào?)

– Không biết.

– Lục Tổ vì cái “không biết” đó mà đi bổ củi, nấu cơm. Bồ-Đề-Đạt-Ma vì cái không biết đó mà ngồi quay mặt vào vách chín năm. Còn ông, ông nói không biết, vậy ông thấy cái gì nói không biết? (Đây là chỗ dễ lầm, mà cũng dễ bắt chước. Vì nghe trong nhà thiền các thiền sư có khi nói không biết, rồi có nhiều người học đạo, học được cái này, khi đối đáp luận đạo tới chỗ bí không nói được cũng nói “không biết”. Do đó, nên không biết được ai thật ai giả. Vì vậy thiền sư Kiệt Phong Anh gạn lại cho rõ.)

– Tôi chỉ nói không biết thôi.

– Cái gã mù! Thôi ngồi uống trà đi. (Đây là chỗ cảm thông nhau)

Đến chỗ “không biết này” là chỗ ngàn Thánh nhìn không thấy, mới là chỗ thật ở đây – tức là bặt hết dấu vết.

Lửa rực lò hồng đâu chứa tuyết: Lửa đang cháy rực mà đốm tuyết rơi vào sẽ tan ngay và cũng không lưu lại dấu vết. Cũng vậy, đến đây rồi không còn để lại dấu vết chỗ nào cho tâm sinh, đây là chỗ CHẲNG BIẾT đó vậy. Và cũng chính đây là chỗ ba mươi năm mà không gặp. (Thiền sư Động Sơn tu hành miên mật, tâm Ngài rỗng rang đến nỗi thần Thổ địa tìm ba mươi năm mà không gặp. Cho đến một hôm Ngài đi vào trong nhà bếp, thấy chúng làm bếp để bún gạo rơi rải dưới đất, Ngài mới khởi tâm nhắc nhở. Khi khởi tâm nhắc nhở Thổ địa thấy, liền hiện lên thưa: – Con theo Hòa thượng ba mươi năm, nay tìm mới gặp. Người xưa tu hành như vậy đó).

Có Ma Vương tên là Chướng Tế, lãnh các quyến thuộc đi theo Bồ tát Kim Cang Tề một ngàn năm tìm chỗ khởi của Bồ tát mà tìm không thấy. Bỗng một hôm ma vương thấy được liền hỏi:

– Ngài nương vào đâu mà trụ, khiến cho tôi một ngàn năm nay tìm chỗ khởi của Ngài không được?

– Tôi chẳng nương có trụ mà trụ, cũng chẳng nương không trụ mà trụ, như thế là trụ, thế nên ông tìm không thấy.

Như vậy là Bồ tát Kim Cang Tề đã vượt cả có không, không trụ vào bên nào cả, thế nên ma vương không thấy được, đó là Chỗ có Phật không được dừng, chỗ không Phật chạy nhanh qua. Tình phàm rớt sạch Thánh ý cũng không, thì ma không còn chỗ nào để thấy.

Đến đây mới thật hợp Tổ Tông: Đến đây mới thật là chỗ sống của thiền, mới hợp với chư Tổ. Rời ngoài chỗ này, nếu có bàn luận nói năng hay đến đâu cũng chỉ là hí luận. Chúng ta phải hiểu và sống được đến chỗ này mới thấy được chỗ sâu xa trong nhà thiền. Đây là chỗ ngài Tam Tạng Đại Nhĩ lần thứ ba không thấy được Quốc sư Huệ Trung, vì Quốc sư đã đến được chỗ này. Đến được chỗ này là hết thấy, còn hai lần đầu ngài Tam Tạng Đại Nhĩ thấy được.

Chúng ta học đến đây, tuy chưa sống được hoàn toàn trọn vẹn, nhưng cũng có thể cảm nhận được chút ít, nếu chúng ta mở được con mắt tâm thật sâu. Do đó học để có kinh nghiệm mà tiến tu.

Bài họa của ngài Mộng Am Cách:

Tụng:

Nhân ngưu sinh hoạt nhất thời không

Đáo thử phương tri xứ xứ thông

Kiến lập tùng không hoàn tảo đãng

Thập phương thế giới hiển chánh tông.

Dịch:

Người trâu sinh hoạt một lúc không

Đến đây mới biết chỗ chỗ thông

Từ không dựng lập rồi quét sạch

Thế giới mười phương bày chánh tông. 

Người trâu sinh hoạt một lúc không. Đến đây mới biết chỗ chỗ thông: Tất cả mọi hoạt động của người và trâu đều không, tức là vô tác vô sự, không còn chỗ để làm, mọi chỗ đều thông suốt, nơi nơi đều vô ngại. Tâm đi qua mọi chỗ không có gì chướng ngại, vì cả hai người và trâu đều không rồi.

Từ không dựng lập rồi quét sạch: Đến được chỗ này mới chứng thật rõ ràng là ban đầu lập người, lập trâu cũng là giả lập ra, nên cuối cùng đều quét sạch, để trả lại cái nguyên thể ban đầu là KHÔNG, không một vật. Thế nên từ không lập rồi quét sạch trở về không, vì vốn không có trâu cũng chẳng có người, người trâu đều quên là vậy.

Thế giới mười phương bày chánh tông: Đến đây mới thật sự trùm khắp, nên tất cả đều hiện bày rõ gốc gác chân thật. Tức đâu đâu cũng là nhà, không cần phải trở về đâu nữa, nên mới gọi là Thế giới mười phương bày chánh tông, chỗ nào cũng hiển bày cái yếu chỉ chân thật ấy cả.

Bài họa của cư sĩ Nạp Duẫn Am:

Tụng:

Nhân ngưu song khiển lộ chân không

Nội ngoại vô tư vạn pháp thông

Mạc lập tiêm trần tung tích dẫn

Đường đường hà xứ bất qui tông.

Dịch:

Người trâu trừ hết lộ chân không

Trong ngoài không khác muôn pháp thông

Chớ lập mảy trần dấu vết sạch

Rõ ràng đâu chẳng chỗ về tông.

Người trâu trừ hết lộ chân không: Bây giờ người và trâu trừ sạch hết mới lộ bày ra cái chân không. Chân không không phải giống như hư không, hư không thì trống không, còn chân không không mà không phải không, mà sáng ngời trong đó.

Trong ngoài không khác muôn pháp thông: Khi bặt hết niệm trong ngoài, nghĩa là không còn chia đây là trong, kia là ngoài, đây là tâm, kia là pháp …, bặt hết các niệm đó thì tâm suốt qua hết muôn pháp, gọi là muôn pháp đều thông, không còn bị ngăn che, chướng ngại hay cách biệt.

Chớ lập mảy trần dấu vết sạch: Chặt đứt hết mọi thứ dựng lập, không có một dấu vết gì còn đọng lại, ở đây gọi là không có một mảy may trần lưu lại trong đó để làm duyên cho tâm sanh khởi, chỉ còn lại một thể rãnh rang.

Rõ ràng đâu chẳng chỗ về tông: Chỗ nào, bất cứ nơi nào cũng đều là chỗ trở về cả, không còn có cái gì làm chướng ngại được. Đến đây mới chứng thật là từ trước chỉ tại tâm làm ngại do vì tâm mê, chứ không phải do cảnh làm ngại. Khi tâm không, sạch hết dấu vết thì suốt qua tất cả, không có cảnh nào làm ngại được.

Thiền giả khi tu đến đây đã buông sạch hết niệm phàm Thánh, có không, trong ngoài …, tâm pháp đều vắng bặt, không còn chút dấu vết gì để cho tâm đó sanh trở lại, nên tượng trưng bằng cái “vòng tròn”. Chỉ vòng tròn thôi, không bóng dáng gì trong đó, người ngoài nhìn vào không biết trong đó có gì. Tu đến chỗ này không còn gì để làm nữa. Nhưng đây mới thật là cảnh giới Thiền, ngàn Thánh nhìn vào cũng không biết được.

Lúc ban đầu các ngài chỉ vẽ đến bức tranh số VIII này, đến vòng tròn xem như là xong việc. Bên tranh Đại thừa cũng vậy, đến bức thứ X là vòng tròn cũng xem như xong việc. Song bên Thiền tông lại khác, tuy vậy mà “vẫn còn một đường” nữa, chưa phải là xong.

Một hôm thầy tri viên hỏi thiền sư Duyên Quán:

– Khi giặc nhà khó giữ thì thế nào?

– Biết được thì không phải oan gia.

Ông thầy tri viên mới hỏi thêm:

– Sau khi biết được thì thế nào?

– Đày đến nước vô sanh.

– Vô sanh đâu chẳng phải là chỗ y an thân lập mạng.

– Nhưng đó cũng là nước chết đâu chứa được rồng.

Thầy tri viên hỏi tiếp:

– Thế nào là nước sống chứa rồng?

– Dậy mòi cũng chẳng thành sóng.

– Nhưng bỗng khi đầm nghiêng núi đổ thì thế nào?

Thiền sư Duyên Quán bèn bước xuống giường Thiền, nắm đứng ông thầy tri viên bảo:

– Chớ nói ướt góc ca-sa của lão tăng.

Khi giặc nhà khó giữ thì thế nào? Ăn trộm mà ở ngoài vào thì dễ giữ, còn người ở trong nhà ăn trộm không biết làm sao mà giữ!

Biết được thì chẳng phải oan gia: Nếu biết được thì kẻ ăn trộm kia cũng là người trong nhà. Ở đây muốn nói cái tâm trộm của mình tức là vọng tâm mà mình phải lo trừ dẹp, buông bỏ đó, cũng từ chân tâm khởi, tức là cái bóng thôi, nhưng nó không thể rời ngoài chân tâm mà có. Như khi chúng ta ra ngoài nắng, thì cái bóng hiện ra, bóng không thật, nhưng bóng không thể rời thân này có được. Cũng vậy, vọng không thật nhưng vọng không thể rời chân mà có. Thế nên biết được không phải là oan gia.

Sau khi biết thì thế nào? Thầy tri viên muốn rõ là sau khi biết cần phải làm tiếp những gì nữa.

Đày đến nước vô sanh: Nghĩa là đưa đến chỗ vô sanh là chỗ vòng tròn này. Chỗ không còn dấu vết cho tâm sanh khởi được nữa.

Vô sanh đâu chẳng phải là chỗ y an thân lập mạng: Vậy chỗ vô sanh đó là chỗ cho mình trụ, chỗ đó là chỗ sống vững rồi. (Ngài Duyên Quán liền bảo):

Nhưng đó cũng là nước chết đâu chứa được rồng: Chỗ đó chưa phải là chỗ ở yên.

Thế nào là nước sống chứa rồng? – Dậy mòi cũng chẳng thành sóng: Chỗ rồng ở dù muốn làm dậy sóng to lớn đến đâu cũng không thành sóng được. Đó là chỗ sống thật.

Nhưng bỗng khi đầm nghiêng núi đổ thì thế nào? – Chớ nói ướt góc ca-sa của lão tăng. Đến đây dù trời nghiêng đất sụp cũng không lay động tâm thiền giả được.

Tóm lại:

Đến vòng tròn này là đến chỗ gọi là vô tâm, vô sự, cũng chưa phải là chỗ chúng ta dừng ở được, cần phải vượt qua. Nếu dừng ở đây cũng chỉ là chỗ nước chết, phải đến chỗ dậy sóng mà không thành sóng, đến chỗ trời long đất lở cũng không động được chút gì đến tâm thiền giả, mà tâm thiền giả cũng không vì những cảnh đó mà động được, đó mới là cảnh sống thật. Còn ở đây mới đến chỗ một bên lặng, còn kia dù ở trong động, vẫn không động, đó mới là chỗ sống thiền. Thế nên đây còn một đường nữa để chúng ta tiến lên đó là Trở Về Nguồn Cội tức tranh IX, rồi các Ngài thêm tranh số X mới đầy đủ.

 

Tranh Số 9 – Trở Về Nguồn Cội

CHÁNH VĂN

Lời Dẫn:

Xưa nay vốn thanh tịnh chẳng nhận mảy bụi, xem sự tươi khô của có tướng, ở nơi ngưng lặng của vô vi. Chẳng đồng với huyễn hóa đâu nhờ tu trì. Nước biếc non xanh ngồi xem sự thành bại.

Tranh số IX này vẽ chim bay về tổ, nước chảy về nguồn và những chiếc lá rụng về gốc cội.

Theo lời tựa ban đầu, thiền sư Quách Am đã nói rõ cho chúng ta thấy bộ tranh này đầu tiên chỉ có tám bức, đến vòng tròn là hết, tức trâu và người đều mất, tưởng đâu như thế là xong việc. Song lại có người nghi ngờ, hoang mang không biết đến đó rồi sẽ ra sao? Thành không ngơ không biết gì hết hay sao? Thế nên, thiền sư Tắc Công mới vẽ thêm bức IX này, là Trở Về Nguồn Cội, tức đến đây trả về nguyên vẹn cái thuở ban sơ như lúc chưa tu. Cho nên gọi núi vẫn là núi, mây vẫn là mây, hoa vẫn là hoa, chim vẫn là chim, mai vàng vẫn là mai vàng, hồng đỏ vẫn là hồng đỏ, xem như nguyên vẹn nó như vậy.

Trong Bát-nhã Tâm Kinh chúng ta được chỉ rất rõ: Sắc tức là không, không tức là sắc, nhưng đến đây sắc là sắc, không là không, do đó ở đây gọi là “Trở về nguồn cội” là như vậy. Thiền sư Duy Tín nói: “Sau ba mươi năm thấy núi sông vẫn là núi sông”, nhưng núi sông bây giờ không giống núi sông lúc chưa tu. Tại sao? Vì khi chưa tu chúng ta thấy núi sông là núi sông, nhưng thấy trong cái vô minh chấp trước, nên thấy núi sông thật, người vật thật, cái gì cũng thật cả do theo tình chấp của mình. Thế nên có yêu ghét lấy bỏ, khen chê …, có niệm phân biệt trong đó. Nói cho rõ hơn thấy cái gì đều xen cái TA vào, tức là có vô minh trong đó.

Bây giờ cũng thấy núi sông là núi sông nhưng đều sáng ngời, bặt dứt các tình chấp trước, tất cả muôn pháp đều hiển bày toàn vẹn bộ mặt thật của chúng. Không có thêm bớt hoặc có chút bóng dáng nào của cái TA xen vào, thấy cái gì cũng đều sáng ngời, gọi là thấy đúng như thật.

Còn khi chưa tu thấy núi sông là núi sông, không thấy đúng như thật. Vì trước thấy có núi sông cạn. Sự thật núi không có cao thấp, sông không có sâu cạn, do chúng ta xen cái TÔI vào mới có cao thấp, sâu cạn. Ví dụ: Núi Yên Tử này và núi Hoàng Liên Sơn cái nào cao cái nào thấp? Nếu chúng ta thấy núi Hoàng Liên Sơn trước thì thấy núi này cao, núi Yên Tử thấp. Nếu có người nào đi Tây Tạng về thì sẽ nói núi Hoàng Liên Sơn thấp, Hy Mã Lạp Sơn cao. Như vậy núi Hoàng Liên Sơn đâu có cố định cao, cao là do cái TÔI của chúng ta, còn theo cái TÔI của người khác thì thấp. Rõ ràng cao thấp là do cái TÔI xen vào, còn núi vẫn là núi không có cao thấp. Thế nên, khi bặt hết tình chấp, mắt đã mở sáng thì thấy núi sông đúng như thật là núi sông. Chỗ này tông Lâm Tế gọi là Nhân Cảnh Đều Chẳng Đoạt, nguyên vẹn cái nào trả về vị trí của cái đó, trong nhà thiền gọi là Nhập Phật Giới, tức là vào cảnh giới Phật. Mọi thứ đều chân thật sáng ngời, cái gì đúng như thật cái đó, tức ánh sáng Phật đầy khắp, gọi là chạm mắt đều Bồ đề thì tìm đâu kẻ hở để mê?

Xưa nay vốn thanh tịnh chẳng nhận mảy bụi: Tức là trả về cái tự tánh ban đầu của nó vốn thanh tịnh. Trong tự tánh thanh tịnh không có một mảy bụi mảy trần, nên không có gì tạo tác trong đó được. Trong Tín Tâm Minh, Tổ Tăng Xán nói: “Tròn đồng thái hư. Không thiếu không dư”, nghĩa là nó vốn tròn đủ như hư không, không thiếu không dư, không thêm không bớt gì ở trong đó. Thấy như là thấy, biết như là biết. Thấy cái hoa như là cái hoa, không thêm cái tôi vào trong đó.

Xem sự tươi khô của có tướng, ở nơi ngưng lặng của vô vi: Nhìn thấy cái có tướng thì có tươi có khô, còn ở nơi vô vi là ngưng lặng. Sanh diệt tự nó sanh diệt, vô sanh tự nó vô sanh, gọi là Xưa Nay Sanh Tử Vốn Chẳng Tương Can, sanh tử không đến được chỗ này, các niệm sanh diệt bặt dứt nơi đây.

Chẳng đồng với huyễn hóa đâu nhờ tu trì: Cái tự tánh chân thật này tự nó là chân thật, không phải do tu, do làm mà thành được. Nó như vậy là như vậy, không giống như huyễn hóa, không do công phu tạo tác mà thành, chỉ cần buông hết sống bình thường trở lại. Chính đó là chỗ sống rất bình thường.

Có vị tăng hỏi Điều Ngự Giác Hoàng:

– Thế nào là gia phong của Hòa thượng?

– Áo rách che mây sáng ăn cháo

Bình xưa tưới nguyệt tối uống trà.

Sáng ăn cháo, tối uống trà là chuyện bình thường. Cũng như chúng ta sáng ăn cháo, trưa ăn cơm, tối uống trà. Nhưng lại không giống với chúng ta, vì chúng ta còn mê lầm, dính mắc, còn xen cái tôi vào. Còn Ngài bình thường như vậy là như vậy thôi.

Nước biếc non xanh ngồi xem sự thành bại: Rõ ràng trả về đúng vị trí của mỗi pháp, nước biếc là nước biếc, non xanh là non xanh, đúng như nó là nó. Chỉ ngồi yên xem sự thành bại của thế gian trôi qua, không vướng một niệm nào cả. Thành cũng được, bại cũng được, thế gian cứ trôi qua trôi qua, sự vô thường đến rồi đi, cứ ngồi yên không bị nó chi phối. Như thế mới thật là chỗ Mùa Xuân Miên Viễn trong nhà Thiền. Như Điều Ngự Giác Hoàng nói: Thiền bảng bồ đoàn ngắm trụy hồng, ngồi yên trên bồ đoàn, ngắm từng cánh hồng rơi nhẹ nhàng, mặc cho sự vô thường trôi qua, mà tâm vẫn hằng như như. Sống được như thế là đã trở về nguồn.

 

CHÁNH VĂN

Tụng:

Phản bổn hoàn nguyên dĩ phí công

Tranh như trực hạ nhược manh lung

Am trung bất kiến am tiền vật

Thủy tự mang mang hoa tự hồng.

Dịch:

Trở về nguồn cội đã phí công

Như mù như điếc đấy hơn không?

Trong am chẳng thấy ngoài am vật

Nước tự mênh mông hoa tự hồng.

GIẢNG

Khi trở về nguồn cội rồi mới thấy việc làm của mình từ số I đến số VIII chỉ là phí công. Tại sao? Vì nhìn lại công phu đã qua của chúng ta giống như giấc mộng, do đó cần phải quên hết, không còn chấp giữ gì cả. Chúng ta phải thấy trong nhà Đạo tu không giống như ngoài đời, ngoài đời làm được việc kỳ tích như thế sẽ nhớ đời đời, phải được ca tụng, gắn huy chương, đề cao lên …, còn ở đây các thiền sư bảo phải quên hết đi. Tổ Hoàng Bá đã từng bảo: Chỗ này giả sử có người tinh tấn tu hành trải qua vô số kiếp, qua hết các địa vị (Thập Tín…) cùng với người do một niệm mà chứng được, cũng chỉ là chứng cái sẵn có. Kỳ thật, trên cái thật của chính mình không có thêm một cái gì khác, xem lại công phu nhiều kiếp thảy đều là việc làm trong mộng.

Như vậy cuối cùng chúng ta chỉ sống lại với chính mình là cứu cánh. Hòa thượng Trúc Lâm khi dạy tu, Ngài dạy chỉ cần một chữ “buông” thôi, thật là chính xác. Chúng ta chỉ cần thực hành cho miên mật là thành công, nhưng vì chúng ta hay quên, nên không tin. Chỉ cần “buông” cho sạch, không thêm gì khác nữa là xong việc. Nhưng chúng ta không buông mà cứ thu vào nên còn phải tu hoài. Nếu cứ buông, buông sạch hết, không còn cái gì để buông nữa, bấy giờ còn lại cái gì đó, cái đó chính là mình vậy. Khi đã là chính mình chân thật rồi thì làm sao buông! Buông là buông cái hư dối thôi, còn cái chân thật muốn buông cũng không được, vì nó luôn luôn hiện tiền. Chỉ một chữ “buông” mà nhiều người không chịu làm triệt để vì không tin. Họ cứ tìm những pháp cao siêu để tu, song sự thật dù có pháp nào nữa cũng phải “buông” luôn, mới là pháp thật, còn không, chỉ thêm cái vọng thôi.

Có một đoạn kinh Phật ví dụ: “Như có người nằm mộng, thấy mình bị giặt cướp rượt, cọp beo rượt chạy xuống sông, bơi qua đến bờ sông rồi giựt mình thức dậy”. Khi thức dậy có kể công là nhờ tôi nỗ lực cố gắng bơi qua sông, bơi mệt đừ mới qua đến bờ sông, nhờ thế mới thoát nạn cướp rượt, cọp beo rượt. Hay giật mình thức dậy biết đó là mộng, bị cướp, bị cọp rượt cũng là mộng, qua sông cũng là mộng, thức rồi thân mình vẫn còn nằm ngay trên giường chưa chạy đi đâu cả. Cũng vậy, khi đến được đây rồi, tức là giác ngộ hoàn toàn, thiền giả quên hết công phu tu hành của mình được từ bao lâu, quên hết không còn nhớ rằng do công phu tu hành nên mới được đến đây. Thế nên:

Trở về nguồn cội đã phí công, phải được hiểu như thế.

Như mù như điếc đấy hơn không: Đối trước cảnh, cảnh là cảnh tâm là tâm, tâm cảnh không đến nhau gọi là như mù như điếc, chứ không phải mù điếc. Cái nào ra cái đó, thấy ra thấy, nghe ra nghe, sắc đặt đúng vị trí của sắc, thanh đặt đúng vị trí của thanh; khi ấy thấy nghe mới thật sự sáng ngời, không còn bị sắc thanh che mờ. Dù thấy hầm phân, dù nghe lời chửi mắng vẫn sáng ngời không hề bị che tối, nên được gọi là chỗ nào cũng là cảnh giới Phật.

Trong am chẳng thấy ngoài am vật: Trong am không thấy vật ngoài am, cái nào ra cái đó, cái nào ở vị trí cái đó, không có ra vào thêm bớt.

Nước tự mênh mông hoa tự hồng: Núi là núi, sông là sông, nước tự là nước, hoa tự là hoa. Kinh Pháp Hoa nói: Chư pháp trụ pháp vị. Tướng thế gian thường trụ. Nghĩa là các pháp trụ ở ngôi pháp của chính nó, đó là tướng thường trụ của thế gian. Ở đây không gọi là phá hoại tướng thế gian, mà ngay tướng sai biệt của thế gian thật tướng vẫn hiện tiền.

Khi ấy gọi là thấy biết khắp cả, không chỗ nào không thấy. Cái thấy này lại khác cái thấy của bức tranh số III. Cái thấy của bức tranh số III là nhận ra trâu, còn đây là trở về nguồn cội, tuy cũng là thấy cả, nhưng cái thấy này là do thân chứng nghiệm, vì mình đã sống được trong đó rồi, còn cái kia chỉ mới thấy nên tưởng giống nhưng không giống. Như em bé mới sinh ra, cũng có đầy đủ tai mắt mũi lưỡi …, nhưng chưa hoạt động tự do như người lớn được, chỉ nằm trong nôi thôi. Muốn như người lớn cần phải có thời gian nuôi dưỡng, lớn lên thành người lớn, bấy giờ mới hoạt động, gánh vác tự do như người lớn.

Tóm lại, cái thấy ở bức tranh số III là thấy trâu cũng giống như cái thấy ở bức thứ IX này nhưng chỉ khác là chưa có sức sống, chưa có kinh nghiệm sống. Vì vậy, khi thiền giả tu đến đây phải khéo, đừng có chấp theo thứ tự cho mình tới bức IX rồi đứng dừng ở đó cho là xong việc. Cần phải thường kiểm lại, trở tới trở lui từ trước tới sau, từ tranh số I, II, III… đến IX, (trở tới trở lui) làm sao càng lúc càng thấm sâu cho đến quên các niệm thứ lớp, thẳng suốt tận cội nguồn bản tâm, không còn thấy mình ở tranh nào cả. Nếu còn thấy mình ở tranh này tranh kia, còn “niệm cao thấp” trong đây là còn nguy lắm, vì có “tướng ngã” hiện ra, nên phải coi chừng, phải khéo là như vậy.

Thiền sư Mộng Am Cách có làm bài tụng:

Tụng:

Hưu tiếu tùng tiền uổng dụng công

Thông minh truất tận loại manh lung

Nham tiền bất kiếm am trung chủ

Điểu nhậm đề hề hoa nhậm hồng.

Dịch:

Thôi cười từ trước uổng dụng công

Hết cả thông minh mù điếc đồng

Trước núi, trong am chẳng thấy chủ

Chim hót mặc chim hoa mặc hồng.

Thôi cười từ trước uổng dụng công. Hết cả thông minh mù điếc đồng: Thiền giả đến chỗ này mới chợt cười vì nhìn lại thấy công phu từ trước mình dụng công bây giờ giống như giấc mộng, không còn thấy do công phu mình được thế này thế kia. Tất cả đều sạch hết, tức là trả lại bình thường, không thấy ta đây là thông minh, là trí tuệ, là chứng ngộ, là đặc biệt chi cả, mà giống như mù như điếc.

Trước núi, trong am chẳng thấy chủ: Trong cái am ở trước núi, mình đứng ngoài không thấy người chủ am đó được, đến đây phải tự kinh nghiệm, trong đó tự biết thôi.

Chim hót mặc chim hoa mặc hồng: Nghĩa là núi là núi, nước là nước, sông là sông, tất cả tự như như. Cái nào ở yên vị trí cái đó, chim hót mặc chim, mặc hoa hồng. Không cái nào lẫn lộn, không cái nào xen lẫn nhau, và cũng không có xen cái tôi cũng như có niệm phân chia vào trong đó.

Thiền sư Thiên Nham Trường có làm bài họa:

Tụng:

Hiện thành công án thục thi công

Nhĩ bất manh hề nhãn bất lung

Nhất nhất âm thanh chư sắc tướng

Phân minh hắc bạch gián thanh hồng.

Dịch:

Công án hiện thành ai ra công?

Mắt chẳng điếc mà tai chẳng mù

Mỗi mỗi âm thanh các sắc tướng

Rõ ràng đen trắng với thanh hồng.

Công án hiện thành ai ra công: Công án hiện thành là nói cái tự tánh sẵn thanh tịnh như vậy rồi, có gì mà phải làm gia công chi thêm nữa. Đây cũng chỉ cho ý nghĩa là quên công phu.

Mắt chẳng điếc mà tai chẳng mù: Ở trước nói như mù như điếc, còn đây nói mắt chẳng điếc tai chẳng mù, tức là mắt thấy tai nghe nhưng cũng đồng như ý nghĩa trên, vạn pháp cái nào để nguyên cái đó. Ngoài ra còn có ý nghĩa là dùng mắt nghe tai thấy.

Mỗi mỗi âm thanh các sắc tướng. Rõ ràng đen trắng với thanh hồng: Đến đây thấy là thấy, nghe là nghe vì mỗi mỗi âm thanh cùng sắc tướng đều rõ ràng cái nào ở vị trí cái đó không có xen lộn, không thêm niệm gì khác.

Bức tranh số IX này còn gọi là Nhập Phật Giới, thấy chỗ nào cũng cảnh giới Phật. Nhưng như thế vẫn chưa xong. Còn phải nhảy qua một cái nữa là Thỏng Tay Vào Chợ.

 

Tranh Số 10 – Thỏng Tay Vào Chợ

CHÁNH VĂN

Lời dẫn:

Một mình khép cánh cửa gỗ, ngàn Thánh cũng chẳng biết. Chôn vùi vẻ sáng sủa của chính mình, bỏ qua lối mòn của bậc Thánh trước. Mang bầu đi vào chợ, roi gậy trả lại nhà, nơi quán rượu hàng cá, hóa độ chuyển thành Phật hết.

GIẢNG:

Nếu hành giả bằng lòng với chỗ Trở Về Nguồn Cội, chỗ thanh tịnh sáng ngời, cũng chưa phải là chỗ viên mãn. Vì chúng ta tuy đã đến nguồn cội là đã đến được chỗ an ổn, nhưng chung quanh chúng ta còn biết bao nhiêu kẻ bất an mê muội, nếu chỉ lo vui một mình, bỏ mặc họ hay sao, như thế làm sao được viên mãn?

Thế nên, đến đây hành giả phải nhảy qua một bước gọi là Thỏng Tay Vào Chợ, tức đi vào trong sai biệt, đi vào trong dị loại để hóa độ chúng sinh. Gọi là đem ánh sáng chân thật vào trong hang sâu, ngỏ hẻm, đưa người trở về nguồn cội chân thật, chứ không thể ngồi yên để hưởng vui một mình. Bây giờ thiền giả phải mở cho riêng mình một lối đi, không thể đạp theo dấu vết cũ, lối mòn xưa. Đây cũng không thể là chỗ có thể bắt chước, mà mỗi vị tự mở cho mình một lối đi riêng, không ai bắt chước ai được, nhớ kỹ như thế.

Một mình khép cánh cửa gỗ, ngàn Thánh cũng chẳng biết: Việc này chỉ tự mình biết thôi, đây cũng gọi là Vô trụ xứ Niết-bàn, không ai tìm ra chỗ đi của thiền giả này. Đây là chỗ Hòa thượng Qui Sơn hỏi ngài Ngưỡng Sơn:

– Thế nào là chỗ đi của chư Thánh?

– Hoặc ở trên trời hoặc ở nhân gian (Chỗ tâm người thường không thể biết được).

Chôn vùi vẻ sáng sủa của chính mình, bỏ qua lối mòn của bậc Thánh trước: Khi nhìn những thiền giả đã đạt đến chỗ này, chúng ta không thấy những vết tích của chứng đắc, vì các Ngài đã vượt qua những khuôn mẫu cố định, tự sống dậy với sức sống chân thật của chính mình. Thế nên, đối với các Ngài này chúng ta không thể nhìn hình tướng bên ngoài để phê bình hay suy đoán được.

Như Tổ Huệ Khả sau khi truyền pháp cho Tổ Tăng Xán xong, mới đến xứ Nghiệp Đô để giáo hóa một thời gian cho đến cuối đời, Ngài đổi đạo phục, mặc đồ thế gian. Rồi có khi Ngài vào quán rượu, có khi vào hàng thịt, lại có lúc giữa đám đông thuyết pháp, có lúc lại làm người khuân vác… Bấy giờ cũng có người họ biết Ngài là một tu sĩ, mới hỏi:

– Thầy là thầy tu tại sao lại làm như thế?

– Ta tự điều phục tâm ta đâu có liên quan gì đến việc của ông.

Đó mới gọi là Thỏng Tay Vào Chợ, và cũng không phải là chỗ để bắt chước, nếu chưa đến được đây mà bắt chước thì vào địa ngục liền. Chúng ta không thể dùng tâm phàm của mình mà phê bình các vị này được. Thấy các Ngài đã là một vị Tổ mà sao tầm thường quá, nghĩa là cũng vào hàng thịt, quán rượu, rồi đi khuân vác …, làm sao chúng ta hiểu nổi, nên ngàn Thánh cũng chẳng biết là vậy.

Một hôm, ngài Phần Dương Vô Đức bảo trong chúng rằng: Đêm qua tôi nằm mơ, thấy cha mẹ đòi rượu thịt, giấy tiền …, như vậy thì phải thuận theo thế tục nấu dọn cúng cho các vị. Rồi Ngài sai thầy Tri sự lập một cái bàn, mua rượu thịt giấy tiền… và thắp hương cúng. Cúng xong, Ngài bèn mời hết các vị chức sự và ban lãnh chúng vào dùng đồ cúng. Nhưng tất cả đều từ chối, chỉ có Ngài ngồi vào bàn gắp thịt ăn, uống rượu tự nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Song trong đại chúng xôn xao trách rằng: “Ông thầy uống rượu ăn thịt này, đâu còn đáng làm thầy gương mẫu cho chúng ta nữa”, bèn bỏ đi hết. Chỉ còn lại sáu người như Từ Minh, Đại Ngu, Tuyền Đại Đạo… Qua hôm sau, Ngài mới lên tòa bảo: “Bao nhiêu kẻ nương gió, tựa bóng (bóng quỉ thần) chỉ cần một mâm rượu thịt và hai trăm tiền liền tống sạch đi hết.”

Kinh Pháp Hoa nói: “Chúng đây không cành lá. Chỉ còn lại hạt chắc”. Nghĩa là các chúng bỏ đi đó không phải là người có đủ niềm tin, nên khi thấy Ngài làm vậy, các vị tưởng đâu là Ngài đã phạm trai phá giới. Do đó Ngài mới bảo chỉ cần một bữa tiệc là tống sạch hết. Hành động của các Ngài đây gọi là một lối đi riêng không ai bắt chước được, chính là Chôn vùi vẻ sáng sủa của chính mình. Nghĩa là không còn sợ sự khen chê của thế gian và cái sáng sủa của mình, mình sẵn sàng đem đi chôn, đó là bỏ qua cả lối mòn của bậc Thánh trước, không đi theo lối mòn của các vị trước, tự mình có một lối đi.

Mang bầu đi vào chợ, roi gậy trả lại nhà, nơi quán rượu hàng cá, hóa độ chuyển thành Phật hết. Bây giờ roi gậy không dùng nữa, chỉ mang bầu đi vào chợ, tức tự tại đi vào đời, nên kinh Duy Ma Cật nói: “Bồ tát thực hành phi đạo đó là thông đạt Phật đạo”. Thực hành cái không phải đạo tức là thông suốt được Phật đạo, đi qua tất cả mà không để lại dấu vết. Trong nhà thiền gọi là vào nước không quậy sóng, vào rừng không động lá là như thế. Mỗi hành động của các Ngài đều bất khả tư nghì, nên gọi là đồng sự với mọi người, chuyển hóa họ đều thành Phật hết.

 

CHÁNH VĂN

Tụng: 

Lộ hung tiên túc nhập triền lai

Phù thổ đồ khôi tiếu mãn tai

Bất dụng thần tiên chơn bí quyết

Trực giao khô mộc phóng hoa khai.

Dịch:

Chân trần bày ngực vào chợ thành

Bôi đất trét bùn cười thật xinh

Bí quyết thần tiên cần chi nữa

Cây khô cũng phải nở hoa trình.

Chân trần bày ngực vào chợ thành: Đi chân trần, ngực thì phạch ra, không còn có oai nghi, không câu nệ hình thức. Người kính cũng được, người xem thường cũng được, ai cười ai diễu cũng tốt, cứ vậy mà đi vào chợ. Không thấy ta đây là bậc tu hành thanh tịnh, còn chợ là chỗ nhiễm ô.

Bôi đất trét bùn cười thật xinh: Đầu tro mặt đất đi vào bùn lầy để giáo hóa độ người, kinh Pháp Hoa gọi là “Cỡi áo trân bảo, mặc áo nhơ xấu” để dễ gần gũi người hơn. Vì tâm của những người căn cơ thấp, họ không dám với tới, mình phải gần gũi họ …, gọi là đồng sự với họ, chứ làm ra vẻ khác người về hình thức, oai nghi …, thì khó hóa độ lắm. Bên ngoài hình thức như vậy, nhưng bên trong phải sáng ngời cho nên gọi là Cười thật xinh, chữ Hán là Tiếu mãn tai, tức là cười thoải mái thôi, không còn gượng gạo gì nữa. Còn chúng ta có khi cười mà gượng, trong lòng như dao cắt mà miệng vẫn cười. Đôi khi cười còn có ý nghĩa mỉa mai bên trong, hoặc cười chế diễu, miệng cười mà lòng không cười, có khi cười là cười ngạo mạn phô bày bản ngã. Chứ không phải cười thoải mái như đây, vì đây cũng là nụ cười của Tế Điên Hòa thượng.

Tế Điên Hòa thượng là nhân vật có thật, chứ không phải là truyện tiểu thuyết. Tiểu thuyết người ta thêm thắt vào để hấp dẫn người đọc. Truyện của Ngài có ghi trong lịch sử, đó là bộ Nam Tống Nguyên Minh Thiền Lâm Tăng Bảo Truyện:

Hòa thượng Tế Điên, họ Lý tên Đạo Tế ở Thiên Thai, miền Triết Đông. Mẹ Ngài một đêm nằm mộng thấy nuốt mặt trời bèn có thai. Khi sanh Ngài ra có ánh sáng hồng rọi sáng cả phòng. Sau đó thiền sư Bổn ở chùa Quốc Thanh cho Ngài là vật báu ở trong Phật Pháp, mới xoa đảnh Ngài mà thọ ký.

Năm mười tám tuổi đến chùa Linh Ẩn gặp thiền sư Huệ Viễn Hạt Đường xin cạo tóc xuất gia. Tu chưa đầy một năm Ngài tỏ ngộ vượt bực hơn mọi người, được thiền sư Viễn ấn chứng cho. Tánh tình của Ngài lại khác thường. Sống ngông nghênh như điên điên khùng khùng, không coi ai ra chi cả. Ở trong chùa muốn ra vào lúc nào thì ra vào, còn ở trong tăng đường nói chuyện to lớn làm ồn ào xúc phạm đến trong chúng. Thế nên trong chùa mới nói Ngài phạm qui cũ của thiền môn, đem bạch với thiền sư Huệ Viễn. Thiền sư Viễn mới bảo:

– Cửa thiền rộng lớn há chẳng dung được gã tăng điên hay sao? (Vì ngài Huệ Viễn ấn chứng cho Ngài về chỗ ngộ nên biết rõ Ngài). Nên từ đó về sau Ngài được bảo vệ.

Có lúc Ngài đi ra ngoài Lãnh Tuyền Đình đánh đáo với đám trẻ con, rồi có lúc ca hát ngông nghênh nơi quán rượu, hoặc đến nơi hang khỉ, gọi khỉ ra rồi nhảy nhót với khỉ. Có lúc lại xách rượu thịt vào Tàng Kinh Các làm nhơ uế nơi đây. Thầy Tri sự lên bạch với Hòa thượng Huệ Viễn, Hòa thượng vẫn một bề che chở. Do đó mọi người mới gọi Ngài là Tế Điên. Sau khi Hòa thượng Huệ Viễn tịch thì Ngài lại càng say sưa thêm, bấy giờ không còn ai che chở, nên trong chúng đuổi Ngài không cho ở.

Ngài mới đến nương vào chùa Tịnh Từ. Trụ trì chùa Tịnh Từ là trưởng lão Đức Huy, thấy chỗ sáng tỏ nơi tâm Ngài nên mời Ngài làm thư ký. Nhưng Ngài vẫn không bỏ rượu được, cho nên chúng ở chùa Tịnh Từ cũng đem những lỗi Ngài phạm bạch lên ngài Đức Huy, ngài Đức Huy cũng vẫn che chở cho Ngài giống như ngài Huệ Viễn ở chùa Linh Ẩn. Ngài thường giao du với hai vị Thái thú họ Mao và họ Trần, cùng các quan trong triều, nên mỗi ngày họ đều đem đèn, hương, dầu …, biếu tặng cho Ngài, do đó mà không ai dám chê trách.

Nhưng đặc biệt lúc say Ngài tuôn ra các thi cú đầy cả ý nghĩa đạo lý, nên các bậc tri thức rất mến thích. Có một buổi chiều Ngài say nằm ngủ ở chùa Thập Lý Tùng, vị tăng chủ chùa sai người dìu về chùa Tịnh Từ, Ngài xuống bếp nằm ngủ, đến khuya thức dậy đi vòng quanh chùa rồi la lớn: Lửa cháy! Lửa cháy! Nhưng tăng chúng không tin cho là lời nói điên khùng. Sau đó, thì lửa bắt đầu cháy từ cây đèn của điện La Hán, bắt qua lá phướng và điện thờ bị cháy tiêu. Khi chùa cháy rồi, trưởng lão Đức Huy làm bài kệ để lại rồi tịch luôn.

Sau đó chùa mới thỉnh ngài Tung Thiếu Lâm đến làm chủ chùa, ngài Tung Thiếu Lâm cũng bảo vệ Ngài như trưởng lão Đức Huy – vì là người lớn nên biết rõ về Ngài. Về sau chùa nhờ đạo lực của Ngài đi khuyến hóa, nên không đầy hai năm sau xây dựng lại chùa mới, chỉ còn chừa lại hai bức vách ở hành lang phía đông. Ngài muốn đi hóa duyên vị quan tên là Vương An Cửu. Vị này mới đến nhậm chức ở Lâm An, nhưng trưởng lão Tung Thiếu Lâm ngăn lại, bảo:

Tôi nghe nói ông Vương An Cửu này lúc còn hàn vi từng đến chùa ăn nhờ, bị tăng trong chùa khinh thường nên nổi giận có đề trên vách là:

Gặp khách đầu như ba ba (cúi xuống)

Gặp trai cổ tợ con ngỗng (ngước lên)

Nhưng Tế Điên nghe chỉ cười và đi thẳng đến phủ vị quan kia. Gặp lúc vị ấy đang thăng đường, Ngài ở xa ngước trông lên, vị quan ấy nhìn thấy liền nổi giận, sai lính bắt nhốt. Ngài bèn nói:

– Tôi chính là thư ký Tế Điên tăng ở chùa Tịnh Từ, có một chút nhân duyên mà chỉ có Ngài mới có thể xét được, nên đặc biệt đến đây thương lượng với Ngài.

Quan nghe nói cũng hơi dịu xuống, vì cũng từng nghe tiếng Tế Điên. Sau đó Ngài mới đem việc ông đề trên vách năm xưa ra dùng lời nói diễu, khiến ông vui vẻ, rồi mời Ngài về ở phủ đệ. Nhân đó Ngài mới đem việc hành lang cháy còn dang dở ra gợi ý, ông quan vui mừng đem ba ngàn quan tiền cúng dường để sám hối lỗi trước. Thế là Sư cảm hóa được vị quan này.

Một hôm, Ngài vào thành thăm người bạn cũ, uống rượu làm thơ xong, về đến chùa thì ngã bệnh. Trưởng lão Tung Thiếu Lâm xuống An Lạc Đường thăm thì Ngài mới vỗ vào giường cảm tạ, nói rằng: “Hổ thẹn!” Rồi thỉnh mời Trưởng lão vì ông Trần Vạn Pháp mà cạo tóc, ông Trần Vạn Pháp là người đệ tử rất chân thành, đã phụng sự cho Ngài hơn một năm qua. Rồi sau đó Ngài mới sai Trần Vạn Pháp đến báo cho các vị thí chủ cũ của Sư thuộc loại thơ rượu xong, Ngài bèn tắm rửa, ngồi kiết già, viết bài kệ rồi nhắm mắt ra đi.

Sau đó, quan Thái Úy và các quan trong triều, cùng các vị tôn túc ở các chùa nhóm họp lại, làm lễ đưa nhục thân Ngài đến chỗ trà tỳ rất đông. Tiễn đưa Ngài có hơn ngàn vạn người – Được xá lợi rất nhiều. Khi về đến chùa Tịnh Từ thì có hai vị tăng hành cước đến gặp trưởng lão Tung Thiếu lâm nói:

– Chúng tôi vừa từ nơi tháp Lục Hòa qua đây, gặp Tế Công gởi đến Ngài một phong thư và đôi tăng hài.

Ngài Tung Thiếu Lâm thấy đôi hài mới giật mình nói rằng:

– Khi Tế Công tịch, tôi có đem đôi hài này đổi đôi hài rách của Sư, mà sao bây giờ có đây! 

Rồi mới đối trước chúng mở thư ra xem, trong thư lời lẽ rất là thắm thiết, có khoảng hai trăm lẽ chín lời, có phụ thêm một bài tụng.

Sau đó một tuần, có vị tăng qua núi Thiên Thai gặp Tế Công gởi cho hai bài thi.

Đây là Thỏng Tay Vào Chợ, cũng gọi là hành phi đạo – hành động không lường được. Cho nên không thể theo hình tướng bên ngoài mà phán đoán các hành động của quí Ngài, khi quí Ngài đã Bôi đất trét bùn cười thật xinh là vậy.

Bí quyết thần tiên cần chi nữa: Người tu đến được chỗ này thì không còn cầu mong gì cao siêu như các phép lạ, hay bí quyết thần tiên …, đều cũng không cần. Nếu như có người gọi là tu hành có đạt đạo …, khi nghe có pháp gì hay, pháp gì cao siêu liền chạy tới, đó là chưa đủ niềm tin. Nên đến đây thì dù một ngàn Phật hiện ra dụ y vẫn ngồi yên, dù ai có hiện thần thông phi thường, biến hóa đủ kiểu vẫn không cần chú ý. Những việc như thế đối với các vị này chỉ là trò chơi mà thôi.

Cây khô cũng phải nở hoa trình: Chỉ sự diệu dụng không thể nghĩ bàn. Thể dụng đầy đủ không có nghiêng lệch, sức sống thiền tràn đầy khắp nơi. Đến đây mới gọi là chỗ sống đầy đủ viên mãn.

Ban đầu từ chân mà khởi vọng, rồi đi tìm, biến cái bản tâm mình thành ra cái bóng vọng. Tức có “người đi tìm”, rồi có “cái để đi tìm”, đó là có con trâu và người chăn trâu. Con trâu là “tâm còn lẫn trong vọng” bị vọng che. Người là “tâm tỉnh giác”, tỉnh giác nên biết mất mà đi tìm. Nhưng đã là bản tâm của mình thì có mất đâu mà tìm, cho nên tìm đó cũng là “tìm cái chẳng mất”. Thật là việc làm trớ trêu, tưởng đâu tìm cái gì lại tìm cái chẳng mất! NHƯNG là việc phải làm, phải tìm. Thế nên, khi có người nhận ra được mới thành không ngờ: À! Thì ra nó đây thôi! Không ngờ!

Bởi vậy khi có người nhận ra, lúc ban đầu hoặc cười ngất, hoặc khóc ròng, vì cảm thương cho mình từ lâu mình lại bội bạc mình. Rồi sau đó mới lo gìn giữ gọi là bảo nhậm để mà sống, tức là buông hết những bóng dáng hư dối, do nó tưởng tượng đem từ ngoài vào, phải buông thật sạch hết để “trả lại cái thể ban đầu”.

Chúng ta sống đây phải nói là lấy cái tưởng làm sự sống chứ ngoài ra không có gì cả. Rồi tu cái này, cái kia là tu trong cái tưởng lấy tưởng làm sự sống của mình. Thế nên, trong luật có kể lại câu chuyện:

Trong một thời loạn lạc, có một bà mẹ gặp lúc giặc tràn vào cướp giết, cấp bách quá phải chạy trốn, mà không thể đem theo đứa con nhỏ nhất, vì quá đông con còn nhỏ, nên không thể đem hết theo được. Bà bèn treo một túi cơm ở trên mái nhà và dặn đứa bé là cơm cho con ngồi đây để mà dụ nó, rồi bà bỏ đi với mấy đứa lớn hơn. Đứa bé cứ ngồi nhìn túi cơm đó hoài, liên tiếp mấy ngày liền như thế. Đến khi giặc cướp kéo đi rồi, mấy ngày sau có người tình cờ đi ngang qua thấy đứa bé, bèn lấy làm lạ sao đứa bé cứ ngồi nhìn cái túi đó hoài, mới trèo lên đem túi xuống xem thử cái gì – thì đó là túi tro, đứa bé thất vọng, ngay đó nó chết.

Trong luật nói rằng mình sống đây là do tưởng. Như đứa bé tưởng là túi cơm nên kéo dài cuộc sống, khi thấy tro không thể ăn được, liền hết tưởng, vì thế mà chết.

Vậy, chúng ta sống đây là sống do cái tưởng thôi, rõ ràng như thế. Nên cuối cùng phải buông hết các tưởng hư dối, trả lại cái bình thường, nghĩa là người trâu mất hết, công phu nhọc nhằn đều quên. Trả lại cái bình thường, thật là bình thường, đúng như ý nghĩa của nó, không thêm bớt gì cả.

Tóm lại: Công phu cuối cùng là “buông” chớ không gì hết, vượt qua các thứ lớp, sống ngay cái chân thật không thể nghĩ bàn.

Thiền sư Hoàng Bá Hy Vận có dạy:

Thế nào là được không rơi vào giai cấp? (thứ lớp). Tức là hằng ngày mình ăn cơm mà chưa từng nhai một hạt gạo, trọn ngày đi mà chưa từng đạp một phân đất, cùng khi ấy không có tướng nhân, tướng ngã. Trọn ngày không tất cả việc, mà không bị các cảnh làm mê hoặc thì mới gọi là người tự do tự tại. Lại, lúc nào mỗi niệm đều không thấy tất cả tướng, chớ nhận ba thời, quá khứ không đi, hiện tại không dừng, vị lai không đến. Ngồi ngay an ổn, mặc tình không câu chấp mới gọi là người giải thoát. Phải cố gắng, cố gắng, ở trong môn này ngàn người muôn người chỉ được ba người năm người. Nếu mà không làm việc này ắt có ngày thọ ương. Thế nên nói:

Cố gắng đời này phải xong xuôi

Còn đâu nhiều kiếp mang tai họa.

Ngài Hoàng Bá dạy phải vượt giai cấp, đến chỗ hằng ngày ăn cơm mà chưa từng nhai hạt gạo, hằng ngày đi mà chưa từng đạp tấc đất. Nghĩa là sống hằng ngày mà không từng dính chi hết, không có lưu dấu vết tâm ở bất cứ nơi nào, không chỗ cho tâm khởi, phải sống đến chỗ này. Thế nên phải ngồi ngay an ổn, không nên câu chấp bất cứ một cái gì. Phải cố gắng đến thẳng chỗ này thì sau mới khỏi ăn năn. Nên Tổ mới dạy đời này phải xong xuôi, chớ đừng để nhiều kiếp mang tai họa, đó là nhắc nhở chúng ta phải đi cho đến nơi.

Ngài Thạch Cổ Di có bài họa:

Tụng:

Giả hán thân tùng dị loại lai

Phân minh mã hàm dữ lư tai

Nhất huy thiết bổng như phong tật

Vạn hộ thiên môn tận kích khai.

Dịch:

Gã ấy chính từ dị loại sang

Tai lừa hàm ngựa quá rõ ràng

Chợt quơ gậy sắt nhanh như gió

Ngàn muôn lớp cửa thảy mở toang.

Dị loại là loài này loài kia, đây chỉ cho loài lừa loài ngựa. Đến chỗ này gọi là vô sai biệt tức hết chỗ để phân biệt. Nên khi các Ngài khởi diệu dụng thì không thể nghĩ bàn, tự tại đi qua hết tất cả chỗ. Quơ cây gậy sắt thì muôn ngàn lớp cửa mở ra không bị chướng ngại. Muôn pháp không pháp nào chướng ngăn được, đến đây mới thật tự do tự tại.

Cư sĩ Nạp Duẫn Am cũng có bài họa:

Tụng:

Liễu hạng hoa nhai nhậm xứ lai

Bồng đầu xích cước tiếu doanh tai

Hư không phấn toái toàn thân hiện

Đóa đóa ưu đàm hỏa lý khai.

Dịch:

Ngỏ hoa bờ liễu mặc lại qua

Đầu rối chân trần cười quên ta

Hư không nát nhuyễn toàn thân hiện

Trong lửa Ưu-Đàm nở nở hoa.

Ngỏ hoa bờ liễu mặc lại qua: Đối với các vị này chỗ dâm phòng tửu điếm, nhiễm tịnh …, không còn phân biệt, không còn hai, đâu đâu cũng là đạo tràng.

Đầu rối chân trần cười quên ta: Đầu thì rối bù, chân thì để trần, cười thoải mái, vượt qua những hình thức oai nghi, đạp bỏ hết các lối mòn từ trước, gọi là mở một lối đi cho riêng chính mình.

Hư không nát nhuyễn toàn thân hiện: Gọi là vô trụ xứ Niết-Bàn, chỗ nào cũng là chỗ hiện thân cả.

Trong lửa Ưu-Đàm nở nở hoa: Trong lửa mà loài hoa Ưu-Đàm, nở từng đóa từng đóa, tức là tự tại trong sanh tử, sanh tử vô thường không đến được chỗ này.

Tóm lại:

Mỗi một người trong chúng ta, bất cứ ai cũng có sẵn cái chân thật xưa nay hiện đang ngự trong sắc thân này. Nhưng do bất giác quên mất bèn chợt khởi vọng, rồi thành ra lẫn trong vọng biến thành con trâu để cho mình tìm. Vọng là che, bị che mà tưởng là mất, để cho phải đi tìm. Song cuối cùng mới thấy là nó sẵn nơi mình, bây giờ đây mình đã có của báu vô giá. Vì thế đâu bỏ qua được, đâu thể ngồi yên để chịu nghèo mãi, để sống trong hư vọng này hoài hay sao? Thế nên, phải quyết tâm tìm, phải khai thác cho ra chỗ này. Và tìm ở đâu? Chỉ cần chúng ta buông bỏ những niệm lăng xăng hư dối thuộc hai bên như thương ghét, đúng sai, xấu tốt …, thì của báu vô giá hiện bày. Phải nhớ như vậy.

Mong rằng tất cả mỗi người chúng ta đều đầy đủ niềm tin và lẽ thật này, và sẵn sàng buông bỏ những hư vọng để mà nhận cho sâu, đi cho hết con đường của mình. Không nên đi nửa chừng, hay dừng giữa chừng mà tự mãn. Chúng ta hãy nhớ lại xem ở trên đời này có cái nào chân thật hơn việc này chăng. Không có cái thứ hai đâu! Cho nên mỗi người phải can đảm tiến tới chỗ này, phải đi cho hết đường. Trong nhà thiền có câu:

Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ

Liễu ám hoa minh biệt nhất thôn.

Dịch:

Sơn cùng thủy tận nghi không lối

Tàng liễu hoa tươi một làng riêng.

Thiền giả đi cho tột cùng núi non, tận hết núi sông, không còn lối nào để đi nữa, thì ở phía sau cái tàng liễu hoa tươi đó, hiện ra một thôn xóm. Chứ không phải hết rồi không còn gì. Đó là quê hương muôn thuở của chúng ta, vì ở đây không có bốn mùa, chỉ có một mùa xuân miên viễn, là chỗ sống vĩnh viễn của mỗi chúng ta.