LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Sa-môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…Đời Bắc Lương
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Chương 1: KIỀN-ĐỘ TẠP
Phẩm 7: VÔ NGHĨA
(Từ quyển 21- quyển 22)
Người tu khổ hạnh
Nên biết đều vô nghĩa
Không hề có lợi gì
Như chèo thuyền trên đất.
Như chương nầy và giải thích nghĩa của chương, ở đây nên nói rộng Ưu-ba-đề-xá.
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Mặc dù tất cả A-tỳ-đàm đều nói về kinh Phật, nhưng riêng phẩm nầy nói nhiều. Vì sao? Vì phẩm luận nầy phần nhiều lấy kinh làm luận.
Lại nữa, sở dĩ soạn ra luận nầy là vì đây là kinh Phật. Trong kinh Phật nói: Phật đang ngồi dưới cội Bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền thuộc thôn Ưu-lâu-tần-loa, thành Phật chưa bao lâu.
Bấy giờ, Đức Thế tôn bảo các Tỳ-kheo: Ta đã xa lìa khổ hạnh, đối với những khổ hạnh ấy, ta hoàn toàn được giải thoát, do nguyện lực của mình nên được Bồ-đề bậc nhất.
Nghe Phật nói, các Tỳ-kheo rất ưa thích, nhất tâm không tán loạn để lắng nghe pháp. Lúc ấy, ma ác Ba-tuần nghĩ rằng: Sa-môn Cù-đàm nay đã đến ngồi dưới cây Bồ-đề, bên sông Ni-liên-thiền thuộc thôn Ưulâu-tần-loa, vì các đệ tử nói pháp, cho đến lắng tai nghe pháp. Nay ta nên đến nơi ấy để tạo ra những khó khăn gây trở ngại. Nghĩ đoạn ma ác hóa thành một người Bà-la-môn trẻ tuổi đi đến chỗ Phật, tới nơi, nói kệ rằng:
Nay ông bỏ khổ hạnh
Đạo thanh tịnh chúng sinh
Nếu lại hành đạo khác
Không có tịnh bao giờ.
Về nghĩa của bài kệ nầy: Bấy giờ, ma nói với Đức Thế tôn: Ông đã từ bỏ việc dựa vào đạo khổ hạnh của các vị tiên thủơ xưa, không thể tịnh hóa con người mà là tịnh. Ma cho rằng, không có tịnh nầy, các thứ khổ hạnh là đạo thanh tịnh. Đức Phật bảo ma ác: Chẳng phải ta không thể thực hành khổ hạnh mà bỏ. Ta đã quán sát kỹ đạo nầy không có công năng dứt trừ phiền não. Do không có công năng đó, nên ta mới từ bỏ. Vì việc nầy, nên nói kệ sau đây:
Những người tu khổ hạnh
Phải biết đều vô nghĩa
Không hề có lợi gì,
Như chèo thuyền trên đất.
Hỏi: Các lối tu khổ hạnh có nghĩa gì?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: sở hành bên ngoài pháp nầy, đều nói là vì người khác nói pháp, nghĩa là tám Thánh đạo và phương tiện của Thánh đạo, trừ pháp ấy ra, còn lại là tà đạo. Vì đạo là tà đạo, nên đều là vô nghĩa. Do việc nầy nên nói: Các lối tu khổ hạnh của người khác, phải biết đều là vô nghĩa.
Lại có thuyết nói: Người khác nghĩa là nói hạng thấp kém chẳng phải người khác là nói về việc tốt đẹp, thù thắng. Tức khổ hạnh mà các ngoại đạo thực hành là pháp thấp kém. Vì sao? Vì chấp ngã. Cho nên nói: Người khác tu khổ hạnh, nên biết là vô nghĩa.
Lại có thuyết nói: Người khác nói: không chết! Không chết chỉ cho ma ác. Cho nên Đức Thế tôn nói: kẻ không chết! Người khác tu khổ hạnh, nên biết là vô nghĩa.
Lại có thuyết nói: Các người vì cần sinh lên cõi trời, nên tu khổ hạnh. Người tu khổ hạnh đều nói là khổ hạnh không chết. Do việc nầy, nên nói: Người khác tu khổ hạnh, nên biết cùng là vô nghĩa, không hề có lợi gì, như chèo thuyền trên đất, tức vô dụng. Khổ hạnh mà người tà kiến thực hành không thể dứt trừ kiết. Vô dụng cũng giống như thế.
Bấy giờ, ma lại nói với Phật: Nếu các thứ khổ hạnh là tà hạnh, thì ông do đạo nào mà tự được thanh tịnh? Đức Thế tôn liền nói kệ:
Ta tu giới, định, tuệ
Đạo rốt ráo như thế
Nay đã được thanh tịnh
Bồ-đề không gì trên.
Kinh Phật tuy nói như vậy, nhưng không phân biệt rộng. Luận nầy tức là Ưu-ba-đề-xá trong kinh Phật. Kinh Phật là căn bản của luận nầy những pháp nào trong kinh Phật không nói, nay muốn nói nên soạn luận nầy.
Hỏi: Vì sao Đức Thế tôn nói: Những người tu khổ hạnh, nên biết là vô nghĩa?
Đáp: Đây là con đường của già chết, gần với pháp già chết thuận theo pháp già chết, không thể dùng pháp nầy để dứt trừ con đường của già chết. Vì sao? Vì chúng sinh muốn vượt qua biển già chết, thực hành khổ hạnh nầy, nhưng khổ hạnh sở hành ấy là tà kiến nên lại làm cho chúng sinh chìm sâu trong biển già chết.
Tôn giả Cù-sa nói: Tất cả pháp tăng trưởng là vô nghĩa, tất cả pháp vắng lặng là có nghĩa. Khổ hạnh sở hành của tà kiến là thuận theo pháp tăng trưởng. Do thuận theo tăng trưởng nên không thể sinh ra pháp vắng lặng. Chúng sinh muốn vượt qua biển già chết nên tu các khổ hạnh, nhưng khổ hạnh nầy sẽ khiến chúng sinh rơi vào biển già chết. Vì sao? Vì hành phương tiện. Phương tiện tà là vì sinh lên cõi trời. Cho nên nói mà thực hành khổ hạnh nầy: Rơi vào trong biển già chết.
Lại như Đức Thế tôn nói: Thân ngay ngắn, ngồi kiết già, buộc niệm ở trước, cho đến nói rộng.
Hỏi: Tất cả oai nghi đều đúng với đạo hạnh, vì sao chỉ nói ngồi kiết già?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là pháp đã thực hành từ xưa. Vì sao? Vì Hằng sa chư Phật quá khứ và đệ tử Phật đều thực hành pháp nầy.
Lại có thuyết nói: Vì cách ngồi kiết già nầy có thể khiến cho người khác sinh tâm cung kính. Nếu ngồi kiết già, khởi giác ác, vẫn khiến cho người khởi tâm cung kính.
Cho nên, vì muốn cho mọi người sinh tâm cung kính
Lại có thuyết nói: Pháp nầy chẳng phải pháp ái dục của thế tục. Các oai nghi khác thì thế tục thường áp dụng.
Lại nữa, pháp nầy có thể sinh khởi ba thứ đạo Bồ-đề, nên Bồ-đề của Thanh văn của Bích-chi Phật và của Phật đều không do oai nghi khác chỉ do oai nghi nầy mà được.
Lại nữa, với pháp nầy lúc hành đạo, thuận theo yên ổn, chẳng phải oai nghi khác.
Lại nữa, pháp nầy có thể phá trừ quân ma. Như Phật, Thế tôn ngồi kiết già có thể phá tan phiền não và quân của thiên ma.
Lại nữa, pháp nầy có thể thích đáng với tâm của bậc Đại nhân.
Lại nữa, pháp nầy không chung với ngoại đạo, các oai nghi khác thì chung với ngoại đạo.
Thế nào là ngồi kiết già? Tôn giả Ba-xa nói: Ngồi kiết già là hai chân xếp chồng lên, chánh quán cảnh giới, tức được thuận theo định nên gọi là ngồi kiết già. Thế nào là buộc niệm ở trước? Vì ở trên mặt, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Lại nữa, trái với phiền não ở sau chánh quán vắng lặng ở trước, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Lại nữa, trái với sinh tử ở sau, chánh quán về Niết-bàn ở trước, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Lại nữa, trái với cảnh giới của sắc ở sau, sở duyên của chánh quán ở trước, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Lại nữa, buộc niệm ở giữa mắt, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Lại nữa, dùng sức tuệ thù thắng chánh quán cảnh giới, niệm niệm không tán loạn, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Lại nữa, vì niệm và không tham đều uyên theo cảnh giới, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Lại nữa, vì buộc niệm ở giữa hai đầu chân mày, nên gọi là buộc niệm ở trước.
Quán tưởng màu xanh, v.v… cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao buộc niệm ở trên mặt?
Đáp: Từ vô thủy đến nay người nam khởi tâm dục đối với thân người nữ người nữ khởi tâm dục đối với thân người nam, phần nhiều do ở gương mặt.
Lại có thuyết nói: Vì gương mặt là chỗ nương dựa của bảy nhập người tu hành muốn quán sát các nhập.
Lại có thuyết nói: Mặt là thuận theo quán bất tịnh. Vì sao? Vì trên gương mặt có bảy lỗ chảy ra các thứ bất tịnh. Vì chỗ nầy tiết ra nhiều chất bất tịnh, nên hành giả quán riêng chỗ ấy.
Lại có thuyết nói: Chẳng phải do chiếu nơi mặt mình mà sinh ra ái, vì không sinh ái, nên buộc niệm ở gương mặt. Lại nữa, vì trên mặt có thể sinh khởi niềm vui khinh an, sau đó, mới khắp thân, cũng như khi thọ dục, bên căn nam, nữ, sinh ra vui, sau đó mới khắp thân.
Lại nữa, trên mặt, nhanh chóng có thể sinh ra tâm dục, như thấy tướng đẹp đẽ của mắt, tai, mũi, miệng, liền sinh tâm dục.
Hỏi: Buộc niệm ở gương mặt, là người mới tu hành, đã tu hành hay người tu hành lâu?
Đáp: Là người tu hành lâu. Người tu hành có ba hạng: Mới tu hành đã tu hành tu hành lâu.
Người mới tu hành đến chỗ gò mả, khéo ghi nhận hìnhtướng tử thi, nghĩa là hoặc màu xanh hoặc sình trướng lên, hoặc cháy nám, hoặc tan rã hoặc xương hoặc vòng xích xương v.v… khéo nhớ lấy tướng mạo như thế rồi, lại quán xương chân xương mắt cá, xương bắp đùi, xương gối, xương bắp vế, xương hông, xương lưng, xương sống, xương cánh tay, xương tay, xương ống quyển, xương vai, xương cổ, xương cằm, xương răng, xương đầu lâu.
Sau khi ở nơi gò mả, khéo nhận lấy các hình tướng như thế rồi, không quên, nhanh chóng trở lại trú xứ, rửa chân, ngồi trên giường dây, hoặc trải cỏ lên, nhớ lại tử thi mình đã thấy và nghĩ thân ta cũng thế.
Như vậy, gọi là hạnh quán ban đầu. Hành giả đối với cảnh giới của đối tượng quán, có thể làm cho rộng cũng có thể làm cho lược.
Gọi rộng là thế nào? Như quán xương của thân mình quán nơi giường mình ngồi, cũng lại là xương. Kế là quán đến nhà cửa, nơi chốn mình đang cư ngụ, tăng-già-lam, thôn xóm, ruộng đất, quốc độ hiện tất cả cõi nước dân chúng cho đến đại địa trong biển cả, đều quán là xương. Đó gọi là quán rộng.
Thế nào là hẹp? Tất cả xương trong biển cả, quán tất cả xương trong một cõi nước . Bộ xương trong cõi nước, cho đến bỏ quán xương bên ngoài, chỉ quán xương của thân mình. Có thể thực hành quán rộng, hẹp như thế. Đó gọi là đã tu hành.
Bỏ xương chân của mình, quán xương mắt cá nơi mình, cho đến quán xương đầu lâu. Xương đầu lâu có hai thứ: phần trái, phần phải. Nếu bỏ phần trái, quán phần phải, hoặc bỏ phần phải, quán phần trái, hoặc là bỏ cả hai phần, buộc niệm giữa hai đầu chân mày. Đó gọi là tu hành lâu. Thời gian nầy được gọi là mới nhập quán thân niệm xứ, quán bất tịnh. Hoặc có duyên ít, tự tại nhiều. Hoặc có khi tự tại ít, duyên nhiều. Hoặc có khi duyên ít, tự tại ít. Hoặc có khi duyên nhiều, tự tại nhiều.
Trường hợp đầu: Có thể thường quán thân mình, đối với cảnh giới sở quán không thể làm cho chuyển thành rộng.
Trường hợp thứ hai: Có thể quán xương trong biển cả, không thể làm cho quán nầy thường hiện ở trước.
Trường hợp thứ ba: Chỉ quán tự thân, không thể làm cho quán nầy thường hiện ở trước.
Trường hợp thứ tư: Có thể quán xương trong biển cả, lại khiến cho quán nầy thường hiện ở trước.
Quán bất tịnh: Hoặc có khi duyên vô lượng, chẳng phải tự tại vô lượng, hoặc có khi tự tại vô lượng, chẳng phải duyên vô lượng. Hoặc có khi duyên cũng vô lượng, tự tại cũng vô lượng. Hoặc có khi duyên cũng không vô lượng, tự tại cũng không vô lượng.
Trường hợp đầu: Hành giả có thể quán xương trong biển cả, không thể làm cho quán nầy thường hiện ở trước.
Trường hợp thứ hai: Có thể quán xương thân mình, thường hiện ở trước, không thể làm cho quán nầy rộng khắp.
Trường hợp thứ ba: Có thể quán xương trong biển cả, thường hiện ở trước.
Trường hợp thứ tư: Có thể quán xương của thân mình, không thể làm cho quán nầy thường hiện ở trước.
Đó gọi là hành giả quán tưởng về xương.
Thế nào là quán đoàn thực? Hành giả tưởng bất tịnh, quán thức ăn trong tay, hoặc thức ăn trong đồ đựng: Thức ăn nầy từ chỗ nào đến? Biết từ các thứ lúa trong kho lẫm đến. Quán lúc ở trong kho lại từ đâu đến? Biết từ các thứ giống lúa trong ruộng mà đến. Lại quán lấy gì để nuôi lớn hạt giống. Biết do phân, nước. Phân lại từ đâu đến? Biết từ trong đống phân rác, nước tiểu mà đến.
Khi quán như thế, thấy vật bất tịnh, lại làm tăng thêm vật bất tịnh. Hành giả hoặc vào làng khất thực, hoặc ở trong tăng khi muốn vào thôn xóm nước được thọ dụng tạo ra tưởng về nước tiểu. Nhành dương xỉa răng, khởi tưởng về xương cánh tay. Y sở thủ, tạo ra tưởng về da người. Giải áo, tạo ra tưởng về ruột. Bát đựng tạo ra tưởng về đầu lâu. Gậy tạo ra tưởng về xương đùi. Lúc bước đi trên đường đá tạo ra tưởng xương đầu lâu. Nếu khi đến thôn xóm, thấy vách tường nhà cửa tạo ra tưởng đống xương. Thấy các kẻ nam, nữ lớn nhỏ, tạo ra tưởng xương người. Được ăn mì, tạo tưởng về bột xương. Muối tạo tưởng về răng nghiền nát. Các thứ rau cải, tạo tưởng về tóc. Bánh mì, tạo ra tưởng về da. Cơm tạo tưởng về trùng. Canh tưởng về mủ, phân nhơ. Bơ sống, sữa, lạc tưởng về óc. Dầu, mật đường phèn, tưởng mỡ người. Nước nho tưởng là máu. Thịt, tưởng về thịt người.
Nếu khi vào trong tăng được nhận cỏ sạch, tưởng là tóc người, được bột mì, v.v…, tưởng bột xương. Ngoài ra, như trước đã nói.
Hỏi: Vì sao người tu hành quán tưởng như thế?
Đáp: Người tu hành kia nghĩ rằng: Từ vô thủy đến nay, ta đã lấy bất tịnh làm tịnh, nay phải quán vật bất tịnh nầy là tưởng bất tịnh. Người nào quán tưởng như thế thì có thể đối trị với ái dục. Hơn nữa, vì muốn đối trị ái dục, nên quán tưởng như thế. Về nghĩa mà nói, hành giả tạo ra tiếng gầm của sư tử, phần ngữ bất tịnh. Từ vô thủy đến nay, ta đã chấp lấy tướng tịnh của ông, nay muốn nhận lấy rộng tướng bất tịnh của ông.
Hỏi: Vì sao nói quán bất tịnh buộc niệm ở trước, mà không nói về niệm A-na-ba-na quán phương tiện giới?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là nói về chỗ khởi phương tiện đầu tiên, như nói quán bất tịnh, buộc niệm ở trước, cũng nên nói quán sổ tức, niệm phương tiện giới mà không nói, phải biết chỗ nầy nên ở đây nói chưa trọn vẹn.
Lại có thuyết nói: Vì tùy ở phần nhiều. Nên các Tỳ-kheo thường tu quán quán bất tịnh, ít tu niệm hơi thở ra vào, cho nên nói quán bất tịnh, không nói niệm hơi thở ra vào.
Tôn giả Cù-sa nói: Tùy lúc các Tỳ-kheo kia nhập pháp, dùng buộc niệm ở trước, không cần phải quán bất tịnh.
Tôn giả Ca-chiên-diên-tử vì giải thích kinh Phật, kinh Phật nói: Chánh tâm buộc niệm ở trước, dứt trừ tâm tham thế gian trụ trong pháp không tham, cho đến dứt nghi cái cũng giống như thế. Trong năm cái, cái nào nặng nhất? Tức là cái tham dục. Quán bất tịnh là đối trị gần đối với cái tham dục. Theo thứ lớp, cũng có thể dứt trừ cái khác, cũng có công năng dấy khởi thiền. Cho nên, dùng tưởng bất tịnh để buộc niệm ở trước.
Hỏi: Thể tánh của quán bất tịnh là gì?
Đáp: Là không tham. Nếu nhớ lấy tướng tử thi kia, nên có chung, thì thể là năm ấm. Các vị tu vắng lặng nói thể của quán bất tịnh là tuệ. Vì sao? Vì kinh Phật nói: Nếu khéo nhiếp giữ các căn thì đó gọi là thấy quán bất tịnh.
Lại có thuyết nói: Thể của quán bất tịnh là sự nhàm chán, nhàm chán về tên gọi, tưởng nên pháp tâm sở tồn tại như thế v.v… Đó gọi là chỗ thích hợp của pháp tâm sở.
Bình luận: Không nên nói như thế. Thuyết nói không tham là tốt. Nếu nhận lấy tương ưng cùng có thể, thì đó là bốn ấm, năm ấm.
Về Giới là cõi Dục, cõi Sắc. Địa là mười địa. Nghĩa là thiền trung gian cõi Dục, bốn thiền căn bản bên bốn thiền. Thân là ở cõi Dục. Hành: Chẳng phải mười sáu hành mà là hành riêng, hành bất tịnh. Duyên là duyên theo sắc nhập cõi Dục.
Hỏi: Có phải đây là duyên theo tất cả sắc nhập cõi Dục hay không?
Đáp: Đều là duyên.
Hỏi: Nếu vậy thì vì sao Tôn giả A-ni-lô-đầu không thể quán tưởng bất tịnh đối với thân trời khoái ý? Nghe nói Tôn giả A-ni-lô-đầu đang ngồi kiết già thiền định trong một khu rừng. Bỗng có bốn thiên nữ khoái ý, tự hóa thân mình hết mực xinh đẹp, đến chỗ Tôn giả A-ni-lô-đầu, nói: Nầy Tôn giả A-ni-lô-đầu! Chúng tôi là trời khoái ý, có thể biến hóa tự tại khắp nơi. Nếu ông muốn thấy sắc nào của thân chúng tôi, chúng tôi đều có thể ứng hiện để cùng ông vui chơi. Lúc ấy, Tôn giả A-ni-lô-đầu nghĩ thầm: Nay ta phải quán bất tịnh. Liền quán tường bất tịnh của Sơ thiền, nhưng không thể làm cho quán nầy hiện ở trước, cho đến muốn quán tưởng bất tịnh của bốn thiền cũng không thể được. Lại nghĩ: Thiên nữ kia là các thứ sắc. Nếu thuần là một sắc thì ta có thể khởi quán, bèn bảo thiên nữ: Các chị em đều nên hóa ra mầu xanh. Bấy giờ, thiên nữ liền tạo ra mầu xanh. Tôn giả lại quán tưởng bất tịnh, cũng vẫn không thể. Lại nói: Các chị em nên tạo ra mầu vàng. Thiên nữ liền hiện ra mầu vàng. Tôn giả lại quán tưởng bất tịnh, vẫn không thể. Lại nói: Các chị em nên tạo ra mầu đỏ. Các thiên nữ liền hóa ra mầu đỏ. Tôn giả lại quán tưởng bất tịnh, cũng không thể
Hỏi: Vì sao Tôn giả A-ni-lô-đầu bảo các thiên nữ tạo ra nhiều thứ sắcmầu như vậy?
Đáp: Vì Tôn giả nghĩ: Nếu họ thay đổi mầu sắc thì mình có thể quán tưởng bất tịnh. Lại nữa, vì muốn quán sắc tưởng tốt đẹp, không tốt đẹp của họ, nên nói như thế. Lại nghĩ: mầu trắng thuận theo tướng xương. Nếu họ hóa ra màu trắng, thì ta có thể quán tưởng bất tịnh, liền nói: Chị em hãy hóa thành mầu trắng. Thiên nữ liền hóa ra mầu trắng. Tôn giả bèn quán tưởng bất tịnh nhưng vẫn không thể. Lại nghĩ: Các thiên nữ nầy, xinh đẹp tức thời yên lặng, nhắm mắt không nhìn. Khi đó, bỗng nhiên thiên nữ không hiện nữa.
Với nghĩa như thế, làm sao hiểu được?
Đáp: Tôn giả A-ni-lô-đầu, dù không thể quán, nhưng các vị căn tánh nhạy bén khác thì có thể, như Tôn giả Mục-kiền-liên, Xá-lợi-phất, Bích-chi Phật, Phật.
Hỏi: Có thể quán tưởng bất tịnh đối với thân Phật hay không?
Đáp: Tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật đều có thể quán, nhưng không thể quán tưởng bất tịnh đối với thân Phật. Vì sao? Vì thân Phật vô cùng sáng, sạch, thù thắng, mầu nhiệm, không hề có các lỗi lầm, chúng sinh ưa thấy. Cho nên tất cả Thanh văn, Bích-chi Phật đều không thể quán tưởng bất tịnh, chỉ Phật mới có thể quán.
Lại có thuyết nói: Thanh văn cũng có thể quán. Vì sao? Vì bất tịnh có hai thứ:
- Lỗi lầm tai hại của sắc.
- Duyên khởi của sắc.
Không thể quán lỗi của sắc, chỉ có thể quán duyên khởi của sắc.
Quán bất tịnh lại có hai thứ:
- Tướng chung.
- Tướng riêng.
Có thể quán tướng chung, không thể quán tướng riêng:
Về niệm xứ: là Nói theo căn bản, chẳng phải nói phương tiện của niệm xứ đó là thân niệm xứ. Về trí là tương ưng với đẳng trí. Về căn: Tương ưng chung với cả ba căn. Về định: Không tương ưng với định. Về quá khứ, vị lai, hiện tại là pháp ba đời. Về duyên với quá khứ, vị lai, hiện tại: Quá khứ tức duyên với pháp quá khứ. Hiện tại tức duyên với pháp hiện tại. Vị lai bất sinh: là duyên với ba đời. Sẽ sinh là duyên với vị lai. Về thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện. Duyên với thiện, bất thiện, vô ký: Nghĩa là duyên cả ba thứ. Nhưng duyên theo pháp vô ký nhiều. Lệ thuộc ba cõi: Lệ thuộc cõi Dục, cõi Sắc. Duyên ba cõi: Là duyên cõi Dục. Về Học, Vô học, Phi học Phi vô học: Là Phi học Phi vô học. Về duyên theo Học, Vô học, Phi học Phi vô học là duyên Phi học Phi vô học.
Kiến đạo dứt, tu đạo dứt, không có dứt là tu đạo dứt. Duyên nơi kiến đạo dứt, tu đạo dứt, không dứt: Là duyên theo tu đạo dứt. Duyên nơi thân mình, thân người: Duyên nơi tự thân, cũng duyên theo tha thân. Duyên nơi danh, duyên theo nghĩa: Là duyên theo nghĩa. Là lìa dục đắc hay là do phương tiện đắc: Cũng là lìa dục, cũng là phương tiện. Lìa dục đắc: Lìa dục cõi Dục, được địa Sơ thiền, cho đến lìa ba thiền, muốn được địa thiền thứ tư. Người phàm phu, bậc Thánh của thân sau cùng, được chỗ đã từng được, cũng được chỗ không hề được. Ngoài ra, phàm phu được chỗ đã từng được.
Lìa dục đắc: Khi lìa dục được, về sau tạo ra phương tiện khởi hiện ở trước. Phật không dùng phương tiện khởi hiện ở trước. Bích-chi Phật khởi phương tiện phẩm hạ. Thanh văn hoặc tạo ra phương tiện phẩm trung, hoặc tạo phương tiện phẩm thượng, quán tưởng bất tịnh hiện ở trước, có tạo ra phương tiện mà được. Về sau, tạo ra phương tiện khởi hiện ở trước.
Hỏi: Những người nào có thể quán tưởng bất tịnh?
Đáp: Phàm phu, bậc Thánh đều có thể. bậc Thánh: Từ Tu-đàhoàn, cho đến A-la-hán.
Quán tưởng bất tịnh ở xứ nào?
Đáp: Trước nói rằng: Là ba phương trong cõi Dục, chẳng phải Uất-đơn-việt, trong các tầng trời cõi Dục, không thể khiến cho người mới hành hiện ở trước. Vì sao? Vì không có tử thi màu xanh, v.v…
Trước, được trong cõi người, sau, ở cõi kia khởi hiện ở trước.
Văn, tư, tu: là Ba thứ, cõi Dục là văn, tư, tu, cõi Sắc là văn, tu.
Hỏi: Quán tất cả là xương, nhưng tất cả chẳng phải xương, vì sao quán nầy chẳng là phải điên đảo?
Đáp: Vì quán nầy có thể dứt trừ các kiết, nên chẳng phải điên đảo.
Hỏi: Quán phòng, nhà là xương, vậy quán nầy sở duyên là gì?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Duyên vòng xích xương đã thấy ngoài gò mả.
Lại có thuyết nói: Duyên theo tất cả hư không giới trong phòng nhà.
Bình luận: Đây là tưởng hư giả, quán giới quán tức là duyên theo pháp đó. Nói như thế là tốt.
Hỏi: Quán bất tịnh nầy là ở ý địa, hay ở thân sáu thức?
Đáp: Là ý địa duyên theo hình sắc, chẳng phải thân năm thức.
Hỏi: Nếu là ý địa, chẳng phải thân năm thức, thì kinh nầy nói làm sao hiểu? Như nói: Mắt thấy sắc tư duy bất định?
Đáp: Trước, nhãn thức thấy sắc, sau, ý địa tư duy bất tịnh.
Lại có thuyết nói: Từ môn kia, từ đạo của môn kia, như hành quán sáu hỷ là địa ý thức. Từ đạo của môn nhãn sinh, cho đến đạo của môn thân sinh, cho nên nói sáu quán bất tịnh, phải biết cũng giống như thế.
Hỏi: Từ đạo của môn nhãn sinh quán bất tịnh, nói như thế thì có thể được như kinh kia nói: Tai nghe tiếng mũi ngửi hương, thân xúc chạm, ý biết pháp, tư duy bất tịnh, việc nầy làm sao hiểu? Vì sao lại bỏ sắc nhập, nhập khác chẳng phải cảnh giới của quán bất tịnh?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Quán bất tịnh không duyên theo tiếng v.v… lại có hành vượt hơn, có thể chán lìa tiếng v.v…
Lại có thuyết nói: Vì bị sắc ái che lấp, nên tu quán bất tịnh, vì bị che lấp do ái tiếng, hương, vị, xúc, pháp? Cũng tu quán bất tịnh, vậy nên nói như thế.
Lại có thuyết nói: Hành giả quán hình sắc là bất tịnh. Thanh, hương, vị, xúc, pháp mà hình sắc dựa vào, lại vượt hơn quán bất tịnh là hành quán chán lìa, nên nói như thế.
Lại có thuyết nói: Hành giả khéo tu quán bất tịnh, có thể chế ngự
việc tạo sắc, lại muốn chế ngự các cảnh giới như thanh v.v… Nếu chế ngự được, thì tốt nếu không thể thì lại tu quán bất tịnh, cũng như khi quân sĩ chiến đấu, trước phải yên định dinh lũy mới ra trận chiến đấu với giặc. Nếu thắng giặc thì tốt, không thắng thì trở lại dinh lũy. Quán bất tịnh kia cũng giống như vậy. Do đó, nói như thế.
Kinh nói: Có năm Tam-muội hiện thấy, năm tam muội ấy là: Như nói: Tỳ-kheo các thầy phải quán sát như thật thân nầy, từ chân đến tóc có các thứ bất tịnh đầy dẫy, trong đó, như là: tóc, lông, móng, răng, da mỏng, da dày, gân, mạch, thịt, xương, tim, phổi, lá lách, thận, gan, mật, đàm, dãi, ruột già ruột non, bao tử, đại tiểu tiện, nước mắt, nước mũi, nước miếng từ trong miệng chảy ra, mở lá, tủy, óc, máu, mủ, mồ hôi, sinh tạng, thục tạng, cũng như có người từ cửa sổ nhìn ra ngoài thấy các thứ lúa thóc xen lẫn trong kho, nào là mè, gạo tẻ, các loại đậu đại mạch tiểu mạch,v.v…
Tỳ-kheo quán sát như thật về thân nầy cũng giống như vậy. Nếu quán được như thế, thì gọi là Tam-muội hiện thấy đầu tiên.
Lại nữa, Tỳ-kheo quán sát như thật về thân nầy, cho đến nói rộng, loại bỏ các thứ máu, thịt, chỉ quán xương trắng, biết hành ở trong ấy. Nếu ai quán được như vậy, thì gọi là Tam-muội hiện thấy thứ hai.
Lại nữa, Tỳ-kheo! Quán sát như thật thân nầy, cho đến nói rộng. Quán bộ xương, biết hành ở trong ấy, cũng trụ đời nầy, cũng trụ ở đời vị lai. Nếu người nào quán được như thế, thì gọi là Tam-muội hiện thấy thứ ba.
Lại nữa, Tỳ-kheo! Quán tưởng như thật thân nầy, cho đến nói rộng. Chỉ quán thân xương, biết hành ở trong đó, trụ ở đời vị lai, không trụ đời nầy. Nếu quán được như thế, thì gọi là Tam-muội hiện thấy thứ tư.
Lại nữa, Tỳ-kheo! Cho đến quán xương trắng của thân, biết hành ở trong ấy, không trụ nơi đời nầy cũng không trụ ở đời vị lai. Nếu quán được như thế, thì gọi là Tam-muội hiện thấy thứ năm.
Hỏi: Năm Tam-muội hiện thấy nầy, ai hiện có được?
Đáp: Tam-muội hiện thấy thứ nhất, thứ hai, là của phàm phu và bậc Thánh hiện có. Tam-muội hiện thấy thứ ba là sở hữu của bậc Tuđà-hoàn, Tư-đà-hàm. Thứ tư là sở hữu của bậc A-na-hàm. Thứ năm là sở hữu của bậc A-la-hán.
Hỏi: Tam-muội thứ nhất, thứ hai là hiện thấy thì có thể như thế vì sao? Vì hiện thấy mà sinh ra? Khi quán hành của thức, thế nào là hiện thấy?
Đáp: Vì hiện thấy là phương tiện của quán kia, vì từ hiện thấy sinh, nên cũng gọi là hiện thấy, nơi chốn đặt tên các phápchỗ các pháp đặt tên là nhiều: Hoặc do tự thể nên đặt tên. Hoặc do đối tượng nương dựa nên đặt tên, hoặc do tương ưng nên đặt tên. Hoặc do đối trị nên lấy danh. Hoặc do hành, hoặc do duyên, hoặc do hành, duyên nên đặt tên, hoặc do phương tiện, nên đặt tên.
Theo tự thể đặt tên: Như đế, như ấm Đế. Thể là bức bách, nên gọi là khổ đế, cho đến vì thể là cầu đạt nên gọi là đạo đế. Vì thể là sắc, nên gọi là sắc ấm, cho đến vì thể là thức, nên gọi là thức ấm.
Đối tượng nương dựa nên đặt tên: Như nhãn thức vì dựa vào mắt sinh, nên gọi là nhãn thức, cho đến ý thức vì dựa vào ý sinh, nên gọi là ý thức.
Do tương ưng nên đặt tên: Như ý nghiệp, ý hành. Như ý xúc chạm sinh ái. Pháp nầy tương ưng với ý nên đặt tên.
Do đối trị nên đặt tên: Như pháp trí, tỷ trí. Nếu pháp đối trị cõi Dục thì gọi là pháp trí. Nếu pháp đối trị cõi Sắc, cõi Vô sắc thì gọi là tỷ trí.
Do hành nên đặt tên: Như khổ trí, tập trí. Vì sao? Vì trí nầy duyên đồng, hành không đồng.
Do duyên nên đặt tên: Như Tam-muội Vô tướng, vì duyên pháp Không có mười tướng, nên gọi là la thực hành vô tướng.
Do duyên nên đặt tên: Như diệt trí, đạo trí. Vì sao? Vì hai trí nầy hành không đồng, duyên cũng không đồng.
Phương tiện đặt tên: Như tha tâm trí, Không xứ, Thức xứ, năm Tam-muội hiện thấy, dùng hiện thấy làm phương tiện sinh ra định nầy, nên gọi là Tam-muội hiện thấy.
Hỏi: Quán bất tịnh vì sao gọi là Tam-muội hiện thấy?
Đáp: Vì có thể sinh ra Tam-muội hiện thấy.
Hỏi: Vì sao Đức Phật quán bất tịnh chỉ có Ngài được gọi là là vô thượng?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Phật quán bất tịnh, vì có thể hàng phục tất cả cảnh giới, nên gọi là vô thượng. Tất cả quán bất tịnh của hàng Thanh văn, Bích-chi Phật, không thể hàng phục tất cả cảnh giới. Như Tôn giả A-ni-lô-đầu không thể hàng phục cảnh giới nên không gọi là vô thượng.
Lại có thuyết nói: Phật quán bất tịnh là quán về xương. Quán xương là xương, quán gân, thịt v.v… là gân thịt, cho đến nói rộng.
Bình luận: Nếu nói như thế thì hiểu được: Phật là cảnh giới ít.
Người quán bất tịnh, như thuyết trước nói là tốt, vì có thể hơn tất cả cảnh giới, nên riêng gọi là vô thượng.
Như Phật bảo Tôn giả Mục-kiền-liên: Vì sao Phạm thiên Đề-xá không vì ông nói về người thứ sáu trụ nơi Vô tướng cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Đây là kinh Phật. Trong kinh Phật nói: Phật đang ở tại Tinh xá nơi khu lâm viên Kỳ-đà, Cấp-cô-độc. thuộc nước Xá-vệ. Bấy giờ, có ba vị Phạm thiên, hào quang nơi thân sáng rỡ, vào lúc đầu hôm đến chỗ Phật, Đảnh lễ dưới chân Phật, đứng qua một phía. Lúc đó một Phạm thiên bạch Phật: Bạch đức Thế tôn! Tại nước Bà-sí-đa có rất nhiều Tỳkheo- ni qua đời?
Phạm thiên thứ hai lại bạch Phật: Bạch Thế tôn! Những vị qua đời ấy có vị là Niết-bàn hữu dư.
Phạm thiên thứ ba lại bạch Phật: Những vị qua đời ấy có vị là Niết-bàn vô dư.
Các Phạm thiên nói như vậy rồi, đi nhiễu quanh Phật ba vòng, rồi bỗng nhiên biến mất.
Sáng hôm sau, Phật sai thị giả trải giường tòa, ngồi giữa chúng tăng rồi, bảo các Tỳ-kheo: lúc đầu hôm, có ba vị Phạm thiên, hào quang sáng chói đến chỗ ta. Cho đến Phạm thiên thứ ba, nói như thế rồi, nhiễu quanh chỗ ta ba vòng, bỗng nhiên biến mất.
Bấy giờ, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên đang ở trong chúng nghĩ rằng: Các vị trời kia có tri kiến như thế, nói về Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn vô dư ấy là vị trời nào? Lúc đó, Tôn giả Đại Mục-kiền-liên tùy chỗ thích ứng, liền nhập Tam-muội. Do năng lực của Tam-muội, nên trong rừng Kỳ-đà, bỗng nhiên biến mất hiển ra cõi Phạm thiên, cách chỗ Phạm thiên Đề-xá không xa. Tôn giả Mục-kiền-liên xuất Tam-muội, đến chỗ Phạm thiên Đề-xá. Đến rồi nói: Nầy Đề-xá! Vị Phạm thiên nào có tri kiến như thế là Niết-bàn Hữu dư, biết là Niết-bàn vô dư?
Hỏi: Như tri kiến của Tôn giả Mục-kiền-liên là hơn Phạm thiên gấp trăm ngàn muôn phần, vì sao lại phải hỏi Phạm thiên?
Đáp: Vì muốn hiển bày công đức của Phạm thiên Đề-xá, vốn là đệ tử của Tôn giả Mục-kiền-liên, đã chứng đắc quả A-na-hàm, có uy đức lớn các Phạm thiên kia không ai biết. Vì muốn làm sáng tỏ công đức của Phạm thiên Đề-xá, để cho các Phạm chúng khởi tâm cung kính, tôn trọng. Vì cho nên hỏi.
Lúc nầy, Phạm thiên Đề-xá đáp: Chư Thiên Phạm thân nầy có tri kiến như thế, có thể biết Niết-bàn hữu dư.
Tôn giả Mục-kiền-liên hỏi Phạm thiên Đề-xá: Tất cả chư Thiên Phạm thân đều có tri kiến ấy biết về Niết-bàn hữu dư, Niết-bàn Vô dư chăng?
Phạm thiên Đề-xá đáp: Chẳng phải tất cả chư Thiên Phạm thân đều có tri kiến như thế, cho đến nói rộng. Các Phạm thiên nầy dù có thọ mạng thân sắc vi diệu, uy danh cõi trời mà không biết đủ, không biết pháp xa lìa tối thượng như thật, nghĩa là không có tri kiến nầy. Nếu các Phạm thiên có thọ sắc danh dự mà thực hành biết đủ, tức có thể biết pháp xa lìa tối thượng như thật, nghĩa là có tri kiến như vậy.
Tôn giả Mục-kiền-liên lại hỏi Phạm thiên Đề-xá: Các Phạm thiên nầy làm sao biết được?
Đề-xá đáp: Thưa Tôn giả Mục-kiền-liên! Nếu các Tỳ-kheo được đạo quả A-la-hán, là cùngcâu giải thoát, các Phạm thiên nầy nghĩ rằng: Nếu khi vị Đại đức nầy có thân thì hàng người trời đều thấy. Nếu khi qua đời, thì hàng người, trời không còn thấy nữa, không chỉ là câu giải thoát. Nếu Tỳ-kheo được quả A-la-hán là tuệ giải thoát. Các Phạm thiên nầy nghĩ rằng: Tỳ-kheo ấy được quả A-la-hán là tuệ giải thoát. Lúc Đại đức nầy có thân thì hàng người, trời đều thấy, cho đến nói rộng, không chỉ là tuệ giải thoát. Nếu Tỳ-kheo là thân chứng, thì Đại đức ấy cũng có thể thắng tiến, đắc căn Vô học. Kiến đáo, Tín giải thoát, nói cũng giống như thế.
Hỏi: Vì sao các Phạm thiên kia không nói đến Kiên tính Kiên pháp?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu là cảnh giới của Phạm thiên kia thì sẽ nói về Kiên tín, Kiên pháp. Vì chẳng phải cảnh giới của Phạm thiên, cho nên không nói.
Lại có thuyết nói: Nếu là pháp sở hành của các Phạm thiên thì sẽ nói. Pháp nầy chẳng phải sở hành của họ, cho nên không nói.
Bấy giờ, sau khi nghe Phạm thiên Đề-xá nói, Tôn giả Mục-kiềnliên tâm sinh vui mừng, tùy chỗ thích ứng, liền nhập Tam-muội. Do năng lực Tam-muội nên từ cõi Phạm thiên biến mất và hiện ra nơi rừng Kỳ-đà. Tôn giả Mục-kiền-liên lại xuất Tam-muội, đi đến chỗ Phật, Đảnh lễ dưới chân Phật rồi ngồi qua một bên. Tôn giả thưa lại với Đức Thế tôn về việc mình đã bàn luận với Phạm thiên Đề-xá.
Đức Thế tôn bảo Tôn giả Mục-kiền-liên: Phạm thiên Đề-xá có nói về người thứ sáu thực thực hành vô tướng hay chăng?
Tôn giả Đại Mục-kiền-liên liền từ chỗ ngồi đứng dậy, chấp tay hướng về Phật, bạch: Bạch Thế tôn! Nay chính vào lúc ấy, cúi xin Đức Thế tôn nói về người thứ sáu thực thực hành vô tướng. Nếu các Tỳ-kheo nghe xong, nhất định sẽ vâng làm.
Phật bảo Mục-kiền-liên: Ông hãy lắng nghe khéo nhớ nghĩ, nay ta sẽ giảng nói: Mục-liên nên biết! Nếu Tỳ-kheo không quán tất cả tướng mà nhập Tam-muội tâm Vô tướng, thì đó gọi là người thứ sáu thực thực hành vô tướng.
Kinh Phật dù nói như vậy, nhưng không phân biệt. Kinh Phật là chỗ dựa căn bản đã soạn luận nầy. Luận nầy là Ưu-ba-đề-xá của kinh Phật, các pháp mà các kinh không nói, nay vì muốn nói nên soạn luận nầy.
Thế nào là người thứ sáu thực hành vô tướng?
Đáp: Ta Kiên tín, Kiên pháp là người thứ sáu, người thực thực hành vô tướng. Vì sao? Vì bảy bậc Thánh bao gồm tất cả bậc Thánh. Phạm thiên Đề-xá đã nói năm hạng, không nói hai hạng nầy, vì cho nên biết.
Hỏi: Hai vị nầy vì sao nói là người thực thực hành vô tướng?
Đáp: Vì Tôn giả kia không thể lập ra tên gọi. Ở nơi đây, nơi kia, cho đến nói rộng.
Hỏi: Đây là hai vị vì sao nói một?
Đáp: Tức như văn nói: Hai vị nầy đều không thể đặt ra tên gọi ở đây, ở kia. Vì nghĩa đồng, nên nói là một.
Lại có thuyết nói: Hai vị nầy đều không khởi tâm không giống nhau.
Lại có thuyết nói: Vì tâm hành của hai vị nầy bình đẳng đều có mười lăm tâm.
Lại có thuyết nói: Hai vị nầy đều không khởi tâm mong muốn.
Lại có thuyết nói: Hai vị nầy đều là không thể lập bày, đều không có ngôn thuyết, đều là đạo nhanh chóng.
Vì các nghĩa ấy, nên hai vị nầy là người thứ sáu.
Hỏi: Năm người kia là người thực hành vô tướng chăng? Vì sao nói người thực thực hành vô tướng nầy là người thứ sáu thực thực hành vô tướng?
Đáp: Năm người kia chẳng phải người thực thực hành vô tướng, chỉ người nầy mới gọi là người thực hành vô tướng.
Hỏi: Nếu vậy vì sao nói đây là người thứ sáu thực hành vô tướng?
Đáp: Đây là pháp số thứ sáu, chẳng phải thứ sáu thực hành vô tướng. Chỗ khác cũng nói là đã hại người thường hành thứ năm. Bốn hành trước chẳng phải thường, chỉ người thứ năm là thường do pháp số. Người thứ năm là thường chẳng phải bốn người đều là thường. Như nói thứ sáu tăng thượng, thứ năm cũng giống như thế.
Như vậy vì dùng pháp số nên nói thứ sáu, chẳng phải vì Vô tướng nên nói thứ sáu.
Hỏi: Vô tướng ở đây nói là môn Vô tướng giải thoát, Pháp bất động, tâm giải thoát cũng nói là Vô tướng, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, cũng nói là Vô tướng. bốn thứ nầy có gì khác nhau không?
Đáp: Ở đây nói kiến đạo là Vô tướng. Vì sao? Vì kiến đạo nầy là đạo nhanh chóng, không khởi tâm trông mong. Nếu người nào nhập vào pháp nầy thì không thể lập bày ở đây, ở kia, nên nói là Vô tướng.
Môn Vô tướng giải thoát gọi là Vô tướng vì duyên theo pháp không có mười tướng nên nói là Vô tướng.
Tâm giải thoát của pháp không động, được gọi là Vô tướng, là vì không bị tướng của các phiền não che lấp, cũng không còn sinh tướng phiền não nữa nên gọi là Vô tướng.
Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nói là Vô tướng: Vì xứ đó ngu kém, không mạnh mẽ, nhạy bén, hành động không quyết định, giống như nghi ngờ, không có tướng của tưởng rõ ràng, không có tướng của phi tưởng rõ ràng, nên nói là Vô tướng.
Kiến đạo có mười lăm tâm, tâm thứ mười sáu đều cùng với đạo tỷ trí là tu đạo. Thanh văn có thể thấy biết hai tâm trong kiến đạo, là khổ pháp nhẫn và khổ pháp trí. Nếu muốn quán tâm khổ tỷ nhẫn thứ ba, thì vào lúc nầy mới biết được tâm tương ưng của đạo tỷ trí thứ mười sáu. Bích-chi Phật biết ba tâm trong kiến đạo, đó là khổ pháp nhẫn, hoặc pháp trí. Nếu khi muốn biết khổ tỷ nhẫn, thì vào lúc nầy mới biết tâm tương ưng của tập tỷ trí thứ năm Phật Thế tôn biết được tâm nối tiếp nhau trong kiến đạo.
Hỏi: Vì sao Thanh văn biết hai tâm trong kiến đạo, Bích-chi Phật biết ba tâm, còn Phật thì biết tất cả?
Đáp: Tha tâm trí biết cảnh giới tương tự, chẳng biết cảnh giới không tương tự, thế tục trí biết pháp tâm, tâm sở của thế tục, trí vô lậu biết pháp tâm, tâm sở vô lậu, pháp trí biết phần của pháp trí, tỷ trí biết phần của tỷ trí. Thanh văn, Bích-chi Phật tạo ra phương tiện thì tha tâm trí mới hiện ở trước. Hành giả sắp nhập kiến đạo, thì trí tha tâm của Thanh văn sẽ hiện ở trước, lúc nầy biết được hai tâm trong kiến đạo: Tâm đi chung khổ pháp nhẫn, tâm đi chung khổ pháp trí. Hành giả nhập phần tỷ trí, Thanh văn tạo ra phương tiện của phần tỷ trí, tha tâm trí, khởi phần tỷ trí, tha tâm trí hiện ở trước. Muốn biết tâm thứ ba, tức là biết tâm thứ mười sáu. Hành giả sắp nhập kiến đạo, Bích-chi Phật sẽ tạo ra phương tiện của tha tâm trí, phần pháp trí. Hành giả đã nhập kiến đạo, Bích-chi Phật khởi tha tâm trí, phần pháp trí hiện ở trước, biết hai tâm của kiến đạo là khổ pháp nhẫn và khổ pháp trí. Hành giả nhập phần tỷ trí, Bích-chi Phật tạo ra phương tiện của tha tâm trí, phần tỷ trí, khởi phần tỷ trí, tha tâm trí hiện ở trước. Muốn biết tâm khổ tỷ nhẫn thứ ba, là biết tâm tập tỷ trí thứ tám. Đức Phật không tạo phương tiện nhưng tha tâm trí vẫn hiện ở trước.
Như hành giả khởi mỗi sát-na trong kiến đạo hiện ở trước, Đức Phật cũng khởi tha tâm trí, biết mỗi một tâm nối tiếp nhau đã từng trải của kiến đạo.
Hỏi: Có thể thí thức ăn cho người Kiên tín, Kiên pháp hay không?
Đáp: Không thể. Nếu thí cho y phục, giường, ghế thì có thể nhưng thức ăn thì không thể. Vì sao? Vì đây là đạo nhanh chóng. Nếu nhập vào đạo nầy, thì sẽ không khởi tâm trông mong, không thể lập ra nơi nầy, nơi khác. Cho nên, không thể thí cho họ thức ăn.
Hỏi: Nếu không thể thí cho họ thức ăn, thì kinh Ưu-già trưởng giả nói làm sao hiểu được? Như nói: Cư sĩ! Đây là Tu-đà-hoàn, đây là hướng Tu-đà-hoàn, cho đến nói rộng?
Đáp: Đây là trời nói với vị trời ấy.
Hoặc có thuyết nói: Là quyến thuộc của ma vương, vì muốn nhiễu loạn tâm cư sĩ.
Lại có thuyết nói: vị Trời kia là ngạ quỷ vì muốn lừa dối cư sĩ, nên nói như thế.
Lại có thuyết nói: vị Trời nầy là thần thọ nhận sự cúng tế trong nhà cư sĩ, muốn cho tâm cư sĩ sinh vui mừng, cũng muốn thị hiện tình cảm gần gũi nhau, nên nói như thế.
Lại có thuyết nói: Vị trời nầy là thân thuộc ngày trước của cư sĩ, vì muốn bảo cho biết ruộng phước của họ chẳng phải ruộng phước, nên nói như thế.
Hỏi: Trời đối với cư sĩ, dù cho rất thân, nhưng chẳng phải cảnh giới của họ, thì do đâu mà biết?
Đáp: Hướng quả Tu-đà-hoàn có hai hạng:
- Giả danh.
- Chân thật.
Nếu là người chân thật thì chẳng phải cảnh giới của họ. Nếu là giả
danh thì là cảnh giới của họ.
Lại có thuyết nói: Có khả năng thí cho người kia thức ăn, mà người kia chưa ăn. Vì sao? Vì như hành giả nhập kiến đạo, nếu đệ tử hoặc ngồi gần vì thọ nhận thức ăn của người kia, hoặc Đàn việt đem thức ăn để trên cỏ của người kia, hoặc trên đãy đựng y, như kinh khác nói: Bà-đà-lợi! Ý ông nghĩ sao? Nếu Tỳ-kheo là Kiên tín thì ta đã nói, ông đã đem thân làm cầu bắc qua vũng bùn nhơ, ta muốn đi trên cầu đó, là trái với lời ta nói chăng?
Đáp: Không! Vì đây cũng nói về giả danh, về Tu-đà-hoàn hướng chẳng phải chân thật. Vì sao? Vì người hướng Tu-đà-hoàn chân thật không khởi tâm không tương tự để nghe Phật nói.
Lại có thuyết nói: Trong đây cũng nói về Tu-đà-hoàn hướng chân thật.
Hỏi: Tu-đà-hoàn chân thật kia không khởi tâm không tương tự, có thể nghe Phật nói, sao lại nói là chân thật?
Đáp: Dù không nghe Phật nói, nhưng vì thâm tâm kính trọng Phật, dù cho kiến đạo có thể khởi, cũng phải thuận theo lời nói của Phật. Cho nên Phật nói rằng: Người có công đức như thế là thuận theo lời ta nói, huống chi ông là người không có công đức.
Như nói: Đức Thế tôn chuyển pháp luân, thần đất xướng rằng cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Vì dứt nghi. Người cho là thần đất có trí nhận biết rõ hiện tiền, biết Phật chuyển pháp luân, chẳng phải trí tỷ tướng. Vì muốn nói thần đất không có trí nhận biết rõ hiện tiền chỉ có trí tỷ tướng để nhận biết Phật chuyển pháp luân, nên soạn luận nầy.
Hỏi: Chuyển pháp luân chẳng phải cảnh giới trí sinh đắc, làm sao thần đất biết được?
Đáp: Do năm việc nên biết được:
1. Vì Đức Thế tôn khởi tâm thế tục nên biết.
Hỏi: Vì sao Đức Thế tôn khởi tâm thế tục?
Đáp: Vì nhận thấy công hạnh của mình đã hành trì trong ba Atăng-kỳ kiếp, đến nay đã có quả báo, sinh tâm vui mừng, nên khởi tâm thế tục.
Lại có thuyết nói: Vì Đức Thế tôn nhận thấy lời thệ nguyện rộng lớn của mình từ năm xưa, nay đã có kết quả.
Lại có thuyết nói: Vì Phật có ý muốn làmlợi ích cho người khác, khiến được đầy đủ. Do việc nầy, nên Đức Thế tôn muốn cho người khác biết khởi tâm thế tục, cả đến súc sinh cũng biết, huống chi là thần đất. Đức Thế tôn hoặc khởi tâm thế tục, các vị đại Thanh văn như Tôn giả Xá-lợi-phất, v.v… nhập Đảnh đệ Tứ thiền, do năng lực của nguyện trí còn không thể biết. Hoặc khi khởi tâm thế tục, cho đến súc sinh cũng có thể biết
2. Đức Thế tôn cũng nói với người khác.
Hỏi: Vì sao Phật bảo người khác?
Đáp: Vì muốn hiện bày tính chất chân thật của lời nói trong thuyết pháp.
Lại có thuyết nói: Vì Phật muốn thể hiện công hạnh của mình trong ba A-tăng-kỳ kiếp đã có quả báo.
Lại có thuyết nói: Vì Phật muốn biểu dương Tôn giả Kiều-trầnnhư là ruộng phước tốt của thế gian.
Lại có thuyết nói: Vì Phật muốn cho người, trời sinh tâm kính tin.
Lại có thuyết nói: Vì Phật muốn thể hiện mình chẳng phải như vị thầy thế gian tiếc rẻ pháp, vì mình đã phá trừ sự keo kiệt pháp.
Lại có thuyết nói: Vì Phật muốn thể hiện thân mình là pháp của bậc đại nhân.
Lại có thuyết nói: Vì Phật muốn thể hiện thân mình là người thông minh, như nói: Có ba việc là tướng thông minh:
Việc Phật tư duy là thiện.
Lời Phật đã làm là thiện.
Điều Phật giảng nói là thiện.
Do việc nầy, nên Phật bảo với người khác.
3. Tôn giả Mục-kiền-liên cũng khởi tâm thế tục.
Hỏi: Vì sao Tôn giả Mục-kiền-liên khởi tâm thế tục?
Đáp: Tôn giả kia vì muốn cho sinh tử từ vô thủy đến nay đã có bờ mé, để dứt trừ, vô lượng khổ, chặt đứt nhân đường ác, sinh nhóm quyết định, được thấy chân đế.
Lại có thuyết nói: Vì Đức Phật thấy thệ xưa đã lập, nguyện xưa đã phát, việc xưa đã làm đến nay đã có kết quả, nên khởi tâm thế tục.
4. Tôn giả Mục-kiền-liên cũng bảo với người khác.
Hỏi: Vì sao bảo người khác?
Đáp: Vì muốn nói lên trong việc khéo nói pháp những lời giảng nói đều là thành thật, chắc chắn.
Lại nữa, vì muốn biểu hiện công việc làm của Đức Thế tôn trong ba A-tăng-kỳ kiếp, đến nay đã có kết quả.
Lại nữa, vì muốn thể hiện pháp Phật có oai lực lớn, cũng muốn nói
lên sắc thân Phật là ruộng phước của thế gian.
Lại nữa, vì Phật muốn cho năm người kia sinh tâm vui mừng, kính mến.
Lại nữa, vì muốn hiện bày sáng tỏ công dung rộng lớn của Như lai.
Lại nữa, vì muốn thể hiện pháp Phật là pháp ra khỏi thần biến, nên bảo với người khác.
5. Từ bên trời Đại Oai Đức được nghe.
Hỏi: Sao gọi là trời Đại Oai Đức?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là trời Tịnh cư.
Lại có thuyết nói: Là các tầng trời cõi Dục, là người thấy chân đế.
Lại có thuyết nói: Là các tầng trời cõi Dục, từng thấy Phật quá khứ. Vì sao? Vì Chư Phật quá khứ lúc chuyển pháp luân đều có tướng như thế. Nay hiện ra tướng ấy nên biết Phật sắp chuyển pháp luân, liền bảo với người khác, được nghe Phật quá khứ kia nói.
Hỏi: Thế nào là nghĩa pháp luân?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nghĩa của pháp tánh, thể của pháp là nghĩa của pháp luân.
Lại có thuyết nói: Nghĩa có thể hiện thấy pháp là nghĩa của pháp luân.
Lại có thuyết nói: Nghĩa pháp nhãn thanh tịnh là nghĩa của pháp luân.
Lại có thuyết nói: Nghĩa đối trị chẳng phải pháp luân là nghĩa của pháp luân. Vì sao? Vì như sáu vị giáo chủ ngoại đạo tự nói mình là thầy người, trời, cũng chuyển pháp luân, nhưng luân của họ là tám tà đạo.
Cho nên, đối trị chẳng phải pháp luân, là nghĩa của pháp luân.
Hỏi: Những gì là nghĩa của luân?
Đáp: Nghĩa nhanh chóng là nghĩa của luân.
Lại có thuyết nói: Nghĩa bỏ đường nầy hướng đến chỗ kia là nghĩa của luân.
Lại có thuyết nói: Nghĩa phá trừ phiền não là nghĩa của luân.
Hỏi: Vì sao luân nầy gọi là Phạm pháp luân?
Đáp: Vì Phạm thế lúc đầu đã có đủ Thánh đạo, gọi là Phạm pháp luân, đệ Nhị, đệ Tam thiền không ở Sơ thiền, cũng không có Thánh đạo. Thiền thứ tư dù là thân Phật đầu tiên được mà không có Thánh đạo.
Lại nữa, người phạm hạnh, vì trong thân có thể được, nên gọi là Phạm pháp luân.
Lại nữa, vì đối trị chẳng phải phạm hạnh, nên gọi là Phạm pháp luân.
Lại nữa, vì phá trừ phiền não chẳng phải thanh tịnh nên gọi là Phạm pháp luân.
Lại nữa, Đẳng chánh giác của Như lai là pháp thanh tịnh, nên phân biệt, giải thích, lập bày, hiển hiện, gọi là Pạhm pháp luân.
Lại nữa, vì dùng Phạm âm để nói nên gọi là Phạm pháp luân.
Lại nữa, nếu có đủ xứ của tám Thánh đạo thì gọi là Phạm pháp luân.
Lại nữa, nếu có nơi chón có thể đạt được pháp đối trị phiền não do kiến đạo, tu đạo dứt trừ ở ba cõi thì gọi là Phạm pháp luân. Bất thiện, vô ký, có báo, không báo, có thể sinh hai quả, có thể sinh một quả, tương ưng với không hổ không thẹn, không tương ưng với không hổ không thẹn. Thể có nhóm, thể không nhóm, nhẫn đối trị, trí đối trị, xứ có thể đạt được, gọi là Phạm pháp luân.
Lại nữa, nếu có chín đạo quả dứt biết thì gọi là Phạm pháp luân. Trong ba thiền còn lại có năm đạo quả dứt biết. Trong cõi Vô sắc có một đạo quả dứt biết. Trong cõi Sơ thiền đều có chín đạo quả dứt biết, nên gọi là Phạm pháp luân. Cũng như kinh nói bốn mươi pháp, hai mươi pháp là phần bất thiện, hai mươi pháp là phần thiện. Nếu phân biệt giải thích bốn mươi pháp thì gọi là Phạm pháp luân.
Bốn mươi pháp: như mười tà đạo tự xưng là thắng, có mười bàng, mười trực đạo, mười chánh kiến, v.v… mười trực cũng như thế.
Hỏi: Như pháp thiện thuận theo pháp luân, có thể là Phạm pháp luân. Pháp bất thiện không thuận theo pháp luân, sao nói là Phạm pháp luân?
Đáp: Không y theo thể thiện, bất thiện để nói là pháp luân mà là do trí duyên theo thiện, bất thiện, gọi là Phạm pháp luân. Vì sao? Vì pháp luân nầy là vắng lặng, không có lỗi lầm, không hại người khác, nên gọi là pháp luân.
Hỏi: Vì sao nói kiến đạo là pháp luân, tu đạo chẳng phải pháp luân?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nghĩa nhanh chóng là nghĩa pháp luân. Kiến đạo là đạo nhanh chóng, vì đạo không khởi tâm trông mong.
Lại có thuyết nói: Bỏ chỗ nầy hướng đến chỗ kia là nghĩa của pháp luân. Kiến đạo bỏ khổ, hướng đến tập, bỏ tập hướng đến diệt, bỏ diệt hướng tới đạo.
Lại có thuyết nói: Vì bốn sự nên gọi là pháp luân:
- Bỏ đây.
- Đến kia.
- Người chưa chọn lựa thì chọn lựa.
- Người đã chọn lựa thì không bỏ.
Bỏ đây: Bỏ khổ trong kiến đạo. Hướng đến chỗ kia là hướng tới tập. Chưa lựa chọn thì lựa chọn: Là Tập. Đã lựa chọn thì không bỏ: Là khổ.
Lại có thuyết nói: Nghĩa trên, dưới là nghĩa pháp luân. Giống như vành bánh xe, có lúc ở trên, có lúc ở dưới. Kiến đạo cũng thế. Hoặc có khi nhẫn trí duyên với khổ cõi Dục ở dưới. Đôi lúc trí nhẫn duyên với Hữu Đảnh ở trên. Duyên với Hữu Đảnh rồi, lại duyên cõi Dục. Cho nên, nghĩa trên, dưới là nghĩa của pháp luân.
Lại có thuyết nói: Nghĩa hàng phục thiên hạ bốn phương là nghĩa của pháp luân. Như bánh xe báu hiện có của vua Chuyển luân có thể hàng phục thiên hạ khắp bốn phương. Hành giả cũng vậy, dùng luân của kiến đạo nơi bốn đế hàng phục thiên hạ bốn phương.
Lại có thuyết nói: Riêng như pháp của căm xe, bầu giữa bánh xe, vành bánh xe. Căm xe để giữ vành bánh xe. Bầu giữa bánh xe để giữ căm xe. Khổ nhẫn, khổ trí, tập nhẫn, tập trí của kiến đạo như căm xe. Diệt nhẫn, diệt trí như bầu giữa bánh xe. Đạo nhẫn, đạo trí như vành bánh xe. Vì sao? Vì nhẫn trí nầy duyên theo tất cả đạo. Pháp trí duyên với phần pháp trí, tỷ trí duyên với phần tỷ trí.
Lại có thuyết nói: Kiết là chỗ dứt của kiến đạo, có thể sinh ra tám pháp luân tà chẳng phải pháp. Vì kiến đạo có công năng đối trị pháp nầy, nên gọi là pháp luân.
Tôn giả Cù-sa nói: Tám Thánh đạo cùng lúc vận chuyển trong thân nầy, nên gọi là pháp luân. Chánh kiến, chánh giác, chánh tinh tiến, chánh niệm như căm xe. Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng như bầu giữa bánh xe. Chánh định như vành bánh xe.
Vì tám pháp nầy đều tu trong kiến đạo, nên gọi là pháp luân.
Phật chuyển pháp luân đầu tiên tại nước Ba-la-nại.
Hỏi: Phật đã chuyển pháp luân dưới cây Bồ-đề, vì sao lại nói chuyển pháp luân đầu tiên ở nước Ba-la-nại?
Đáp: Chuyển pháp luân có hai thứ:
- Ở thân mình.
- Ở thân người.
Dưới cây Bồ-đề là chuyển pháp luân của thân mình. Ở nước Bala-nại là chuyển pháp luân của thân người. Vì chuyển pháp luân đầu tiên nơi thân người ở nước Ba-la-nại, nên gọi là chuyển pháp luân đầu tiên.
Lại có thuyết nói: Chuyển pháp luân có hai thứ: Có chung, không chung. Như Thanh văn, Bích-chi Phật là pháp luân chung. Phật là pháp chuyển không chung. Vì chuyển pháp luân chung nên nói là chuyển pháp luân đầu tiên.
Lại có thuyết nói: Vì người đầu tiên chứng được vô ngã, nên nói là chuyển pháp luân đầu tiên.
Lại có thuyết nói: Nếu lúc ấy, người đạt được vượt hơn Bích-chi Phật thì nói là chuyển pháp luân đầu tiên. Vì sao? Vì Bích-chi Phật cũng ở nơi thân mình có thể chuyển pháp luân, không thể ở thân người chuyển pháp luân. Chỉ Phật mới có thể đối với thân người khác mà chuyển pháp luân.
Lại có thuyết nói: Nếu chỗ công hạnh đã tu trong ba A-tăng-kỳ kiếp đạt được kết quả đó, thì gọi là chuyển pháp luân đầu tiên. Vì sao? Vì nếu Đức Phật sắp nhập Niết-bàn ở chỗ Chư Phật trong quá khứ, thì sẽ được tùy ý. Sở dĩ thân tâm Phật không trễ nải, đã thực hành trăm ngàn khổ hạnh, chỉ vì muốn đem lại lợi ích cho người: Nếu khi ta chứng được trí vô thượng, sẽ làm cho vô lượng chúng sinh đều thoát khỏi ngục tù sinh tử, mà được giải thoát.
Với hạnh nguyện như thế, đã đầy đủ ở nước Ba-la-nại, nên gọi là chuyển pháp luân đầu tiên.
Lại có thuyết nói: Vì có khả năng hàng phục người, nên gọi là luân, giống như quốc vương hàng phục tất cả dân chúng trong các thành ấp, làng mạc, nên được gọi là vua. Không chỉ hàng phục những người trong cung điện nên được trực tiếp gọi là vua.
Cũng thế, có thể hàng phục thân người gọi là Pháp vương, không riêng thân mình nên gọi là Pháp vương.
Hỏi: Nếu Thánh đạo được tồn tại trong thân, tức thân mình gọi là người chuyển pháp luân, vì sao lại gọi là Phật chuyển pháp luân?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì giác ngộ nên nói Phật chuyển pháp luân. Vì sao? Vì tùy trong thân người kia đã có Thánh đạo. Nếu không ngữ quang của Phật soi sáng, thì Thánh đạo không sinh, Nếu do ngôn ngữ sự sáng suốt của Phật soi chiếu, thì Thánh đạo trong thân người kia không sinh. Phải do sự sáng suốt ngôn ngữ của Phật soi chiếu thì Thánh đạo nơi thân người kia mới sinh như trong ao nước, dù có hoa Ba-đầuma, Câu-vật-đầu, Phân-đà-lợi, nhưng nếu sự sáng suốt mặt trời không soi đến, thì chúng sẽ không nỡ, không tỏa mùi hương. Nếu được sự sáng suốt của mặt trời soi rọi thì chúng sẽ nở ngát hương. Thánh đạo kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Đã có Thánh đạo ngay trong thân người kia, nếu không do cánh tay ngôn thuyết của Như lai xoay thì Thánh đạo sẽ không sinh. Như vua Chuyển luân, nếu không dùng báu kim luân đặt trong tay trái và dùng tay phải chuyển vận kim luân nói rằng: Báu kim luân của ta sẽ có người được hàng phục. Bấy giờ, các thần không xoay bánh xe kia. Nếu đặt luân báu trong tay trái, dùng tay phải xoay, lúc đó, các thần sẽ chuyển vận kim luân. Nhưng sự chuyển vận luân là thần mà vua được tên. Thánh đạo cũng thế.
Lại có thuyết nói: Dù trong thân người kia có Thánh đạo, nhưng nếu không được duyên của Như lai làm sáng tỏ, thì Thánh đạo sẽ không sinh, giống như trong kho lẫm có các hạt giống, nhưng nếu không do duyên phát khởi thì mầm sẽ không mọc. Thánh đạo cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Trong thân chúng sinh kia tuy có Thánh đạo, nhưng nếu Như lai không dùng danh, cú vị thân của phương tiện thiện xảo, dứt trừ chướng ngại nơi thân họ, thì Thánh đạo không sinh. Nếu trừ bỏ chướng ngại thì Thánh đạo sẽ sinh.
Lại có thuyết nói: Có hai nhân, hai duyên sinh ra chánh kiến:
- Theo người khác nghe pháp.
- Bên trong tự tư duy.
Như theo người khác nghe pháp, gọi là Phật chuyển pháp luân. Như bên trong tự tư duy gọi là trong thân tự có Thánh đạo. Như vậy có thể đối với thân người, thành tựu bốn pháp, nghĩa là thường có chỗ tạo tác, như gần gũi thiện tri thức, theo người ấy nghe pháp, gọi là Phật chuyển pháp luân. Như bên trong tự tư duy, đúng pháp tu hành gọi là trong thân có Thánh đạo.
Hỏi: Như lúc trụ trong khổ pháp nhẫn đã chuyển pháp luân, vì sao vào lúc đạt đạo tỷ trí nói là chuyển pháp luân?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Khi trụ trong khổ pháp nhẫn, dù chuyển pháp luân, nhưng nghĩa chuyển chưa đủ, đến lúc đạo tỷ trí thì nghĩa của chuyển mới đủ.
Lại có thuyết nói: Do lúc được đạo tỷ trí có năm sự thích ứng:
- Được đạo không hề được.
- Bỏ đạo đã từng được.
- Vì dứt trừ phiền não đồng một vị.
- Mau được tám trí.
- Tu mười sáu hạnh.
Lúc nầy gọi là chuyển pháp luân. Nầy Kiều-trần-như! Ông có hiểu pháp không? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Năm người nầy đều là người hiểu pháp, vì sao Phật chỉ hỏi một mình Kiều-trần-như?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì Kiều-trần-như thấy Thánh đế trước, bốn vị kia thấy sau. Khi Kiều-trần-như thấy rõ Thánh đế, các vị còn lại vừa ở chỗ đạt được phần căn thiện.
Lại có thuyết nói: Vì bổn nguyên, nên trước Phật bảo Kiều-trầnnhư: Ông có hiểu pháp không? Đáp: Con đã hiểu, cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao Phật hỏi Kiều-trần-như đến ba lần?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Kiều-trần-như thấy rõ Thánh đế rồi, Đức Thế tôn khởi tri kiến, quán bờ mé trước sau, biết Kiều-trần-như lẽ ra còn ở nơi ấm, giới, nhập của xấu ác nhiều là ta trong khoảng sát-na giây lát trải qua trong ba a-tăng-kỳ kiếp là nhiều. Lúc quán như thế, Phật nhận thấy Kiều-trần-như đáng lý ra còn ở nơi ấm, giới, nhập xấu ác nhiều, chẳng phải như mình đã gieo trồng căn thiện trong từng sátna suốt ba A-tăng-kỳ kiếp là nhiều. Thấy vậy rồi, Đức Phật nghĩ: Ta đã tu tập vô lượng khổ hạnh trong ba A-tăng-kỳ kiếp, nay đạt được trí vô thượng, chỉ có thể khiến cho Kiều-trần-như lẽ ra phải ở nơi ấm, giới, nhập của đường ác, được ở trong pháp bất sinh, không còn làm việc gì khác nữa, chỉ đến với ta là đủ. Cho nên Phật ba lần hỏi Kiều-trần-như.
Lại có thuyết nói: Kiều-trần-như có thể duyên liên hệ nơi thân của tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh cũng có thể duyên liên hệ nơi thân của Kiều-trần-như. Kiều-trần-như thấy đế xong, Phật suy nghĩ: Nay ta đã được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, không còn làm việc gì khác nữa, chỉ xoay vần chặt đứt duyên buộc của Kiều-trần-như và tất cả chúng sinh, đối với ta là đủ, cho nên ba lần hỏi. Về khía cạnh ăn nuốt nhau, dứt mạng lẫn nhau chỗ giải thích cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Vì bị chê bai gần. Lúc Phật còn làm Bồ-tát, ra khỏi thành Ca-tỳ-la. Bấy giờ, dòng họ Thích sai năm người theo hầu Bồ-tát: Hai người là người thân bên phía mẹ, ba người là người thân bên phía cha. Hai người nói: Thọ dục là được tịnh. Ba người nói: Hành khổ hạnh là được tịnh. Trong khi tu khổ hạnh với Bồ-tát, người nói: Thọ nhận dục được tịnh, liền bỏ đi. Người nói: Khổ hạnh được tịnh, vẫn ở lại giúp đỡ hầu hạ Bồ-tát.
Bồ-tát bỏ chỗ tu khổ hạnh rồi, thoa dầu tô vào mình, dùng các thức ăn, Ngài nói: hành khổ hạnh được tịnh kia, tâm sinh não loạn, liền bỏ đi. Lúc ấy, sức khỏe của Bồ-tát càng tăng đi đến dưới cây Bồ-đề, hàng phục chúng ma, chứng được Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng.
Thành Chánh giác rồi, quán khắp thế gian, ai là người đáng được nghe pháp trước, ta sẽ vì họ giảng nói. Nhận thấy Uất-đà-ca-tử đáng được nghe pháp trước. Bấy giờ, có vị trời liền bạch Phật: Uất-đà-ca-tử vừa qua đời hôm qua. Khi đó, Như lai cũng theo tri kiến của mình biết ông ta vừa qua đời hôm qua.
Phật lại nghĩ: Ai là người kế đáng được nghe pháp, ta sẽ vì họ giảng nói. Thấy A-lan-ca-lan là người kế tiếp đáng được nghe pháp. Vị trời lại bạch: A-lan-ca-lan vừa mất cách đây bảy ngày. Phật cũng khởi tri kiến nhận biết A-lan-ca-lan đã mất được bảy ngày. Phật suy nghĩ: A-lan-ca-lan không được nghe pháp của ta là một mất mát lớn.
Hỏi: Phật đã thành đạo, lẽ ra phải vì người kia giảng nói pháp nhưng không vì họ giảng nói, sao không gọi là giáo hóa không đúng thời?
Tôn giả Cù-sa nói: Phật đầu tiên thành đạo, tâm yêu kính pháp, không lo nghĩ đến thức ăn khác, chưa quán chúng sinh, ai đáng được hóa độ.
Lại có thuyết nói: Như lai vô cùng thương xót, vì chưa kịp hóa độ người kia mà họ đã qua đời.
Lại có thuyết nói: Phật chưa phân chúng sinh thành ba nhóm.
Lại có thuyết nói: Người được Phật giáo hóa, phải là căn tánh thành thục. Căn tánh họ chưa thành thục mà lại qua đời. Lại các căn thành thục, phải do tự tâm. Người kia, với ý kiêu mạn, hành thiền tự xưng là Nhất thiết trí, tất nhiên phải trải qua thời gian lâu các căn mới thành thục.
Hỏi: Nếu căn tánh người nầy chưa thành thục, thì vì sao Phật lại nói: Người kia không nghe pháp của ta là mất mát lớn?
Đáp: Nếu người kia không qua đời, thì Phật có thể trừ bỏ tâm tự xưng là Nhất thiết trí của họ, cũng khiến cho sinh niềm tin Phật là bậc Nhất thiết trí. Tâm cũng có thể trước hết khiến cho các căn trước kia của Kiều-trần-như được thành thục và được hóa độ. Nếu một người kia, sau khi Phật đắc đạo, trong bốn mươi hai ngày còn thọ mạng thì có thể khiến người ấy được lợi ích lớn trong pháp Phật, nhưng vì hành mạng của họ đã hết, nên Đức Thế tôn đành thôi. Nếu có chúng sinh nào đáng được hóa độ, thì Như lai sẽ tự trụ nơi thọ mạng như đợi Tu-bạt-đà-la, v.v… Nếu có thể trụ nơi thọ mạng của người khác thì không có việc đó.
Lại có thuyết nói: Lúc Phật là Bồ-tát, là đệ tử của người kia. Nếu người ấy không qua đời, thì Phật sẽ chỉ rõ về pháp cho vị thầy ấy, cũng sẽ khiến người ấy biết pháp Phật đã chứng được, chẳng phải pháp họ đã truyền trao trước kia.
Vì việc nầy, nên Phật nói người kia bị mất mát lớn. Phật nghĩ: Ai là người kế đáng được nghe pháp?
Vị trời lại bạch: Năm vị như A-nhã Kiều-trần-như v.v… là người kế đáng được nghe pháp. Phật cũng khởi tri kiến, biết A-nhã Kiều-trầnnhư v.v… kế tiếp đáng được nghe pháp.
Phật lại nghĩ: Nay họ ở đâu?
Vị trời bạch: Họ đang ở nước Ba-la-nại.
Phật cũng khởi tri kiến, biết họ đang ở tại nước Ba-la-nại. Bấy giờ, Đức Thế tôn lần lượt đi đến nước Ba-la-nại tới chỗ năm vị kia. Lúc đó năm vị thấy Đức Thế tôn đến liền bảo nhau là không đứng dậy. (như trong Tu-đa-la có nói rộng).
Kiều-trần-như thấy chân đế rồi, Phật bảo: ông đã hiểu pháp chưa? Cho đến nói rộng. Nay ông xem ta có biếng trễ không? Có thực hành nhiều pháp chăng? Đối với pháp lìa dục có lui sụt không? Ta đã đạt được pháp cam lộ chăng?
Kiều-trần-như cảm thấy rất hổ thẹn đáp lời Phật: Nay con thấy Đức Thế tôn không có biếng trễ, không thực hành nhiều pháp, đối với pháp lìa dục cũng không lui sụt đã đạt được pháp cam lộ, con đều chứng biết.
Do việc nầy, nên Phật hỏi đến ba lần.
Lại nữa, vì muốn làm viên mãn thệ nguyện xưa: Nghe nói trong kiếp Hiền nầy có vị vua tên là Ác Hạnh, lại có vị tiên tên là Nhẫn Nhục. Vào một dịp nọ, nhà vua không đem theo người nam, dẫn các kỹ nữ ra khỏi hoàng cung dạo chơi trong rừng, tâm ý ưa thích. Sau đó, vua mệt mỏi nên nằm ngủ. Lúc ấy, các kỹ nữ vào rừng hái hoa quả tìm kiếm khắp nơi.
Khi đó, vị tiên đang yên tĩnh tư duy thiền định nơi trụ xứ của mình. Các kỹ nữ từ xa thấy vị tiên, liền đến chỗ vị tiên, Đảnh lễ dưới chân sau đó ngồi qua một bên.
Vị tiên liền vì các kỹ nữ giảng nói về lỗi lầm tai hại của dục.
Vua Ác Hạnh khi thức giấc, nhìn khắp bốn phía, không thấy người hầu, liền nghĩ: Phải chăng ai đó đã dẫn các kỹ nữ của ta đi rồi chăng? Nhà vua liền nổi giận, xách gươm tìm kiếm khắp rừng, bỗng thấy các kỹ nữ đang ngồi vây quanh bên vị tiên, tâm vua nghĩ: Nay con quỷ to tướng kia dám cả gan dẫn đám kỹ nữ ta đến đó… Trước hỏi rằng: Ông là ai?
Vị tiên đáp: Ta là vị tiên.
Vua lại hỏi: Ông làm gì ở đây?
Vị tiên đáp: Ta hành đạo nhẫn nhục.
Nhà vua nghĩ: Người nầy thấy ta giận dữ, tự xưng là nhẫn nhục, nay ta hãy thử xem có thật vậy không? Vua lại hỏi: Ông đã chứng được Sơ thiền chưa?
Vị tiên đáp: chưa được.
Hỏi: Ông đã đạt được định Phi tưởng Phi phi tưởng chưa?
Vị tiên đáp: chưa được.
Nhà vua nghe xong, càng thêm giận dữ, nói với vị tiên: Ông có thể đưa cánh tay của mình ra chăng? Nhà vua liền dùng dao bén chặt đứt.
Lại hỏi: Ông là người gì?
Vị tiên đáp: Là người nhẫn nhục.
Cũng thế, lại chặt đứt một cánh tay nữa. Rồi chặt đứt cả hai chân. Lại cắt tai, mũi, khiến thân người tiên bị đứt lìa thành bảy phần. Lại hỏi:
Ông là người gì?
Vị tiên đáp: Là người nhẫn nhục.
Vị tiên nói với nhà vua: Giờ đây vì sao lại sinh tâm nhàm chán? Nếu ông dùng dao chặt đứt thân ta thành từng vi trần thì ta vẫn nói là người thực hành nhẫn nhục, không bao giờ có khác!
Bấy giờ, vị tiên lại nói: Như hôm nay ông chặt đứt thân thể ta thành bảy phần, khi ta chứng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì trước hết ta sẽ dùng đại bi khuyên ông tu bảy thứ đạo để dứt trừ bảy sử của ông. Vua Ác Hạnh thời ấy nay là Kiều-trần-như. Vị tiên Nhẫn Nhục ấy nay chính là Đức Thế tôn.
Kiều-trần-như đã thấy chân đế rồi. Nhờ nơi oai lực của phật, tự thấy thân mình vốn là vua Ác Hạnh từng chặt đứt thân vị tiên thành bảy phần, cũng nhớ lại thệ nguyện xưa của Phật. Lúc ấy, Đức Thế tôn bảo Kiều-trần-như: Ta đã trái với lời thề xưa, hay là vẫn vâng giữ nguyện xưa?
Kiều-trần-như liền từ chỗ ngồi đứng dậy, hết sức hổ thẹn, bạch Phật: Đức Thế tôn không hề trái với bổn thệ mà luôn vâng giữ lời nguyện xưa. Con quá ngu tối, thấp kém, đã gây nên tội như thế. Nay xin dốc tâm sám hối để cho bổn nguyện được viên mãn, cho nên Phật ba lần hỏi Kiều-trần-như.
********
Thần đất xướng như vầy: Đức Thế tôn chuyển Thánh pháp luân, cho đến nói rộng.
Hỏi: Trong chúng hội bấy giờ, cũng có vị trời khác xướng rằng: Phật chuyển pháp luân. Vì sao chỉ nói một mình thần đất xướng? Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thần đất theo Đức Thế tôn, muốn cho Phật chuyển pháp luân không có các chướng ngại. Như lai theo thời chuyển chánh pháp luân không có các trở ngại. Thần đất tự nghĩ mình đã có công lao, nay đã được quả, tâm sinh vui mừng, do đó nên cao tiếng xướng trước.
Lại có thuyết nói: Trong chúng hội bấy giờ, dù có các vị trời khác, nhưng nghe thần đất vốn nhanh nhẹn nên xướng trước. Như hôm nay chỗ đại chúng nhóm họp, người với tánh nhanh nhẹn, thường vui mừng cao tiếng xướng trước. Thần đất cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Vì thần đất kia cảm thấy rất vui mừng cho nên xướng trước.
Lại có thuyết nói: Là pháp thứ lớp. Vì sao? Vì thần đất xướng trước, kế là thần hư không, trải qua khoảng trên đến cõi trời Phạm Thế.
Hỏi: Như ở chỗ khởi tiếng thì âm thanh liền dứt ngay ở đó sao nói là trên lên đến cõi Phạm thế?
Đáp: Đây là pháp chuyển chuyển. Thần đất xướng rồi, vị trời khác lại xướng. Chuyển chuyển như thế cho đến cõi Phạm Thế. Giống như một ngọn đèn chuyển chuyển cháy sáng âm thanh kia cũng giống như thế.
Hỏi: Như trời cũng hiểu pháp, vì sao lại nói vì con người mà chuyển pháp luân?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì con người thấy đế trước, trời thấy đế sau.
Lại có thuyết nói: Vì con người là hiện thấy, trời chẳng phải hiện thấy.
Lại có thuyết nói: Do con người làm chứng, chẳng phải do trời làm chứng.
Lại có thuyết nói: Vì hành nghiệp của Phật đồng với người, trời thì không đồng.
Lại có thuyết nói: Vì các trời cũng từ trong nơi con người đạt được lợi ích tốt đẹp.
Lại có thuyết nói: Vì trong con người có bốn chúng.
Lại có thuyết nói: Nếu ở chỗ nầy diệt thì cũng ở chỗ ấy sinh, tuy có bậc Thánh đầy khắp các cung trời. Trong cõi người có người đã chứng pháp cam lộ, nên không gọi là pháp diệt. Nếu không có người chứng, mới gọi là pháp diệt. Cho nên, nếu ở chỗ nầy diệt, cũng ở chỗ ấy sinh. Nếu Chuyển luân Thánh vương xuất thế, thì tiếng nói thấu đến cung trời Tha hóa tự tại. Tiếng nói của Kiều-trần-như, v.v… thấu đến cõi Phạm thế, tiếng nói của Phật thấu đến A-ca-nị-trá.
Hỏi: Vì sao tiếng của vua Chuyển luân thấu đến cung trời Tự Tại, tiếng nói của Kiều-trần-như, v.v… thấu đến cõi Phạm thế, tiếng nói của Phật thấu đến cõi trời A-ca-nị-trá?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Chúng sinh gây ra nghiệp có hạ, trung, thượng. Người gây ra nghiệp phẩm hạ, tiếng nói thấu đến cung trời Tự Tại. Người gây ra nghiệp phẩm trung, tiếng nói thấu đến cõi Phạm thế. Người gây ra nghiệp phẩm thượng, tiếng nói thấu đến cõi trời A-ca-nịtrá.
Lại có thuyết nói: Chúng sinh gây ra nghiệp được tiếng khen có hạ, trung, thượng. Người gây ra nghiệp phẩm hạ, tiếng nói thấu đến cung trời Tự Tại. Người gây ra nghiệp phẩm trung, tiếng nói thấu đến cõi Phạm thế. Người gây ra nghiệp phẩm thượng, tiếng nói thấu đến cõi trời A-ca-nị-trá.
Lại có thuyết nói: Chúng sinh khen ngợi cha mẹ, Sư trưởng, Samôn, Bà-la-môn có phẩm hạ, trung, thượng. Nếu người hành phẩm hạ, tiếng nói thấu đến cung trời Tự Tại. Người tạo phẩm trung, tiếng nói thấu đến cõi Phạm thế. Người tạo phẩm thượng, tiếng nói thấu đến cõi trời A-ca-nị-trá.
Lại có thuyết nói: Nếu Chuyển luân Thánh vương xuất thế, thì
dùng mười điều thiện để giáo hóa và sẽ nhận lấy quả báo trong sáu tầng trời cõi Dục. Nếu có người mới sinh lên cõi trời, thì chư Thiên vui mừng: ta thọ vui thân thuộc, nay đã thêm nhiều! Vì lúc Chuyển luân Thánh vương xuất thế, chư Thiên đều vui mừng, nên tiếng của Vua Chuyển luân thấu đến cung trời Tự Tại. Vì Phạm thiên thỉnh Phật Chuyển pháp luân nên tiếng thấu đến Phạm thế. Chư Thiên Thủ-đà-hội giác ngộ Bồtát, nên xuất hiện tại thành Ca-tỳ-la-đạt được trí vô thượng, vì thế Phật xuất hiện ở đời, nên tiếng thấu đến cõi trời A-ca-nị-trá.
Lại có thuyết nói: Chuyển luân Thánh vương là người ái dục, do đó, tiếng thấu đến xứ không lìa dục.
Vì trong Phạm thế có cao thấp, trên dưới, nên tiếng nói của Tôn giả Kiều-trần-như thấu đến cõi Phạm thế. Vì Phật có đại danh xưng tối thắng, nên tiếng nói của Phật thấu đến cõi A-ca-nị-trá. Nếu có chúng sinh cõi Hữu Đảnh có nhĩ thức, thì tiếng nói của Thế tôn cũng nên thấu đến cõi đó, vì Đức Thế tôn đã rộng tu vô lượng nghiệp được khen ngợi.
Hỏi: Vì sao âm thanh của Chuyển pháp luân thấu đến cõi Phạm thế?
Đáp: Vì Phạm thế là xứ tất cả loài người đều tôn trọng.
Lại có thuyết nói: Vì Phạm thế đã tạo ra giới hạn của Tam thiên đại thiên thế giới.
Lại có thuyết nói: Vì Phạm Thế có trên dưới, cao thấp.
Lại có thuyết nói: Vì địa kia có pháp giác quán là căn bản của ngôn ngữ, như nói: do tâm giác quán, nên có lời nói.
Lại có thuyết nói: Vì cõi kia có nhĩ thức thiện nhiễm ô vô ký không ẩn mất của địa mình.
Lại có thuyết nói: Vì cõi kia có thiện nhiễm ô, vô ký không ẩn mất của địa mình, có pháp tạo tác.
Do việc nầy, nên tiếng nói thấu đến cõi PhạmThế.
Hỏi: Pháp Chư Phật giảng nói đều là pháp luân phải chăng?
Đáp: Không. Nói kiến đạo, đó gọi là pháp luân.
Hỏi: Nghe Phật nói pháp, số người nhập kiến đạo là nhiều, vì sao không gọi là pháp luân?
Đáp: Số người kiến đạo ấy dù là pháp luân, nhưng không ở ban đầu, vì người nhập pháp đầu tiên mới gọi là pháp luân, người nhập pháp sau cùng như Tu-bạt-đà-la, cũng được gọi là pháp luân.
Hỏi: Tất cả chư Phật đều chuyển pháp luân ở nước Ba-la-nại. Xứ ấy có nhất định không? Nếu nhất định thì làm sao hiểu thuyết nầy, như nói: Phật Nhiên Đăng chuyển pháp luân ở thành Đăng Quang? Nếu không nhất định thì làm sao hiểu kệ Đàm-Ma Tu-Bồ-Đề đã nói, như kệ nói:
Nên nghĩ chỗ Phật quá khứ nương
Đại thành Ca-da, thí rừng nai
Đều ở xứ nầy khéo phân biệt
Pháp mầu thanh tịnh không có trên.
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nên nói rằng: Có bốn chỗ nhất định:
Chỗ cây Bồ-đề chuyển pháp luân, chỗ trên trời, đến dưới đất, chỗ hóa hiện thần biến lớn.
Làm sao biết cây Bồ-đề là nhất định? Nghe nói có vua Chuyển luân Văn-đà-kiệt cùng bốn binh chủng bay đi trong hư không, ngang qua trên cây Bồ-đề, thì xe báu dừng lại, không thể bay tiếp. Bấy giờ, nhà vua hoảng sợ, nghĩ rằng: Nay ta e rằng sắp, mất ngôi vua, sắp mất mạng chăng? Thần cây Bồ-đề nói với vua: Đại vương đừng sợ! Không mất ngôi vua, cũng không mất mạng! Đại vương không thấy dưới cây Bồ-đề, trong đó có tòa kim cương, tất cả Bồ-tát đều ngồi trên tòa nầy, đều chứng được trí vô thượng. Đại vương muốn đi qua, thì hãy tránh chỗ nầy, đi con đường khác!
Lúc ấy, nhà vua xuống xe, đem các thứ cúng dường cây Bồ-đề xong, đi theo con đường khác.
Do việc nầy, nên biết được cây Bồ-đề là chốn nhất định.
Vì sao biết được nơi chốn chuyển pháp luân là nhất định?
Tức do kệ trên, biết được chỗ đó là nhất định.
Vì sao biết được từ trên trời đến chỗ dưới đất là nhất định? Nghe nói sau khi Phật qua đời, từ trên trời xuống chỗ dưới đất có các việc khổ não, các Tỳ-kheo bỏ nơi chốn ra đi, dị học ngoại đạo đến ở trong đó, các Tỳ-kheo lại đến chỗ ấy, nói với ngoại đạo: Đây là thầy ta, từ trên trời tới chỗ nầy. Ngoại đạo lại nói: Là chỗ cúng tế trời, thường trú của ta, cho đến diễn ra cuộc tranh chấp quyết liệt. Bấy giờ, các Tỳ-kheo nói với ngoại đạo: Nay nên cùng nhau lập lời nói thành thật, nếu thuộc về người nào, thì sẽ có điềm lành! Các ngoại đạo đều im lặng. Lúc ấy, các Tỳ-kheo bèn lập lời thành thật, các thần đều chứng biết: Nếu khiến chốn nầy là nơi của Chư Phật quá khứ làm mẫu mực cho sự nói pháp thì sẽ hiện điềm lành.
Khi đó, tại trú xứ kia, có cột đá to, phía trên có con sư tử đá, liền gầm lớn. Các ngoại đạo sợ hãi nên bỏ đi. Trong miệng sư tử tuôn ra các tràng hoa báu quấn quanh cột đá xanh cùng khắp mọi nơi.
Do việc ấy nên biết Đức Phật từ trên trời đến chỗ dưới đất là chốn nhất định.
Vì sao biết được chỗ hiện đại thần biến là nhất định? Vì khi Phật còn ở đời, các ngoại đạo thường tìm Phật để cùng so tài hiện bày thần biến, trải qua mười sáu nước lớn, Phật không hiện thần biến lần trở về đến nước Xá-vệ, mới hiện thần biến.
Do việc nầy nên biết được chỗ hiện thần biến là cố định.
Hỏi: Nếu chỗ chuyển pháp luân là nhất định thì Phật Nhiên Đăng chuyển pháp luân ở thành Đăng Quang, với thuyết nầy nói làm sao hiểu?
Đáp: Nay nước Ba-la-nại nầy, tức là thành Đăng Quang ngày xưa.
Lại có thuyết nói: Có ba chỗ nhất định: Cây Bồ-đề, trên trời đến chỗ dưới đất, chỗ hiện đại thần biến. Ba chỗ nầy cố định, như đã nói trên, Ba chỗ không nhất định là nơi chuyển pháp luân, nơi giáng sinh và nơi nhập Niết-bàn.
Vì sao biết được nơi chuyển pháp luân là không nhất định? Như A-la-uất-đà-ca-tử không qua đời nên Phật không đến chỗ đó để vì ông ta giảng nói pháp, và từ nước Ma-già-đà dẫn đến nước Ba-la-nại?
Hỏi: Nếu chỗ chuyển pháp luân không nhất định, thì làm sao hiểu kệ của Đàm-ma-tu-bồ-đề nói?
Đáp: Vấn đề nầy chẳng cần hiểu. Vì sao? Vì đây chẳng phải tuđa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, đây chẳng qua là phương pháp soạn văn tụng.
Thông thường người soạn văn tụng lời nói phải vượt qua sự thật.
Hỏi: Nếu muốn hiểu thì phải hiểu thế nào?
Đáp: Quá khứ cũng từng có Phật chuyển pháp luân ở chỗ đó, do đó nên nói như thế.
Hỏi: Ba-la-nại là nghĩa gì?
Đáp: Có con sông tên là Ba-la-nại, thành vua được xây dựng cách sông ấy không xa, nên gọi là Ba-la-nại.
Hỏi: Vì sao gọi là nơi bàn luận của vị tiên?
Đáp: Hoặc nói rằng: Tất cả chư Phật đều chuyển pháp luân ở nước Ba-la-nại, , chư Phật là những vị tiên hơn hết. Vì lần đầu tiên, chuyển pháp luân ở nơi đó, nên gọi là chỗ vị tiên bàn luận. Hoặc nói rằng: Chư Phật không cần phải chuyển pháp luân ở chỗ ấy, vì vào thời Phật ra đời, đã có đại tiên A-la-hán cư trú nơi đó, nay đang cư trú, sẽ cư trú. Nếu Phật không xuất thế thì đã có Bích-chi Phật ở. Nếu không có Bích-chi Phật, thì đã có vị tiên đạt năm thông ở.
Do việc nầy, nên gọi là chỗ bàn luận của vị tiên, cũng gọi là trụ xứ của vị tiên.
Rừng thí nai có nghĩa gì? Bầy nai đi dạo ở trong đó, gọi là rừng nai. Lại nữa, vua Phạm-ma-đạt thí rừng cây nầy cho đàn nai, nên gọi là rừng thí nai.
Lại Đức Thế tôn nói: Tỳ-kheo nầy đã dứt hết lậu, trời Ba mươi ba thường nhóm họp, cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Vì kinh Ba- Lợi -chất -Đa Thọ Dụ là chỗ căn bản của luận nầy. Hoặc cho trời Ba mươi ba có trí hiểu rõ hiện tiền, biết Tỳ-kheo đã dứt hết lậu, chẳng do so sánh tướng mà biết. Muốn quyết định nói trời Ba mươi ba không có trí hiểu rõ hiện tiền là trí của tướng so sánh. Vì sao? Vì tuệ sinh đắc không biết pháp lậu tận. Chính vì việc trên, nên soạn luận nầy.
Hỏi: Nếu tuệ sinh đắc không thể biết được pháp lậu tận, thì chư thiên kia làm sao biết?
Đáp: Vì năm việc nên biết:
1. Đức Thế tôn khởi tâm thế tục.
Hỏi: Vì sao Đức Thế tôn khởi tâm thế tục?
Đáp: Vì hợp ý Đức Thế tôn. Ai là người Thế tôn hợp ý nhất? Đó là người có thể dứt bỏ hữu ở vị lai. Đức Thế tôn cũng nói: Nếu Tỳ-kheo là người khởi phần ít hữu ở vị lai, thì ta sẽ không khen ngợi người đó, cho đến nói rộng. Tỳ-kheo kia đã dứt bỏ hữu ở vị lai, vì hợp ý Đức Thế tôn, nên khởi tâm thế tục.
Lại có thuyết nói: Nếu muốn cho người được tha tâm trí, phải biết.
2. Có khi dùng miệng nói, bảo người khác.
3. Bảo người khác. Về nghĩa bảo với người khác, như trước đã nói.
4. Tôn giả kia cũng khởi tâm thế tục:
Hỏi: Vì sao Tôn giả kia cũng khởi tâm thế tục?
Đáp: Vì Tôn giả kia, từ vô thủy đến nay bị phiền não luôn đốt cháy, nay đã được nguội lạnh. Bỏ các nhập hừng cháy, được các nhập mát mẻ. Bỏ chúng sinh phiền não, ở trong chúng sinh thanh tịnh, buông bỏ gánh nặng của ấm nhiễm ô, được ấm thanh tịnh, vì sinh tâm vui mừng, nên khởi tâm thế tục.
5. Tôn giả kia cũng bảo với người khác:
Hỏi: Vì sao Tôn giả kia cũng bảo với người khác?
Đáp: Vì muốn đế thành thật nói trong hiện pháp, cũng khiến thí chủ thí cho thức uống ăn, y phục, giường, ghế, ngọa cụ, đau bệnh có thuốc thang, sinh tâm vui mừng. Cũng vì muốn chỉ rõ cho người xuất gia thực hành có kết quả. Vì cho nên bảo người khác.
6. Từ trời Đại Oai Đức được nghe:
Hỏi: Trời Đại Oai Đức là sao?
Đáp: Là trong cõi trời ấy có người được A-la-hán.
Hỏi: Tất cả đều biết chăng?
Đáp: Nếu là người căn tánh bình đẳng thì biết.
Hỏi: Trời khác kia cũng khen ngợi pháp nầy chăng?
Đáp: Cũng khen ngợi.
Hỏi: Nếu vậy thì vì sao trong đây không nói?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu chư Thiên thường nhóm họp, thì trong đây nói là trời ba mươi ba, trong támngày, mười bốn ngày, mười lăm ngày, thường nghĩ xem người, trời, có ai thực hành pháp thiện hay không?
Lại có thuyết nói: Trong trời Ba mươi ba kia, hoặc có người dụ cây Ba-lợi-chất-đa-la với A-la-hán. Vì cho nên khen ngợi.
Lại có thuyết nói: Nếu trời Ba mươi ba nghe con người thường thực hành việc thiện, thì trời sẽ vui mừng. Do đó nên khen ngợi.
Lại có thuyết nói: Trời Ba mươi ba thường dò xét con người xem có ai làm việc thiện, thì sẽ che chở cho họ, cho nên khen ngợi.
Hỏi: Có khen người Hữu học hay không?
Đáp: Cũng khen ngợi. Như kinh nói: Nếu người thế gian hiếu thảo, với cha mẹ, thì sẽ được chư Thiên khen ngợi, huống chi là người Hữu học.
Hỏi: Nếu vậy thì vì sao chỉ nói người dứt hết lậu mà không nói người Hữu học?
Đáp: Vì vượt hơn, cho đến nói rộng.
Lại có thuyết nói: Vì lấy lúc cây Ba-lợi-chất-đa-la rất sum suê nở rộ hoa làm dụ.
Lại có thuyết nói: Vì người đã dứt hết lậu, nên xứng đáng thọ cúng dường, vì không có lỗi lầm xen lẫn, vì không có tội lỗi, vì không có ngờ vực, oán hận cho nên khen ngợi.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, chư Thiên gia thêm nhiều, thì đường ác sẽ giảm ít. Vì cho nên khen ngợi, giống như minh vương trị nước, do dân chúng ngay thẳng thêm nhiều. Người thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, chư Thiên thêm nhiều, chúng A-tu-la giảm ít, như lúc mặt trăng tròn, nước biển cả tăng. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, lúc chư Thiên chiến đấu với A-tu-la thì sẽ thắng. Như các thiên tử thấy điều thiện tinh tiến, chiến thắng chư Thiên. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, thì oai đức của chư Thiên đời sau sẽ vượt hơn oai đức của chư Thiên đời trước, vì cho nên khen ngợi. Như dùng vị ngọt thí cho vượt hơn người thí ở ngả tư đường. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, dùng một chút thức ăn thí cho, sẽ được sinh lên cõi trời, vì cho nên khen ngợi. Như Ma ha Ca-diếp dùng một đồ đựng hạt lúa tốt, nấu cơm đem thí cho A-ni-lô-đầu một bữa ăn. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, người thấy, có thể sinh tâm kính tin, sẽ được sinh lên cõi trời. Vì cho nên khen ngợi. Như ểnh ương, chó dữ hà hơi Chiên-đà-la, vì để tỏ lòng kính tin, nên được sinh lên cõi trời. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, ngục tù sinh tử sẽ được gặp đại ân xá. Như vua sinh con, đại xá lao ngục. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, thì sẽ có thể được chỉ bày rõ ràng đạo đường thiện, đường ác, như khi mặt trời mọc, thì thấy con đường bằng phẳng hoặc gian nan nguy hiểm. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, thì sẽ không mất ngôi trời, không đọa đường ác, vì lại được ngôi vị trời, giống như Đế-thích. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, thì tất cả thế gian đều thường được lợi ích, chẳng lúc nào không có, giống như thầy tốt sẽ dạy đệ tử tốt, thường được lợi ích, chẳng lúc nào không có. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán thì cho dù có nhạc trời, nhưng vẫn có thể lìa bỏ, tư duy được an tĩnh, như Đế-thích, vua Chuyển luân, vua Diêm La nghĩ được xuất gia. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, thì tất cả thế gian sẽ được nghe các pháp báu như phẩm đạo, v.v… mà thường được dồi dào, như thuyền biển chở của báu, làm cho thiên hạ được no đủ. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nếu đời có A-la-hán, thì tất cả người đời đều được hưởng thú vui, như mùa lúa chín no đủ. Người làm việc thiện kia cũng giống như thế.
Hỏi: Có phải vì khen ngợi tất cả A-la-hán không?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đều khen ngợi tất cả A-la-hán. Vì sao? Vì chư Thiên thường thích khen ngơi người thiện. Tất cả việc làm đều xong, rất là ít, cho nên đều khen.
Lại có thuyết nói: Không cần phải khen ngợi tất cả A-la-hán. Vì nếu A-la-hán tạo nên nghiệp danh dự cũng giúp cho chúng được tăng ích thì khen ngợi. Còn nếu không làm nên nghiệp danh dự, thì cho dù có tạo, cũng không khiến tăng trưởng, có ở gần nhau, cũng không biết, huống hồ là chư Thiên?
Lại có thuyết nói: Nếu giàu sang mà xuất gia, như vua Thích-bàđà, v.v… thì đáng khen ngợi.
Lại có thuyết nói: Như trong kinh nầy nói: A-la-hán thì khen ngợi.
Lại có thuyết nói: Nếu người có đại trí, có phước báo lớn, nếu có thể làm cho các chúng trời tăng, đường ác giảm ít thì mới đáng khen ngợi.
Lại có thuyết nói: Nếu làm lợi ích người mà không cảm thấy nhàm mỏi, như Xá-lợi-phất v.v… thì đáng khen ngợi.
Lại có thuyết nói: Nếu có khả năng hộ trì pháp Phật, làm nơi quy hướng cho đời, thì đáng khen ngợi.
Hỏi: Chư Thiên có biết người tăng thượng mạn không?
Đáp: Nếu người có tăng thượng mạn, tự nói là A-la-hán, thì chư Thiên không biết. Nếu người không có tăng thượng mạn, mà tự nói được quả A-la-hán thì chư Thiên sẽ biết.
Lại có thuyết nói: Nếu là người có căn thiện sâu dày, khởi tăng thượng mạn, thì chư Thiên không biết. Nếu người quán tưởng bất tịnh, lệ thuộc cõi Dục, sinh tăng thượng mạn thì biết. Như Đế-thích, vào thời không có Phật, nếu thấy người nào sống rảnh rang thảnh thơi liền đến nơi đó, quán sát người nầy có tướng thành Phật hay không. Đế-thích còn thế, huống chi là các vị trời khác mà không biết?
Hỏi: Lại biết người phạm giới không?
Đáp: Nếu phạm giới thô thì biết, tế thì không biết.
Lại, Đức Thế tôn nói: Có hóa pháp điều phục có như pháp tu hành, cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Kinh Thiền Na Lê sư là chỗ căn bản để soạn luận nầy.
Nghe nói nói ở nước Ma-già-đà có bệnh dịch lan rộng. Đang trong mùa dịch nầy, người phụ tá cho vua Tần-bà-sa-la, nước Ma-già-đà, có nhiều người chết.
Lại có thuyết nói: Lúc vua A-xà-thế giết vua cha, cũng giết luôn quan phụ tá tả hữu của hầu gần vua cha. Bà con của quan phụ tá đến xin Tôn giả A-nan vì mình thưa hỏi Phật: Ở các nơ thôn xóm, như những người tin ưa Phật, sau khi qua đời, Đức Thế tôn thường nói về chỗ sinh của họ. Hôm nay các thân thuộc của tôi ở nước Ma-già-đà nầy, có số người vừa qua đời, Phật không nói nơi sắp sinh. Tôn giả vì tôi thỉnh vấn Đức Thế tôn về những người vừa qua đời nầy, sẽ được sinh về nơi nào?
Bấy giờ, vì chỗ thân quen, nên Tôn giả A-nan đã hứa sẽ tạo phương tiện đến chỗ Thế tôn, bạch Phật: Dân chúng của nước khác, có người qua đời, Đức Thế tôn thường nói chỗ sinh của họ. Nay quan phụ tá của vua nước Ma-già-đà vừa qua đời, Thế tôn không nói chỗ sinh của họ. (Vì Phật không nói nơi sắp sinh của họ, nên) các thân thuộc của họ sinh tâm sầu não, không sinh kính tin, cúi mong Đức Thế tôn nói cho biết nơi sắp sinh của họ.
Đức Thế tôn đã thành Đẳng chánh giác ở nước Ma-già-đà, lại, vua Tần-bà-sa-la, là người có tâm rất kính tin Phật, được pháp rốt ráo, cung kính, phụng sự chúng tăng. Vì việc nầy, nên nói chỗ sinh của người vừa chết là các quan phụ tá v.v… của nước Ma-già-đà. Lúc ấy, Đức Thế tôn yên lặng hứa nói. Ngài liền ôm y bát vào thành Na-đề-kiền khất thực. Khất thực xong, trở lại Tinh xá. Rửa chân rồi, vào phòng Quân-xà-ca, trải giường ra ngồi, khéo thâu giữ thân, tâm, nhập thiền định, muốn quán nơi sắp sinh của sứ hầu nước Ma-già-đà.
Hỏi: Đức Thế tôn đã có tri kiến như thế, muốn có sở quán, lẽ ra liền biết ngay, vì sao phải trải giường ngồi, cho đến nói rộng?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì muốn nói đến việc sâu xa, khó biết, khó sáng suốt, khó thấy. Vì sao? Vì nghĩa nói trong tất cả kinh Phật sâu xa, không bằng nghiệp. Mười hai chi duyên dù là rất sâu, nhưng không bằng thể của hai chi là nghiệp. Đức tin là rất sâu, mười lực của Như lai, biết nghiệp lực rất sâu xa. Nghiệp không thể nghĩ bàn trong bốn pháp không thể nghĩ bàn, rất là sâu xa. Kiền-độ nghiệp trong tám kiền-độ rất là sâu. Vì việc nầy, nên Phật phải trải giường tòa, cho đến nói rộng.
Lại có thuyết nói: Vì muốn đợi người được hóa độ đến nhóm họp.
Lại có thuyết nói: Vì Thiền-na-lợi-sư nhóm họp ở vị lai. Nếu Thiền-na-lợi-sư nghe Phật định nói đến việc nầy, thì sẽ đến chỗ Phật.
Lại có thuyết nói: Phật nhân việc nầy, cũng nói Như lai có tám công đức như thật:
- Minh đầy đủ.
- Giới đầy đủ.
- Nói pháp đầy đủ.
- Hiện rõ ràng.
- Khéo nói đạo.
- Được bạn tốt.
- Được quyến thuộc tốt.
- Có tâm làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.
Cũng thế, nói rộng như kinh.
Lại có thuyết nói: Vì muốn cho Tôn giả A-nan nghe, nhớ giữ không quên, vì tăng thêm tâm tôn trọng, khát khao, ngưỡng mộ.
Lại có thuyết nói: Vì muốn dứt bỏ tâm khinh dể, không có thật đức, nên có người có một chút điều hiểu biết, người khác đến hỏi, vì khinh dễ, nên hỏi, liền đáp. Như lai muốn thị hiện, nay dù có tri kiến như thế, lẽ ra hễ nghĩ đến là biết ngay, nhưng vẫn cố tạo ra phương tiện, huống chi là tiểu trí, mà không cố tạo ra phương tiện hay sao?
Lại có thuyết nói: Vì muốn thể hiện người, pháp thông sáng, nên Thế tôn cũng nói thông minh. Có ba thứ tướng:
- Khéo tư duy đối tượng tư duy.
- Khéo nói điều mình nói.
- Khéo làm điều mình làm.
Lại có thuyết nói: Các quan phụ tá v.v… nước Ma-già-đà có các thứ nhân, có các thứ quả, có các thứ nghiệp, các thứ báo, sinh khắp trong sáu tầng trời cõi Dục. Đức Thế tôn vì muốn quán kỹ việc như cho nên mới trải giường, ghế, cho đến nói rộng.
Lại có thuyết nói: Lúc Phật sắp nhập thiền định, A-nan bèn hỏi về việc nầy, Phật chưa đáp, liền nhập thiền định. Bấy giờ, Đức Thế tôn, vào lúc đầu hôm xuất thiền ở trước Tỳ-kheo tăng trải giường ngồi. Lúc ấy, Tôn giả A-nan nghĩ: Nay thân tâm Đức Thế tôn vắng lặng, đúng là lúc hỏi. Phật biết tâm A-nan đang nghĩ gì, bèn bảo A-nan: Các phụ tá, v.v… nước Ma-già-đà, gồm có tám vạn bốn ngàn, hoặc quá số nầy, hoặc hóa pháp điều phục, hoặc là như pháp tu hành, dứt hết ba kiết, được đạo Tu-đà-hoàn, cho đến nói rộng.
Hỏi: Thế nào là phụ tá?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì là quyến thuộc bên trong của vua Tần-bà-sa-la, nên gọi là phụ tá.
Lại có thuyết nói: Vì thường hầu hạ Tam bảo, gọi là phụ tá.
Lại có thuyết nói: Đây là danh từ đời trước. Vì sao? Vì vua Tầnbà-sa-la xưa kia từng làm Chuyển luân Thánh vương, trong khi đang đi dạo với bốn thứ binh trên hư không, xe báu của vua bỗng nhiên không đi nữa, nói rộng như trên. Trong chuyển pháp luân, cho đến tám mươi bốn ngàn phụ tá của vua, cúng dường cây Bồ-đề rồi, đi theo con đường khác. Chuyển luân Thánh vương bấy giờ, chính là vua Tần-bà-sa-la hiện nay tám mươi bốn ngàn người phụ tá bấy giờ, chính là các phụ tá hôm nay. Vì cho nên biết là tên gọi là lúc đời trước.
Lại có thuyết nói: Các phụ tá nầy giúp vua trị vì hai nước, làm cho nước được dồi dào, hưng thịnh. Sau khi các vị ấy qua đời, hai nước trống rỗng, nên gọi là phụ tá. Trong kinh Phật nói là các phụ tá, có người là hóa pháp điều phục, có người như pháp tu hành mà không phân biệt. Kinh Phật là chỗ căn bản soạn luận nầy. Điều trong các kinh không nói, nay vì muốn nói nên soạn luận ấy.
Hỏi: Thế nào là hóa pháp điều phục? Thế nào là như pháp tu hành?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Các vị phụ tá của Ma-kiệt, thân trời thấy pháp, gọi là hóa pháp điều phục, thân người thấy pháp, gọi là như pháp tu hành.
Lại có thuyết nói: Các phụ tá của nước Ma-kiệt không thọ giới thấy pháp, gọi là hóa pháp điều phục. Người thọ giới thấy pháp, được gọi là Như pháp tu hành.
Lại có thuyết nói: Nếu trồng căn thiện ở đây, cũng khiến cho thành thục, ở chỗ kia được giải thoát, gọi là Hóa pháp điều phục. Đối với ba việc nầy đều được đầy đủ, gọi là như pháp tu hành.
Cũng thế, trồng căn thiện đạt phần ở đây, nhập kiến đạo trong kia, nơi căn thiện quán đế trong đây, nhập kiến đạo trong kia, thọ lãnh giới giả danh trong đây, được giới chân thật trong kia, được theo kịp giới giải thoát, giới thiền trong đây, được giới vô lậu trong kia. Tâm học thiện, giới học thiện trong đây, tuệ học thiện trong kia. Được quả Tu-đà-hoàn trong đây, được căn thiện đối trị, được tịnh kiến trong kia. Được năm căn như tín căn, v.v… trong đây, được tín không hư hoại trong kia, phải biết cũng thế.
Là hóa pháp điều phục đã gieo trồng căn thiện đạt phần trong đây, tức nhập kiến đạo trong đây. Trồng căn thiện quán đế trong đây, tức nhập kiến đạo trong đây. Nhập kiến đạo trong đây, thọ giới giả danh trong đây, tức được giới chân thật trong đây. Đạt được giới thiền, giới giải thoát trong đây, tức được giới vô lậu trong đây. Giới học thiện, tâm học thiện trong đây, tức tuệ học thiện trong đây. Được Tu-đà-hoàn trong đây, tức được quả Tu-đà-hoàn trong đây. Được tu căn thiện đối trị trong đây, tức được tịnh kiến trong đây. Được năm căn như tín căn v.v… trong đây, tức được tín bất hoại trong đây, phải biết cũng thế. Đó là như pháp tu hành.
Hỏi: Vì sao người thấy pháp ở cõi trời, gọi là hóa pháp điều phục, còn người thấy pháp trong cõi người, thì gọi là như pháp tu hành?
Đáp: Vì tập học trong cõi người, nên Thánh đạo hiện ở trước, cũng thường đọc tụng, hiểu rõ ý nghĩa. Siêng tu phương tiện đầu hôm, gần sáng, thọ pháp một, bảy, sáu, bảy, từ lúc mặt trời lặn đến khi mặt trời mọc, ngồi kiết già, siêng năng tu hành tinh tiến, trụ trong núi đá, hang núi, đỉnh an thiền, rừng hành thiền, dựa vào pháp trượng, tạo ra công hạnh tinh tiến như thế, v.v… rồi, sau đó Thánh đạo mới hiện ở trước. Trong cõi trời không có việc nầy.
Nếu ở trong đây, tu phương tiện như thế, v.v… Về sau, sinh lên cõi trời kia, không cần dụng công nhiều, Thánh đạo vẫn hiện ở trước, cho nên gọi là Hóa pháp điều phục. Nếu ở trong cõi người tu pháp như thế, v.v… thì Thánh đạo sẽ hiện ở trước, gọi là Như pháp tu hành.
Thế nào là nặng về dục? Không biết đủ là sao? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao tạo ra phần luân nầy?
Đáp: chỗ chuyển vận của hai pháp nầy giống nhau: Có người tánh nặng về dục, người đời nói người nầy không biết đủ, có người tánh không biết đủ, người đời nói người ấy nặng về dục. Hai pháp nầy giống nhau, mà người đời cho là một.
Nay vì muốn nói thể tánh của hai pháp trên cũng có khác nhau, nên soạn luận nầy.
Hỏi: Thế nào là nặng về dục?
Đáp: Chưa được sắc, thanh, hương, vị, xúc, đây là nói người tại gia. Y phục, thức uống ăn, giường, ghế, ngọa cụ v.v… Đây là nói người xuất gia. Nếu dục, thường dục, rất nặng về dục cho đến nói rộng.
Người tại gia mong cầu các cảnh giới như sắc v.v… rong ruổi khắp bốn phương. Người làm ruộng thì mong cầu ruộng đất, vườn rừng, trâu, dê v.v… chất chứa các thứ nông cụ, các thứ giống lúa, lúa mì, để giúp cho sự sống hằng ngày.
Người giàu sang thì mong cầu ngôi vua, cõi nước, thành ấp, voi, ngựa, các thứ của báu như vàng, bạc, lưu ly v.v…
Người xuất gia thì mong vật cần dùng như y, bát phòng, nhà, đệ tử, đồ chúng v.v… Đó gọi là nặng về dục.
Không biết đủ: Đã được sắc, thanh, hương, vị, xúc, đây là nói người tại gia. Đã được y phục, thức uống ăn, dụng cụ giường, ghế, v.v… là nói người xuất gia, không biết đủ, là không thể vừa ý cái mình đã được, cho đến nói rộng. Người tại gia không biết đủ: nếu với một mảnh ruộng, không biết đủ, lại mong cầu hai mảnh. Với hai mảnh ruộng, không biết đủ, cho đến mong cầu được nhiều, cũng không biết đủ. Vườn, rừng, trâu, dê v.v… cho đến vật dụng giúp cho đời sống, nói cũng giống như thế. Người giàu sang, đối với một ngôi vua, không biết đủ, mong cầu hai ngôi vua, Với hai ngôi vua, không biết đủ, cho đến cầu được nhiều ngôi vua, cho đến cầu được nhiều ngọc, ngà châu báu, nói cũng giống như thế.
Người xuất gia, đối với một y bát, không biết đủ, mong cầu được hai, ba cho đến cầu nhiều không biết đủ, cho đến dụng cụ giúp ích sự sống, không biết đủ, nói cũng giống như thế.
Nặng về dục và không biết đủ có khác gì nhau không?
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Hai pháp nầy giống nhau, dù nói vì thể tánh, lẽ ra cũng phải nói có khác nhau. Thế nào là nặng về dục? Thế nào là không biết đủ?
Nặng về dục: Nếu chưa được sắc, thanh, hương, vị, xúc, cho đến nói rộng.
Vì sao biết được là nặng về dục?
Đáp: Vì đối tượng mong cầu nên biết. Nếu lúc mong cầu các cảnh giới như sắc, v.v…, thường thực hành phương tiện, vì nhiều phương tiện, nên biết. Vì sao? Vì nặng về dục là nhiều phương tiện của nhân không biết đủ, nghĩa là đã được sắc, thanh, hương, vị, xúc, cho đến nói rộng. Lại muốn, lại cầu, làm sao biết là không đủ?
Đáp: Nếu đã muốn, rồi lại muốn nữa, điều nầy phải thường cầu nhiều, vì cầu nhiều, nên biết. Vì sao? Vì đã muốn, lại muốn là nhân tố của thường cầu nhiều.
Lại có thuyết nói: Không biết đủ là nhân, mong muốn nhiều là quả. Hai pháp nầy lại hiển hiện rõ lẫn nhau, hoặc do nhân làm rõ quả, hoặc do quả làm rõ nhân. Hai pháp nầy đều là căn tham bất thiện.
Lại có thuyết nói: Nặng về dục là ở ý địa, không biết đủ là ở thân sáu thức. Vì sao? Vì năm thức duyên theo pháp hiện tại, nặng về dục duyên ở vị lai.
Bình luận: Hai pháp nầy đều ở thân sáu thức, đều là pháp cõi Dục. Nói như thế là tốt.
Thế nào là ít muốn (ít muốn)? Thế nào là biết đủ (biết đủ)?
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Hai pháp nầy tương tự: Có người tánh ít ham muốn, người đời nói là biết đủ, Có người tánh biết đủ, người đời nói là ít muốn. Vì hai pháp nầy giống nhau, nên người đời cho là một.
Nay vì muốn nói thể tánh của hai pháp đó, cũng nói về sự khác nhau, nên soạn luận nầy.
Thế nào là ít muốn? Là chưa được sắc, thanh, hương, vị, xúc, cho đến nói rộng, đây là nói người tại gia, chư được y phục, thức uống ăn, cho đến nói rộng, đây là nói người xuất gia. Nếu không dục, không thường dục, không cực dục, cho đến nói rộng. Người tại gia làm ruộng mà không mong cầu ruộng đất, v.v… cho đến nói rộng, người giàu sang mà không cầu vương vị, v.v… cho đến nói rộng, người xuất gia mà không mong cầu y bát, v.v… cho đến nói rộng.
Hỏi: Thế nào là biết đủ?
Đáp: Đã được sắc, thinh, hương, vị, xúc, cho đến nói rộng, là nói người tại gia. Đã được y phục, thức uống ăn, v.v… cho đến nói rộng, đó là nói người xuất gia. Biết đủ: Thích ứng với chỗ được, cho đến nói rộng. Tại gia biết đủ: đối với một mảnh ruộng biết đủ, không cầu hai mảnh ruộng, cho đến một dụng cụ tư sanh biết đủ, không cầu hai, cho đến nói rộng. Người giàu sang đối với một ngôi vua biết đủ, không cầu hai ngôi vua, đối với hai ngôi vua biết đủ, không cầu nhiều ngôi vua, cho đến nói rộng. Người xuất gia đối với một y bát biết đủ, không cầu hai, cho đến dụng cụ tử sanh không cầu nhiều, cho đến nói rộng, ít muốn và biết đủ có gì khác nhau?
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Pháp tương tự nầy tuy nói thể tánh nhưng vẫn nêu nói sai khác, ít muốn. Nếu chưa được sắc, thinh, hương, vị, xúc, cho đến nói rộng.
Hỏi: Làm sao biết là ít muốn?
Đáp: Vì không mong cầu mà biết, vì không mong cầu là nhân của ít muốn. Biết đủ: là đã được sắc, thinh, hương, vị, xúc, cho đến nói rộng.
Hỏi: Làm sao là biết đủ?
Đáp: là không thường mong cầu, không thường thực hành phương tiện, không thường thực hành phương tiện là nhân của biết đủ, đó gọi là sai khác.
Có khi ít mong cầu mà là đa dục, có khi mong cầu nhiều mà là ít muốn. It mong cầu mà là đa dục. Mong cầu nhiều mà là ít muốn: như cầu trăm ngàn lượng vàng làm vật giúp ích cho cuộc sống hằng ngày, đủ cung cấp cho thân rồi, vẫn cố mong cầu cho nhiều, đó gọi là mong cầu nhiều là không biết đủ. Mong cầu nhiều mà biết đủ: là là được các vật dụng tư sanh không đủ cung cấp cho thân, tuy lại cầu thêm vẫn là biết đủ.
Hỏi rằng: Vì sao hỏi ít muốn mà lại đáp không muốn? Như nói bất dục, bất thường dục, bất cực dục?
Đáp: Các vật tư sanh có hai thứ: đúng pháp và không đúng pháp, đúng pháp là ít muốn, không đúng pháp là bất dục.
Lại có thuyết nói: vật tư sanh có hai thứ: sở ứng và chẳng phải sở ứng. Sở ứng là ít muốn, chẳng phải sở ứng là bất dục.
Lại có thuyết nói: nhận vật của người có hai thứ: vì ngu và vì dứt khổ, dứt khổ là ít muốn, ngu là bất dục.
Lại có thuyết nói: đối với tài vật thì bất dục, đối với đạo vô lậu thì dục.
Lại có thuyết nói: Tất cả A-la-hán đã dứt hẳn tâm dục, thương xót chúng sanh, thọ vật cùng dùng từ người, thế nào là khó đầy? Thế nào là khó nuôi? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Sở hành của hai pháp giống nhau, có người tánh là khó đầy, người đời nói là khó nuôi, có người tánh là khó nuôi, người đời nói là người khó đầy, hai pháp nầy tương tự, người đời cho là một, nay muốn nói thể tánh thì cũng nói sai khác, mà soạn luận nầy.
Hỏi: Thế nào là khó đầy?
Đáp: Uống nhiều, ăn nhiều.
Hỏi: Thế nào là khó nuôi nấng?
Đáp: Nếu thường uống ăn.
Hỏi: Với hai thứ nầy, vì sao không hỏi về sự khác nhau của chúng?
Đáp: Nên hỏi, nên nói rằng: Khó đầy, khó nuôi có gì khác nhau?
Đáp: Ăn nhiều là khó đầy, lựa chọn cái ăn là khó nuôi, mà không hỏi, phải biết, lời nầy chưa trọn vẹn, cho đến nói rộng.
Dễ đầy là sao? Dễ nuôi là thế nào? Cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?
Đáp: Vì khó đầy, khó nuôi như trên, do đó nói trung bình.
Dễ đầy là thế nào?
Đáp: Không ăn nhiều, không uống nhiều.
Dễ nuôi nấng là sao?
Đáp: Thường ăn.
Hỏi: Trong đây vì sao không hỏi về sự khác nhau?
Đáp: Nên hỏi, như trên đã nói, hoặc có ít thức ăn, mà là khó đầy, hoặc có nhiều thức ăn, mà là khó đầy, hoặc có nhiều thức ăn mà là dễ đầy.
Ăn ít là khó đầy: lẽ ra ăn một vốc mà lại ăn hai vốc, đó gọi là ăn ít mà khó đầy.
Ăn nhiều mà là dễ đầy: nếu ăn một hộc, tức là đủ cung cấp cho thân, mà lại không ăn, đó gọi là ăn nhiều mà dễ đầy.
Nghe nói nói có con voi cái tên là Ma-trà chở xá-lợi Phật đến nước Kế-tân. Do căn thiện ấy, nên sau khi chết được sinh làm người ở nước Kế-tân. Về sau, xuất gia, chứng được quả A-la-hán. Mỗi ngày ăn một hộc (10 đấu) cơm, cho đến khi sắp nhập Niết-bàn, bảo các Tỳ-kheo-ni: Các cô hãy nhóm họp lại! Ta sẽ tự nói pháp thù thắng mà ta đã được. Các Tỳ-kheo- ni đều không tin vào lời ông vừa nói, nên thưa: Ông là người dễ đầy! Sao không tự nói đã được pháp thù thắng? Vị La-hán lại nói với các Tỳ-kheo-ni: Các cô chớ sinh tâm không tin. Từ khi có thân đến nay tôi thường là người dễ đầy, cũng nói nhân duyên đời trước của ta: Ta vốn là voi cái, đã bỏ thân kia rồi, nay được thân nầy, ta có thể ăn một hộc năm đấu cơm nhưng chỉ ăn một hộc, cho đến nói rộng. Những chuyện như thế v.v… dù là ăn nhiều mà là dễ đầy.
Nghe nói nói vua Ba-tư-nặc có thể ăn hai hộc cơm, uống hai hộc nước cất. Vì là nhân duyên công đức của vua, nên nhân ăn một trái Tỳbà, một nhúm gạo, một khúc mía ngọt, ngày qua ngày lớn dần. Vì uống ăn ngần ấy nên thân thể béo to. Do thân to lớn nầy, khi đến chỗ Phật, Đức Phật bèn hỏi: Thân thể đại vương béo, lớn, có mỏi mệt không? Bấy giờ, vua Ba-tư-nặc tâm sinh hổ thẹn, thưa với Đức Phật nói. Lúc đó, Đức Thế tôn bèn nói kệ:
Người phải có chánh niệm
Ăn uống biết vừa đủ
Cũng không gặp khổ thọ
Dễ tiêu, tuổi thọ tăng.
Bấy giờ, nghe phật nói, vua Ba-tư-nặc tự giảm ăn dần, cho đến thời gian sau, chỉ ăn một hộc cơm.
Cũng thế, mặc dù ăn nhiều mà là dễ đầy.
Có khi lựa chọn cái ăn mà là khó nuôi, có khi chọn lựa thức ăn mà là dễ nuôi.
Lựa chọn thức ăn mà là khó nuôi: Ăn thô, đủ cung cấp thân mà kén chọn thức ăn ngon.
Kén chọn thức ăn mà là dễ nuôi: Ăn thô không thể cung cấp thân, không kén chọn thức ăn ngon.
Có người vì tham vị, nên ăn thường ăn thức ăn không nhiều. Hoặc có người, thức ăn nhiều, mà không tham vị, ăn thường. Hoặc có người ăn nhiều. Hoặc có người ăn nhiều, tham vị, thường ăn. Hoặc có người ăn không nhiều, không tham vị, thường ăn.
Câu đầu: là Chim v.v….
Câu thứ hai: là Voi, ngựa v.v…
Câu thứ ba: Sói, chó, chồn, mèo, v.v…
Câu thứ tư: Trừ ngần ấy việc ăn trên.
Hỏi: Hai pháp nầy có gì khác nhau?
Đáp: Thể tánh tức là khác nhau, như trước đã nói.
Khó đầy: ăn nhiều.
Khó nuôi: ăn lựa chọn.
Lại có thuyết nói: Khó đầy: là nặng về dục. Khó nuôi: là không biết đủ. Hai pháp nầy đều là pháp cõi Dục, đều là căn bất thiện tham, chung cho sáu thức thân, dễ đầy, dễ nuôi, trái với trên.
Hỏi: Hai pháp nầy có gì khác nhau?
Đáp: Về thể tánh, tức là khác nhau, như trước đã nói, ăn không nhiều là dễ đầy, ăn không kén chọn là dễ nuôi.
Lại có thuyết nói: Dễ đầy là ít muốn, dễ nuôi là biết đủ. Hai pháp nầy đều cúng là pháp ba cõi, là căn thiện không tham. Vì đối với tham, nên chung cho sáu thức thân.
Kinh Phật nói: Có bốn chửng tử Thánh, cho đến nói rộng.
Hỏi: Vì sao Đức Thế tôn nói kinh nầy?
Đáp: Vì ngăn dứt bốn thứ hành nghiệp, nên nói kinh nầy bốn thứ nghiệp. Hoặc lấy việc làm ruộng làm nghiệp, hoặc dùng mua bán làm nghiệp, hoặc lấy việc hầu quan làm nghiệp, hoặc dùng sự cao sang làm nghiệp.
Một thứ nghiệp: Lấy cầu xin làm nghiệp. Vì ngăn dứt bốn thứ nghiệp trên, thực hành một thứ nghiệp, nên Đức Thế tôn nói kinh nầy.
Hơn nữa vì muốn hiển bày nghiệp và việc nên làm. Nghiệp: Nên cầu xin y phục, thức uống ăn, dụng cụ trải giường nằm để tự nuôi sống. việc nên làm: Việc nên làm không có tội nghiệp, việc nên làm, không hại nghiệp người khác. Không đồng với nghiệp của ngoại đạo nên làm, nói cũng giống như thế. Lại nữa, vì Phật muốn hiển hiện Thánh đạo và dùng cụ Thánh đạo. Thánh đạo, nghĩa là người ưa dứt, ưa tu tập. Dụng cụ Thánh đạo: Thức uống ăn, y phục, trải giường, v.v…
Quả Sa-môn, dụng cụ của quả Sa-môn, Bà-la-môn. Dụng cụ của Bà-la-môn cũng giống như thế.
Do những việc như vậy nên Phật nói kinh nầy Hỏi: Thể tánh của chủng tử Thánh là gì?
Đáp: Vì đối với tham, nên gọi là căn thiện vô tham. Nếu cộng hữu, tương ưng với thủ là tánh của bốn ấm, năm ấm.
Lại có thuyết nói: Tánh là không tham, tinh tiến. Ba pháp đầu là không tham, ưa dứt, ưa tu là tinh tiến.
Bình luận: Không nên như thế. Như thuyết trước là tốt. Vì sao? Vì ưa dứt, ưa tu cũng là tánh không tham.
Hỏi: Nếu vậy thì sao lại có bốn?
Đáp: Vì dứt sinh ra bốn thứ ái, cho nên có bốn. Vì dứt nhân áo sinh ái nên nói là chủng tử Thánh biết đủ ở áo. Vì ăn nên nói biết đủ ở cái ăn. Vì phòng, nhà, dụng cụ trải nằm nên nói là biết đủ về phòng, nhà, dụng cụ trải nằm. Vì nuôi lớn hữu, nên nói là chủng tử Thánh biết đủ ưa dứt, ưa tu.
Cho nên, vì nhằm ngăn bốn thứ ái, nên nói bốn chủng tử Thánh.
Đây là thể tánh của chủng tử Thánh, cho đến nói rộng.
Đã nói thể tánh của chủng tử Thánh. Về lý do nay sẽ nói:
Vì sao gọi là chủng tử Thánh? Thế nào là Thánh? Vì thiện, nên nói là Thánh, vì vô lậu, nên nói là Thánh.
Lại có thuyết nói: Vì có thể sinh ra quả của sự tốt đẹp, vừa ý, nên nói là Thánh. Lại có thuyết nói: có công năng sanh ra quả tốt đẹp vừa ý nên nói là Thánh. Thuyết nầy là dựa vào quả.
Lại có thuyết nói: Quả báo, nghĩa là có thể sinh ra quả báo của sự tốt đẹp, vừa ý.
Thế nào gọi là chủng? Vì chư Phật nhiều như số cát sông Hằng trong quá khứ và đệ tử của chư Phật đều từ trong chủng tử Thánh nầy sinh, nên gọi là chủng.
Lại có thuyết nói: Vì có khả năng làm cho pháp Phật trụ lâu, nên nói là chủng. Vì sao? Vì sau khi Phật nhập Niết-bàn, đạo pháp tồn tại một ngàn năm mà không hư hoại, là do sức chủng tử của Thánh, như cột kèo giữ lấy ngôi nhà, khiến cho không sụp đổ. Chủng Thánh kia cũng giống như thế.
Lại có thuyết nói: Nghĩa nối tiếp nhau là nghĩa hạt giống, sau Phật Niết-bàn, khiến cho pháp Phật nối tiếp nhau không dứt, là nghĩa hạt giống. Có Thánh như thế, có chủng tử như thế, nên gọi là Thánh chủng.
Giới: hữu lậu là lệ thuộc ba cõi, vô lậu là không lệ thuộc.
Hỏi: Như cõi Dục có bốn thứ có thể như thế, vì có y phục, uống ăn, dụng cụ trải giường nằm, cõi Sắc không có uống ăn, cõi Vô sắc không có y phục, uống ăn, dụng cụ trải giường nằm, sao lại có bốn thứ?
Đáp: Cõi Sắc, cõi Vô sắc kia dù không có vật như thế, nhưng vẫn có công đức như thế.
Lại có thuyết nói: Trong cõi nầy tu pháp biết đủ về y phục, thức uống ăn, dụng cụ trải giường nằm, nên dù sinh trong cõi Sắc kia, mà cũng còn theo nhau.
Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Cõi Sắc, cõi Vô sắc kia dù không có pháp nầy, nhưng vẫn có đối trị của pháp ấy. Đối trị có nhiều thứ: Có đối trị dứt, có đối trị lỗi lầm tai hại, có đối trị trì, có đối trị phần xa. Cõi Sắc có bốn thứ đối trị nầy, cõi Vô sắc có hai thứ, đó là đối trị trì và đối trị phần xa.
Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Không có y phục, thức uống ăn, dụng cụ trải giường nằm vô lậu mà có Thánh chủng vô lậu cõi ấy tuy không có y phục, thức uống ăn, giường ghế, đồ nằm, v.v… mà có Thánh chủng. Địa: Hữu lậu ở mười một địa, vô lậu ở chín địa. Y: Dựa vào thân ba cõi. Sơ: Dựa vào cõi Dục. Hành: Mười sáu hành, cũng hành các hạnh khác. Duyên: Duyên tất cả pháp. Niệm xứ: Là bốn niệm xứ. Trí: Tương ưng với mười trí. Định: Tương ưng với ba định. Căn: Tương ưng với ba căn, nghĩa là hỷ, lạc, xả căn. Đời: Ở ba đời. Duyên: Duyên nơi quá khứ, vị lai, hiện tại, cũng duyên với pháp chẳng phải đời. Thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện. Duyên thiện, bất thiện, vô ký: Duyên theo ba thứ lệ thuộc ba cõi, như thuyết trước đã nói. Hữu lậu là lệ thuộc ba cõi, vô lậu là không lệ thuộc. Duyên lệ thuộc ba cõi và không lệ thuộc: Duyên lệ thuộc ba cõi, cũng duyên không lệ thuộc.
Là Học, Vô học, Phi học Phi vô học: Là cả ba thứ. Duyên theo Học, Vô học, Phi học Phi vô học, là ba thứ đều duyên. Kiến đạo dứt, tu đạo dứt, không đoạn: Là tu đạo dứt, không đoạn. Duyên kiến dứt, tu đạo, không đoạn: Duyên ba thứ. Duyên theo tự thân, tha thân, pháp chẳng phải thân: Duyên ba thứ. Duyên danh, duyên nghĩa: Là duyên danh, duyên nghĩa.
Hỏi: Vì là địa ý hay năm thức thân?
Đáp: Là lĩnh vực ý, chẳng phải năm thức thân. Vì sao? Vì năm thức thân là pháp sinh đắc.
Lại có thuyết nói: Là năm thức thân. Vì sao? Vì tất cả tâm thiện đều là Thánh chủng.
Phê bình: Không nên nói như thế, như thuyết trước là tốt.
Hỏi: Là thiện sinh đắc hay thiện phương tiện?
Đáp: Là phương tiện thiện, chẳng phải thiện sinh đắc. Vì sao? Vì tất cả văn, tư, tu thiện, đều là giải thoát, nên là Thánh chủng.
Lại có thuyết nói: Là thiện sinh đắc.
Bình luận: Không nên nói như thế. Vì sao? Vì cho đến con kiến cũng có thiện sinh đắc, có thể là Thánh chủng.
Hỏi: Nếu là phương tiện, thì thiền ngoại đạo, giải thoát, thắng xứ, Nhất thiết xứ, có phải là Thánh chủng hay không?
Đáp: Không phải! Vì sao? Vì như trước đã nói: Vì văn, tư, tu thiện là giải thoát, nên là Thánh chủng. Ngoại đạo không biết đủ, làm tăng trưởng hữu và hữu cụ, nên chẳng phải Thánh chủng.
Hỏi: Trong tất cả tâm thiện đều có ít muốn, biết đủ. Vì sao? Vì là đối trị với tham là căn thiện vô tham.
Vì sao nói biết đủ là Thánh chủng, không nói ít muốn?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ít muốn, cũng là tên dục, lại là tên khác của không có đối tượng dục. Nếu khi nói ít muốn, cũng có sở dục, không gọi là không có dục, còn biết đủ lại không có đối tượng dục, cũng không có tên khác, nên nói là Thánh chủng.
Lại có thuyết nói: Ít muốn đối với ít muốn chưa được ở vị lai, biết đủ: biết đủ đối với biết đủ đã được ở hiện tại. Nếu một chút vật đã được ở trong hiện tại có thể biết đủ thì đây là rất khó, đối với ít muốn mà ngôi vị Chuyển luân Thánh vương ở vị lai chưa được, chưa đủ là khó. Vì biết đủ khó, nên nói là Thánh chủng.
Lại có thuyết nói: Ít muốn là lệ thuộc ba cõi, chẳng phải không lệ thuộc. Biết đủ là lệ thuộc ba cõi, cũng là không lệ thuộc.
Bình luận: Không nên nói như thế, vì hai pháp nầy đều lệ thuộc ba cõi, cũng là không lệ thuộc.
Hỏi: Nếu vậy thì lại sinh nghi. Vì sao nói biết đủ là Thánh chủng, không nói ít muốn?
Đáp: Vì khác với cái biết của ngoại đạo, nên không nói ít muốn
là Thánh chủng. Nếu nói ít muốn là Thánh chủng, thì các ngoại đạo sẽ nói rằng: Chúng tôi cũng là những người thực hành Thánh đạo. Vì sao? Vì các ông cũng mặc y phấn tảo, mà chúng tôi không mặc, các ông cũng khất thực tự sống, mà chúng tôi phần nhiều không ăn, các ông cũng ngồi dưới cây, còn chúng tôi hoặc thường giơ tay lên, đứng co một chân, không nằm, ngồi giường tòa. Chúng tôi đã thực hành pháp như thế, chẳng phải Thánh chủng hay sao?
Ngoại đạo Phạm chí mặc dù thực hành pháp nầy, nhưng đối với hữu, hữu cụ không biết đủ. Cho nên, vì khác với ngoại đạo, nên không nói ít muốn là Thánh chủng.
Hỏi: Vì sao thuốc theo bệnh, trong Thánh chủng không nói?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Pháp nầy vì xếp vào thuyết đã nói trên.
Vì sao? Vì thuốc theo bệnh có hai thứ:
- Có thể ăn.
- Không thể ăn.
Có thể ăn: thuộc về thức uống, ăn. Không thể ăn: ở y phục, thuộc về dụng cụ giường nằm.
Lại có thuyết nói: Nếu tất cả người đều đã được dùng trong tất cả thời gian, nói là Thánh chủng, thuốc theo bệnh, chẳng phải tất cả người đều dùng bất cứ lúc nào.
Như Tôn giả Bà-câu-la nói: Ta xuất gia trong pháp Phật, đã quá tám mươi tuổi, không nhớ thân nầy có bệnh, dù chỉ đau đầu, cũng không nhớ để dành thuốc theo bệnh, cho đến cất giữ một trái Ha-lê-lặc.
Tất cả người ở cõi Dục như thế, chẳng phải tất cả thời gian đều chứa thuốc tùy bệnh, huống chi là cõi Sắc, cõi Vô sắc. Hơn nữa, nếu thọ dụng pháp nầy, làm cho con người buông lung. Nếu người nào có thể bỏ, thì sẽ được gọi là Thánh chủng. Thuốc tùy bệnh không thể khiến cho người buông lung, vì thế, nên không nói là Thánh chủng.
Hỏi: Vì sao được giới giải thoát vô tác, nói là Thánh chủng, không nói hữu tác là Thánh chủng?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì hữu tác tùy sát-na diệt, còn vô tác thì nối tiếp nhau không dứt, nghĩa không dứt là Thánh đạo.
Lại có thuyết nói: Vô tác với đạo vô lậu đều cùng được, hữu tác thì không thế. Vậy nên, vô tác là Thánh chủng. Người tại gia có bốn Thánh chủng, người xuất gia cũng có bốn. Người tại gia có tâm trông mong mà không thể thực hành.
Nghe nói trời Đế-thích ngồi trên tòa được trang hoàng bằng các thứ hoa, có một ngàn hai trăm na-do-tha thị nữ, sáu vạn kỹ nữ, thường trổi âm nhạc để làm vui lòng Đế-thích, trong khi Đế-thích thường có tâm trông mong Thánh chủng, mà không thọ dụng. Người xuất gia cũng có tâm trông mong, cũng thực hành Thánh chủng. Người xuất gia hoặc có người tùy được y phục, thức uống ăn, v.v… mà không biết đủ là thực hành Thánh chủng.
Nghe nói có một Tỳ-kheo, đợi tới lúc mặt trời lặn, đến chỗ Phật, từ chỗ Phật, tìm phòng ở lại. Bấy giờ, Phật bảo Tôn giả A-nan cấp cho Tỳ-kheo nầy phòng. Tôn giả A-nan cấp cho. Bấy giờ, vị Tỳ-kheo nói với A-nan: Đại đức nên làm nghiêm tịnh phòng nầy, hãy bỏ ngói, đá, rác rưới v.v… treo cờ phươn lọng báu, rải các thứ hoa, đốt hương thương diệu, trải dụng cụ nằm mềm mỏng, đặt lên đó chiếc gối đẹp.
Bấy giờ, sau khi trang trí phòng nầy rồi, đến bạch Thế tôn. Phật bảo A-nan! Như lời Tỳ-kheo kia đã nói, ông nên hết lòng bày biện đủ các thứ. Tôn giả A-nan đã bày biện đầy đủ. Khi đó, vị Tỳ-kheo kia liền vào phòng, ngồi trên tòa vào lúc đầu hôm, khởi tịnh giải thoát, theo thứ lớp khởi các pháp giải thoát khác, dứt hết tất cả lậu, được quả A-la-hán, khởi cả thần thông, vào lúc bình minh, do năng lực thần thông, từ căn phòng ấy bỗng ra đi.
Sáng sớm, Tôn giả A-nan đến phòng của Tỳ-kheo kia thấy cửa đã mở, nhưng không thấy Tỳ-kheo, vội đến bạch Phật, thưa rõ về việc nầy. Phật bảo A-nan: Ông chớ cho là lạ về Tỳ-kheo ấy! Vào đầu hôm hôm qua, Tỳ-kheo kia đã khởi tịnh giải thoát, cho đến khởi thần thông, dùng sức của thần thông ra đi từ căn phòng kia. A-nan nên biết! Tỳ-kheo kia, tánh ưa đẹp đẽ, đã từ cõi trời Tánh Ý đến, sinh ở cõi nầy. Nếu ông không vì vị ấy trang trí, sửa sang, phòng ở đẹp đẽ, với dụng cụ giường nằm v.v…, thì Tỳ-kheo kia không thể được pháp thắng tiến.
Cũng thế, mặc dù người xuất gia không biết đủ về y phục, dụng cụ giường nằm v.v…, không tùy được mà dùng, nhưng vẫn có thể thực hành Thánh chủng. Chư Phật quá khứ đều khen ngợi y phấn tảo mà không cho mặc. Nay Phật khen y phấn tảo mà cho phép được mặc.
Hỏi: Vì sao chư Phật quá khứ đều khen ngợi y phấn tảo mà không cho mặc, nay Đức Phật khen ngợi mà cho mặc?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Con người thời xưa, tánh không tham ái, dù có y trị giá bằng trăm ngàn lượng vàng đi nữa, tâm luyến tiếc, đắm nhiễm của họ cũng không như con người đời nay luyến tiếc, đắm nhiễm y của người phàm.
Lại có thuyết nói: Con người thời xưa, tài sản dồi dào, nhiều của báu. Nếu cầu mong chiếc áo trị giá trăm ngàn lượng vàng, cũng chưa đủ là khó. Như con người đời nay của báu ít tiết kiệm, mong cầu y phấn tảo còn khó được, huống chi là chiếc áo trị giá trăm ngàn lượng vàng?
Lại có thuyết nói: Con người thời xưa, tâm ưa thích tươi đẹp trong sạch, đối với vật thô, xấu, họ không sinh tâm cung kính. Vì thế, nên khen ngợi mà không cho dùng. Con người thời đại ngày nay tánh ưa thô, xấu, nên đối với vật thô xấu, có thể sinh tâm kính tin. Do đó khen ngợi, cũng cho thọ dụng.
Lại có thuyết nói: người thời xưa, thân thể mềm mại, nếu nhận dùng vật dụng thô, xấu, thì họ không thể tự tại. Vì cho nên khen ngợi, mà không cho nhận dùng, con người thời đại ngày nay thân thể thô tháo, mạnh mẽ, nhận dùng vật thể thô sơ, xấu xí, có thể tự bảo tồn thân, cho nên khen ngợi cũng cho nhận dùng.
Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Các vật dụng thời xưa, nếu khi khen ngợi, cũng cho nhận dùng. Vì sao? Vì Đức Phật không phải vô sự, có y phấn tảo được khen ngợi, xem thường là dễ được, lúc mong cầu không có lỗi?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì y phấn tảo không có nhiều người mặc, nên khinh tiện. Vì lúc cầu dễ được, nên coi thường, vì chỗ nào cũng có thể được, nên dễ được. Vì Phật đã cho phép mặc, nên lúc tìm cầu không có lỗi. Lại nữa, vì nghiệp nầy không có lỗi, nên khi cầu không có lỗi. Lại nữa, vì điều mà người trí đã làm, nên lúc cầu không có lỗi.
Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Vì ít giá trị, nên nói xem thường, vì không từ người khác được, nên dễ được, vì vô sinh, nên khi tìm cầu không có lỗi.
Phật do hai việc, nên biết đủ về y, nói là Thánh chủng:
- Vì dứt trừ tâm tham mặc y, như Nan-đà, v.v…
- Vì khen ngợi biết đủ về y, như Ma ha Ca-diếp v.v…
Vì hai việc sau nên biết đủ về ăn, nói là Thánh chủng:
- Vì dứt trừ tâm tham ăn, như Bà-đà-lợi, v.v…
- Vì khen ngợi biết đủ về ăn, như Bà-câu-la, v.v…
Vì hai việc sau đây, nên biết đủ về giường, ghế, nói là Thánh chủng:
1. Vì dứt bỏ tâm tham đắm giường, ghế, như Tỳ-kheo Ngu vương v.v…
Như nói Tỳ-kheo Ngu vương bạch Phật: Cúi mong Thế tôn quán giường tòa của con thô xấu như thế.
2. Vì khen ngợi biết đủ về giường, ghế, như Ly-bà-đa v.v…
Vì hai việc sau, nên nói ưa dứt trừ thú vui, tu Thánh chủng nầy:
- Vì dứt trừ tâm lười biếng, như Xiển-đà v.v…
- Vì khen ngợi tâm siêng năng thực hành tinh tiến, như Ức Nhĩ, v.v…
Vì bốn việc sau, nên phải biết người nầy đã trụ nơi Thánh chủng:
- Không thích nói về việc lợi dưỡng.
- Không ưa gần người tham ăn ngon.
- Không dùng nhiều vật giúp cho sự sống. Các thứ mà người ấy cần dùng, đều là thanh tịnh.
- Đối với các thứ lợi dưỡng, dù được hay không được, chẳng sinh tâm ưa ghét.
Kinh Phật nói bốn Thánh chủng nầy là hơn, là chủng tánh, là đáng ưa, là không xen lẫn.
Tất cả thế gian, hoặc Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc là Thiên ma, Phạm thì không thể đúng như pháp nói lỗi của họ.
Hỏi: Thế nào là vượt hơn hết?
Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu thực hành pháp nầy thì sẽ theo người vượt hơn hết. Như Phật nói: Năn trăm đệ tử của ta, mỗi người đều có việc vượt hơn hết. Nếu đối với vật giúp ích cho đời sống mà biết vừa đủ, thì Đức Phật cũng khen ngợi người đó là vượt hơn hết.
Lại nữa, Niết-bàn là pháp vượt hơn hết. Vì pháp nầy có thể đạt đến, nên gọi là hơn.
Lại nữa, vì có thể biết pháp vượt hơn, nên gọi là pháp hơn hết. Những gì là pháp vượt hơn hết? Nghĩa là Phật, hoặc đệ tử Phật. Ai có thể biết được pháp nầy? Đó là người thực hành Thánh chủng và tu Thánh đạo.
Lại nữa, vì pháp nầy vượt hơn trong tất cả căn thiện của ý đầy đủ, nên nói là vượt hơn. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh, thường không có ý đầy đủ mà chết. Nếu là trụ tại Thánh chủng, thì lúc qua đời, ý họ đầy đủ pháp thể nầy là vượt hơn hết, vì có thể đạt đến mức vượt hơn hết, nên gọi là tối thắng.
Lại nữa, vì từ bỏ lỗi chứa nhóm. Vì sao? Vì người căn tánh thấp kém, chứa nhóm nhiều, người có căn tánh vượt hơn không chứa nhóm. Nếu người trụ Thánh chủng, thì không chứa nhóm với mọi nhu cầu cần thiết. Chuyển luân Thánh vương trị vì bốn thiên hạ, tất cả của báu, do đây dễ hết. Trụ nghiệp Thánh chủng, các thứ cần dùng đều vô tận. Vì có thể dứt trừ pháp chứ nhóm, nên tự thể là hơn, vì có khả năng đạt đến pháp tối thắng của Niết-bàn, nên gọi là hơn.
Thế nào là chủng tánh?
Đáp: Như trước đã nói: Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng trong quá khứ và các đệ tử đều sinh ra từ chủng tánh nầy, nên gọi là chủng tánh cũ, cũng vì làm cho pháp chư Phật thường nối tiếp nhau không gián dứt, nên gọi là chủng tánh.
Lại có thuyết nói: Vì pháp nầy có thể biết được chủng tánh, nên gọi là chủng tánh. Chủng tánh giác thiện đẳng Chánh giác của Như lai, vì chỉ pháp nầy biết được , nên gọi là chủng tánh.
Gọi đáng ưa là sao?
Đáp: Tất cả dứt lạc và tu lạc nầy có thể ưa, nên gọi là đáng ưa thích.
Lại nữa, pháp nầy cũng có thể nói là biết. Vì sao? Vì người thực hành pháp nầy, có thể theo thứ lớp biết phần ban đêm, nên lấy khi mặt trời lặn, ngồi kiết già, đến lúc mặt trời mọc mới đứng dậy.
Lại nữa, vì pháp nầy có thể biết pháp đáng ưa, nên gọi là đáng ưa.
Lại nữa, vì có thể nhập vào thai pháp của bậc Thánh, nên gọi là hơn hết. Vì thâm nhập chủng tánh của pháp thiện, nên gọi là chủng tánh. Lúc trụ trong pháp thiện, vì có thể biết khí vị của pháp thiện, nên gọi là đáng ưa thích.
Không xen lẫn là thế nào?
Đáp: Vì không xen lẫn bốn thứ nghiệp, đó là trồng lúa, mua bán, việc quan và tôn quý, nên gọi là không xen lẫn, vì công đức thuần thiện của nghiệp nầy, nên gọi là không xen lẫn.
Sa-môn, Bà-la-môn v.v… không thể đúng như pháp nói lỗi của nghiệp người kia, nghĩa là không xen lẫn lỗi lầm, không gây bức xúc cho người khác, như kinh nói: Tỳ-kheo phải biết, đệ tử bậc Thánh của ta, tâm không có yêu ghét. Không có yêu ghét là sao? Yêu gọi là yêu giận dữ. Đệ tử bậc Thánh đã hàng phục sự yêu mến giận dữ, không bị khuất phục do yêu giận dữ, nên gọi là không có yêu ghét. Kinh nầy cũng nói:
Có ưa dứt, ưa tu. Hai pháp ấy có gì khác nhau?
Đáp: Đạo vô ngại là ưa dứt, đạo giải thoát là ưa tu.
Lại nữa, kiến đạo là ưa dứt, tu đạo là ưa tu.
Như vậy, nhẫn trí, tri căn, vị tri căn, dục tri căn, tri căn, địa kiến, địa tu, nói cũng giống như thế.