LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Sa-môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…Đời Bắc Lương
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Chương 1: KIỀN-ĐỘ TẠP

Phẩm 4: ÁI KÍNH

(Từ quyển 16 – quyển 19)

Thế nào là ái? Thế nào là kính? Cho đến nói rộng.

Như chương nầy và giải thích nghĩa chương ở đây, nên nói rộng Ưu-ba-đề-xá.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Đây là kinh Phật. Trong kinh của Phật chép: Nếu Tỳ-kheo tu tập hổ thẹn đầy đủ, thì có ái, kính. Dù nói như vậy nhưng không phân biệt rộng thế nào là ái, thế nào là kính? Nay vì muốn nói rõ nên soạn luận nầy.

Lại có thuyết nói: Sở dĩ soạn luận nầy là vì muốn dứt pháp của người Tiểu thừa, biểu hiện pháp của người Đại thừa, việc ấy ra sao?

Đáp: Người Tiểu thừa ái thì trở ngại kính. Kính thì trở ngại ái. Thế nào là ái trở nagị kính? Giống như pháp tại gia, đối với con thì cha mẹ có thân ái. Con đối với cha mẹ thì có ái không có kính.

Trong pháp xuất gia, Hòa-thượng, A-xà-lê đối với các đệ tử, thì có sự thân ái, đệ tử đối với các Hòa thượng, A-xà-lê có ái, không có kính. Đó gọi là ái trở ngại cho kính.

Kính trở ngại ái thì sao? Giống như trong pháp tại gia, cha mẹ đối với con cái giáo huấn nghiêm khắc, là chỉ muốn cho các con bỏ ác tu thiện, con đối với cha mẹ có kính, không có ái. Trong pháp xuất gia, Hòa thượng, A-xà-lê đối với đệ tử, giáo huấn nghiêm khắc, cũng vì muốn cho các đệ tử của mình bỏ ác, tu thiện. Các đệ tử đối với các Hòa thượng, A-xà-lê, có kính không có ái.

Cũng thế, người nhỏ ái thì trở ngại cho kính, kính thì trở ngại cho ái. Người lớn thì không như vậy. Nếu ái thì thêm kính, kính thì thêm ái. Cho nên vì muốn dứt pháp của hàng tiểu nhân để thể hiện pháp của bậc đại nhân có oai thế, nên soạn luận nầy.

Lúc Phật ra đời, một người có đủ hai pháp ái, kính nầy rất nhiều. Vào thời kỳ không có Phật xuất thế, một người có đủ hai pháp nầy thì quá ít. Nếu có đủ thì phải biết đều là các Đại Bồ-tát.

Hỏi: Thế nào là ái?

Đáp: Nếu ái, cho đến nói rộng. Những lời nói như thế, đều nói lên tưởng ái.

Hỏi: Thể tánh của ái là gì?

Đáp: Ái có hai thứ.

  1. Nhiễm ô.
  2. Không nhiễm ô.

Nhiễm ô: Thể là khát ái. Không nhiễm ô: Thể là khát tín ái. Ái có hai thứ:

  1. Khát ái.
  2. Tin ái.

Hỏi: Nếu khát ái là ái chăng?

Nếu khát ái tức là ái thì có khi nào ái chẳng phải khát ái không?

Đáp: Có, là ái không nhiễm ô. Tín cũng có hai thứ:

  1. Tin.
  2. Ái.

Hỏi: Nếu tin là ái chăng?

Đáp: Có khi tin, chẳng phải ái, có khi tin là ái. Tin chẳng phải ái: Tức tin mà không mong cầu. Tin là ái: Tức vừa tin, vừa mong cầu.

Lại có người dùng nghĩa nầy tạo ra bốn trường hợp: có khi tin và chẳng phải ái, có khi ái mà chẳng phải tin, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

  1. Tin chẳng phải ái: Tin vào việc kia mà không cầu mong.
  2. Ái chẳng phải tin: Là ái nhiễm ô.
  3. Vừa tin, vừa ái: Ái việc kia mà mong cầu.
  4. Chẳng phải tin, chẳng phải ái: Trừ ngần ấy việc trên.

Thế nào là kính? Nếu kính, thiện kính, cho đến nói rộng. Những lời như thế v.v… đều nói là tướng kính.

Hỏi: Thể tánh của kính nầy là gì?

Đáp: Thể tánh của kính là hổ thẹn. Thế nào là ái kính?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước, dù nói thể của ái kính, nhưng chưa nói hai pháp nầy đều ở trong một thân. Nay vì muốn nói rõ nên soạn luận nầy.

Hỏi: Thế nào là ái kính?

Đáp: Cũng như có một người. vì ái kính nên ý thường niệm Phật. Người phàm phu ái kính Phật, nhờ oai lực Phật làm cho họ xa lìa mọi nỗi khổ sở bị sai khiến, giúp họ những vật dụng nuôi sống tùy ý.

Bậc Thánh ái kính Phật: Nhờ năng Phật lực giúp cho bậc Thánh dứt trừ vô lượng đau khổ từ vô thỉ đến nay dứt hết nhân đường ác, trụ nơi pháp quyết định, thấy chân đế, chánh kiến thanh tịnh.

Lại có thuyết nói: Đều ái kính Phật: Ý thường nghĩ đến Phật, nhờ oai lực Phật khiến chúng ta xuất gia được pháp Tỳ-kheo và lợi ích yên vui của các điều thiện khác. Như Tôn giả Ưu-đà-da nói: Đức Thế tôn đã diệt vô lượng pháp ác của ta, lợi ích vô lượng pháp thiện cho ta.

Lại nữa, vì Phật xuất cho nên thanh tịnh ba thứ nhãn, như Tôn giả Xá-lợi-phất nói: Nếu Phật không xuất thế thì ta mù lòa không có mắt qua một đời nầy. Lại nữa, vì Phật là bậc tối tôn, tối thắng.

Lại có thuyết nói: Vì Phật là Pháp chủ.

Lại có thuyết nói: Pháp của bảy y từ vô thỉ đến nay ẩn một không hiện, Đức Phật có thể khai thị.

Lại có thuyết nói: Đức Phật có thể giúp cho vô số na-do-tha chúng sinh vào thành Niết-bàn.

Lại có thuyết nói: Chỉ có Phật Thế tôn đã ra khỏi Võ vô minh, xoay bánh xe pháp.

Lại có thuyết nói: Vì Đức Thế tôn nói pháp nên khiến cho vô lượng na-do-tha chúng sinh gieo trồng các căn thiện, cũng khiến cho thành thục, đạt được giải thoát. Do Phật nói pháp, nên khiến có niệm xứ, chánh dứt, thần túc, căn, lực, giác đạo, thiền định, giải thoát Tamma-đề, nói tất cả các công đức như thế, v.v… đều thể hiện ở thế gian.

Việc ấy, v.v… nên như phàm phu, bậc Thánh kính ái Đức Phật, cũng kính ái pháp, ý thường nhớ nghĩ. Vì sao? Vì có thể diệt trừ các khổ thân, tâm của ta, cũng nương pháp nầy, có thể đạt đến Niết-bàn. Cũng kính ái tăng, ý thường nhớ nghĩ. Vì sao? Vì nhờ oai lực của tăng, giúp cho ta được xuất gia, thọ giới cụ túc, được chứa một trăm lẻ một vật, được chung phạm hạnh với Hòa thượng, A-xà-lê v.v… đồng an trụ trong pháp Phật.

Người như thế, v.v…, lúc ta hành đạo, là bè bạn của ta. Do đối với lĩnh vực như thế v.v… có ái, có kính, nên gọi là ái kính.

Có người có ái không có kính, có kính không có ái, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp:

1. Có ái không có kính: Như pháp tại gia, cha mẹ đối với con, Hòa thượng, A-xà-lê đối với các đệ tử của mình, gọi là có ái không có kính.

2. Có kính không có ái: Như đối với người có đức, sư trưởng khác, không cùng phục theo gọi là có kính không có ái.

3. Vừa kính vừa ái: Như pháp tại gia, con đối với cha mẹ, đệ tử đối với Hòa thượng, A-xà-lê.

4. Không có ái, không có kính: Trừ ngần ấy việc trên.

Sự kính ái trong bốn đường đều có. Ái kính nói trong đây là danh từ được dùng trong pháp Phật.

Thế nào là nuôi nấng? Kính là sao? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì dứt pháp của tiểu nhân, hiển bày pháp của bậc đại nhân. Vì sao? Vì tiểu nhân nuôi nấng thì trở ngại cho kính, kính thì trở ngại cho sự nuôi nấng.

Sự nuôi nấng trở ngại cho kính: Như pháp tại gia, cha mẹ già yếu bệnh tật, dùng y phục, thức uống ăn, tùy bệnh, lo chạy chữa thuốc thang, để phụng dưỡng cha mẹ, mà không có kính.

Trong pháp xuất gia: Như các đệ tử, có oai đức học rộng, khéo hiểu pháp tướng, được mọi người biết. Họ dùng y phục, thức uống ăn, thuốc thang tùy bệnh, để phụng dưỡng Hòa thượng, A-xà-lê. Thầy của họ, đôi khi đối với đệ tử, còn thọ kinh, hỏi nghĩa.

Những sự phụng dưỡng như thế, gây trở ngại cho kính. Với đại bậc nhân thì không như thế. Nếu nuôi nấng thì thêm sự cung kính, nếu cung kính thì tăng sự nuôi nấng. Khi Đức Phật xuất thế, một người có đủ hai pháp nầy rất nhiều, vào thời đại Phật không ra đời, một người hội đủ hai pháp nầy là rất ít. Nếu có, phải biết đó là Đại Bồ-tát.

Nếu Bồ-tát nuôi nấng con người, thì sẽ thêm sự kính trọng, nếu kính trọng người kia, thì nhất định phải thêm sự nuôi nấng họ.

Do việc nầy, nên muốn dứt pháp của hàng tiểu nhân, thể hiện pháp của bậc đại nhân, vì rất ít có, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Thế nào là nuôi nấng?

Đáp: Sự nuôi nấng có hai thứ:

  1. Của cải.
  2. Giáo pháp.

Hỏi: Thể tánh của sự nuôi nấng bằng của cải là gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đó là xả của cải vật chất.

Lại có thuyết nói: Bỏ nghiệp thân, miệng, ý.

Lại có thuyết nói: Có thể nuôi lớn bốn đại các căn.

Bình luận: Nên nói rằng: Thể tánh của sự nuôi nấng bằng của cải

là năm ấm.

Hỏi: Có là đường chăng?

Đáp: Trừ đường địa ngục, đường khác đều có.

Lại có thuyết nói: Trong sáu tầng trời cõi Dục không có. Vì sao? Vì chư thiên khi muốn ăn, thì đặt bát vàng trống ở trước mặt, tùy sức phước đức của họ, thức uống ăn tự xuất hiện, đâu cần của cải để nuôi nấng.

Lại có thuyết nói: Thức ăn uống của người kia dù bằng nhau, nhưng của cải thì có khác, nên có thể cho người.

Hỏi: Thí cho ở chỗ nào? Ai cho, ai nhận?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Trong đường súc sinh, trở lại cho súc sinh, trong đường ngạ quỷ, cho hai đường. Con người thí cho ba đường, trời thí cho ba đường trước.

Lại có thuyết nói: Có thể cho bốn cõi. Nếu con người vì có ý làm lợi ích, thì cho người khác thức ăn uống. Họ nhờ ăn mà các căn bốn đại được nuôi lớn, đây gọi là thí cho, cũng gọi là nuôi nấng. Mặc dù có ý làm lợi ích cho người khác, cho họ thức ăn uống, họ ăn, nhưng không nuôi lớn các căn bốn đại, đó gọi là thí cho, không gọi là nuôi nấng. Nếu người có tâm hãm hại, dùng thức ăn xen lẫn chất độc để cho người, người lại dùng sức của chú thuật, của cỏ thuốc. Nếu là chúng sinh có đức, thì các căn bốn đại đều tăng trưởng, đó gọi là nuôi nấng, không gọi là thí cho. Người cho kia thọ báo bất thiện.

Hỏi: Thể của sự nuôi nấng bằng pháp là gì?

Đáp: Lại có thuyết nói: Thể tánh của sự nuôi nấng do pháp là danh.

Lại có thuyết nói: Là ngữ.

Lại có thuyết nói: Nếu khi nghe pháp, sinh ra ý tưởng không hề có, áp dụng phương tiện thiện xảo, là thể tánh của sự nuôi nấng bằng pháp.

Bình luận: Nên nói rằng: Nhận lấy sự nghe pháp của người kia, pháp cộng sinh tương ưng của phương tiện thiện xảo, thể là năm ấm.

Hỏi: Ở nơi nào có sự nuôi nấng của pháp?

Đáp: Năm đường đều có. Vì sao biết được trong đường địa ngục là có?

Đáp: Từng nghe nói ông Di-đa-đạt, lúc nhỏ đọa vào địa ngục, cho là nơi nhà tắm, bèn nói kệ rằng:

Chốn vắng nhân gian thọ khổ vui

Chẳng do ta do người tạo nên

Như thọ các xúc đều duyên theo thân

Nếu không có thân ai thọ khổ.

Bấy giờ, các chúng sinh nghe nói bài kệ nầy, đều duyên theo phước ấy, từ đấy qua đời, thoát khổ địa ngục.

Hỏi: Làm sao biết được trong đường súc sinh cũng có sự nuôi nấng do pháp?

Đáp: Như chim Ca-tần-xà-la, v.v…, thân hành phạm hạnh, vì người khác nói pháp. Trong đường địa ngục, như Tất-lăng-ca v.v… Trong cõi trời người, đều có thể hiện thấy thực. Sáu tầng trời cõi Dục trong các trời và chư thiên cõi Sắc, chẳng phải các tầng trời cõi Vô sắc.

Hỏi: Vì sao biết được chư thiên cõi Sắc cũng có?

Đáp: Như Thủ thiên tử đến chỗ Phật bạch rằng: Hôm nay bốn chúng vây quanh, Đức Thế tôn vì họ giảng nói các pháp, người nghe cảm thấy vui mừng, vâng làm. Ta lại đến tầng trời Vô nhiệt, chư thiên vây quanh mà vì họ nói pháp, người nghe vô cùng vui mừng, vâng làm, cũng giống như thế.

Vì việc ấy, nên biết được trong các tầng trời cõi Sắc cũng có sự nuôi nấng bằng pháp. Nếu dùng tâm làm lợi ích, vì người khác nói pháp người khác nghe pháp rồi, nảy ra phương tiện thiện. Đó gọi là cho, cũng không gọi là nuôi nấng. Nếu có tâm làm lợi ích, vì người khác nói pháp, người khác nghe pháp xong chẳng sinh phương tiện thiện xảo. Đó gọi là thí cho, không gọi là nuôi nấng. Nếu có tâm chê bai, đả kích, vì người khác nói pháp, người khác nghe rồi, do tâm trí sinh ra phương tiện thiện xảo, đó gọi là nuôi nấng, không gọi là thí cho.

Thế nào là kính? Nếu kính trọng là kính, cho đến nói rộng thể tánh của kính là hổ thẹn, như trước đã nói. Thế nào gọi là kính, nuôi nấng?

Hỏi: Vì sao lại soạn luận nầy?

Đáp: Trước đã nói về thể tánh của kính, nuôi nấng, nhưng chưa nói một người có đủ hai việc ấy, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Kính, nuôi nấng là gì?

Đáp: Giống như có một, mà kính trọng, phụng dưỡng Phật.

Hỏi: Lấy gì để kính trọng, phụng dưỡng Phật.

Đáp: Dùng của cải để cung kính, phụng dưỡng Phật, không thể dùng pháp. Vì sao? Vì không thể sinh ra Phật, không hề có phương tiện thiện xảo. Vì sao? Vì Đức Như lai Ứng Cúng Chánh Biến Tri không dùng pháp của người khác. Vì pháp là như thế.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói pháp kính trọng, nuôi nấng?

Đáp: Nghĩa tạo duyên là nghĩa nuôi nấng, còn pháp kia là lìa duyên.

Hỏi: Nếu muốn thí pháp sẽ phải thí ở chỗ nào?

Đáp: Pháp có hai thứ:

  1. Danh số.
  2. Chân thật.

Nếu muốn thì cho pháp danh số, thì nên thí cho người nói pháp, hoặc người viết chép kinh. Nếu muốn thí pháp chân thật, thì phải giữ gìn vật nầy, phải như kính tháp Phật.

Hỏi: Thế nào là thí cho tăng pháp, nuôi nấng?

Đáp: Ở trong chúng tăng, soạn kệ của ba khế kinh, tạo ra Sa hạt già, nói các thứ hỏi đáp của nghĩa quyết định.

Hỏi: Thế nào là nuôi nấng bằng của cải?

Đáp: Nếu dùng các thứ ăn uống, tạo ra trường trai, Ban-già-vusắt, tạo pháp hội giải thích kinh, cúng dường Hòa-thượng, A-xà-lê và người phạm hạnh thanh tịnh khác.

Hỏi: Ai cho, ai nhận?

Đáp: Đức Phật có thể thí cho tất cả các chúng sinh sự nuôi nấng bằng pháp, sự nuôi nấng bằng của cải. Tất cả chúng sinh có thể cho Phật sự cúng dường bằng của cải, không thể cho pháp để phụng dưỡng Phật. Bích-chi Phật có thể cho tất cả các chúng sinh sự nuôi nấng bằng pháp, sự nuôi nấng bằng của cải, trừ Phật, Thế tôn. Tất cả chúng sinh có thể cho Phật, Bích-chi Phật sự phụng dưỡng bằng của cải, không thể thí cho sự phụng dưỡng bằng pháp. Xá-lợi-phất có thể thì cho tất cả chúng sinh sự nuôi dưỡng bằng pháp, bằng của cải, chỉ trừ Phật, Bích-chi Phật. Tất cả chúng sinh có thể thí cho Phật, Bích-chi Phật, Xá-lợi-phất sự nuôi nấng bằng của cải, không thể thí cho sự nuôi nấng bằng pháp. Mục-kiền-liên có thể cho tất cả chúng sinh sự nuôi nấng bằng của cải, bằng pháp, chỉ trừ Phật, Bích-chi Phật, Xá-lợi-phất. Tất cả chúng sinh có thể thí cho Phật, Bích-chi Phật, Xá-lợi-phất, Mục-kiền-liên sự cúng dường của cải, không thể cho sự cúng dường bằng pháp. Cho đến người với căn tánh nhạy bén có thể cho kẻ căn tánh chậm lụt sự nuôi nấng bằng của cải, bằng pháp. Người căn tánh chậm lụt có thể thí cho người căn cơ nhạy bén sự nuôi nấng bằng của cải, không thể cho sự nuôi nấng bằng pháp.

Hỏi: Nếu không có khả năng thí cho Phật sự nuôi nấng bằng pháp thì vì sao Đức Thế tôn lại khen ngợi chỗ giảng nói của Tôn giả A-nan. Khen là: Lành thay! Lành thay! Như điều ông nói tinh tiến có thể sinh ra Bồ-đề. Cũng khen ngợi Tỳ-kheo Ức Nhĩ: Lành thay! Lành thay! Thầy có thể dùng âm thanh hay để ngâm vịnh, đọc tụng pháp nhiệm mầu, dùng lời nói, âm thanh của nước A-bàn-đề phổ biến cùng khắp. Lời nói ấy chánh trực, dễ hiểu, làm cho nhiều người thích nghe.

Chỗ nêu nầy làm sao hiểu? Như Phật bảo Tôn giả A-nan: Ta cũng tăng ích pháp thiện, tịch tĩnh của người xuất gia?

Đáp: Vì sao Phật khen Tôn giả A-nan? Vì điều Tôn giả A-nan nói rất hợp thời nên được Phật khen.

Làm sao biết? Vì có nghe Đức Thế tôn du hóa ở nhân gian, bị bệnh đau lưng, Ngài trải y Uất-đa-la-tăng ra nằm và gối đầu bằng y tăng-già-lê, nằm nghiêng hông bên phải và bảo Tôn giả A-nan: Nay ông sẽ vì các Tỳ-kheo nói pháp.

Bấy giờ, Tôn giả A-nan vì các Tỳ-kheo giải thích về giác ý: Nầy các Trưởng già! Như lai nhờ niệm giác ý mà thành đạo, cũng vì người khác mà giảng nói, cho đến nói rộng: Trạch pháp giác ý, tinh tiến giác ý. Ngay khi Tôn giả A-nan đang phân biệt về giác ý, Đức Thế tôn tự nhớ nghĩ về vô số A-tăng-kỳ kiếp trong quá khứ, mình đã từng thực hành các phương tiện, đều là do sức tinh tiến. Vì nhớ nghĩ nên khởi tâm hỷ, khiến thân bốn đại bị bệnh được tiêu diệt rất nhanh chóng, bốn đại không bệnh sinh khởi cũng rất nhanh chóng và chứng đau lưng liền dứt trừ, vội ngồi kiết già, bảo Tôn giả A-nan: Ông giảng về tinh tiến phải không?

Tôn giả A-nan thưa: Đúng vậy, bạch Đức Thế tôn.

Đức Phật bảo: Lành thay! Lành thay! Nầy A-nan! Thật như lời ông vừa nói, tinh tiến có thể sinh ra Bồ-đề.

Do việc ấy, nên gọi là khen ngợi Tôn giả A-nan, Tỳ-kheo Ức Nhĩ.

Hoặc có thuyết nói: Vì muốn khiến Tỳ-kheo kia sinh tâm không sợ, nên Hòa thượng Đại Ca-chiên-diên nước A-bàn-đề đã từng khiển trách Ức Nhĩ: Ông hãy đến chỗ Phật thỉnh xin năm việc đó:

  1. Xin thường tắm gội.
  2. Xin da để làm đồ nằm.
  3. Xin thỉnh sư Tỳ-ni, làm người thứ năm, được thọ giới cụ túc.
  4. Xin mang dép hai lớp.
  5. Xin được chứa y dư quá mười đêm.

Tỳ-kheo Ức Nhĩ vì năm việc nầy nên đến chỗ Phật. Oai đức của Đức Thế tôn, cho đến Phạm thiên, Đế-thích, Hộ Thế Tứ Vương không thể đứng gần nhìn thẳng. Do việc nầy, nên Ức Nhĩ không dám xin ngay.

Về sau, được Đức Thế tôn khen ngợi Ngài mới dám xin.

Cho nên, vì muốn cho Tỳ-kheo kia sinh khởi tưởng không sợ hãi nên mới khen ngợi.

Lại có thuyết nói: Vì muốn làm lợi ích cho Tỳ-kheo kia, nên mới khen ngợi. Vì sao? Vì Tỳ-kheo kia ở nước A-bàn-đề có thể làm Phật sự. Vì muốn cho các người ở nước đó tâm thêm tôn trọng nên mới khen ngợi ông.

Lại có thuyết nói: Do Tỳ-kheo Ức Nhĩ có thể khéo trì tụng các nghĩa Ưu-đà-na, Ba-la-diên của kinh, có thể làm vừa ý Phật, nên mới được khen ngợi.

Lại có thuyết nói: tu tịnh nghiệp làm cho tiếng nói trong, diệu, nên mới được khen ngợi.

Nói làm tăng ích pháp thiện vắng lặng của người xuất gia: Các vị xuất gia xoay vần, được quyết định đúng, chứng đắc đạo quả, có thể lìa ái dục, cũng hết các lậu, gieo trồng nhân Phật đạo và nhân của đạo Duyên giác, Thanh văn, được sinh vào nhà nhiều của cải, tôn quý quyến thuộc thành tựu, có oai thế lớn, diện mạo xinh đẹp, có khả năng làm thanh tịnh thiên đạo và đạo giải thoát, đều là thế lực của phật. Nhờ thế lực phật, nên đã giúp cho nhiều chúng sinh xuất gia trong pháp Phật, có lợi ích như thế v.v… nên khởi tâm vui mừng, nói rằng: Nay ta tăng ích pháp thiện vắng lặng của người xuất gia.

Lại có thuyết nói: Vì muốn xa lìa lỗi lầm của sự chê bai, nên khen ngợi A-ni-lô-đầu, v.v… vì muốn cho oai đức của người kia được tôn trọng nên khen ngợi Mục-liên, v.v…

Vì muốn hiển bày có công đức lớn, nên khen ngợi Tôn giả Xá-lợiphất, v.v…, và vì muốn sinh khởi tâm không sợ hãi, nên khen ngợi như Tỳ-kheo Ức Nhĩ v.v…

Thế nào là năng lực của thân? Năng lực của thân yếu kém là sao?

Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Như Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Sức của thân, sức của thân yếu kém không do ở thân mà là do ở tâm làm ra. Vì nhằm ngăn ý của người nói như thế, vì muốn nói về thể của sức là xúc nhập, nên soạn luận nầy.

Lại có thuyết nói: Sở dĩ soạn luận là vì muốn ngăn ý của Di-sa-tắc bộ, bộ ấy nói rằng: Thể của sức nơi thân là tinh tiến, thể của sức nơi thân yếu kém là sự lười biếng.

Vì nhằm ngăn ý nghĩ của người nói như thế, vì muốn nói sức của

thân, sức của thân yếu kém, thể là xúc nhập.

Lại có thuyết nói: Sở dĩ soạn luận nầy là muốn ngăn ý nghĩ của phái Thí dụ giả, phái ấy nói rằng: Nói sức của thân, sức của thân yếu kém, không có tự thể nhất định. Như sức voi vượt hơn sức ngựa, sức ngựa vượt hơn sức bò.

Thế nào là một thể? Tức là sức của thân, là sức của thân yếu kém.

Vì muốn ngăn ý của thuyết nói như thế, vì muốn nói về sức của thân, sức của thân yếu kém là pháp quyết định, nên nếu sức của thân chẳng phải pháp quyết định, thì chẳng phải thuộc về nhập, chẳng phải đối tượng nhận thức của thức.

Hỏi: Nếu sức của thân là quyết định, thì theo phái Thí dụ giả nói làm sao hiểu? Như sức của voi vượt hơn sức ngựa, sức của ngựa vượt hơn sức bò?

Đáp: Vì đây là nhân nơi người khác nên nói là hơn. Như sức ngựa đối với sức voi, bốn đại yếu thì nhiều, bốn đại mạnh thì ít. Sức bò đối với sức ngựa, bốn đại yếu thì nhiều, bốn đại mạnh thì ít. Vậy thì sức mạnh, thường mạnh, sức yếu thường yếu. Vì việc nầy, vì nhằm ngăn ý của người khác, muốn hiển bày rõ nghĩa của mình, cho đến nói rộng, nên soạn luận nầy.

Tất cả pháp hữu vi, sức có mạnh, yếu. Vì sao? Vì như mắt sáng rõ, có thể nhìn thấy, đó gọi là sức mạnh, người nào không bằng gọi là sức yếu, cho đến thân cũng giống như thế. Như ý khéo có thể biết pháp, đó gọi là sức mạnh, người nào không bằng gọi là sức yếu. Ở đây nói sức của thân, sức thân yếu kém, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Thế nào gọi là sức của thân?

Đáp: như sức của thân, thân dũng mãnh, cho đến nói rộng. Các danh từ như thế, v.v… đều hiển hiện tướng của sức. Như hai lực sĩ đọ sức, cho đến nói rộng. Vì nghĩa nầy nên biết được sức của thân, sức của thân yếu kém, là thuộc về xúc, nhập. Vì sao? Vì sự xúc chạm, nên biết được sức của người nầy mạnh hay yếu. Giống như hai người mạnh khỏe nắm một người sức yếu. Lúc người kia đang nắm, là xoay vần biết nhau. Như người có sức mạnh nắm lấy người sức yếu, biết sức của người kia yếu. Người sức yếu nắm lấy người sức mạnh, cũng biết sức của người kia mạnh.

Sức mạnh, sức yếu đều thuộc về một nhập, nghĩa là xúc nhập. Là đối tượng nhận biết của hai thức, đó là thân thức và ý thức. Thân thức nhận biết tướng riêng, ý thức nhận tướng riêng và tướng chung.

Do nghĩa như thế, tức là ngăn ý của người nói, sức của thân không nhất định. Vì sao? Vì nếu đối nơi sức của thân, sức của thân yếu kém không nhất định, thì không nên nói nhất định là thuộc về một nhập, được hai thức nhận biết.

Hỏi: Sức của thân, sức thân yếu kém thể tánh là gì?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Thể là bốn đại.

Hỏi: Nếu vậy thì vì đại nào tăng, nên sức của thân mạnh? vì đại nào tăng, nên sức của thân yếu?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Bốn đại không tăng, tự có bốn đại tương tợ sinh ra sức của thân mạnh, có bốn đại tương tợ sinh ra sức của thân yếu.

Lại có thuyết nói: Vì địa đại tăng nên sức của thân mạnh, vì thủy đại tăng nên sức thân yếu. Vật bên ngoài cũng thế. Như cây Đà-bà, cây Khư-đà-la, cây Tỳ-ma, cây Bà-đà-la v.v… vì địa đại nhiều, nên chắc cứng, như cỏ lau, liễu, bầu, hồ ma v.v… vì thủy đại nhiều nên mềm yếu.

Lại có thuyết nói: Sức của thân, sức của thân yếu, thuộc về xúc nhập, thể chẳng phải bốn đại, là tánh của sắc tạo.

Hỏi: Nếu vậy thì tánh của sắc tạo có bảy thứ, thứ nào tăng, nên sức của thân mạnh mẽ? Thứ nào tăng, nên sức của thân yếu?

Đáp: Vì thứ nặng nhiều nên sức của thân mạnh, vì thứ nhẹ nhiều nên sức của thân yếu. Vật bên ngoài cũng thế, nặng thì mạnh, nhẹ thì yếu.

Lại có nói rằng: Ngoài bảy thứ sắc tạo, còn có sức của thân, sức thân yếu kém.

Bình luận: Nên nói như thế. Thân bốn đại cân bằng, thì sức của thân mạnh mẽ, thân bốn đại không cân bằng thì sức của thân yếu.

Như nói: Bồ-tát có sức Na-la-diên, lượng bằng nhau của sức Nala-diên ra sao.

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Sức mười con bò thường bằng sức của một con bò trời, sức của mười con bò trời bằng sức của một con trâu xanh, sức của mười con trâu xanh bằng sức của một con voi thường, sức của mười con voi thường bằng sức của một hương tượng, sức của mười hương tượng bằng sức của một người đại lực, sức của mười người đại lực bằng sức của một Bát-kiến-đà, sức của mười Bát-kiến-đà bằng nửa sức Na-la-diên. Hai nửa sức Na-la-diên bằng sức của một Na-la-diên, sức của một Na-la-diên bằng một chút sức của Bồ-tát. Đó gọi là sức thân của Bồ-tát.

Lại có thuyết nói: (Thuyết nầy rất ít). Sức của mười con bò thường bằng sức của một con bò trời, cho đến sức của mười voi thường bằng sức của một voi hoang, sức của mười voi hoang bằng sức của một voi Giàni-la. Sức của mười voi Già-ni-la bằng sức của một voi A-la-lặc-ca. Sức của mười voi A-la-lặc-ca bằng sức của một voi núi Tuyết, sức của mười con voi núi Tuyết bằng sức của một Hương tượng. Sức của mười Hương tượng bằng với sức của một con voi núi xanh. Sức của mười con voi núi xanh bằng sức của một voi núi Vàng. Cứ như thế, theo thứ lớp gấp mười lần, nói về Ưu-bát-la đỏ, trắng, Câu-vật-đầu, Ba-đầu-ma cũng nói giống như thế, sức của mười voi Ba-đầu-ma, bằng sức của một người đại lực. Sức của mười người đại lực bằng sức của một Bát-kiến-đà. Sức của mười Bát-kiến-đà bằng sức của một Sa-lăng-già. Sức của mười Sa-lăng-già bằng sức của một Bà-lăng-già. Sức của mười Bà-lăng-già bằng sức của một Chương-nậu-lặc. Sức của mười Chương-nậu-lặc bằng sức của một Bà-la-chương-nậu-lặc. Sức của mười Bà-la-chương-nậulặc bằng một nửa sức của Na-la-diên. Hai nửa sức Na-la-diên bằng một sức của Na-la-diên. Đó gọi là năng lực của Na-la-diên.

Lại có thuyết nói: (Thuyết nầy cũng ít). Sức của một ngàn long vương Y-na-bạt-la bằng một chút sức của Bồ-tát.

Nghe nói khi trời Đao lợi muốn dạo chơi, Long vương Y-na-bạt-la, sắc thuần trắng, như bảy cành hoa Câu-vật-đầu, an lập, có đủ sáu ngà, đầu đỏ như sắc của Nhân-đề-cụ-ba. Bên hông trái phải, mỗi bên đều là hai do-tuần rưỡi, trước sau đều một do-tuần. Như thế, xung quanh thân có bảy do-tuần, cao hai do tuần rưỡi. Đây là thân thường có tám ngàn quyến thuộc. Các quyến thuộc ấy với sắc đỏ trắng, như bảy cành hoa Câu-vật-đầu an lập, có đủ sáu ngà, đầu đỏ như sắc của Nhân-đề-cụ-ba. Lúc trời Ba mươi ba muốn dạo chơi, trên thân của Long vương Y-nabạt-la, tự nhiên có hiện ra tay hương, bèn nghĩ: Hôm nay chư thiên cần ta, liền tự hóa thân thành ba mươi hai đầu, mỗi đầu có sáu ngà, đầu đỏ như sắc của Nhân-đề-cụ-ba. Đầu thứ Ba mươi ba là đầu thường, trên mỗi ngà, hóa thành bảy ao, trong mỗi ao, hóa thành bảy đóa hoa sen, trên mỗi hoa, hóa thành bảy đài, nơi mỗi đài hóa bảy màn che liên kết với nhau, trong mỗi (màn) che có bảy thiên nữ, mỗi thiên nữ có bảy thị giả, mỗi thị giả có bảy kỹ nữ.

Biến hóa như thế xong, Long vương đi đến trong thành của chư thiên, hóa ra ba mươi hai đầu, ba mươi hai quan phụ tá và quyến thuộc của họ cưỡi lên trên đó. Đế-thích cỡi trên đầu thường và quyến thuộc của Đế-thích cưỡi lên trên ấy.

Cũng thế, gồm có một vạn gia tộc của chư thiên, thân bay bỗng lên, giống như gió xoáy thổi phớt qua trên lá cỏ, cưỡi hư không mà đi, đến chỗ dạo chơi. Bấy giờ chư thiên đều không tự thấy có người trước sau, đến chỗ dạo chơi. Bấy giờ, chư thiên đều đến dạo chơi trong vườn rừng với ý niệm hân hoan vui vẻ.

Bấy giờ, Long vương cũng tự hóa thân thành hình thiên tử rồi tự vui đùa. Cũng thế, thân Bồ-tát với sức của Long vương Y-na-bạt-la, có mười tám đại tiết, mỗi đại tiết có một ngàn sức của Long vương Y-nabạt-la.

Cũng thế, v.v… gọi là sức thân của Bồ-tát.

Lại có thuyết nói: Thuyết nầy cũng ít. Sức nơi thân của Bồ-tát có mười tám tiết lớn, như trước đã nói, là sức của tiết thấp nhất trong mười tám tiết của Bồ-tát. Thuyết thứ hai nói là sức nơi tiết vượt hơn kế đó của Bồ-tát. Thuyết thứ ba nói là sức của tiết thứ ba, cứ thứ lớp như thế mỗi mỗi đều chuyển biến vượt hơn gấp bội.

Tôn giả Bà-đàn-đà nói: Sức của ý vô lượng, nên biết sức của thân cũng vô lượng, làm sao biết được? Vì như đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng đời vị lai, sẽ sinh hiện ở trước. Bấy giờ, Tam thiên đại thiên thế giới, mặt đất rung chuyển. Do việc nầy, nên biết được do sức của ý vô lượng, nên sức của thân cũng vô lượng.

Hỏi: Nếu vậy thì vì sao nói Bồ-tát có sức của Na-la-diên?

Đáp: Vì sức của Na-la-diên được người đời ưa chuộng nên dùng làm dụ. Vậy thì sức của ý vô lượng, nên sức của thân cũng vô lượng.

Hỏi: Vì sao Bồ-tát tu tập sức như thế?

Đáp: Vì muốn thể hiện tất cả đều là việc vượt hơn, như Bồ-tát đối với tất cả việc vượt hơn của thế gian như là sắc tộc, giàu có, nhiều của cải, quyến thuộc, chứa nhóm công đức và sức của tiếng tăm cũng giống như thế. Như về sắc tộc v.v… đã bao trùm thế gian nên về sức cũng nên như vậy.

Lại có thuyết nói: Vì là Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Vì sao? Vì đạo quả Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng phải trụ nơi thân bền chắc như thế, nhưng không có việc đó, nên chỉ do phân biệt mà nói. Nếu Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng trụ nơi đỉnh núi Tu-di, thì núi Tu-di sẽ bị vỡ nát, vì lực, vô úy rất quý trọng. Chính vì cho nên khi mới thành đạo, Đức Thế tôn giở chân lên định đi, bước nhẹ nhàng trên đất, đất liền rung chuyển.

Lại có thuyết nói: Vì đạo Chánh đẳng Chánh giác Vô thượng, nên ở cõi Diêm-phù-đề trong Tam thiên đại thiên thế giới, ở cõi Diêm-phùđề ấy có tòa kim cương tự nhiên xuất hiện. Bồ-tát ngồi trên đó thành Đẳng chánh giác. Cũng thế, cũng là đạo Chánh đẳng Chánh Giác Vô thượng, thân chứa nhóm bền chắc.

Lại có thuyết nói: Vì dùng sức nầy để dẫn dắt ứng hóa chúng sinh. Ở đây, nên nói là người do sức biến hóa dụ cho các Thích tử, việc bắn dụ cho nhập Niết-bàn, thời gian dụ cho đá cứng chắc.

Nghe nói khi Đức Thế tôn sắp nhập Niết-bàn, Ngài đến thôn Baba, bấy giờ có năm trăm lực sĩ đang sữa đường, lúc đó có một tảng đá dài mười hai trượng, rộng sáu trượng. Các lực sĩ đồng dốc hết tâm lực, nhưng không thể làm cho tảng đá nhúc nhích. Đức Thế tôn đến, hỏi các đồng tử: Các vị đang làm gì thế? Các lực sĩ đáp: Chúng con đang tô điểm lại đường sá. Đức Thế tôn lại hỏi: Nay ta vì các vị sẽ dời tảng đá nầy đi được chăng? Đáp: vâng, được. Phật bảo các lực sĩ: Các vị nên tránh thật xa! Lúc ấy, Đức Thế tôn dùng ngón chân cái nâng tảng đá nầy lên, đặt trong tâm bàn tay. Lại dùng tay nâng tảng đá ném vào hư không, rơi xuống, lại đỡ lấy, rồi dùng miệng thổi tan tảng đá khiến nó nát vụn như bụi, rồi làm cho nó hợp lại như cũ không khác. Bấy giờ, các lực sĩ hỏi Phật: Việc như thế là do công sức gì? Đức Thế tôn đáp: Do sức của ngón chân cái, đặt tảng đá trong tâm bàn tay là sức của thân do cha mẹ sinh ra. Sau dùng bàn tay nắm tảng ném vào hư không, cũng là sức của thân do cha mẹ sinh ra. Dùng miệng thổi tan tảng đá, khiến nó nát vụn như bụi, là do sức thần túc. Tảng đá nát vụn, rồi hợp trở lại nguyên vẹn như cũ, là năng lực của sự giải thoát. Các lực sĩ lại hỏi Phật: Còn có sức mạnh nào hơn sức mạnh như thế của Đức Thế tôn chăng? Phật đáp: Có chứ! Đó là sức vô thường. Phật bảo các lực sĩ: Dù là sức của cha mẹ sinh ra và sức của sự giải thoát, của thần túc, thì ta cũng sẽ bị sức mạnh của vô thường hủy hoại vào nửa đêm nay.

Nghe Đức Phật nói qua việc nầy, các lực sĩ sinh tâm nhàm lìa. Phật vì họ nói pháp, khiến họ thấy được chân đế. Cho nên, vì muốn dẫn dắt chúng sinh trong sự ứng hóa, nên Bồ-tát tu tập năng lực nầy.

Hỏi: Vào thời gian nào Bồ-tát đạt đầy đủ sức nầy?

Đáp: Vào thời gian Bồ-tát hai mươi lăm tuổi thì đạt được đầy đủ năng lực nầy. Từ đó trở đi, đến năm mươi tuổi, sức của Bồ-tát không giảm. Quá tuổi nầy về sau thể lực của Bồ-tát chuyển biến giảm dần.

Lại có nói rằng: Sức ấy không giảm. Vì sao? Vì sức của ý không giảm nên sức của thân cũng vậy.

Bình luận: Nên nói rằng: Pháp thân của Bồ-tát không giảm, sinh thân có giảm, là do quả báo, như Ưu-đà-da nói: Nay thấy sắc thân Đức Thế tôn tổn giảm, cho đến nói rộng.

Hỏi: Chúng sinh khác có sức của Na-la-diên hay không?

Đáp: Như sức của Bồ-tát đã nói lúc đầu, chúng sinh khác còn không có, huống chi là thuyết khác? Nhưng vào lúc thế giới mới thành thế giới chúng sinh, người có sức như Na da diên, có một nửa sức Na da diên, có sức của Bát-kiến-đà, có sức mạnh lớn, đầy cả cõi Diêm-phùđề.

Hỏi: Về tướng đốt xương của các người kia theo thứ lớp ra sao?

Đáp: Trừ bốn hạng người kia, tướng đốt xương của các chúng sinh khác thì trái nhau. Nếu sức của con người bằng sức voi, ngựa, thì đốt xương sẽ khít nhau. Người có sức mạnh thì, đốt xương nối liền nhau. Người có sức Bát-kiến-đà đốt xương móc nối nhau. Người có sức của Na-la-diên thì đốt xương nối nhau như mắc xích, đốt xương của Bồ-tát, như giao long liên kết nhau, như Khát già giác, Bích-chi Phật, gọi là sức mạnh lớn.

Hỏi: Vua Chuyên luân có sức mạnh Na-la-diên hay không?

Đáp: Vua Chuyển luân không có sức mạnh Na-la-diên. Tùy ở sức ở thân đức nơi bánh xe báu và các thứ báu khác cũng thế. Nếu bánh xe kia là vàng thì làm vua bốn cõi thiên hạ, sức của vua là tối thắng. Nếu bánh xe kia là bạc, thì làm vua trị vì ba cõi thiên hạ, sức vua sẽ càng giảm. Nếu luân kia là đồng, thì làm vua cai trị hai cõi thiên hạ, sức của vua đó lại giảm. Nếu bánh xe kia là sắt, thì làm vua trị vì một cõi thiên hạ, sức của vua ấy rất yếu kém.

Lúc Phật còn ở đời, có ba người có sức mạnh của Bát-kiến-đà:

  1. Tôn giả A-nan.
  2. Thích thây chế-tểm-di.
  3. Thích nữ Cù-tỳ-ca.

Hỏi: Bích-chi Phật ra đời là như Phật ra đời một mình hay có người ra đời chung?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Ra đời một mình, không có ai ra đời chung. Vì sao? Vì căn tánh của Bích-chi Phật vượt hơn Xá-lợi-phất. Như Xá-lợi-phất đều xuất hiện ở đời, giống như việc nầy, huống chi là năm trăm công đức xuất hiện cùng một lúc.

Hỏi: Nếu Bích-chi Phật không cùng xuất thế, là nói năm trăm công đứt xuất thế cùng lúc, là người nào?

Đáp: Đây đều vốn là Thanh văn, vì duyên tỏ ngộ Bồ-đề, nên gọi là Bích-chi Phật. Nếu chủng tánh gốc là Bích-chi Phật thì hành thành Bích-chi Phật. Một mình xuất hiện ở thế gian, nên biết là như Phật.

Đã nói sức nơi thân của Như lai, nay sẽ nói về sức của ý. Như lai có mười lực, đó là trí lực thị xứ phi xứ cho đến trí lực lậu tận.

Hỏi: Thể tánh của lực là gì?

Đáp: Thể tánh là thể của trí là thân trí. Đã nói về thể tánh, nay sẽ nói về nguyên do của lực.

Những gì là nghĩa của lực?

Đáp: Nghĩa không bị người khác khuất phục là nghĩa của lực. Nghĩa không bị người khác che lấp là nghĩa của lực. Nghĩa không bị dứt trừ, chế phục là nghĩa của lực. nghĩa hại, nghĩa quyết định nhận biết, nghĩa có thể gánh vác, nghĩa tối thắng là nghĩa của lực.

Giới nghĩa là trí lực của đời trước, trí lực của sinh tử. Lực khác ở cõi Sắc. Nếu là hữu lậu thì thuộc về ba cõi. Nếu là vô hậu thì không lệ thuộc. Địa là trí lực đời trước, trí lực của sinh tử, địa nơi các lực khác ở Tứ thiền căn bản. Nếu là hữu hậu thì ở địa mười một, nếu là vô lậu thì ở địa thứ chín. Y, nghĩa là dựa vào thân cõi Dục. Hành nghĩa là trí lực của thị xứ phi xứ, trí lực đến tất cả đạo hành mười sáu hành, cũng hành phi hành, trí lực nhận biết tập của pháp nghiệp, hành tám hành, cũng hành phi hành.

Trí lực thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, hành mười hai hành cũng hành phi hành. Trí lực của túc mạng, là trí lực sinh tử, hành về phi hành. Trí lực lâu tận, nếu lấy cảnh giới hành về bốn hành. Nếu lấy ở thân thì hành mười sáu hành cũng hành phi hành.

Duyên nơi cảnh giới: Là trí lực của thị xứ phi xứ. Duyên nơi tất cả pháp là trí lực nhận biết tập của pháp nghiệp, duyên theo đế của khổ, tập.

Trí lực thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, duyên theo ba đế, trừ diệt đế, trí lực đến tất cả đạo, duyên với bốn đế. Trí lực của túc mạng duyên theo năm ấm cõi Dục, cõi Sắc ở đời trước. Trí lực của sinh tử duyên theo sắc nhập, trí lực của lậu tận, nếu dùng cảnh giới, thì duyên theo Diệt đế, nếu lấy ở thân, thì duyên theo tất cả pháp.

Niệm xứ, nghĩa là trí lực biết dục, trí lực của túc mạng là pháp niệm xứ. Trí lực của sinh tử là thân niệm xứ. Trí lực của lậu tận, nếu dùng cảnh giới, là pháp niệm xứ, nếu lấy ở thân, thì là bốn niệm xứ. Các lực còn lại là bốn niệm xứ.

Trí, nghĩa là trí lực của thị xứ phi xứ. Trí lực đến tất cả đạo là mười trí. Trí lực nhận biết tập của pháp nghiệp là tám trí, trừ diệt trí, đạo trí.

Trí lực thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu là chín trí, trừ diệt trí. Trí lực của túc mạng, như người cựu A-tỳ-đàm nói là đẳng trí.

Tôn giả Bà-dĩ nói là bốn trí: Pháp trí, tỷ trí, khổ trí và đẳng trí.

Tôn giả Cù-sa nói là sáu trí: Trừ tận trí, trí vô sinh, diệt trí, tha tâm trí.

Bình luận: Nên như thuyết trước nói, một đẳng trí, nghĩa là trí lực ưa sinh tử. Người cựu A-tỳ-đàm nói: Là một đẳng trí.

Tôn giả Bà-dĩ nói bốn trí: Pháp trí, tỷ trí, tập trí, đẳng trí. Nghĩa chân thật là một đẳng trí. Trí lực hậu tận, nếu dùng cảnh giới thì là sáu trí, trừ tha tâm trí, khổ trí, tập trí, đạo trí. Nếu lấy ở thân thì có mười trí. Vì sao? Vì mười trí nầy ở trong thân Như lai đều có thể đạt được.

Căn: Nói tóm lại thì tương ưng với ba căn. Quá khứ hiện tại vị lai là pháp ba đời. Duyên nơi đời quá khứ, vị lai, hiện tại là trí lực của thị xứ phi xứ, trí lực đến tất cả đạo, duyên theo ba đời, cũng duyên theo chẳng phải đời.

Trí lực thứ hai, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu duyên theo ba đời. Trí lực của túc mạng quá khứ, hiện tại, nghĩa là duyên theo đời quá khứ, đời vị lai. Sẽ sinh, nghĩa là duyên theo đời quá khứ. Nếu bất sinh, nghĩa là duyên theo ba đời.

Trí lực của sinh tử quá khứ duyên theo đời quá khứ, hiện tại duyên theo đời hiện tại, vị lai sẽ sinh duyên theo đời vị lai, bất sinh trí lực lậu tận duyên theo ba đời, nếu dùng cảnh giới thì duyên theo pháp chẳng phải đời. Nếu lấy ở thân thì duyên theo cả ba đời, cũng duyên theo chẳng phải đời.

Thiện, bất thiện, vô ký: Là thiện duyên theo thiện. Bất thiện, vô ký: Trí lực biết thiền, giải thoát, Tam-ma-đề, duyên theo thiện, vô ký. Trí lưc lậu tận, nếu lấy cảnh giới thì duyên theo thiện, nếu lấy ở thân thì duyên theo thiện, bất thiện vô ký, các lực khác duyên theo ba thứ. Hệ thuộc là trí lực túc mạng, trí lực của sinh tử thuộc về cõi Sắc. Các lực khác nếu là hữu hậu thì lệ thuộc ba cõi. Nếu là vô lậu thì không lệ thuộc.

Duyên lệ thuộc ba cõi: Trí lực túc mạng, trí lực của sinh tử duyên thuộc về cõi Dục, sắc. Trí lực nhận biết tập của pháp nghiệp thì duyện lệ thuộc ba cõi. Trí lực lậu tận, nếu dùng cảnh giới thì sẽ duyên theo không lệ thuộc, nếu lấy ở thân thì duyên lệ thuộc ba cõi và duyên theo không lệ thuộc. Các lực khác duyên lệ thuộc ba cõi, duyên theo chẳng lệ thuộc.

Là Học, Vô học, phi học phi Vô học: Trí lực túc mạng, trí lực sinh tử là phi học phi Vô học. Các lực khác, nếu vô lậu thì là Vô học, nếu hữu lậu thì là phi học phi Vô học.

Duyên nơi Học, Vô học, phi học phi Vô học: Trí lực nhận biết tập của nghiệp pháp, trí lực túc mạng, trí lực sinh tử duyên theo phi học phi Vô học. Trí lực lậu tận nếu lấy cảnh giới thì duyên theo phi học phi Vô học. Nếu lấy ở thân thì có thể duyên theo cả ba thứ, các lưc còn lại, duyên cả ba thứ. Về thấy đạo dứt, tu đạo dứt không dứt, nghĩa làtrí lực túc mạng, trí lực sinh tử là tu đạo dứt trừ. Lực còn lại, nếu hữu lậu, là tu đạo dứt trừ, nếu là vô lậu, thì không dứt trừ, duyên theo thấy đạo dứt, tu đạo dứt, không dứt. Nghĩa là trí lực nhận biết tập của pháp nghiệp, trí lực túc mạng duyên theo thấy đạo dứt, tu đạo dứt, trí lực sinh tử duyên theo tu đạo dứt trừ, trí lực lậu tận, nếu dùng cảnh giới thì duyên theo không dứt, nếu lấy ở thân thì duyên theo cả ba thứ, các còn lại duyên hết ba thứ. Về duyên theo danh, duyên theo nghĩa: Trí lực biết dục, trí lực của sinh tử, duyên theo nghĩa, trí lưc lậu tận. Nếu lấy cảnh giới, thì duyên theo nghĩa, nếu lấy ở thân thì duyên theo danh, nghĩa, lực khác vừa duyên sanh, vừa duyên nghĩa, duyên theo thân mình, thân người, chẳng phải thân. Trí lực của thị xứ phi xứ, cho đến trí lực của tất cả đạo, duyên theo thân mình, nơi thân người, cũng duyên theo pháp chẳng phải thân. Trí lực lậu tận, nếu dùng cảnh giới thì duyên theo phi thân, nếu lấy ở thân thì sẽ duyên hết ba thứ, các lực còn lại thì duyên theo thân mình, nơi thân người.

Hỏi: Các lực nầy là từ phương tiện sinh hay là từ lìa dục mà được?

Đáp: Có thể nói là từ phương tiện sinh, cũng từ lìa dục mà được. Vì sao? Vì đã chứa nhóm phương tiện sinh từ ba A-tăng-kỳ kiếp, nên nói là từ phương tiện sinh. Vì từ lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ mà được, nên nói từ lìa dục mà được.

Hỏi: Ở xứ nào sinh ra lực nầy?

Đáp: Dựa vào thân cõi Dục, sinh ở châu Diêm-phù-đề, chẳng phải phương khác. Dựa vào thân người nam, chẳng phải thân người nữ.

Hỏi: Trí lực trí biết tập của pháp nghiệp, và trí lực sinh tử có gì khác nhau không?

Đáp: Từ thô đến tế là trí lực sinh tử, từ tế đến thô là trí lực biết tập của pháp nghiệp, như thô, tế hiện thấy, không hiện thấy, nhân quả, nên biết cũng giống như thế.

Đã nói lực, vô úy, nay sẽ nói về bậc Chánh đẳng Chánh giác có bốn vô sở úy, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thể tánh của vô úy là gì?

Đáp: Thể tánh của vô úy là thân tuệ. Lực ban đầu là vô úy ban đầu, lực thứ mười là vô úy thứ hai, lực thứ hai là vô úy thứ ba, lực thứ bảy là vô úy thứ tư. Mỗi lực gồm bốn vô úy, mỗi vô úy gồm nhiếp mười lực, tức là có bốn mươi lực, bốn mươi vô úy.

Vì Đức Phật lược nói, nên ta thành tựu mười lực, bốn vô sở úy, nói rộng là thành tựu bốn mươi lực, bốn mươi vô úy.

Đã nói thể tánh của lực vô úy, về lý do nay sẽ nói:

Hỏi: Thế nào là nghĩa vô úy?

Đáp: Nghĩa không thể làm lay động là nghĩa vô úy, nghĩa dũng mãnh là nghĩa vô úy. Nghĩa không yếu đuối là nghĩa vô úy. Nghĩa yên ổn, nghĩa thanh tịnh, nghĩa thuần bạch là nghĩa vô úy.

Hỏi: Lực tức là vô úy hay khác với vô úy?

Đáp: Các lực tức là các vô úy, như trước đã nói, lực đầu tiên tức lực vô úy đầu tiên, cho đến nói rộng.

Hỏi: Nếu vậy thì giữa lực và vô úy có gì khác nhau?

Đáp: Không có khác nhau. Như nói vô úy tức lực, lực tức vô úy.

Lại có thuyết nói: Tên tức khác nhau. Vì sao? Vì đó gọi là lực, vì đó gọi là vô úy.

Lại có thuyết nói: mới An lập là lực, đã an lập không lay động là vô úy.

Lại nữa, có vững chắc, mạnh mẽ là lực, dũng cảm, quyết định là vô úy.

Lại nữa, không bị người khác khuất phục là lực, không yếu đuối là vô úy.

Lại nữa, trí là lực, biện tài là vô úy.

Lại nữa, nhân là lực, quả là vô úy.

Lại nữa, không bị người khác che lấp, là lực, có thể che lấp người khác là vô úy.

Lại nữa, tự làm lợi ích là lực, làm lợi ích cho người là vô úy. Lợi mình, lợi người cũng thế.

Lại nữa, tự giác là lực, vì người khác giảng nói là vô úy. Chứa nhóm là lực, nhận dùng là vô úy. Nghĩa tiếp nhận của cải là lực, nghĩa phân chia của cải là vô úy.

Lại nữa, biết phương thuốc là lực, trị bệnh cho người là vô úy.

Lại nữa, nghĩa pháp vô ngại là lực, lạc thuyết vô ngại là vô úy.

Lại nữa, khen cầu nghĩa pháp vô ngại là lực, khen cầu từ lạc thuyết vô ngại là vô úy. Các phân biệt khác như đã nói trong phần lực.

Như lai có đại bi.

Hỏi: Thể tánh của đại bi là gì?

Đáp: Thể tánh của đại bi là tuệ.

Lại có thuyết nói: Là chiếu soi.

Bình luận: Không Nên nói rằng, như thuyết trước là tốt.

Phải biết, đại bi tức là lực của thị xứ phi xứ Địa: Nghĩa là địa của đệ Tứ thiền. Ngoài ra, phân biệt nên tùy tướng mà nói.

Hỏi: Vì sao trong đây chỉ nói lực, vô úy, đại bi mà không nói là ba niệm xứ?

Đáp: Vì ba thứ nầy vượt hơn trong phần nói pháp, còn ba niệm xứ thì không như thế. Nói lực tức là biểu hiện rõ ràng nghĩa của mình. Nói vô úy tức là thể hiện nghĩa phát trừ, chế phục người khác. Đại bi thì sinh ra tâm muốn nói pháp, ba niệm xứ thì không như thế cho nên không nói.

Như lai cũng nói thành tựu bảy pháp. Bảy pháp kia nên biết tức là lực của thị xứ phi xứ. Nếu Như lai còn có pháp bất cộng khác, nên biết đều là lực của thị xứ phi xứ.

Hỏi: Bảy pháp nầy có bao nhiêu trí tánh?

Đáp: Biết pháp, biết lượng, biết chúng, đây là một đẳng trí. Biết nghĩa, tức là các thuyết đều nói. Niết-bàn là đệ nhất nghĩa tức là sáu trí tánh, trừ khổ trí, tập trí, tha tâm trí và đạo trí. Phần nhiều đều nói như thế: Tất cả pháp là đệ nhất nghĩa, là mười trí tánh. Biết thời gian, biết người là chín trí tánh, trừ diệt trí. Tự biết là tám trí tánh, trừ diệt trí, tha tâm trí.

Tôn giả Bà-dĩ nói: Tự biết là bốn trí tánh, nghĩa là pháp trí, tỷ trí, đạo trí, đẳng trí.

Bình luận: Các thuyết nói như thế có thể có việc nầy, chỉ về nghĩa của bảy pháp mà kinh kia đã nói là một đẳng trí. Như lai có tam-muội của năm Thánh trí, đây cũng là lực của thị xứ phi xứ. Năm trí là: Pháp trí, tỷ trí, đạo trí, tận trí và trí vô sinh.

*******

 

Thế nào là số diệt? Thế nào là phi số diệt? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì nhằm ngăn ý của người nói nghĩa, cũng như phái Thí dụ giả nói: Ba thứ diệt không có tự thể.

Vì nhằm ngăn ý của người nói như thế và vì muốn nói ba thứ diệt, mỗi thứ đều có thể tướng, nên soạn luận nầy.

Lại nữa, sở dĩ soạn luận nầy là vì Tỳ-bà Xà-bà-đề nói ba thứ diệt đều là vô vi.

Vì muốn ngăn ý của thuyết nói như thế để nói ba thứ diệt: hai thứ là vô vi, một thứ là hữu vi, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Thế nào là số diệt?

Đáp: Nếu diệt tức là được giải thoát. Pháp kia diệt, người kia được là được giải thoát, được giải thoát đắc. Đó gọi là số diệt.

Hỏi: Thế nào là phi số diệt?

Đáp: Nếu diệt thì chẳng phải giải thoát. Nếu pháp kia diệt, người kia đạt được là không được giải thoát, không được giải thoát đắc là chỗ đạt được. Đó gọi là phi số diệt.

Hỏi: Thế nào là diệt của vô thường?

Đáp: Là các hành tan diệt. Diệt của vô thường, các hành tan diệt, chẳng phải như phân tán hạt đậu, lúa, v.v… Diệt của vô thường là khiến cho các hành có sở tác ở một sát-na trước và ở một sát-na sau, lại không còn có chỗ tác, chẳng phải không có thể của hành. Vì ngăn dứt chỗ tạo tác đó, Nên nói rằng.

Hỏi: Phi số diệt và diệt của vô thường có gì khác nhau?

Đáp: Phi số diệt: nỗi khốn khổ của bệnh tật, ốm gầy, do mình tạo ra, những việc ma, khổ não do người khác gây tạo, các pháp tùy thế gian như thế, nếu được giải thoát, đó gọi là phi số diệt.

Nếu nói như mình tạo ra nỗi khốn khổ ốm gầy bệnh tật, các thứ pháp như việc ma v.v…, khổ não do người khác gây ra, nếu được giải thoát, thì đó gọi là các hành hữu lậu được phi số diệt. Nếu nói các pháp tùy đời v.v…, nếu được giải thoát, thì đó gọi là các hành vô lậu được phi số diệt. Vì sao? Vì các hành vô lậu cũng ở thế gian.

Diệt của vô thường: là khiến các hành tan diệt, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao chỉ hỏi về phi số diệt vô thường diệt, không hỏi về số diệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì ý của người soạn kinh kia muốn thế, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết nói: Trước kia đã nói sự khác nhau, như nói: Thế nào là số diệt? Diệt ấy là giải thoát? Cho đến nói rộng. Cả hai diệt đều không là phải giải thoát. Do đó, nên mới hỏi về sự khác nhau kia.

Lại có thuyết nói: Vì hai diệt nầy đều không có dụng công diệt.

Lại có thuyết nói: Đều nên hỏi về sự khác nhau của ba thứ diệt. Thế nào là số diệt?

Đáp: Nếu diệt là tướng giải thoát không lệ thuộc. Phi số diệt: là tướng giải thoát chẳng phải không lệ thuộc. Diệt của vô thường là tướng chẳng phải giải thoát, cũng chẳng phải không lệ thuộc.

Lại có thuyết nói: Số diệt là trong ấm, nhập, giới ba đời có thể được, phi số diệt trong pháp không sanhcủa đời vị lai có thể đạt được. Diệt của vô thường ở đời hiện tại có thể đạt được.

Lại có thuyết nói: Số diệt là thiện, chỗ đắc của số diệt cũng thiện, phi số diệt là vô ký, chỗ đắc của phi số diệt cũng là vô ký. Diệt của vô thường có ba thứ, chỗ đắc của pháp đó cũng có ba thứ.

Lại có thuyết nói: Số diệt là không lệ thuộc, chỗ đắc của số diệt là lệ thuộc, không lệ thuộc phi số diệt là không lệ thuộc, chỗ đắc của pháp đó là lệ thuộc. Vô thường là lệ thuộc, không lệ thuộc, chỗ đắc của pháp đó cũng là lệ thuộc, không lệ thuộc.

Lại có thuyết nói: Số diệt là phi học phi Vô học, chỗ đắc của pháp đó là Học, Vô học, phi học phi Vô học. Phi số diệt là phi học phi Vô học, chỗ đắc của pháp đó cũng là phi học phi Vô học.

Diệt của vô thường có đủ ba thứ, chỗ đắc của pháp đó cũng có đủ ba thứ.

Lại có thuyết nói: Số diệt là không dứt, chỗ đắc của số diệt, hoặc do tu đạo dứt trừ hoặc không dứt phi số diệt là không dứt. Chỗ đắc của phi số diệt là do tu đạo dứt trừ. Diệt của vô thường có ba thứ. Chỗ đắc của diệt đó cũng có ba thứ.

Lại có thuyết nói: Số diệt là quả đạo, chỗ đắc của số diệt hoặc là đạo, là quả đạo, hoặc chẳng phải đạo, chẳng phải quả đạo. Phi số diệt chẳng phải quả đạo, chỗ đắc của pháp đó chẳng phải đạo, chẳng phải quả đạo. Diệt của vô thường hoặc là đạo, chẳng phải quả đạo. Hoặc là đạo, cũng là quả đạo. Hoặc chẳng phải đạo, chẳng phải quả đạo, chỗ đắc của pháp đó cũng thế.

Lại có thuyết nói: Số diệt là thuộc về diệt đế, chỗ đắc của số diệt đó là thuộc về ba đế. Phi số diệt chẳng phải thuộc về diệt đế, chỗ đắc của pháp đó là thuộc về khổ đế, tập đế. Diệt của vô thường có ba thứ đều thuộc về đế, chỗ đắc cũng thế.

Hỏi: Những gì là nghĩa của số diệt?

Đáp: Số là tuệ, diệt là quả của tuệ, nên gọi là số diệt.

Lại có thuyết nói: Vì riêng số đắc, nên nói là số diệt, như khi thấy khổ thì khổ nhẫn, khổ trí, đạt được riêng, về thấy tập, thấy diệt, thấy đạo đạt được cũng riêng lẻ, nên gọi là số diệt.

Lại có thuyết nói: Do khó được nhiều công dụng nên gọi là số diệt.

Hỏi: Diệt nầy là một thể hay nhiều thể?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là một thể.

Hỏi: Nếu là một thể, thì khi chứng đắc thấy đạo dứt diệt các kiết, cũng chứng tu đạo dứt diệt các kiết chăng? Nếu chứng thì tu đạo sẽ không có công dụng. Nếu không chứng, thì vì sao pháp của một thể mà có một chút phần chứng, một chút phần không chứng?

Lại có thuyết nói: Thể của diệt có năm chỗ dứt trừ là phiền não của thấy khổ, diệt là một thứ, cho đến phiền não do tu đạo dứt trừ, diệt là loại thứ năm.

Hỏi: Điều nầy cũng có lỗi. Vì sao? Vì khi chứng tu đạo cõi Dục, là đã dứt diệt sử phẩm thượng thượng, lại chứng diệt sử của phẩm khác hay không? Nếu sẽ chứng, thì đạo đối trị của phẩm khác sẽ trở nên không có công dụng? Còn nếu không chứng thì làm sao trong pháp của một thể mà có ít phần chứng, ít phần không chứng?

Lại có thuyết nói: Thể của diệt có mười ba, chỗ dứt của thấy đạo có bốn, chỗ dứt của tu đạo có chín. Sự việc nầy cũng có lỗi. Vì sao? Vì nếu khi chứng tu đạo cõi Dục là đã dứt diệt sử rồi, lại chứng tu đạo của Sơ thiền là đã có dứt diệt sử hay không? Hoặc chứng, không chứng, đều đồng với lỗi trước?

Bình luận: Nên nói rằng: Tùy thể của pháp hữu lậu, diệt thì thể cũng thế.

Hỏi: Nếu vậy vì sao trước kia đã hỏi: Niết-bàn là một thể hay là nhiều thể?

Đáp: Trước kia, lẽ ra phải hỏi rằng: Nếu một chúng sinh khi chứng một pháp diệt, thì tất cả chúng sinh cũng đồng chứng diệt diệt nầy phải không? Nếu đồng thì sao Niết-bàn chẳng phải pháp chung? Một chúng sinh khi được Niết-bàn, thì tất cả chúng sinh lẽ ra cũng được Niết-bàn, nếu khác làm sao Niết-bàn chẳng phải pháp tương tự? Và kinh nầy làm sao hiểu? Như nói: Sự giải thoát của Như lai và sự giải thoát của A-lahán đều đồng, không khác nhau?

Đáp: Nên nói rằng: Như một chúng sinh chứng pháp nầy, tất cả chúng sinh cũng đồng chứng pháp nầy.

Hỏi: Nếu vậy vì sao Niết-bàn không là pháp chung?

Đáp: Vì nói theo thể thì đồng, nhưng nếu nói theo đắc thì khác. Vì sao? Vì các chỗ đắc đều khác.

Hỏi: Nếu vậy vì sao không phải là một chúng sinh khi đạt được Niết-bàn, thì tất cả chúng sinh cũng đạt được Niết-bàn?

Đáp: Nếu người do thành tựu Niết-bàn mà được thì được Niết-bàn, nếu người không thành tựu được Niết-bàn, thì không được Niết-bàn.

Lại có thuyết nói: Nếu khi một chúng sinh chứng diệt nầy thì chúng sinh khác chỗ chứng đều khác.

Hỏi: Nếu vậy thì sao Niết-bàn chẳng phải pháp tương tự?

Đáp: Nói chẳng phải tương tự là chẳng phải nhân tương tự, vì Niết-bàn không có nhân tương tự, nên nói chẳng phải pháp tương tự.

Hỏi: Nếu vậy thì khổ pháp nhẫn không có nhân tương tự, cũng là chẳng phải pháp tương tự chăng?

Đáp: Mặc dù khổ pháp nhẫn không từ nhân tương tự sinh, nhưng vẫn có thể tạo ra nhân tương tự cho người khác. Niết-bàn không từ nhân tương tự sinh, cũng không làm nhân tương tự cho người khác.

Laị có thuyết nói: Vì không đồng, nên nói không tương tự. Tánh của pháp hữu vi là đồng. Tánh đồng là sao? Là đồng ở đời, đồng là ấm, đồng là khổ, không một pháp nào là thường, là thiện.

Lại có thuyết nói: Pháp của đời là đồng, vì pháp Niết-bàn kia chẳng phải thế gian, nên không đồng. Cũng thế, pháp ấm, pháp khổ, pháp các sinh, pháp các đường, nên biết cũng thế.

Lại có thuyết nói: Trước, sau là tương tự, vì pháp của Niết-bàn không có trước, sau, nên nói không tương tự. Như trước sau, pháp thượng, trung, hạ cũng giống như thế. Sự giải thoát của Như lai, giải thoát của A-la-hán như kinh nầy đã nói làm sao hiểu? Vì đều là thường, là thiện.

Lại có thuyết nói: Vì quyết định đều có ở trong một thân. Vì sao? Vì tất cả chúng sinh đều có ba thứ tánh Bồ-đề, đó là Bồ-đề Phật, Bồđề Bích-chi Phật, Bồ-đề Thanh văn. Nếu đi theo Phật đạo, cũng chứng pháp nầy, nếu đi theo đạo Bích-chi Phật, đạo Thanh văn, thì cũng chứng pháp nầy, vì cho nên nói là không có khác nhau.

Bình luận: Không Nên nói rằng, như thuyết trước là tốt.

Hỏi: Số diệt trong vật thể bên ngoại là có đắc hay không Nếu có đắc thì chúng sinh không thành tựu pháp bên ngoài, làm sao đắc? Nếu có đắc thì với kinh nầy nói làm sao hiểu. Như nói: Các Trưởng già! Ta đã dứt trừ tất cả ái, được giải thoát bên trong. Nếu không chứng đắc, thì với kinh nầy làm sao hiểu? Như nói: Thế nào là giới đoạn? Đáp: Tất cả các hành đều dứt, đó gọi là cảnh giới đoạn, cho đến nói rộng.

Đáp: Nên nói là có đắc.

Hỏi: Nếu vậy không thành tựu pháp ngoài thì làm sao đạt được?

Đáp: Mặc dù không thành tựu pháp ngoài, nhưng vẫn đạt được số diệt của pháp ngoài, tám căn như mạng căn v.v… của quá khứ, vị lai tuy không thành tựu, nhưng vẫn được số diệt của tám mạng căn đó. Ta đã dứt tất cả ái, được giải thoát bên trong. Với kinh nầy làm sao hiểu. Ở đây nói: Nếu bên trong được giải thoát, phải biết pháp ngoài cũng được giải thoát.

Lại có thuyết nói: Vì sự giải thoát nầy từ thân mình tu phương tiện mà đắc, không do người ngoài tu phương tiện mà đắc, cho nên nói là được giải thoát bên trong.

Lại có thuyết nói: Không được số diệt trong pháp ngoài.

Hỏi: Nếu vậy thì và kinh nầy làm sao hiểu? Như nói: Tất cả các hành dứt, gọi là cảnh giới đoạn, cho đến nói rộng.

Đáp: Có hai thứ tất cả: tất cả của có phần và tất cả của tất cả. Vì trong đây nói: tất cả của phần, nên nói là tất cả.

Lại có thuyết nói: Có số diệt trong vật bên ngoài nhưng không thể đạt được.

Bình luận: Không Nên nói rằng. Vì thà nên nói không, chứ không nên nói có mà không thể đạt được. Dụng nào là không dụng vật là cũng có, cũng đạt được. Nói như thế là tốt. Nếu phải là số diệt của vật bên ngoài không thể đạt được, thì sẽ trái với kinh Ba-già-la-na. Như nói: Thế nào là được pháp làm chứng?

Đáp: Nói tất cả các pháp, pháp nầy là thiện, cũng được, vì có thể được chứng. Vì muốn cho không có lỗi như thế, nên nói là có thể đạt được.

Hỏi: Thể của số diệt nầy là ấm, hay là chẳng phải ấm? Nếu là ấm thì sao không vốn là Niết-bàn? Vì sao? Vì trước đó đã có các ấm. Nếu chẳng phải ấm, thì vì sao là pháp không thực có mà tu về đạo?

Đáp: Nên nói rằng: Thể chẳng phải ấm, cũng chẳng phải chẳng phải ấm. Nhưng từ sắc ấm, cho đến thức ấm, thể của chúng là đắc. Số diệt nầy cũng gọi là Niết-bàn, cũng gọi là không tương tự, cũng gọi là chẳng phải phẩm, cũng gọi là Vô-bạt-na (Bạt-na, đời Tần dịch là sắc, cũng dịch là tánh, cũng dịch là khen ngợi, cũng dịch là chữ ), cũng dịch là tối thắng, cũng dịch là trí, cũng dịch là ứng, cũng dịch là không gần, cũng dịch là không tu, cũng dịch là đáng ưa, cũng dịch là gần, cũng dịch là diệu, cũng dịch là lìa.

Hỏi: Vì sao nói là Niết-bàn?

Đáp: Bàn-na gọi là rừng. Niết gọi là lìa, nghĩa là lìa hẳn rừng ấm, lìa ba rừng lửa, lìa bốn rừng, nên gọi là Niết-bàn.

Lại nữa, nghĩa không diệt là nghĩa Niết-bàn, như trước đã nói.

Vì sao gọi là không tương tự? Vì không có nhân tương tự như trước đã nói, vì cũng không có thượng, trung, hạ như trước đã nói v.v…

Vì sao gọi là chẳng phải phẩm? Vì lìa các phẩm, như nói thể tánh của pháp hữu vi là phẩm.

Những người nói như thế đều có tướng trụ, nghĩa là bốn tướng và năm pháp của pháp kia, là phẩm câu sinh. Vì pháp Niết-bàn không có tướng như thế, nên gọi là chẳng phải phẩm.

Lại có thuyết nói: Thế gian là Pháp phẩm là đời. Pháp của Niếtbàn kia là lìa thế gian, nên gọi là chẳng phải phẩm. Các ấm, các khổ, các sinh, các cõi, cũng nói như thế.

Vì sao gọi là Vô Bạt-na? Vì thể của sự khen ngợi đã tự thành tựu nên không đợi khen ngợi nữa, như người bản tánh hiền, thiện, không đợi khen ngợi, vì vốn hiền thiện, pháp Niết-bàn kia cũng giống như thế.

Lại nữa, trong pháp hữu vi, hoặc dùng nhân gọi là quả, hoặc lấy quả để gọi là nhân, pháp Niết-bàn kia không có quả để có thể gọi là nhân, không có nhân để có thể gọi là quả.

Lại nữa, vì các bậc Thánh đã thân chứng pháp nầy, nên không đợi khen ngợi.

Lại nữa, không khen ngợi là vì có vô biên sự khen ngợi, như người nói về Đại đức. Đức của người nầy là không thể nói. Pháp của Niết-bàn kia cũng như thế.

Lại nữa, không thể khen ngợi: Vì khắp chung quanh đều có sự khen ngợi tốt đẹp. Như hạt ngọc sạch xua tan bóng tối xung quanh. Pháp Niết-bàn kia cũng giống như thế. Cũng như chỗ để viên ngọc A-ba-nagia mà được an lập. Như thế, nếu được giải thoát trong thân người, thì thân nầy gọi là an lập.

Lại nữa, không thể khen ngợi gọi là chẳng khen ngợi. Vì không người nào có thể đúng như pháp nói lỗi của người ấy nên gọi là chẳng khen ngợi.

Lại có thuyết nói: Vì lìa các tánh nên nói Vô-bạt-na. Ở đây, vì không có tánh Sát-lợi, Bà-la-môn, Cư sĩ, Thủ-đà, nên nói là Vô-bạt-na, cũng không có sắc xanh, vàng, v.v…, nên nói là Vô-bạt-na. Pháp hữu vi hoặc tánh là sắc, hoặc dựa vào sắc, hoặc làm chỗ nương cho sắc. Tánh của pháp kia chẳng phải sắc, cũng chẳng phải dựa vào sắc, cũng không làm chỗ nương cho sắc.

Vì sao gọi là tối thắng? Vì thượng diệu, nên gọi là tối thắng. Cũng thế gian dùng thức uống ăn thượng diệu, y phục, chuỗi anh lạc v.v…, nên gọi là tối thắng.

Tôn giả Cù-sa nói: Pháp kia là tối thắng, vì là pháp hiểu rốt ráo. Vì sao gọi là trí? Vì quả của trí. Như trong kinh nói: Sáu nhập là nghiệp, sáu nhập là quả của nghiệp là dùng tên của nghiệp để nói. Như dứt là quả của trí là dùng tên trí để nói. Như thiên nhãn, thiên nhĩ là quả của thông, dùng tên thần thông để nói. Pháp kia cũng giống như thế. Vì là quả của trí, nên dùng tên trí để nói.

Vì sao gọi là ứng? Vì xứng đáng thọ cúng dường, nên gọi là ứng. Tất cả thượng cúng của thế giới, đều nên thọ nhận.

Vì sao gọi là không gần? Vì không đáng gần. Pháp hữu vi, do tham quả hữu vi đó, mà gần. Như người vì tham quả của hoa che mát, nên gần với cây. Vì pháp kia trái với các thứ trên, nên gọi là không gần.

Hỏi: Nếu nói không gần thì vì sao trong kinh nói gần người sáng suốt?

Đáp: Vì đạt được trí. Người sáng suốt: là Phật hoặc đệ tử Phật, do gần nên được sở duyên là nhẫn trí và thành tựu đắc, cho nên nói là gần.

Lại có thuyết nói: Vì người sáng suốt là chỗ dựa cho việc đi nên nói là gần. Như nói A-la-hán đi đến Niết-bàn. Vì sao gọi là không tu? Nghĩa là vì không ở trong thân. Nếu pháp ở trong thân, thì người tu pháp kia không ở trong thân, cho nên không tu.

Lại có thuyết nói: Vì không có pháp đáng tu, như A-tỳ-đàm nói:

Vì pháp tu không có trong Niết-bàn, nên gọi là không tu.

Lại có thuyết nói: Vì không có việc đáng gần, cho nên không tu.

Hỏi: Nếu không tu thì bài kệ nầy làm sao hiểu? Như kệ nói:

Cù-đàm ngồi dưới cây

Thiền định không buông lung

Không lâu dẫm dấu đạo

Niết-bàn ở trong tâm.

Đáp: Như Tôn giả Ba-xa nói: Niết-bàn ở trong tâm, nghĩa là vì đã thành tựu được Niết-bàn trong tâm.

Vì sao gọi là đáng ưa? Vì lìa tất cả khổ. bậc Thánh sợ khổ. Vì Niết-bàn không có khổ của thân tâm, nên bậc Thánh rất ưa thích. Như giới ác của khổ sinh tử, làm tăng trưởng già chết, nói cũng giống như thế, Đức Thế tôn kinh nói: Thời giải thoát là pháp lạc, giới vô lậu là giới lạc, do có thể đến Niết-bàn.

Vì sao gọi là gần? Vì là pháp có. Hoặc có thuyết nói là pháp chẳng phải có, nhưng pháp kia thật sự có thể tánh, cho nên nói gần.

Do việc nầy, nên Kinh của Đức Thế tôn nói: Hành giả tinh tiến thành tựu mười lăm pháp, đó gọi là học tích, được gần Niết-bàn.

Lại nữa, vì không lựa chọn thân nên gọi là gần. Nếu Sát-lợi tu đạo thì chứng. Bà-la-môn, Tỳ-xá, Thủ-đà tu đạo cũng chứng. Lại nữa, vì không lựa chọn xứ sở, nên gọi là gần. Nếu ở nơi thôn xóm, nếu ở chốn vắng lặng tu đạo, liền chứng đắc.

Lại nữa, vì là quán gần nên gọi là gần. Các Thánh khởi duyên, trí nhẫn kia hiện ở trước, chánh quán pháp nầy như ở trước mắt.

Lại nữa, vì so sánh tướng nên biết là gần. Như Kinh Ba-già-la-na nói: Thế nào là pháp xa? Nghĩa là pháp quá khứ, vị lai. Sao gọi là pháp gần? Nghĩa là hiện ở trước và pháp vô vi.

Lại nữa, vì được ở chỗ gần nên gọi là ở gần. Chỗ gần, nghĩa là đời hiện tại, vì chứng nơi đời hiện tại, nên gọi là gần.

Lại nữa, vì bỏ chỗ đắc của pháp gần, nên gọi là gần. Pháp gần gọi là hiện tại. Vì bậc Thánh bỏ pháp hiện tại, nhập Niết-bàn, nên gọi là gần.

Tôn giả Cù-sa nói: Tinh tiến thứ lớp thú hướng, tu phương tiện thích đáng đạt được, nên gọi là gần.

Lại nữa, vì thân, định là chỗ dựa của Thánh đạo, pháp nầy thì không như vậy nên gọi là gần. Nếu dựa vào thân nầy, nên khởi Thánh đạo, các thân khác thì không thể, Niết-bàn thì không như vậy mà tùy ở thân, là sở y của tu đạo thì có thể chứng, đó gọi là gần.

Hỏi: Vì sao gọi là diệu? Như đạo cũng là diệu, vì sao chỉ gọi Niếtbàn là diệu? Phái Ba-già-la-na nói Thế nào là pháp diệu? Là pháp thiện vô lậu.

Đáp: Mặc dù đạo là diệu, nhưng Niết-bàn là diệu trong diệu. Lại nữa, vì đạo là diệu, nhưng vì lỗi xen lẫn vô thường, Niết-bàn thì không như thế.

Lại nữa, đạo có căn thiện đối trị chán bỏ điều ác, như tam-muội Không không, Tam-muội Vô tướng Vô tướng, Tam-muội Vô nguyện Vô nguyện. Vì không có pháp thiện nào chán ghét Niết-bàn nên gọi là pháp vi diệu.

Hỏi: Vì sao Niết-bàn gọi là lìa? Như đạo cũng là tướng lìa, như Ba-già-la-na đã nói: Thế nào là pháp lìa?

Đáp: Sức yếu mọi sự lệ thuộc ở cõi Dục, hoặc lệ thuộc cõi Sắc, Vô sắc. Là pháp học, pháp Vô học của thiện định, vắng lặng xuaất ly, là pháp số diệt v.v…

Đáp: Niết-bàn chính là đạo lìa, là lìa, là có thể lìa.

Lại nữa, vì xả tất cả pháp, nên gọi là lìa. Pháp hữu lậu có hai thứ xả:

  1. Xả của lìa dục.
  2. Xả của trừ bỏ.

Pháp hữu vi vô lậu dù không có xả của lìa dục, nhưng có xả của trừ bỏ. Niết-bàn không có xả của lìa dục, cũng không có xả của trừ bỏ.

Lại nữa, đệ nhất nghĩa là lìa. Vì sắc nên lìa dục. Vì không sắc, nên lìa sắc. Sở tác của các hữu, đối tượng tư duy của các hữu, vì Niết-bàn nên lìa.

Hỏi: Thế nào là phi số diệt?

Đáp: Là diệt, chẳng phải giải thoát.

Hỏi: Vì sao là phi số diệt?

Đáp: Vì không do tạo tác mà được, đó gọi là phi số diệt. Vì sao? Vì như người trụ nơi bốn phương nầy đã có sắc, thanh, hương, vị, xúc, là pháp của sở duyên của năm thức thân, không do công tạo tác mà trụ, vì trong pháp bất sinh, nên gọi là phi số diệt.

Hỏi: Do pháp nào có thể được pháp nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do ấm, nhập, giới của quá khứ vị lai. Chẳng phải là đời hiện tại. Vì sao? Vì ấm nhập giới ở trong thân hiện tại có thể đạt được, nên như thuyết nầy nói: Trong mỗi sát-na có được có mất, khi sát-na sinh thì mất, lúc sát-na diệt thì được.

Lại có thuyết nói: Đắc ở đời vị lai, chẳng phải quá khứ. Vì sao?

Vì các ấm quá khứ từng ở trong thân. Vì ấm ngày nay tức ở trong thân. Thuyết nầy cũng có lỗi. Vì sao? Vì khi pháp vị lai sinh, thì pháp nầy cũng xả.

Bình luận: Đắc trong pháp bất sinh ở vị lai, nói như thế là đúng, cho nên tất cả thời gian thường tăng ích.

Hỏi: Số diệt nhiều hay phi số diệt nhiều?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Số diệt nhiều, phi số diệt ít. Vì sao? Vì số diệt là chỗ đắc ở trong pháp quá khứ, vị lai, hiện tại. Còn phi số diệt chỉ là chỗ đắc trong pháp bất sinh ở vị lai.

Lại có thuyết nói: Phi số diệt nhiều, số diệt ít. Vì sao? Vì phi số diệt là chỗ đắc trong pháp hữu lậu, vô lậu, còn số diệt chỉ là chỗ đắc trong pháp hữu lậu.

Bình luận: Nên nói rằng: Hai pháp ấy đều là vô lượng, vô biên. Vì việc nầy, nên có bốn trường hợp: Có pháp là chổ đắc của số diệt, chẳng phải chỗ đắc của phi số diệt. Có pháp là chỗ đắc của phi số diệt, chẳng phải chỗ đắc của số diệt. Có pháp vừa là chỗ đắc của số diệt, vừa là chỗ đắc của phi số diệt. Có pháp chẳng phải chỗ đắc của số diệt, cũng chẳng phải chỗ đắc của phi số diệt.

Trường hợp thứ nhất: Là pháp hữu lậu quá khứ, hiện tại và sinh đời vị lai.

Trường hợp thứ hai: Là pháp vô lậu bất sinh ở đời vị lai.

Trường hợp thứ ba: Là pháp hữu lậu bất sinh của đời vị lai.

Trường hợp thứ tư: Là pháp vô lậu của quá khứ, hiện tại, đời vị lai sẽ sinh pháp vô lậu.

Như người phàm phu trụ ở đây, được phi số diệt của năm thức trong năm đường. Vì sao? Vì trong phàm phu kia tất cả sắc, thanh, hương, vị, xúc duyên theo thức kia mà trụ, vì ở trong pháp bất sinh, cho nên được phi số diệt kia. Như sắc, thanh, hương, vị, xúc của xứ nầy, chúng sinh của năm xứ kia cũng đạt được phi số diệt nầy. Nếu phần đường ác đã dứt, thì chúng sinh kia đều được phi số diệt trong đường ác.

Hỏi: Pháp gì có thể dứt đường ác?

Đáp: Hoặc là bố thí, hoặc là trí giới, hoặc là văn tuệ, hoặc là tư tuệ, như niệm xứ với pháp quán sổ tức, bất tịnh, hoặc là tu tuệ, như pháp Noãn, pháp Đảnh, đến Nhẫn tất nhiên dứt.

Tôn giả Bà-đàn-đà nói: Nếu không nhân nơi giác biết pháp duyên khởi thì sẽ không dứt bỏ đường ác. Sao ở đây nói nhận biết pháp duyên khởi đều là đạo vô lậu?

Bình luận: Không Nên nói rằng. Nói như vầy là đúng. Hoặc dùng bố thí, hoặc dùng trí giới, được phi số diệt đường ác, cho đến dùng Đảnh được phi số diệt đường ác, tự có chúng sanh, được căn thiện như trên, dứt từng phần đường ác, người căn độn cho đến Nhẫn thì dứt.

Hỏi: Vì cùng lúc đạt được phi số diệt trong ba đường ác hay vì theo thứ lớp mà đạt được?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: được ba thứ cùng lúc.

Hỏi: Nếu vậy thì Đề-bà-đạt-đa đọa vào địa ngục há chẳng phải được phi số diệt của ngạ quỷ, súc sinh?

Đáp: Chỉ trừ một phần sinh của địa ngục, phần sinh của địa ngục khác và phần sinh của ngạ quỷ, súc sinh đạt được cùng lúc.

Bình luận: Nếu khởi đạt phần thiên căn, dứt trừ đường ác, thì tất cả đường ác đều được phi số diệt. Nếu bố thí v.v… dứt trừ đường ác, thì điều nầy không nhất định, nếu dứt bỏ địa ngục thì sẽ được phi số diệt của địa ngục, còn lại không nhất định, cõi khác cũng giống như thế. Nếu dùng đạt phần căn thiện để dứt đường ác kia, sẽ được phi số diệt trong cùng lúc.

Hỏi: Đã nói được phi số diệt đường ác lại làm thế nào đạt được phi số diệt của chỗ sinh?

Đáp: Lúc trụ trong Nhẫn tăng thượng, trừ phần của bảy lần sinh trong cõi người, cõi trời, phần một lần sinh trong tất cả xứ cõi Sắc, cõi Vô sắc, ngoài ra, các lần sinh đều được phi số diệt.

Tu-đà-hoàn hướng về quả Tư-đà-hàm, trụ trong đạo phương tiện không khởi đắc, Tư-đà-hàm được phi số diệt của sáu lần sinh cõi Dục. Nếu khởi đắc, thì khi trụ nơi đạo vô ngại thứ sáu sẽ được. Nếu Tư-đàhàm hướng tới quả A-na-hàm, trụ trong đạo phương tiện, không khởi đắc, quả A-na-hàm được phi số diệt của phần một lần sinh cõi Dục. Đạo vô ngại sau cùng sẽ được số diệt của phần tất cả sinh cõi Dục. Nếu khởi đắc, thì đạo vô ngại sau cùng sẽ được phi số diệt của phần một lần sinh cõi Dục, sẽ được số diệt của phần tất cả lần sinh cõi Dục. Khi lìa dục của Sơ thiền, nếu là pháp không thối chuyển trụ đạo phương tiện không khởi, thì sẽ được phi số diệt của phần hai lần sinh, Sơ thiền. Đạo vô ngại sau cùng, sẽ được số diệt của phần tất cả sinh Sơ thiền. Nếu khởi, thì đạo vô ngại sau cùng sẽ được phi số diệt của phần một lần sinh, sẽ được số diệt của phần tất cả lần sinh. Nếu là pháp thối chuyển hoặc khởi hoặc không khởi, thì đạo vô ngại sau cùng sẽ được số diệt của phần tất cả lần sinh ở địa Sơ thiền, không được phi số diệt cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, nói cũng giống như thế. Hoặc lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Hoặc là người không thối lui, trụ nơi đạo phương tiện không khởi, thì sẽ được phi số diệt của phần một lần sinh nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Đạo vô ngại sau cùng sẽ được số diệt của phần tất cả lần sinh nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Nếu khởi, thì đạo vô ngại sau cùng sẽ được phi số diệt của phần một lần sinh nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, sẽ được số diệt của phần tất cả lần sinh. Nếu là pháp thối lui, không khởi lìa dục: trụ nơi đạo phương tiện, sẽ được phi số diệt của phần sinh khác nơi tám địa. Đạo vô ngại sau cùng sẽ được số diệt của phần tất cả lần sinh nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Nếu khởi, thì đạo vô ngại sau cùng sẽ được phi số diệt của phần sinh khác trong tám địa, sẽ được số diệt của phần tất cả lần sinh nơi Phi tưởng, Phi phi tửơng xứ.

Hỏi: Đã nói chỗ sinh, còn các phiền não thì thế nào?

Đáp: Lúc trụ nơi nhẫn tăng thượng, được phi số diệt, của phiền não mà thấy đạo của ba cõi đã dứt tùy đạo vô ngại, tùy chủng loại sẽ được số diệt.

Nếu là bậc Thánh, là pháp bất thối, là không khởi lìa dục cõi Dục, tùy chủng của chỗ dứt, trụ nơi đạo phương tiện, được phi số diệt. Tùy đạo vô ngại, tùy chủng loại sẽ được số diệt. Nếu khởi, thì tùy đạo vô ngại, tùy chủng, sẽ được phi số diệt, sẽ được số diệt. Nếu là pháp thối lui hoặc khởi, hoặc không khởi, thì tùy đạo vô ngại, tùy chủng, không được phi số diệt, sẽ được số diệt, cho đến lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nói cũng giống như thế.

Hỏi: Pháp thối lui đối với các phiền não đến thời gian nào thì sẽ được phi số diệt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu lúc tín giải thoát chuyển căn được kiến đáo thì thời giải thoát chuyển căn sẽ được bất động.

Bình luận: Nên nói rằng: Nếu được quyết định, lại không thối lui, bấy giờ sẽ được phi số diệt của các phiền não. Vì việc nầy, nên lập ra bốn tường hợp: Hoặc có phiền não trước được phi số diệt, sau được số diệt, trước được số diệt, sau được phi số diệt, hoặc có khi đều cùng được, hoặc có khi đều không được.

Trường hợp thứ nhất: Trụ nơi nhẫn tăng thượng đối với phiền não, mà kiến đạo của ba cõi dứt trừ là pháp không thối lui, không khởi lìa dục, trụ đạo phương tiện, tu đạo dứt trừ phiền não đó là trước được phi số diệt, sau được số diệt.

Trường hợp thứ hai: Nếu là pháp thối lui, phiền não tu đạo ba cõi đã dứt trừ, nghĩa là trước được số diệt, sau được phi số diệt.

Trường hợp thứ ba: Nếu là pháp không thối lui, khởi lìa dục, tùy theo đạo vô ngại, tùy chủng, được phi số diệt, được số diệt. Lại có lìa dục cõi Dục, khi dứt trừ phiền não phẩm thượng thượng, năm thức thân nhiễm ô, đối với sở duyên được phi số diệt, được số diệt, cho đến lìa tám thứ dục cũng giống như thế. Nếu khi dứt trừ phiền não phẩm hạ hạ, năm thức thân nhiễm ô nơi phẩm hạ đối với sở duyên được phi số diệt, được số diệt, cũng được số diệt của hành thiện, không ẩn giấu vô ký cõi Dục, lìa dục của Sơ thiền, dứt trừ phiền não phẩm thượng thượng, ba thức thân nhiễm ô của phẩm thượng thượng kia, đối với sở duyên, được phi số diệt, được số diệt, lìa tám thứ dục cũng giống như thế.

Nếu khi dứt trừ phiền não phẩm hạ hạ, ba thức thân nhiễm ô của phẩm hạ hạ của Sơ thiền kia, đối với sở duyên được phi số diệt, được số diệt của hành thiện vô ký không ẩn một của địa Sơ thiền, đó là đều cùng được.

Trường hợp thứ tư: Trừ ngần ấy việc trên.

Hỏi: Đã nói phiền não, đạo là thế nào?

Đáp: Người Kiên tín thực hành đạo Kiên tín đối với đạo Kiên pháp được phi số diệt. Người kiên pháp, khi hành đạo kiên pháp đối với đạo kiên tín được phi số diệt. Người kiến đạo, lúc thực hành đạo kiến đạo, đối với đạo Tín giải thoát được phi số diệt. Người của phi thời giải thoát, lúc hành đạo Phi thời giải thoát, đối với đạo Thời giải thoát được phi số diệt. Người Thanh văn quyết định đối với đạo Thanh văn, đối với đạo của Phật của Bích-chi Phật được phi số diệt người Bích-chi Phật quyết định đối với đạo Bích-chi Phật, ở nơi Phật đạo, đạo Thanh văn, được phi số diệt. Người cầu đạo Phật, khi quyết định đối với Phật đạo, đối với đạo Thanh văn, đạo Bích-chi Phật, được phi số diệt.

A-la-hán có sáu loại:

  1. Thối pháp.
  2. Tư pháp.
  3. Hộ pháp.
  4. Đẳng trụ.
  5. Có thể thắng tiến.
  6. Bất động.

Hỏi: Các A-la-hán nầy đã được phi số diệt vào lúc nào?

Đáp: Nếu là người thối pháp quyết định đối với thối pháp thì đối với năm thứ, sẽ được phi số diệt. Nếu là người không quyết định thì sẽ không được, cho đến có thể thắng tiến, nói cũng giống như thế.

Pháp bất động: Được pháp bất động đối với năm thứ đạo được phi số diệt.

Hỏi: Phi số diệt đều là lúc thắng tiến mà được, vì sao chẳng phải quả của đạo?

Đáp: Vốn là lúc lìa dục, vì không tạo phương tiện đạt được cho pháp nầy, nên nếu vì tạo phương tiện cho phi số diệt thì phi số diệt không thể đạt được. Vì sao? Vì nếu tâm tham chấp thì người nầy không thể vượt qua ba đường ác. Nếu tâm vì Niết-bàn thì có thể vượt qua đường ác.

Hỏi: Chỗ đắc của phi số diệt là quả của tâm nào?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là quả của tâm tạo ra chỗ thọ sinh.

Lại có thuyết nói: Nếu tâm có thể khiến cho sự sinh nối tiếp nhau, thì đó là quả công dụng của tâm kia.

Bình luận: Nên nói rằng: Hễ trụ ở tâm nào được phi số diệt, tức là quả của tâm đó.

Hỏi: Đối với pháp nào được phi số diệt?

Đáp: Đối với pháp lệ thuộc nơi ba cõi và trong pháp không lệ thuộc thì được phi số diệt. Sinh cõi Dục, ở trong bốn pháp nầy đạt được. Sinh cõi Sắc, Vô sắc, cũng giống như thế. Chỗ đắc của phi số diệt tùy hễ sinh ở địa nào, thì lệ thuộc ở địa đó.

Hỏi: Phi số diệt đối với pháp nào được tăng trưởng?

Đáp: Sinh trong cõi Dục, năm thức thân lệ thuộc cõi Dục mà được tăng trưởng. Cũng có ý thức duyên theo cõi Dục hiện tại mà được tăng trưởng, nhưng vi tế khó hiện bày. Đối với ba thức cõi Sắc, có vô lượng giải thoát, thắng xứ, tất cả xứ mà được tăng trưởng, cõi Vô sắc chỉ có tất cả xứ. Sinh trong cõi Sắc, nơi năm thức thân cõi Dục mà được tăng trưởng. Ý thức cũng được tăng trưởng, nhưng vi tế, khó hiển hiện. Ba thức cõi Sắc, có vô lượng thắng, giải thoát xứ, tất cả xứ mà được tăng trưởng, cõi Vô sắc chỉ có tất cả xứ. Sinh trong cõi Sắc, năm thức cõi Dục, ba thức cõi Sắc có vô lượng giải thoát thắng xứ, tất cả xứ mà được tăng trưởng.

Hỏi: Bậc Thánh sinh trong cõi Sắc, lệ thuộc cõi Dục, được phi số diệt trong pháp nào?

Đáp: Mạng chung ở Sơ thiền, sinh trong Nhị thiền, quả của Sơ thiền, tâm biến hóa ở cõi Dục, đạt được phi số diệt. Nếu sinh trong ba thiền, thì quả của Sơ thiền, Nhị thiền, với tâm biến hóa ở cõi Dục, sẽ được phi số diệt. Nếu sinh trong Tứ thiền, thì quả của Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, tâm biến hóa ở cõi Dục đạt được phi số diệt, cho đến qua đời ở đệ Tam thiền, sinh trong đệ Tứ thiền, quả của đệ Tam thiền, tâm biến hóa của cõi Dục được phi số diệt.

Hỏi: Qua đời ở cõi Sắc, sinh trong cõi Vô sắc, lệ thuộc cõi Dục

trong pháp nào được phi số diệt?

Đáp: Nếu qua đời ở Sơ thiền, sinh trong cõi Vô sắc, sẽ được quả của bốn thiền, tâm biến hóa ở cõi Dục, sẽ được phi số diệt. Qua đời ở Nhị thiền, sinh trong cõi Vô sắc, quả của Tam thiền, tâm biến hóa cõi Dục, sẽ được phi số diệt. Qua đời ở đệ Tam thiền, sinh trong cõi Vô sắc, quả của Nhị thiền, tâm biến hóa cõi Dục được phi số diệt. Qua đời ở đệ Tứ thiền, sinh trong cõi Vô sắc, quả của một thiền, tâm biến hóa cõi Dục được phi số diệt.

Bậc Thánh sinh trong cõi Vô sắc, pháp thuộc về cõi Dục, cõi Sắc, không được phi số diệt. Vì sao? Vì trước đã được rồi.

Hỏi: A-la-hán nhập Niết bàn trước, được phi số diệt nhiều hay Ala-hán nhập Niết-bàn sau được phi số diệt nhiều?

Đáp: Người nhập Niết-bàn trước nhiều. Vào thời Phật Ca-diếp, số người nhập Niết-bàn nhiều, đến thời Phật Thích-ca Mâu-ni, số người nhập Niết-bàn ít. Vào thời Phật Thích-ca Mâu-ni, số người nhập Niếtbàn nhiều, nơi thời Phật Di-lặc, số người nhập Niết-bàn ít.

Hỏi: Những vị A-la-hán nào thành tựu phi số diệt nhiều nhất?

Đáp: A-la-hán sinh cõi Vô sắc, người trụ tâm sau sau cùng, đối với tất cả pháp, được phi số diệt nhiều nhất.

Hỏi: Có khi nào ấm, giới, nhập diệt hẳn mà không được phi số diệt hay không?

Đáp: Có, nghĩa là A-la-hán trụ tâm sau cùng.

Bình luận: Không Nên nói như thế. Vì sao? Vì không có ấm, giới, nhập diệt hẳn mà không được phi số diệt.

Hỏi: Lúc A-la-hán trụ tâm sau cùng chẳng phải không được phi số diệt chăng?

Đáp: Chẳng phải là không được phi số diệt. Vì sao? Vì A-la-hán, nếu khi quyết định muốn nhập Niết-bàn thì lúc trừ năm tâm hoặc sáu tâm, sẽ khởi hiện ở trước ấm, giới, nhập khác đều được phi số diệt.

Đức Thế tôn nói: Có hai cảnh giới Niết-bàn, đó là cảnh giới Niếtbàn của thân hữu dư, Niết-bàn của thân vô dư, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trên đã nói: Thế nào là số diệt? Đáp: Nếu diệt là giải thoát, thì số diệt kia có hai thứ:

  1. Cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư.
  2. Cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư.

Nhưng vẫn chưa nói thế nào là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư? Cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư. Nay vì muốn nói rõ điều đó, nên soạn luận nầy.

Lại có thuyết nói: Cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư có tự thể, cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư là không có tự thể.

Lại có thuyết nói: Cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư là thiện, cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư là vô ký.

Lại có thuyết nói: Cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư là quả của đạo, cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư chẳng phải quả của đạo.

Lại có thuyết nói: Cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư thuộc về đế, cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư chẳng phải thuộc về đế.

Lại có thuyết nói: Cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư là hữu vi, cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư là vô vi. Hữu lậu, vô lậu cũng giống như thế.

Vì để ngăn dứt ý của các thuyết nói như thế, và vì muốn nói nghĩa nầy đều là vô lậu.

Vì việc ấy, vì để ngăn dứt nghĩa của người khác, muốn chỉ bày rõ nghĩa của mình, cho đến nói rộng, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư?

Đáp: Vị A-la-hán còn sống bốn đại chưa diệt, cho đến nói rộng. Bốn đại, tức là bốn đại. Các căn là sắc tạo. Tâm nối tiếp nhau: là pháp tâm, tâm sở. Nếu pháp tâm, tâm sở của sắc tạo nơi bốn đại nầy chưa diệt, là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư.

Lại có thuyết nói: bốn đại là thân bốn đại, các căn là các các, tâm nối tiếp là tánh giác, nếu tánh giác của các căn trong thân chưa diệt thì đó là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư. Vì các hữu dư như thế v.v…, nên gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư. Thân có hai thứ:

  1. Thân phiền não.
  2. Thân sinh.

Dù không có thân phiền não mà có thân sinh.

Lại có thuyết nói: Thân có hai thứ: Có nhiễm ô, không nhiễm ô. Nhiễm ô đã hết, chỉ có không nhiễm ô. Cho nên, nói bốn đại v.v…

Vì có dư, nên nói là Hữu dư. Bốn đại sinh ra pháp nào: tức là sinh ra sắc tạo, dựa vào sắc tạo, có thể sinh ra pháp tâm, tâm sở, cho đến nói rộng. Thân kia đã dứt trừ tất cả kiết, được làm chứng, đó gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư.

Thế nào cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư? Nếu A-la-hán đã nhập Niết-bàn, thì bốn đại diệt, cho đến nói rộng. Bốn đại, tức bốn đại. Các căn, là sắc tạo, tâm nối tiếp nhau: pháp tâm, tâm sở. Nếu các các pháp như căn, pháp tâm, tâm sở nầy đã diệt, thì đó gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư.

Lại có thuyết nói: Bốn đại tức thân bốn đại, các căn tức các căn, tâm nối tiếp nhau là giác tánh. Nếu các căn, giác tánh của thân diệt, thì đó gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư.

Hỏi: Văn nầy không nên nói như thế: Các căn, giác tánh của thân diệt, gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư, nên nói rằng: A-la-hán đã dứt hết tất cả kiết, đều nhập Niết-bàn, đó gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư, mà không nói, là có ý gì?

Đáp: Vì Tôn giả kia đã dựa vào thế tục mà nói. Vì nói tin kinh nên nói như thế: Khi A-la-hán sắp mất phong đại có thể làm hao hụt hoả đại, hỏa đại tổn giảm nên thức uống ăn không tiêu hóa, vì thức ăn uống không tiêu hóa nên bốn đại yếu ớt, vì bốn đại yếu ớt, nên các căn cũng kém, vì các căn yếu kém, nên không thể làm chỗ dựa cho pháp tâm, tâm sở. Vì pháp tâm, tâm sở không có chỗ nương, nên không sinh, pháp tâm, tâm sở không sinh, tức là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư. Thân có hai thứ:

  1. Thân sinh.
  2. Thân phiền não.

Hai thân nầy đều diệt, đó gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư.

Lại có thuyết nói: Thân có hai thứ: Nhiễm ô và không nhiễm ô, hai thứ thân nầy đều diệt, tất cả kiết sử đều dứt, đó gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói dứt tất cả kiết được làm chứng?

Đáp: Vì hiện tại được làm chứng, vì hiện tại của thời gian kia được rồi diệt, nên không nói được làm chứng.

Lại có thuyết nói: Có chỗ chúng sinh có đắc. Ai được đắc nầy? Ý nói Đề-Bà-Bạt-Đa, Diễn-nhã-Đạt-Đa. Trong cảnh giới Niết-bàn kia, vì không có sự khác nhau giữa các chúng sinh như thế, nên chỉ là pháp tánh, do vậy không nói là được làm chứng v.v…

Hỏi: Người phàm phu, người học dứt, là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư, hay cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư?

Đáp: Cũng không gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư, cũng không gọi cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư. Chỉ gọi là dứt, cũng gọi là không có dục, cũng gọi là diệt, cũng gọi là phần ít của đế, phần ít của trí dứt, chẳng phải phần ít của trí dứt, là phần ít của quả Sa-môn, chẳng phải quả Sa-môn.

Hỏi: Có A-la-hán nào không trụ trong cảnh giới Niết-bàn của thân

hữu dư, không trụ trong cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư?

Đáp: Như bổn kinh đã nói: Có. Như nói: đủ ba việc, gọi là cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư, không có ba việc, gọi là cảnh giới Niếtbàn của thânVô dư.

A-la-hán sinh cõi Sắc, nhập định Diệt tận chỉ có các căn của bốn đại, không có tâm nối tiếp. Sinh cõi Vô sắc, A-la-hán chỉ có tâm nối tiếp, không có các căn bốn đại. Sinh ở cõi Dục, A-la-hán chỉ có tâm nối tiếp của bốn đại, có các căn không đủ.

Bình luận: Các A-la-hán như thế, đều phải nói là trụ cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư. Văn kinh lẽ ra phải nói như thế.

Hỏi: Thế nào là trụ trong cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư?

Đáp: Vị A-la-hán còn sống, tất cả kiết đều dứt hết, được làm chứng.

Hỏi: Thế nào là cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư?

Đáp: A-la-hán đã dứt hết tất cả kiết, nhập Niết-bàn.

Nếu nói rằng, thì đều gồm nhiếp những người sinh cõi Dục, sinh cõi Sắc, Vô sắc, có tâm, không có tâm, đủ căn, không đủ căn.

Niết-bàn nên gọi là học chăng? Cho đến nói rộng.

Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước đây đã nói số diệt là hai thứ cảnh giới Niết-bàn, cho đến nói rộng, chưa nói là Học, Vô học, phi học phi Vô học. Nay vì muốn nói rõ nên soạn luận nầy.

Lại nữa, vì sao soạn luận nầy? Vì để ngăn dứt nghĩa đều cùng là về ý, như Độc Tử bộ nói: Niết-bàn có ba thứ là Học, Vô học, phi học phi Vô học. Nếu học dứt các kiết, được làm chứng, đó gọi là học. Nếu Vô học dứt trừ các kiết, được làm chứng, đó gọi là Vô học. Nếu phi học phi Vô học dứt các kiết, được làm chứng, đó gọi là phi học phi Vô học.

Vì ngăn dứt ý của người nói như thế và vì muốn bày tỏ nghĩa của mình, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Niết-bàn nên gọi là Học, Vô học, phi học phi Vô học chăng?

Đáp: Niết-bàn phải gọi là phi học phi Vô học.

Lại có thuyết nói: Niết-bàn là Học, Vô học, phi học phi Vô học. Đây là thuyết của Độc Tử bộ nói. Vì sao? Vì bộ ấy nói Niết-bàn có ba thứ tánh. Nếu học đã dứt trừ các kiết, được làm chứng, đó gọi là học. Vô học, phi học phi Vô học, nói cũng giống như thế.

Nói như thế sẽ có lỗi lớn, vì làm sao thể của một giải thoát mà thành ba, đắc, sở đắc bèn có ba tánh.

Như nghĩa của ta: Như văn nầy, như nghĩa nầy, như luận nầy, như ý của chúng ta. Niết-bàn là phi học phi Vô học. Đây là Tôn giả Cachiên-diên-tử muốn biểu thị ý của mình nơi bổn kinh nên đều nói như thế, không nên nói khác. Vì sao? Vì nếu nói khác, thì như Dục-đa-bà-đề đã nói sẽ có lỗi.

Lại có thuyết nói: Nên nói khác. Vì sao? Vì Tỳ-bà Xà-bà-đề hỏi Dục-đa-bà-đề: Ông nói Niết-bàn là phi học phi Vô học? Đây là hỏi mà cũng là lời nói khẳng định. Vì sao? Vì nếu không khẳng định lời nói của người khác mà nói về lỗi của họ, thì điều nầy không thể. Dục-đa-bà-đề đáp: Đúng thế. Tỳ-bà Xà-bà-đề lại vấn nạn: Ý ông nghĩ sao? Nếu trước kia dùng đạo thế tục để dứt trừ kiết, được làm chứng, cho đến nói rộng được quả A-na-hàm, đạo ấy là Học chăng? Dục-đa-bà-đề đáp: Không! Vì sao? Vì ta nói Niết-bàn là phi học phi Vô học. Dục-đa-bà-đề muốn nói lỗi của Tỳ-bà Xà-bà-đề. Nếu trước kia đã dùng đạo thế tục dứt trừ kiết, được làm chứng, cho đến nói rộng, cho đến được quả A-na-hàm tức đạo ấy là Học, thì xưa nên nói là Học? Nếu không đắc quả mà là Học, thì việc nầy không thể hướng đến A-la-hán dứt trừ kiết, làm chứng. Ala-hán dứt trừ kiết làm chứng thối lui, nói cũng giống như thế.

Dục-đa-bà-đề không thuận theo nghĩa trong pháp của người khác: tức là gom nhóm một chỗ để nói lỗi của người khác.

Nếu Niết-bàn là phi học phi Vô học thì lại tạo ra học, học tạo ra Vô Học, Vô học tạo ra học. Đây là không nhất định. Nếu đã không nhất định, tất nhiên là vô thường. Nếu vô thường, thì hữu vi, vô vi sẽ không khác nhau. Vì sao? Vì Niết-bàn không hề tạo ra phi học phi Vô học, lại tạo ra học, học tạo ra Vô Học, Vô học tạo ra học.

Vì thế, nên Niết-bàn bất cứ lúc nào cũng đều là thường, là vắng lặng. Phi học phi Vô học nầy nói rộng như bổn kinh.

Lại có thuyết nói: Vì Dục-đa-bà-đề muốn nói lỗi của Tỳ-bà Xàbà-đề. Tỳ-bà Xà-bà-đề có hai thứ:

1. Nói Niết-bàn là phi học phi Vô học. Lại tạo ra học, học tạo ra Vô Học, Vô học tạo ra học.

2. Nói Niết-bàn là phi học phi Vô học thường là phi học phi Vô học. Học thường là Học, Vô học thường là Vô học.

Dục-đa-bà-đề vấn nạn Tỳ-bà Xà-bà-đề rằng: Niết-bàn là phi học phi Vô học, lại tạo ra học, học tạo ra Vô Học, Vô học tạo ra học: Đúng thế, ông nói Niết-bàn là phi học phi Vô học, sau đó lại tạo ra học? Tỳbà Xà-bà-đề đáp: Đúng thế.

Dục-đa-bà-đề lại vấn nạn Tỳ-bà Xà-bà-đề rằng: Ý ông nghĩ sao?

Nếu trước kia đã dùng đạo thế tục, cho đến nói rộng. Sau thấy bốn Thánh đế, được quả A-na-hàm, đạo ấy là Học phải chăng?

Tỳ-bà Xà-bà-đề đáp: Đúng thế. Vì sao? Vì ta nói Niết-bàn là phi học phi Vô học, lại tạo ra học.

Dục-đa-bà-đề lại hỏi Tỳ-bà Xà-bà-đề: Ý ông nghĩ sao? Trước đã do đạo thế tục dứt trừ kiết, được làm chứng, là phi học phi Vô học, tức là phi học phi Vô học, tạo ra học chăng?

Tỳ-bà Xà-bà-đề đáp: Đúng thế. Vì sao? Vì ta nói phi học phi Vô học. Về sau, tạo ra học.

Dục-đa-bà-đề lại nói lỗi của Tỳ-bà Xà-bà-đề: Nếu trước đã dùng đạo thế tục dứt trừ kiết, được làm chứng, sau được quả A-na-hàm, thì xứng đáng là người học, vốn lẽ ra là học. Nếu không được quả mà là người học, thì không thể.

Dục-đa-bà-đề lại vấn nạn Tỳ-bà Xà-bà-đề: Hướng về A-la-hán, dứt trừ kiết, được làm chứng, Học nầy. Về sau, thành A-la-hán Vô học, dứt trừ kiết, được làm chứng, thối lui tạo ra học, nói cũng giống như thế.

Dục-đa-bà-đề đã không thuận theo nghĩa trong pháp của người khác, gom góp một chỗ, nói lỗi như trên.

Nếu nói Niết-bàn là phi học phi Vô học, thường là phi học phi Vô học, cho đến Vô học thường là Vô học. Dục-đa-bà-đề vấn nạn Tỳ-bà Xà-bà-đề: Ông nói Niết-bàn có ba thứ chăng?

Đáp: Đúng thế.

Dục-đa-bà-đề vấn nạn Tỳ-bà Xà-bà-đề: Ý ông nghĩ sao? Nếu trước đã dùng đạo thế tục dứt trừ dục, ái, giận dữ, chưa thấy chân đế, vì muốn được thấy, nên siêng năng tu tập theo phương tiện. Lúc tu tập theo phương tiện đã được kiến chân đế, được quả A-na-hàm, phương tiện đó là học chăng?

Đáp: Đúng thế. Vì sao? Vì ta nói Niết-bàn có ba thứ.

Dục-đa-bà-đề vấn nạn Tỳ-bà Xà-bà-đề rằng: Ý ông nghĩ sao? Nếu trước dùng đạo thế tục để dứt trừ kiết, được làm chứng, là phi học phi Vô học, về sau được quả A-na-hàm, tức là Học chăng?

Đáp: Không! Vì sao? Vì ta đã nói Niết-bàn là phi học phi Vô học, thường là phi học phi Vô học, cho đến nói rộng.

Tỳ-bà Xà-bà-đề vấn nạn lại Dục-đa-bà-đề: Nếu Niết-bàn là Phi học Phi Vô học, về sau tạo ra học, khi chưa được quả A-na-hàm, vốn lẽ ra là học.

Dục-đa-bà-đề vì muốn bỏ lỗi nầy, nên nói: Nếu không được quả A-na-hàm mà là người học, thì điều nầy không thể.

Dục-đa-bà-đề lại vấn nạn Tỳ-bà Xà-bà-đề: Nếu hướng về quả Ala-hán dứt trừ kiết, được làm chứng, thì A-la-hán dứt trừ kiết làm chứng thối lui, nói cũng giống như thế.

Dục-đa-bà-đề không thuận theo nghĩa trong pháp của người khác, nhóm họp một chỗ mà nói lỗi của Tỳ-bà Xà-bà-đề: Nếu Niết-bàn là phi học phi Vô học, về sau tạo ra học, học tạo ra Vô Học, Vô học tạo ra học, phi học phi Vô học thường là phi học phi Vô học, cho đến Vô học thường là Vô học. Đây là không nhất định. Nếu không nhất định thì là vô thường. Nếu là vô thường thì hữu vi, vô vi không có khác nhau. Niếtbàn không hề tạo ra Phi học Phi Vô học. Về sau tạo ra học, học tạo ra Vô học. Vô học tạo ra học, Phi học Phi Vô học. Thường là phi học phi Vô học, cho đến Vô học thường là Vô học.

Do việc nầy, nên Niết-bàn đối với tất cả thời gian là thường, là vắng lặng. Về Phi học Phi Vô học, như bổn kinh đã nói rộng.

Hỏi: Đã nói về đắc, lại có đắc hay không? Nếu có thì đắc lại có đắc, tức là vô cùng, nếu vô cùng, thì sẽ không thành tựu đắc ấy?

Đáp: Nên lập luận nầy: Đắc lại có đắc.

Hỏi: Nếu vậy tức là vô cùng?

Đáp: Vô cùng thì có lỗi gì? Vì đời vị lai rất rộng, có thể chấp nhận đắc nầy. Vì pháp sinh tử là vô cùng, nên đắc cũng giống như thế. Vì vậy nên khó dứt, khó trừ, khó vượt qua. Các khổ nối tiếp nhau, cũng như mắc xích.

Lại có thuyết nói: Vì đều ở trong một đời, một sát-na, nên chẳng phải vô cùng.

Bình luận: Nên nói rằng: Lúc pháp sinh, ba pháp đều sinh, nghĩa là pháp, đắc, đắc đắc. Vì đắc, nên thành tựu pháp kia và đắc của đắc, vì đắc đắc, nên thành tựu đắc. Vì vậy, chẳng phải vô cùng. Do việc ấy nên luận như thế.

Có khi nào hành ấm, sắc ấm đồng là một đắc hay chăng?

Đáp: Có. Đó là sắc, đắc đắc, cho đến hành ấm, thức ấm, nói cũng như thế. Hữu vi, vô vi cũng đồng một đắc. Vì sao? Vì đắc của vô vi, được vô vi và đắc đắc, đó gọi là hữu vi, vô vi đồng chung một đắc.

Hỏi: Có khi nào thành tựu đắc của quá khứ, vị lai hay không? Nếu thành tựu, thì sao chẳng phải vô cùng? Vì sao? Vì khi pháp sinh, pháp, đắc, đắc đắc đều sinh, ba thứ nầy diệt rồi, bèn sinh ra sáu đắc: ba là đắc, ba là đắc đắc, là sáu, sinh ra mười hai, mười hai sinh ra hai mươi bốn, cho đến vô lượng, vô biên.

Nếu không thành tựu thì Kiền-độ Định nói làm sao hiểu? Như nói: Qua đời ở cõi Vô sắc, sinh trong cõi Dục, đã được ấm, giới, nhập, bốn đại, căn thiện, bất thiện, vô ký, phiền não kiết, phược, sử, triền, phải nói vốn là đắc đắc, hay vốn chẳng phải đắc đắc?

Đáp: Nhiễm ô, thiện, phải nói là vốn là báo nơi của đắc, phải nói vốn không là đắc đắc, đắc kia cũng có thiện, cũng có nhiễm ô.

Lại có thuyết nói: Có thành tựu đắc của quá khứ, vị lai.

Hỏi: Nếu vậy thì sao chẳng phải vô cùng?

Đáp: Nếu cho là vô cùng, thì có lỗi gì? Vì đời vị lai rộng, không có chỗ chứa đựng. Do sinh tử là vô cùng, nên khó dứt, khó trừ, khó vượt qua, các khổ nối tiếp nhau cũng như dây xích.

Lại có thuyết nói: Không có thành tựu.

Hỏi: Nếu vậy như nói qua đời ở cõi Vô sắc, sinh xuống cõi Dục, cho đến nói rộng, văn nầy làm sao hiểu?

Đáp: Văn nầy không nói đắc mà nói pháp không thuộc về đắc.

Bình luận: Không nên nói như thế. Nên nói rằng: Có thành tựu đắc của quá khứ, vị lai. Vì sao? Vì đắc nên quả Sa-môn có khác nhau. Nếu không thành tựu đắc của quá khứ, vị lai, thì trong mỗi một sát-na, quả Sa-môn vừa được, vừa bỏ, người tu phạm hạnh thì không có tâm ngơi nghỉ, lại còn có lỗi, vì ba sự, nên xả đạo Thánh:

  1. Thối hư.
  2. Chuyển căn.
  3. Đắc quả.

Không nhân nơi ba thứ nầy, cũng xả Thánh đạo, nhưng vì không có lý ấy, nên có thành tựu đắc của quá khứ, vị lai. Nghĩa là khổ pháp nhẫn có mười lăm đắc:

1. Đi chung với khổ pháp nhẫn.

2. Đi chung với khổ pháp trí, cho đến đi chung với đạo tỷ nhẫn là có mười lăm. Cho đến trí đầu tiên của Vô học, trừ tự thể của nó, đều là nhân, nói rộng như trên. Đắc của khổ đế, tập đế thuộc về Khổ đế, tập đế. Đắc của diệt đế thuộc về ba đế. Đắc của đạo đế thuộc về đạo đế. Khổ, tập, đạo đế thuộc về ba đời, đắc kia cũng thuộc về ba đời. Diệt đế không tồn tại. Đắc của ba đời thuộc về ba đời. Khổ đế, tập đế là thiện, bất thiện, vô ký. Đắc của Khổ đế, tập đế kia cũng là thiện, bất thiện, vô ký. Diệt đế, đạo đế là thiện, nên đắc kia cũng là thiện. Khổ đế, tập đế là lệ thuộc ba cõi, đắc của chúng cũng lệ thuộc ba cõi. Diệt đế là không lệ thuộc nên đắc của diệt đế là thuộc về cõi Sắc, Vô sắc, cũng là không lệ thuộc. Đạo đế là không lệ thuộc nên đắc cũng là không lệ thuộc.

Khổ đế, tập đế là phi học phi Vô học nên đắc của Khổ đế, tập đế đó cũng là phi học phi Vô học. Diệt đế là phi học phi Vô học nên đắc của diệt đế đó là Học, Vô học, phi học phi Vô học. Đạo đế là Học, Vô học nên đắc của đạo đế đó cũng là Học, Vô học.

Khổ đế, tập đế là thấy đạo, tu đạo dứt nên đắc của chúng cũng là thấy đạo, tu đạo dứt. Diết đế là không dứt nên đắc của diệt đế đó là tu đạo dứt, không dứt. Đạo đế là không dứt nên đắc của đạo đế đó cũng là không dứt. Chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Dục, cho đến chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo Vô sở hữu xứ là đắc của giải thoát có ba thứ: Học, Vô học, phi học phi Vô học. Chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ là đắc của tám thứ giải thoát có hai thứ: Học, Vô học. Đắc của giải thoát thứ chín là Vô học. Vì sao? Vì đắc đó sinh chung với tận trí.

Hỏi: Chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Dục, cho đến chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo Phi tưởng Phi phi tưởng xứ là đắc của giải thoát kia thuộc về bao nhiêu địa?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Tùy thuộc vào đạo đối trị dứt trừ đắc của giải thoát kia ở địa nào thì đắc kia cũng thế. Các thuyết nầy nói: Tùy thuộc vào đạo đối trị dứt trừ nơi đắc của giải thoát kia mà tồn tại.

Đắc kia cũng thế: Nghĩa là đắc giải thoát, chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Dục, thuộc về thiền Vị chí Đắc của giải thoát nơi Sơ thiền, thuộc về ba địa. Nghĩa là Vị chí, Sơ thiền, thiền trung gian.

Đệ Nhị thiền thuộc về bốn địa, đệ Tam thiền thuộc về năm địa. Chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo đệ Tứ thiền là vô sắc. Chỗ dứt của thấy đạo là thuộc về sáu địa. Chỗ dứt của tu đạo Không xứ thuộc về bảy địa, Thức xứ thuộc tám địa, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thuộc về chín địa.

Lại có thuyết nói: Tùy thuộc vào địa được tồn tại do do đối trị lỗi lầm nên đắc cũng thế. Các thuyết nói: Người kia tùy thuộc vào địa còn có đối trị lỗi lầm nên đắc của địa kia cũng thế. Đắc của giải thoát, chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Dục, Sắc, thuộc về sáu địa. Chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo Không xứ thuộc về bảy địa. Chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo Thức xứ thuộc về tám địa. Chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo Vô sở hữu xứ, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ thuộc về chín địa.

Lại có thuyết nói: Tùy địa có phần pháp trí, địa đó cũng có đắc của giải thoát, chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Dục. Nếu địa có phần tỷ trí, thì địa đó cũng có đắc giải thoát, chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Sắc, Vô sắc.

Các thuyết nói: Tùy theo địa kia có phần pháp trí, địa đó cũng thế. Nghĩa là đắc giải thoát, chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Dục, thuộc về sáu địa. Đắc giải thoát đắc, chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo cõi Sắc, Vô sắc thuộc về chín địa.

Bình luận: Không nên nói rằng. Như trước nói: Tùy địa nào có đạo đối trị dứt từ đắc của địa đó cũng thế, là tốt.

Hỏi: Nếu dùng pháp trí của diệt, đạo để lìa dục cõi Sắc, Vô sắc, thì đắc giải thoát, chỗ dứt của tu đạo ở cõi Sắc, Vô sắc kia là phần của pháp trí hay phần của tỷ trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là phần pháp trí. Vì sao? Vì là sở chứng pháp trí.

Bình luận: Không nên nói là phần tỷ trí.

Hỏi: Là đối tượng chứng của pháp trí sao nói là phần tỷ trí?

Đáp: Mắc dù là đối tượng chứng của pháp trí, nhưng vì là của tỷ trí, nên đều là sức đối trị căn bản ở cõi Sắc, Vô sắc, tùy do sự dứt trừ nào mà đều là phần tỷ trí?

Hỏi: Nếu lìa năm thứ dục, nhập thấy đạo, thì khổ pháp nhẫn diệt, khổ pháp trí sinh năm thứ dục là chỗ dứt của thấy khổ cõi Dục đã dứt trước kia, với bốn thứ dục, chỗ dứt trong sát-na ấy, và chín thứ kia đều là đều đi chung với khổ pháp nhẫn sinh vô lậu được làm chứng.

Cũng thế, cho đến đạo pháp nhẫn diệt, đạo pháp trí sinh. Năm thứ dục là chỗ dứt của thấy đạo cõi Dục đã dứt trước kia, bốn thứ dục đã dứt trong sát-na ấy, với chín thứ kia đều sinh chung đạo pháp trí vô lậu được làm chứng.

Nếu đạo tỷ nhẫn diệt, đạo tỷ trí sinh, thì thời gian nầy chỗ dứt của thấy đạo trong ba cõi, với đạo tỷ trí đều câu sinh đắc giải thoát.

Người kia đã được tu đạo cõi Dục, dứt trừ năm thứ dục, có được đắc của giải thoát vô lậu không?

Tôn giả tăng-già-bà-tu đáp: Được! Vì sao? Vì quả Tu-đà-hoàn nầy cũng là hướng Tư-đà-hàm.

Bình luận: Không nên nói rằng: Nói không được, là tốt. Vì sao? Vì không thể nói lúc trụ nơi quả, lại được hướng về đạo quả. Tu-đàhoàn kia không được hướng về đạo quả, vì lấy sự gì để nói là hưởng về quả?

Hỏi: Lấy thời gian nào để được đắc giải thoát kia?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nếu tu hướng đến phương tiện của quả Tư-đà-hàm, trong thời gian nầy liền được.

Bình luận: Không nên nói như thế, nói rằng thời gian nầy được đắc giải thoát. Nên nói rằng: Nếu được quả Tư-đà-hàm bấy giờ liền được.

Hỏi: bậc Thánh dùng đạo thế tục để lìa dục. Đạo nầy là đạo đã từng chứng được, hay là đạo không hề chứng đắc?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Là đạo đã từng chứng đắc. Vì sao? Vì như từ vô thỉ đến nay đã dùng đạo lìa dục. Nay đã dùng đạo, tức là đạo ấy. Nếu là đạo đã từng đắc, thì khi lìa dục nơi phẩm thượng thượng cõi Dục, ở trong sự lìa dục phẩm thượng thượng ấy đã được hai thứ đắc giải thoát:

1. Thế tục do đã từng được đắc giải thoát.

2. Vì tu đạo vô lậu ở vị lai, cũng được đắc giải thoát vô lậu do thấy đạo ở cõi Dục đã dứt trừ phiền não, phẩm thượng thượng.

Hỏi: Nếu nói như thế, là đối trị chung, cũng là đối trị không chung. Vì sao? Vì đạo đã từng được, dứt trừ phiền não do thấy đạo, tu đạo dứt, đồng ở một chỗ, như chặt đứt bó cỏ, cũng như khắc ghi, dứt chín thứ dục, đó gọi là đạo đối trị chung. Nếu khi bậc Thánh dùng đạo nầy để dứt kiết là chỗ dứt trừ của tu đạo, thì đó gọi là không chung?

Đáp: Đạo đã từng được, chỉ là đối trị chung. Vì sao? Vì kiết, chỗ dứt của thấy đạo đã dứt trừ, nếu không dứt thì ở đây cũng có thể dứt.

Lại có thuyết nói: bậc Thánh đã dùng đạo thế tục, là đạo không hề được. Vì sao? Vì đạo đã vận dụng từ vô thỉ đến nay là khác, đạo đã dùng hiện nay là khác. Nếu nói như thế, đạo không hề đạt được nên khi đã lìa dục của phẩm thượng thượng cõi Dục thì được hai thứ đắc giải thoát:

  1. Thế tục.
  2. Vô lậu.

Thế tục: Vì đạo chưa từng được. Vô lậu: Vì tu ở vị lai. Nên phiền não phẩm thượng thượng là chỗ dứt của thấy đạo, cõi Dục chứ chẳng phải đối trị. Vì sao? Vì không hề được đạo nầy. Nếu nói như thế thì là đối trị không chung của đạo giải thoát thứ chín. Nếu không hề được đạo, đã từng được đạo, đều được cùng lúc, cũng được hai thứ đắc giải thoát là: lậu, vô lậu do thấy đạo, tu đạo cõi Dục đã dứt.

Hỏi: Vì sao đạo giải thoát thứ chín, đã từng được đạo, không hề được đạo, tu đạo vô ngại giải thoát khác, vì sao không tu?

Đáp: Lúc địa lìa dục được, địa thì tu khác, khi đạo dứt dục thì khác, lúc đạo giải thoát thứ chín là lúc địa lìa dục chứng đắc. Cho nên, vì đạo đã từng được, tu đạo không hề được, lúc đạo dứt dục, không được địa, cho nên tu đạo không hề được, không tu đạo đã từng được. Vì việc nầy, nên Kiền-độ Trí đã nói, được khéo hiểu. Như nói: Nếu thành tựu tha tâm trí hiện tại, thì cũng thành tựu quá khứ, vị lai phải chăng?

Đáp: Đúng thế.

Bình luận: Nói như thế là tốt. Vì đạo không hề được, lìa dục, đã từng được đạo, tu đạo không hề được. Nếu nói rằng: Do đạo không hề được, lìa dục, đã từng được đạo, tu đạo không hề được, lìa dục cõi Dục, khi tu đạo dứt dục phẩm thượng thượng thì được ba thứ đắc giải thoát:

  1. Đạo thế tục đã từng được.
  2. Đạo không hề được.
  3. Vô lậu.

Dục nơi phẩm thượng thượng do thấy đạo dứt, được một đắc giải thoát là vì đạo từng được. Vì nghĩa ấy, nên khéo bỏ lỗi đối trị không chung, cũng nói như thế.

Hỏi: Có khi nào bất thối, không được quả, không chuyển căn, mà Kiết do thấy đạo dứt, có được làm chứng không?

Đáp: Có! Như ở đây đã nói. Như phiền não phẩm thượng thượng, cho đến phiền não phẩm hạ hạ, nói cũng giống như thế. Như lìa dục cõi Dục, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, cũng nói như thế.

Hỏi: Có khi nào trong khoảng một sát-na sẽ được năm căn như tín căn v.v…, được mà không xả, xả mà không được, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp hay chăng?

Đáp: Có. Trường hợp đầu: Là hướng về quả A-na-hàm, khi trụ nơi đạo vô ngại sau cùng, sẽ được các căn hữu lậu thiện của địa Sơ thiền.

Trường hợp thứ hai: Là các căn hối, ưu cõi Dục.

Trường hợp thứ ba: Các căn vô lậu xả, thuộc về đạo vô ngại, sẽ được thuộc về đạo giải thoát.

Trường hợp thứ tư: Trừ ngần ấy việc trên.

Hỏi: Các đắc là quá khứ, pháp kia cũng là quá khứ chăng? Nếu pháp quá khứ, đắc kia là quá khứ chăng? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Đáp: Có. Trường hợp đầu: Nghĩa là số diệt, phi số diệt. Đắc ở quá khứ, pháp kia chẳng phải quá khứ.

Trường hợp thứ hai: Đời quá khứ là pháp phi chúng sinh số.

Trường hợp thứ ba: Pháp của chúng sinh số đời quá khứ.

Trường hợp thứ tư: Hư không chẳng phải là pháp chúng sinh số hiện tại, vị lai.

Vị lai, hiện tại, lẽ ra cũng lập bốn trường hợp như thế.

Hỏi: Nếu pháp tu là pháp kia, thì đắc cũng tu phải chăng?

Đáp: Nếu pháp tu là pháp kia, thì đắc cũng tu.

Hỏi: Có khi nào pháp được tu, pháp kia không tu chăng?

Đáp: Có, là số diệt.

Hỏi: Nếu pháp không có đắc, thì pháp kia chẳng phải không có đắc của giải thoát đắc? Nếu không có đắc giải thoát, thì pháp kia chẳng phải không có đắc của giải thoát chăng? Cho đến nói rộng thành bốn trường hợp.

Đáp: Có! trường hợp đầu: Chẳng phải là pháp chúng sinh số, đây là nói không có đắc, chứ chẳng phải không có đắc giải thoát.

Trường hợp thứ hai: Hữu vi, vô lậu, số diệt, phi số diệt, đây là nói chẳng phải có đắc giải thoát, chứ chẳng phải không có đắc.

Trường hợp thứ ba: Hư không, là nói chẳng phải có đắc, chẳng phải có đắc giải thoát.

Trường hợp thứ tư: Pháp hữu lậu của số chúng sinh, đây là nói chẳng phải không có đắc, chẳng phải không có đắc giải thoát.

Hỏi: Nếu pháp có đắc, thì pháp đó không có đắc giải thoát? Nếu pháp có đắc giải thoát thì pháp đó không có đắc chăng, cho đến nói rộng thành bốn trường hợp?

Đáp: Có trường hợp đầu: Hữu vi, vô lậu và số diệt, phi số diệt.

Trường hợp thứ hai là: Pháp chẳng phải số chúng sinh.

Trường hợp thứ ba: Pháp hữu lậu của số chúng sinh.

Trường hợp thứ tư: Là hư không (câu thị nầy nên ở trước câu phi).

******

 

Đức Thế tôn nói Vô học thành tưu thân giới, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Đây là kinh Phật. Trong kinh của Đức Phật nói: Vô học thành tựu thân giới, dù nói như thế nhưng không phân biệt. Kinh Phật là căn bản của luận nầy. Nay vì muốn giải thích rộng kinh Phật, nên soạn luận nầy.

Lại nữa, sở dĩ soạn luận nầy là vì trước kia đã nói về cảnh giới Niết-bàn của thân hữu dư, cảnh giới Niết-bàn của thân vô dư. Niết-bàn nên gọi là Học, Vô học, phi học phi Vô học. Như đấy đều nói là quả Ala-hán vô vi. Nay nói quả A-la-hán hữu vi, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Thế nào là thân giới Vô học?

Đáp: Giới thân, giới khẩu và mạng tịnh củaVô học như thuyết trong chi Vô học ở chỗ khác có nói. Chánh nghiệp tức là thân giới Vô học trong đây. Chánh ngữ tức là giới khẩu. Chánh mạng là mạng tịnh.

Hỏi: Như ngoài giới của thân, miệng, lại không có mạng tịnh, vì sao đặt ra ba tên gọi nầy?

Đáp: Vì tịnh, bất tịnh đối nhau, nên đặt ba tên, là bảy nghiệp bất thiện, từ tham, sân, si sinh.

Từ tham sinh: đó gọi là tà mạng. Từ sân, si sinh: Thân nghiệp là tà nghiệp, khẩu nghiệp là tà ngữ. Từ tham sinh: không còn tạo tác nữa, là chánh mạng. Từ sân, si sinh: không còn tạo tác nữa. Thân nghiệp là chánh nghiệp, khẩu nghiệp là chánh ngữ.

Lại có thuyết nói: Hoặc mạng hữu vi, hoặc vì vui chơi, hoặc vì tâm oán ghét, nên khởi bảy nghiệp bất thiện. Nếu mạng, thì đó gọi là tà mạng. Nếu không vì mạng, khởi thân nghiệp là tà nghiệp, khởi khẩu nghiệp là tà ngữ.

Lại có thuyết nói: Hoặc mạng hữu vi, nên đã tạo các thứ phương thuốc, chú thuật. Hoặc vì việc khác của hữu vi, như trước đã nói.

Lại có thuyết nói: Hoặc bốn thứ ái, nên đã gây ra các hành vi ác, hoặc làm việc khác: nếu vì bốn thứ ái, tạo các hành vi ác, thì đó gọi là tà mạng, ngoài ra như trước nói.

Lại có thuyết nói: Nếu làm năm việc dua nịnh, lừa dối v.v…, thì đó gọi là tà mạng. Nếu vì việc khác, thì việc khác ấy như trước đã nói.

Lại có thuyết nói: Hoặc có tội già, hoặc có tội tánh, nếu gây ra tội già, thì đó gọi là tà mạng, nếu gây ra tội tánh, như trước đã nói. Vì sao? Vì tội già khó trừ.

Lại có thuyết nói: Có nghiệp bất thiện căn bản, có nghiệp bất thiện phương tiện. Nếu hành nghiệp bất thiện phương tiện đó gọi là tà mạng. Nếu gây ra nghiệp bất thiện căn bản đều như trước nói. Vì sao? Vì nghiệp phương tiện khó trừ, nên trái với ở trên nói, đó gọi là chánh mạng.

Vô học thành tựu thân giới, cho đến nói rộng.

Hỏi Như học, phi học phi Vô học cũng thành tựu thân giới. Vì sao chỉ nói Vô học?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là Như lai giáo hóa hữu dư, lược nói phần vượt hơn.

Lại có thuyết nói: Nói nghĩa vượt hơn. Vì sao? Vì nếu nói theo pháp, thì pháp Vô học là hơn. Nếu nói theo người thì người Vô học vượt hơn, nói rộng như trên pháp Vô học vượt hơn pháp Học.

Lại có thuyết nói: Đức Thế tôn hoặc khen ngợi nói đệ tử vượt hơn, hoặn khen đệ tử trung bình, hoặc khen đệ tử bậc hạ. Khen ngợi đệ tử vượt hơn như kệ nói:

A-la-hán vui nhất

Vì không có khát ái

Cũng dứt trừ ngã mạn

Xé rách lưới vô minh.

Khen đệ tử bậc trung, như khen ngợi bảy người thiện mà trong kinh đã nói. Khen bậc hạ như trong kinh Trì dụ nói: Ở đây, chỉ nói khen ngợi hàng đệ tử vượt hơn.

Hỏi: Thế nào là nghĩa Thi-la?

Đáp: Nghĩa mát mẻ là nghĩa của Thi-la. Vì sao? Vì phá giới làm cho thân tâm nóng bức, trì giới có công năng khiến thân tâm mát mẻ.

Lại có thuyết nói: Nghĩa học tập là nghĩa của Thi-la. Vì sao? Vì thường tu tập phước thiện.

Hỏi: Thế nào là thân định Vô học?

Đáp: Là tam-muội Vô học không, tam-muội vô tướng, tam-muội vô nguyện.

Hỏi: Thể của định là một, sao nói là ba?

Đáp: Vì ba sự nên nói ba:

  1. Do đối trị.
  2. Do tâm có kỳ hạn.
  3. Do cảnh giới.

Do đối trị nên nói không. Không là pháp đối trị gần đối với ngã kiến.

Hỏi: Thân kiến có hai thứ:

  1. Hành nơi ngã.
  2. Hành nơi ngã sở.

Không có hai thứ:

  1. Hành nơi không.
  2. Hành vô ngã.

Hành nầy làm đối trị gần cho hành nào?

Đáp: Hành vô ngã đối tri ngã kiến, hành Không là đối trị ngã sở kiến.

Lại nữa, hành vô ngã đối tri năm ngã kiến, hành Không đối tri mười lăm ngã sở kiến.

Lại nữa, hành vô ngã đối tri nơi kiến chấp của mình, hành Không đối trị sở kiến của mình. Lại nữa, hành vô ngã đối trị thân ái của ngã. Hành Không đối trị thân ái của ngã sở.

Lại nữa, ấm chẳng phải ngã là hành vô ngã. Trong ấm không có ngã là hành không.

Lại nữa, nhãn nhập chẳng phải ngã, là hành vô ngã. Trong nhãn nhập không có ngã là hành không. Cho đến ý nhập nói cũng giống như thế.

Lại nữa, tánh không là hành vô ngã, không có sở hành là hành không. Vì tâm mong mỏi, nên gọi là vô nguyện. Vô nguyện nghĩa là không mong muốn ở hữu.

Hỏi: Nếu do tâm mong muốn, không nguyện ở hữu, gọi là vô nguyện. Cũng là tâm mong muốn, không nguyện nơi Thánh đạo cũng gọi là vô nguyện chăng?

Đáp: Tâm mong muốn không nguyện ở ấm, mà Thánh đạo dựa vào ấm. Tâm mong muốn không nguyện đối với thế gian mà Thánh đạo thì ở thế gian. Tâm mong muốn không nguyện đối với khổ mà Thánh đạo dựa vào khổ. Tâm mong muốn không nguyện tăng trưởng mà Thánh đạo dựa vào sự tăng trưởng.

Hỏi: Nếu vậy vì sao bậc Thánh tu đạo?

Đáp: Vì muốn đến Niết-bàn. Vì sao? Vì bậc Thánh quán sát, trừ Thánh đạo thì không còn có pháp nào có thể đến Niết-bàn, do vậy nên tu đạo. Vì cảnh giới, nên nói vô tướng. Vô tướng, là không có mười tướng, vì không có mười tướng, nên nói là vô tướng. Mười tướng là: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, nam, nữ, ba cõi. Niết-bàn không có tướng như thế, nến định kia duyên Niết-bàn.

Laị nữa, ấm là tướng của hữu, nên định kia duyên ấm.

Lại nữa, pháp trước sau là tướng của hữu, nên định kia duyên không có trước, sau.

Lại nữa, nếu pháp có thượng, trung, hạ, thì đó gọi là tướng của hữu, nên định kia duyên không có thượng, trung, hạ.

Lại có thuyết nói: do hành, nên nói có ba. Định không kia hành ở hai hành, đó là hành không và hành vô ngã. Định vô nguyện hành ở mười hành, nghĩa là hành khổ, vô thường, tập đế của đạo đế của định vô tướng, hành ở bốn hành, nghĩa là bốn hành của diệt đế.

Lại có thuyết nói: Vì đối trị nên nói là ba. Hành không là đối trị gần của ngã kiến. Vô nguyện là đối trị gần của giới thủ. Vô tướng là đối trị gần của si.

Hỏi: Thế nào là thân tuệ Vô học?

Đáp: Hoặc trí, hoặc kiến, hoặc minh, hoặc giác, hoặc hiện quán, cho đến nói rộng.

Bình luận: Thuyết nầy có thể như vậy, nhưng ở đây, nói thân chánh tuệ, không nói thân tuệ phân biệt. Văn ấy nên nói rằng: Thế nào là thân tuệ Vô học? Đáp: Tận trí, trí vô sinh không gồm nhiếp tuệ Vô học.

Hỏi: Thế nào là thân giải thoát Vô học?

Đáp: Chánh quán Vô học tương ưng với giải thoát. Thời giải thoát nầy là đại địa, là tận trí, trí vô sinh là chánh kiến Vô học tương ưng với giải thoát.

Hỏi: Thế nào là thân giải thoát tri kiến Vô học?

Đáp: Là tận trí, trí vô sinh.

Hỏi: Vì sao nói tận trí, trí vô sinh là thân giải thoát tri kiến Vô học,

Đáp: Là do sinh ra trong thân của người giải thoát.

Hỏi: Thân tuệ Vô học, thân giải thoát tri kiến Vô học có gì khác nhau?

Đáp: Khổ trí, tập trí Vô học, là thân tuệ Vô học. Vì sao? Vì hai trí nầy duyên theo pháp ràng buộc diệt trí, diệt trí, đạo trí Vô học là thân giải thoát tri kiến Vô học. Vì sao? Vì hai trí nầy duyên theo pháp không có ràng buộc.

Lại nữa, khổ trí, tập trí, diệt trí Vô học là thân tuệ Vô học. Vì sao? Vì ba trí nầy duyên theo giải thoát, không duyên theo duyên giải thoát. Trí vô lậu, đạo trí Vô học là thân tri kiến giải thoát Vô học. Vì sao? Vì đạo trí nầy duyên với giải thoát, cũng duyên theo duyên trí vô lậu giải thoát. Giải thoát có hai thứ: giải thoát hữu vi, giải thoát vô vi. Hữu vi là sở duyên của khổ trí, tập trí. Vô vi là sở duyên của diệt trí. Kiến của trí giải thoát vô lậu là sở duyên của đạo trí. Cho nên, đạo trí là thân giải thoát tri kiến Vô học, vì dùng đạo trí để duyên theo ba trí.

Lại có thuyết nói: Tuệ hoặc đối trị tà tuệ, hoặc đối trị với vô tri. Nếu đối trị tà tuệ, là thân tuệ Vô học. Nếu đối trị với vô tri, là thân giải thoát tri kiến Vô học. Như tà tuệ, vô tri, nhạy bén, chậm lụt, ngu, trí cũng giống như thế.

Thân giới ở sáu địa, đó là Vị chí, Trung gian và bốn thiền căn bản. Thân khác ở chín địa.

Hỏi: Phật, Bích-chi Phật, Thanh văn, năm thứ thân nầy có khác nhau không?

Đáp: Nếu theo địa, theo thể thì không có khác nhau. Nếu theo căn thì có khác nhau. Người căn cơ nhạy bén, là nói về hơn. Người căn cơ bậc trung, là nói trung bình, người căn cơ bậc hạ, là nói thấp. Như Phật bảo các Tỳ-kheo: Một rốt ráo, chẳng phải nhiều rốt ráo, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Đây là kinh Phật, kinh Phật nói: Một rốt ráo, chẳng phải nhiều rốt ráo. Dù kinh Phật nói một rốt ráo, nhưng không phân biệt là vì phát tâm nên nói rốt ráo hay do việc thành tựu, nên nói rốt ráo. Kinh Phật là chỗ căn bản cho luận nầy. Là điều kinh của chư Phật không nói, nay vì muốn nói nên soạn luận nầy.

Hỏi: Cứu cánh có hai, vì sao Đức Thế tôn chỉ nói một?

Tôn giả Ba-xa đáp: Một rốt ráo, nghĩa là rốt ráo của phát tâm, không có hai rốt ráo của phát tâm. Một việc thành tựu rốt ráo, không có hai việc thành tựu rốt ráo. Đức Thế tôn cũng nói một đế, không có hai đế, nghĩa là một khổ đế, không có khổ đế thứ hai, cho đến một đạo đế, không có đạo đế thứ hai.

Lại có thuyết nói: Chỉ một rốt ráo, không có hai rốt ráo, nghĩa là sự thành tựu rốt ráo. Phát tâm rốt ráo: đều vì việc thành tựu, nên phát tâm.

Lại có thuyết nói: Các ngoại đạo v.v… đều tự đối với pháp mà họ đã thực hành rồi nghĩ là rốt ráo. Phật nói rằng: Chỉ trong pháp khéo nói, có pháp rốt ráo, trong pháp không khéo nói, không có pháp rốt ráo.

Lại có thuyết nói: Ở đây không nói rốt ráo đệ nhất, chỉ muốn nói về lỗi của các ngoại đạo. Người dứt kiến như các ngoại đạo v.v…, chẳng phải đối với thường kiến, kẻ thường kiến chẳng phải đối với dứt kiến. Phật nói rằng: Nếu kẻ thường kiến là rốt ráo, thì dứt kiến là chẳng phải. Nếu kẻ dứt kiến là rốt ráo, thì thường kiến là chẳng phải? Nhưng thường, dứt đều chẳng phải pháp rốt ráo.

Cho nên, vì muốn nói lỗi của ngoại đạo, nên nói là một rốt ráo, chẳng phải mọi rốt ráo.

Như nói một rốt ráo, chẳng phải nhiều rốt ráo, cho đến nói rộng. Cứu cánh gọi là pháp gì?

Đáp: Đức Thế tôn hoặc nói đạo rốt ráo, hoặc nói Niết-bàn rốt ráo.

Nói đạo rốt ráo là thế nào? Như kệ nói:

Nếu không biết đạo.

Là mạn thông minh

Chưa đến rốt ráo

Không điều mà chết.

Không biết đạo: nghĩa là không thấy tám đạo. Là mạn của thông minh, nghĩa là ngoại đạo, ngu tiểu tự cho là thông minh, mà sinh kiêu căng, ngạo mạn. Chưa đến rốt ráo tức dù là phát ý nhưng không đến rốt ráo.

Không điều mà chết: Như có phiền não mà sinh, có phiền não mà chết.

Như Kệ nói đạo rốt ráo, thế nào là Niết-bàn rốt ráo. Như kệ nói:

Đến rốt ráo không sợ

Không nói không ăn năn

Nhổ hết mũi tên hữu

Thân nầy là bên sau.

Đến rốt ráo: Rốt ráo có hai thứ:

  1. Phát tâm rốt ráo.
  2. Thành sự rốt ráo.

Là đến rốt ráo của sự thành tựu bậc nhất. Không sợ: Là khéo tu tam-muội Không, vì hiểu sâu pháp duyên khởi, nên không sợ đường ác và khổ sinh tử. Không nói: nghĩa là không như lời nói vô nghĩa của các ngoại đạo nói về tà trí, tà kiến không hối hận: Tức là khéo dứt trừ giới thủ, sinh trí rốt ráo. Giới thủ, sinh trí rốt ráo có thể nhổ hết các mũi tên hữu, nghĩa là do khéo tu Thánh đạo, có thể làm cho hữu ái đã dứt hết hẳn, vắng lặng, trụ trong pháp không lưu chuyển.

Thân nầy là biên sau: Vì đã dứt hết nhân của ái, hữu kia, nên không còn sinh. Vì không còn sinh, nên thân nầy là bên sau:

Đây là rốt ráo nhất

Đạo vắng lặng vô thượng

Dứt hết tất cả tướng

Xuất ly đến không chết.

Đây là rốt ráo nhất: nói việc rốt ráo thành. Vắng lặng: là lìa ba thứ lửa. Đạo là nơi trí đã an lập. Vô thượng: là không có chỗ nương. Có thể dứt hết tất cả tướng: hiển hiện dứt trừ tất cả nghiệp, dứt tất cả tướng phiền não. Xuất ly: Vì trừ diệt các phiền não, được thanh tịnh. Đến không chết: Vì rốt ráo đến pháp bất diệt.

Như Bà-la-môn Số Mục-kiền-liên đến chỗ Phật, bạch Phật: Đệ tử đã được Sa-môn Cù-đàm hóa độ, tất cả đều đạt đến rốt ráo.

Đức Thế tôn bảo: Bà-la-môn! Việc nầy không nhất định: Hoặc có người đến, có người không đến. Trong đây nói Niết-bàn là sự thành rốt ráo, có phát tâm, có rốt ráo phát tâm, có sự thành, có rốt ráo sự thành.

Thế nào là rốt ráo phát tâm? Cho đến rốt ráo sự thành?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đạo thế tục đó gọi là phát tâm, chẳng phải rốt ráo. Thánh đạo gọi là phát tâm, cũng gọi là rốt ráo. Chỗ dứt của đạo thế tục gọi là sự thành, không gọi là rốt ráo. Chỗ dứt của đạo vô lậu gọi là sự thành, cũng gọi là rốt ráo.

Lại có thuyết nói: Đạo quả trung gian gọi là phát tâm, không gọi là rốt ráo. Đạo quả Sa-môn căn bản gọi là phát tâm, cũng gọi là rốt ráo. Chỗ dứt của đạo quả trung gian gọi là sự thành, không gọi là rốt ráo. Chỗ dứt của đạo quả căn bản gọi là sự thành, cũng gọi là rốt ráo.

Lại có thuyết nói: Đạo học gọi là phát tâm, không gọi là rốt ráo. Đạo Vô học gọi là phát tâm, cũng gọi là rốt ráo. Chỗ dứt của đạo Hữu học gọi là sự thành, không gọi là rốt ráo. Chỗ dứt của đạo Vô học gọi là sự thành, cũng gọi là rốt ráo.

Như Đức Thế tôn nói: Có các ngoại đạo Phạm chí, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần nầy?

Đáp: Đây là kinh Phật. Trong kinh của Phật nói: Có các ngoại đạo Phạm chí biện luận như vầy: Ta đã dứt các chấp, cho đến nói rộng. Kinh Phật dù nói như vậy, nhưng không phân biệt. Kinh Phật là chỗ căn bản của luận nầy. Điều mà trong kinh của chư Phật không nói, nay A-tỳđàm đều muốn nói nên soạn luận nầy.

Ở đây hỏi về ba việc

1. Hỏi: Các ngoại đạo thật ra không dứt các chấp. Vì sao Phật nói các ngoại đạo nói là họ đã dứt các chấp?

2. Hỏi: Như các ngoại đạo không lập ra việc dứt các chấp, vì sao nói là các ngoại đạo lập ra dứt dục thủ, giới thủ, kiến thủ?

3. Hỏi: Như các ngoại đạo lập ra dứt dục thủ, giới thủ, kiến thủ, không lập ra dứt ngã thủ?

Trong ba thứ hỏi nầy, Tôn giả Ca-chiên-diên-tử trước đáp câu hỏi giữa: Hỏi: Như các ngoại đạo không dứt các chấp, vì sao nói là họ dứt dục thủ, giới thủ, kiến thủ, cho đến nói rộng?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là lời nói pháp nho nhỏ của Thế tôn. Lời nói nầy phải nên hiểu trái lại, không nên thuận theo. Vì sao? Vì Đức Thế tôn nói pháp, không do không có nhân duyên, cũng không do ít nhân duyên. Chư Phật giảng nói đều có nhân duyên, chẳng phải không có nhân duyên, đều có chỗ tạo tác, chẳng phải không có chỗ tạo tác, đều có đối tượng hóa độ, chẳng phải không có đối tượng hóa độ. Nếu người khác không có duyên thì Đức Phật không bao giờ nói. Lại có thuyết nói: Vì Đức Thế tôn thể hiện dứt phần ít các chấp, Nên nói như thế. Lời nói nầy cũng nên hiểu ngược lại, không nên thuận theo. Vì sao? Vì như người phàm phu dứt trừ giới thủ, kiến thủ cõi Dục, cho đến dứt trừ giới thủ, kiến thủ của Vô sở hữu xứ. Phàm phu cũng dứt ngã thủ của địa Sơ thiền, cho đến dứt ngã thủ của Vô sở hữu xứ. Cho nên, lời nói nầy cũng không được dùng đúng. Tuy nhiên, Phật, Thế tôn đã nói rộng các pháp, cho đến nói rộng thuyết nầy, là nghĩa chân thật.

Vào thời kỳ Phật chưa ra đời, các phái di học ngoại đạo được tiếng tăm, lợi dưỡng. Về sau, Phật xuất thế, che lấp các ngoại đạo, cũng như sự sáng suốt mặt trời che lấp đốm lửa. Đệ tử của ngoại đạo quy phục Đức Thế tôn, lợi dưỡng của ngoại đạo ngày càng giảm ít.

Bấy giờ, các ngoại đạo đều nhóm họp nơi một chỗ, để cùng nhau bàn bạc: Sa-môn Cù-đàm khi chưa ra đời, tất cả tiếng tăm, lợi dưỡng hiện có của thế gian đều quy về chúng ta. Nay Sa-môn Cù-đàm đã xuất thế, những việc như thế v.v… ngày càng giảm ít. Tuy nhiên Sa-môn Cù-đàm kia không có thật đức, chỉ là do hình dung đoan chánh, giỏi về kinh, luận. Dáng dấp của chúng ta thô tục, đâu đủ để so sánh. Nhưng kinh pháp do ông ấy giảng nói khó hiểu được. Nay chúng ta phải làm cách nào để được kinh pháp của ông ta. Nếu được thì hầu hết lợi dưỡng thế gian đều sẽ trở về với chúng ta. Họ lại bàn bạc: Như Ma-nạp TôThi, v.v… trong chúng của ta rất thông minh, căn tánh nhạy bén, lại có sức nhớ nghĩ, tất nhiên có thể thọ trì kinh pháp do Sa-môn Cù-đàm đã nói. Nay hãy sai anh ta qua đó để làm đệ tử của Sa-môn Cù-đàm. Cùđàm sẽ vì anh ta giảng nói rộng kinh pháp. Sau khi tụng đọc xong, anh ta sẽ giải thích cho chúng ta nghe.

Bàn bạc như thế xong, khi ấy, ngoại đạo liền nói với Ma- nạp Tô -Thi, v.v… Anh hãy đi đến trụ xứ của Sa-môn Cù-đàm xin làm đệ tử cho đến xuất gia trong pháp Phật, để được nghe kinh pháp, rồi hãy thọ trì.

Lúc ấy, Đức Như lai dùng mười lực, bốn vô sở úy, ở trong đại chúng, rộng vì hàng người, trời giải thích các pháp, có cả các ngoại đạo ở bên cạnh đại chúng, rón rén đi lại để trộm nghe pháp, ôm lòng lo sợ. Vì lo sợ, thọ trì thì ít mà quên thì nhiều.

Do nghĩa nầy, phải biết, Đức Thế tôn đã nói rộng các pháp. Các ngoại đạo v.v… chỉ tụng dứt trừ ba thọ, quên dứt trừ ngã thọ.

Lại có thuyết nói: Đức Thế tôn nói pháp, hoặc có đầy đủ hoặc không đầy đủ, nhưng mọi việc Đức Thế tôn đã làm đều đầy đủ. Như kinh nói bốn niệm xứ, về nghĩa của niệm xứ, tức là đầy đủ, như nói một niệm xứ, gọi là không đầy đủ. Như nói chúng sinh trụ nơi thân, quán thân chỉ như đất dính trên móng tay còn không trụ nơi thân, quán thân, như đất của quả đất. Như nói năm cái, bảy chi giác, sáu giới. Ở đây cũng là nói không đầy đủ. Như nói mười cái, mười bốn chi giác, mười tám giới, đó gọi là đầy đủ, do việc ấy nên nơi các việc đã làm thảy đều đầy đủ.

Nói pháp có đầy đủ, không đầy đủ. Có các dị học ngoại đạo tiếp nhận danh từ của pháp Phật, cho đến nói rộng, vì để làm chứng mà dẫn kinh Phật. Như kinh nói: Có các ngoại đạo Phạm chí đến giảng đường, nơi các Tỳ-kheo đang tập hợp, nói rằng: Các Trưởng già! Như Sa-môn Cù-đàm, thầy của các ông, đã vì các đệ tử nói rằng: Phải dứt năm cái, làm yên tịnh tâm mình ở bốn niệm xứ, tu bảy giác chi. Chúng ta sẽ vì các đệ tử, cũng nói pháp như thế, cho đến nói rộng.

Các ngoại đạo kia cùng sinh, cùng tử với cái, mà còn không nhận thức được cái, huống chi là biết thấy. Niệm xứ, giác chi còn không nghe được mùi hương, huống chi là biết vị. Tuy nhiên, Đức Phật giảng nói rộng các pháp, cho đến nói rộng. Như Phạm chí Ma-kiền-đề đến chỗ Phật, mặc Uất-đa-la-tăng, lấy tay sờ vào y nầy, ra vẻ như bệnh, như thân bị mụt nhọt, bị trúng tên, bị ghẻ lở, rồi nói rằng: Sa-môn Cù-đàm! Thân nầy không bị bệnh, tức là Niết-bàn. Thân Phạm chí kia không bị bệnh, thường được uống ăn. Vì thân không bị bệnh, nên nói thân không bị bệnh, vì được uống ăn, nên nói là Niết-bàn. Phạm chí kia còn không nhận thức được bốn đại điều hòa nên không bệnh, huống chi là biết kiết hết tức là Niết-bàn?

Lại có thuyết nói: Không bị bệnh là đạo, Niết-bàn là quả của đạo. Phạm chí kia còn không nhận thức được về đạo không bệnh, huống chi là quả của đạo không bệnh. Nhưng Đức Phật đã giảng nói pháp rộng rãi, cho đến nói rộng.

Về câu hỏi của ngoại đạo kia, nay sẽ nói:

Hỏi: Vì sao Phạm chí ngoại đạo không lập ngã thủ?

Đáp: Như kinh nầy nói: Phạm chí ngoại đạo đêm dài sinh tử chấp ngã, chấp chúng sinh, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết nói: Dị học ngoại đạo đối với ngã thủ (chấp ngã ) tâm sinh sợ hãi, như người đứng ở đỉnh núi cao sợ hãi nhìn xuống. Ngoại đạo kia cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Sợ bỏ kiến chấp của mình, chạy theo kiến chấp của người. Ngoại đạo dị học lấy ngã kiến làm căn bản cho kiến chấp của mình mà không muốn xa.

Lại có thuyết nói: Vì sợ cắt đứt mạng sống của mình.

Lại có thuyết nói: Sợ bị người đồng phạm hạnh khinh thường.

Về câu hỏi trước đây của ngoại đạo, nay sẽ nói:

Hỏi: Như các ngoại đạo không biết dứt trừ các chấp, vì sao lại nói dứt trừ các chấp?

Đáp: Đây là Đức Thế tôn đã nói theo thế gian, vì làm chứng, nên dẫn kinh Phật. Như nói: Có các chúng sinh thấy diệt dứt hoại. Trong thật nghĩa không có chúng sinh, vì tùy ngoại đạo thế tục mà nói nên nói có chúng sinh, ở đây cũng giống như thế, cho đến nói rộng.

Có hai trí:

  1. Trí dứt.
  2. Trí biết, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì trước nói dị học ngoại đạo lập ra dứt các chấp, không lập ra dứt ngã thủ. Mặc dù nêu ra như thế, nhưng không phân biệt trí dứt hay là trí biết. Nay vì muốn giải thích, nên soạn luận nầy.

Có hai trí, nghĩa là trí dứt và trí biết.

Thế nào là trí biết? Nếu thấy biết, minh, giác, hiện quán, là trí biết. Trí đối với không có trí, kiến (thấy) đối với tà tuệ, minh đối với vô minh, giác đối với tà kiến, hiện quán đối với tà quán.

Lại có thuyết nói: Ở đây nói trí biết vô lậu. Vì sao? Vì không có đạo thế tục nào có thể hiện quán. Do việc nầy, nên chỉ nói trí biết vô lậu.

Lại có thuyết nói: Trong đây cũng nói trí biết hữu lậu, vô lậu. Vì sao biết? Vì trí thế tục cũng có tướng tri kiến, minh, giác, hiện quán.

Hỏi: Đạo thế tục không có nghĩa hiện quán và sao nói là hiện quán?

Đáp: Quán hiện ở trước rõ ràng là nghĩa của quán hiện tiền, tức đạo thế tục cũng có công năng hiện quán.

Hỏi: Nếu vậy là nói các thế tục nào có trí biết?

Đáp: Trừ hiện quán rỗng lặng tương ưng với tuệ, đó là vô lượng giải thoát thứ nhất, thứ hai, thứ ba, tám thắng xứ, mười Nhất thiết xứ, trừ các quán ấy, v.v… tương ưng với tuệ.

Các quán về tướng chung, tướng riêng trừ ngu trong duyên, trừ ngu nơi thể của vật. Các quán thật khác, như văn, tư, tu, Noãn, Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất như thế, v.v…

Hỏi: Làm sao biết nhất định tuệ thế tục là hiện quán?

Đáp: Như nói nghĩa nhận biết rõ ràng của quán hiện tiền là nghĩa của hiện quán, tuệ thế tục cũng có thể hiện quán nhận biết rõ ràng. Vì sao biết? Vì như kinh thành dụ nói: Ta chưa thành tựu Tam Bồ-đề,v.v…, cũng có thể sinh hiện quán nầy. Do việc nầy, nên biết được tuệ thế tục cũng có thể tạo ra hiện quán.

Thế nào là trí dứt?

Đáp: Nếu tất cả tham ái, giận dữ, ngu si đều dứt, tất cả phiền não đều dứt trừ, thì gọi là trí dứt.

Hỏi: Như dứt không có sở duyên còn trí có sở duyên, vì sao nói dứt là trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì dứt là quả của trí nên dứt được gọi là trí. Như A-la-hán là quả của trí, lấy tên của trí để nói. Như thiên nhãn, thiên nhĩ là quả chung, dùng tên chung để gọi. Như sáu nhập là quả của nghiệp, dùng tên của nghiệp để nói. Như sáu nhập nầy là nghiệp gốc vì dứt trừ như thế là quả của trí, cho nên gọi là trí đoạn.

Hỏi: Như dứt trong tu đạo là quả của trí, dứt trong thấy đạo là quả của nhẫn, vì sao nói là trí dứt?

Đáp: Vì dứt kia là quả của trí thế tục. Nếu dùng đạo thế tục lìa dục

cõi Dục, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ, thì cõi Dục kia, cho đến lìa dục của Vô sở hữu xứ là quả của trí thế tục.

Hỏi: Xứ có công của đạo thế tục thì có thể như thế. Đạo thế tục không có công sức đối với Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, chỗ dứt của thấy đạo nơi Phi tưởng Phi phi tưởng xứ đều là quả của nhẫn. Làm sao dứt của thấy đạo kia lại là trí dứt?

Tôn giả tăng-già-bà-tu đáp: Có hai trí dứt:

  1. Là quả của tuệ.
  2. Là quả của trí.

Trí dứt kia là quả của tuệ.

Bình luận: Không nên nói như thế. Vì sao? Vì Đức Thế tôn nói hai trí:

  1. Là trí dứt.
  2. Là trí biết.

Không nói tuệ dứt.

Lại có thuyết nói: Trí dứt là quả công dụng của trí biết vô lậu. Vì sao? Vì như Tu-đà-hoàn, do đạo vô lậu, sẽ được quả Tư-đà-hàm. Đạo vô ngại thứ sáu sẽ chứng chung với chỗ dứt của thấy đạo nơi ba cõi và sáu phẩm Kiết là chỗ dứt của tu đạo cõi Dục. Tư-đà-hàm do đạo vô lậu, sẽ chứng được quả A-na-hàm. Đạo vô ngại thứ chín sẽ chứng chung chỗ dứt của thấy đạo ba cõi và chỗ dứt của tu đạo cõi Dục. A-na-hàm sẽ chứng được định kim cương dụ của quả A-la-hán, sẽ chứng chung với chỗ dứt của thấy đạo, tu đạo ba cõi nên dứt là quả công dụng của định kim cương dụ. Do việc nầy nên dứt là quả công dụng của trí biết vô lậu.

Tôn giả Phật-đà-la-trắc nói: Nên nói là pháp dứt. Vì sao? Vì đây là đạo của các bậc Thánh, pháp vượt hơn bậc nhất, thích ứng bậc nhất rốt ráo bậc nhất.

Tôn giả Cù-sa nói: Ở đây phải nói là dứt xả. Vì sao? Vì xả tất cả pháp sinh tử có được dứt nầy. Hơn nữa, vì từ trong chủng trí sinh ra, nên nói là trí dứt. Như sinh trong họ Cù-đàm nên gọi là Cù-đàm. Đoạn kia cũng giống như thế.

Lại có thuyết nói: Đoạn kia dù không có sở duyên nhưng trụ ở tướng trí, như mắt của quá khứ, vị lai dù không thể thấy mà là tướng thấy, như thọ của quá khứ, vị lai, dù không có sở giác, nhưng là tướng của thọ, cho đến nói tuệ cũng giống như thế. Như vậy, dù dứt không có sở duyên mà là tướng của trí, cho nên gọi là trí dứt.

Hỏi: Như dứt một kiết của thân kiến, cũng gọi là trí dứt, vì sao nói

tất cả kiết dứt đều gọi là trí dứt?

Đáp: Vì dứt một thân kiến, cũng là trí dứt. Ở đây nói dứt tất cả kiết, đều là trí dứt, không nói là trí dứt trừ dần dần.

Lại nữa, Đức Thế tôn hoặc nói trí là trí biết hoặc nói trí là trí dứt, thế nào trí là trí biết? Như kệ nói:

Hiền nầy, người tuổi trẻ

Muốn lợi ích thế gian

Ái sinh ra các khổ

Biết được là thông minh.

vua Đa-cầu là chỗ căn bản của luận nầy. Nghe nói có vì vua tên là Đa-cầu bẩm tánh bạo ác, bị người khinh thường, thường cướp đoạt các thứ của cải của dân chúng. Bấy giờ, dân chúng khắp nơi đều nhóm họp, cùng bàn bạc bắt vua thoái vị, lập người em kế của vua lên làm vua.

Khi đó, vua Đa-cầu đến vùng thôn ấp cạnh nước láng giềng cư ngụ, hằng ngày bện cỏ làm dép để tự kiếm sống. Một hôm vua em hỏi các quan: Ta có người anh cả nay đang ở đâu? Các quan tâu: Nghe nói hiện ở thôn nọ bên cạnh nước kia, bệnh cỏ làm dép, kiếm sống qua ngày. vua em nghe tâu chuyện nầy, tâm sinh buồn sầu, nghĩ rằng: Ta chỉ có một người anh đang sống khổ sở như thế, nay ta đâu cần ngôi vua nầy. Liền sai sứ đến tận nơi để triệu người anh về nước, rồi cấp cho một ngôi làng.

Thời gian nầy, dân chúng gần, nương rất đông. Ngôi làng được cấp không cung cấp đủ thức ăn cần dùng. vua em lại cấp hai làng, ba làng, cho đến nửa nước, cũng cố tình cho là không đủ, thế là vua anh đem nhân lực của nửa nước khởi binh giết chết em, tự lên làm vua.

Bấy giờ, Đế-thích nghĩ rằng: Nay quốc vương nầy đã không biết ơn nghĩa, gây ra tội ác như thế. Ta sẽ đến đó đánh lừa để làm cho vua phải khổ não. Rồi Đế-thích tự hóa thân thành một người Bà-la-môn, đầu vấn búi tóc, thân mắc áo thô, tay trái cầm bình, tay phải cầm gậy pháp, đi đến chỗ vua khen ngợi vua, rồi đứng qua một phía. vua hỏi: Đại Bà-la-môn từ đâu đến đây?

Bà-la-môn đáp: Tôi từ ngoài biển đến.

Vua lại hỏi: Ngoài biển có việc gì lạ không?

Bà-la-môn nói: Ta thấy có một nước, dân chúng sung túc vô cùng.

Vua lại hỏi: Như ta ngày nay quân binh rất đông, nếu đem quân thảo phạt có thể thắng hay không?

Bà-la-môn nói: Đến đó tất nhiên có thể được.

Vua lại hỏi: Ai sẽ đi trước dẫn đường cho ta?

Bà-la-môn nói: Tôi sẽ dẫn đường.

Vua lại hỏi: Nếu được như vậy thì bao nhiêu ngày nữa ông sẽ chỉ đường cho ta?

Bà-la-môn nói: Bảy ngày nữa. Nói xong rồi bèn đi.

Ngày qua ngày, vua tính ra đã tới ngày hẹn. Đến ngày thứ bảy, từ sáng sớm nhà vua cho người đi khắp nơi tìm kiếm vị Bà-la-môn hôm trước nhưng chẳng thấy đâu cả. Do không tìm thấy, nên vua cảm thấy buồn khổ, ngồi trong tĩnh thất.

Bấy giờ, Bồ-tát Thích -Ca sống trong làng Bà-la-môn thuộc quốc vương ấy, vì có chút việc nên đến thành vua, nghe nói vua buồn khổ khôn nguôi, nên nói với các quan: Tôi có thể trừ bỏ nỗi buồn khổ trong tâm của vua. Các quan liền đưa Bồ-tát đến chỗ vua. Thời gian nầy, vì quốc vương, Bồ-tát đã nói các nghĩa của kinh kệ:

Đuổi tìm năm dục

Nếu khi được rồi Cho là vừa ý

Sẽ sinh vui mừng.

Cho đến nói hết kệ của phẩm nhiễm dục. Khi Bồ-tát tụng xong kệ nầy, tâm vua sinh ra ý tưởng nhàm chán, lìa được ái dục. Vì lìa được dục, nên Bồ-tát lại nói bài kệ nầy:

Nên làm, nói là chánh

Không làm, đâu được nói

Nếu nói không thể làm

Không gọi là người trí.

Bồ-tát nói một kệ nầy, một nửa là vì Đế-thích, một nửa là vì quốc vương. Nếu không thể làm thì không nên hứa với người. Nếu đã hứa với người, thì phải làm ngay, mà không làm, là việc không tốt. Ông cũng phải trù tính, lường xét xem người kia có thể đi, hay không? Lại vào thời gian nào, từng thấy có người từ ngoài biển đến, mà tin theo lời họ nói? Thời gian nầy, quốc vương ở chỗ Bồ-tát, tâm sinh vui mừng, bèn nói kệ:

Người hiền tuổi trẻ nầy

Muốn lợi ích thế gian

Ái sinh ra các khổ

Biết được là thông minh.

Do kệ nầy nên nói trí là trí biết.

Nói trí là trí dứt, là thế nào? Như nói: Phật bảo các Tỳ-kheo: Nay

ta sẽ nói pháp mà trí nhận biết là trí pháp, trí thành tựu:

Thế nào là pháp mà trí nhận biết?

Đáp: Là năm ấm.

Hỏi: Như trí nhận biết tất cả pháp, vì sao chỉ nói nhận biết năm ấm?

Đáp: Nếu nêu ra câu hỏi nầy, thì như lời đáp của chương dưới. Do đấy chỉ biết khổ. Ở đây nên đều nói hết.

Bình luận: Không nên nói như thế. Vì sao? Vì ở đây nói trí dứt, không nói trí biết, biết về năm ấm, không biết tất cả pháp.

Hỏi: Nếu vậy nên soạn luận nầy: Như năm ấm là chỗ nhận biết của hai trí: Trí biết và trí đoạn, vì sao Đức Thế tôn nói bỏ trí biết, nói trí dứt?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì nhờ năm ấm nầy mà đạt được trí dứt, trí biết, vì thế phần dưới đây, sẽ đáp về trí biết, diệt trí v.v… Ở đây đều nên nói: Thế nào là trí? Đáp: Tất cả kiết hết, cho đến nói rộng.

Hỏi: Như Đức Phật nói: Tất cả hành dứt hết đều gọi là trí dứt. Ở đây, vì sao nói tất cả kiết hết là trí dứt?

Đáp: Đây là lời nói lược về chỗ vượt hơn để giáo hóa hàng hữu dư của Như lai.

Lại có thuyết nói: Nếu nói kiết đã hết, phải biết là nói về tất cả hành hữu lậu đều dứt trừ, như trên đã nói.

Nếu là quá khứ thì tất cả đều tận diệt? Lời đáp trong câu hỏi đó, ở đây, đều nên nói: Thế nào là trí thành tựu?

Đáp: Là A-la-hán lậu tận.

Hỏi: Như người học, chỗ nào cũng đều có trí, vì sao chỉ nói A-lahán là người trí?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Đây là nói về hữu dư của Như lai, cho đến nói rộng.

Lại có thuyết nói: Vì là vượt hơn, nên đáp như trên. Người Vô học vượt hơn người Hữu học, trong đây nên nói rộng.

Lại có thuyết nói: Người học tùy thuộc vào chỗ mình biết, chẳng cần phải bỏ hữu. Người Vô học tùy theo chỗ nhận biết của mình, đều có thể xả hữu. Trong đây cũng nói: Thế nào là nói? Đáp: Tất cả kiết đã dứt hết. Ai dứt hết tất cả kiết? Chỉ là người Vô học.

Lại có thuyết nói: Văn ấy nên nói rằng: Thế nào là trí biết?

Đáp: Nếu tri, kiến, minh, giác, hiện quán v.v…, cho đến nói rộng.

Cũng như nói về người hiền, tuổi trẻ v.v…, cho đến nói rộng.

Thế nào là trí dứt?

Đáp: Tất cả kiết đã dứt hết. Cũng như nói: Nay ta sẽ giảng nói về pháp trí, cho đến nói rộng. Nếu quy hướng về Phật, người kia sẽ quy hướng ở đâu? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì chẳng phải chỗ quy hướng, sinh ra tưởng về chỗ quy hướng. Vì muốn biểu thị chỗ quy hướng chân thật, nên soạn luận nầy.

Như kệ nói:

Thường có quy hướng

Núi, sông, rừng, cây

Vườn, lầu tháp, miếu

Vì sợ người khác.

Quy nầy chẳng an

Quy nầy chẳng hơn

Về chỗ quy hướng

Không thể khỏi khổ.

Nếu quy hướng Phật

Pháp và chúng tăng

Đối bốn Thánh đế

Dùng tuệ để thấy.

Hướng nầy là yên

Hướng nầy thù thắng

Hướng nầy vượt khỏi

Tất cả các khổ.

Cho nên, chẳng phải chỗ quy hướng mà nghĩ là quy hướng. Vì muốn hiển bày chỗ quy hướng chân thật, nên soạn luận nầy.

Lại có thuyết nói: Vì nhằm ngăn chúng sinh ngu si quy hướng chúng sanh hoặc cho rằng, quy hướng Phật, nghĩa là quy hướng thân Như lai do cha mẹ sinh ra với các phần đầu, chân v.v… Vì nhằm ngăn ý tưởng như thế. Nếu người quy hướng Phật, thì phải quy hướng về Bồ-đề của Phật là pháp Vô học.

Nếu quy hướng về pháp, nghĩa là quy hướng về pháp thiện, bất thiện, vô ký và việc tu hành của các Tỳ-kheo là pháp nên làm, không nên làm. Nếu quy hướng về pháp, phải quy hướng sự yêu kính trọng pháp Niết-bàn. Nếu quy hướng về tăng, nghĩa là quy hướng người xuất gia bốn họ, vì muốn cho chúng sinh đều được quyết định ở trong pháp nầy. Nếu người quy hướng tăng, phải quy hướng pháp Hữu học, Vô học.

Cho nên, vì muốn ngăn chúng sinh ngu quy hướng nên soạn luận nầy.

Hỏi: Nếu quy Phật, người kia quy thế nào?

Đáp: Phật, nghĩa là thật có pháp nầy. Vì có pháp nầy, nên lập ra nên ngôn ngữ như thế, danh xưng như thế, tư tưởng như thế, gọi là Phật, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao nói thế nầy: Phật, nghĩa là thật có pháp nầy, vì có pháp nầy, nên lập ra ngôn ngữ như thế, danh xưng như thế, tư tưởng như thế, gọi là Phật.

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Phật không chỉ có lập ra danh xưng, tạo ra ngôn ngữ như thế, danh xưng như thế, tư tưởng như thế gọi là Phật, mà còn không có thật.

Vì nhằm ngăn ý tưởng như thế, nên nói rằng: Phật, nghĩa là thật có pháp nầy, cho đến nói rộng. Nếu người quy hướng, thì quy hướng về pháp Bồ-đề Vô học của Phật như thế.

Hỏi: Nếu pháp Bồ-đề Vô học là Phật chân thật, thì kinh nầy nói làm sao hiểu? Như: Cư sĩ Tu Đạt hỏi: Sao gọi là Phật? Người kia đáp: Phật nghĩa là có người mang dòng họ Thích, do tin tưởng xuất gia, cạo bỏ tóc râu, thân mặc y nhuộm, đó gọi là Phật.

Đáp: Đây là nói về chỗ nương cua Phật, nếu nói về chỗ nương, phải biết cũng là nói chủ thể nương.

Hỏi: Nếu nói pháp Bồ-đề Vô học là Phật chân thật, thì vì sao với tâm ác làm thân Phật chảy máu mà mắc tội nghịch?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Do tâm oán ghét pháp Bồ-đề Vô học, là vì tâm ác làm thân Phật chảy máu nên mắc tội nghịch.

Lại có thuyết nói: Vì làm hư hoại chỗ nương của Bồ-đề Vô học, hoặc phá hoại chỗ nương, thì cũng phá hoại chủ thể nương. Do đó phạm phải tội nghịch.

Nếu quy hướng pháp, thì người kia sẽ quy hướng thế nào?

Đáp: Nếu quy hướng pháp, tất nhiên phải quy hướng Niết-bàn đã dứt hết ái.

Hỏi: Nếu quy hướng tăng, thì người kia sẽ quy hướng như thế nào?

Đáp: Tăng, là người thật có pháp nầy, cho đến nói rộng, đó gọi là tăng.

Hỏi: Thế nào là quy? Thế nào là hướng? Quy hướng là nghĩa gì?

Đáp: Quy, nghĩa là phần ít của diệt đế, Đạo đế. Hướng là lời nói ở miệng.

Lại có thuyết nói: Hướng, nghĩa là có thể khởi tâm để miệng nói ra lời.

Lại có thuyết nói: Tin chắc pháp nầy, đó gọi là hướng.

Bình luận: Nói như thế là đúng: Có thể khởi miệng, lời nói, tâm và thể của năm ấm nơi pháp cùng có, là hướng.

Thế nào là nghĩa quy hướng?

Đáp: Nghĩa cứu giúp, là nghĩa quy hướng.

Hỏi: Nếu nghĩa cứu giúp là nghĩa quy hướng thì sao Đề-bà-đạt-đa cũng quy hướng Phật, Pháp, tăng, mà vẫn bị đọa vào đường ác, không được cứu giúp?

Đáp: Nếu là người quy hướng, thì không phá giới hạnh, không vượt qua giới phần, có thể được cứu giúp. Nếu người đã quy hướng mà phá giới hạnh, vượt qua giới phần, thì sẽ không được cứu giúp. Như người vì sợ kẻ thù, nên quy hướng ở vua, cầu mong được vua cứu giúp. vua nói với người kia: Nếu ngươi ở trong nước của ta, không vượt qua giới phần, thì ta sẽ cứu giúp ngươi, nếu vượt qua giới phần của ta, thì ta sẽ không thể cứu giúp ngươi.

Chúng sinh như thế, vì sợ đường ác, nên quy hướng Phật. Phật nói: Nếu quy hướng ta, thì không nên phá hủy giới hạnh, vượt qua giới phần. Nếu phá giới hạnh, vượt qua giới phần, thì ta không thể cứu giúp. Cho nên, nghĩa cứu giúp là nghĩa quy hướng.

Lại có thuyết nói: Tùy thuộc vào ngần ấy quy hướng, thì sẽ có ngần ấy cứu giúp, vì nhân duyên quy hướng, nên được ra khỏi đường ác.

Hỏi: Nếu người quy hướng Phật là quy thú một vị Phật hay quy hướng chư Phật nhiều như số cát sông Hằng v.v…? Nếu quy hướng một Phật, thì sao không là quy hướng phần? Nếu quy hướng Chư Phật như số cát sông Hằng, thì vì sao chỉ nói quy hướng một vị Phật? Và kinh nầy nói làm sao hiểu? Như nói: Ta là đệ tử Phật Tỳ-bà-thi, ta là đệ tử Phật Thi-khí? Hoặc cho đến nói: Ta là đệ tử Phật Thích-ca Mâu-ni?

Bình luận: Nên nói rằng: Quy hướng Chư Phật nhiều như số cát sông Hằng v.v…

Hỏi: Nếu vậy tại sao lại nói quy thú một Phật?

Đáp: Văn nầy lẽ ra nói rằng: Ta quy hướng Chư Phật, nhưng không nói. Nếu quy hướng một vị Phật thì phải biết cũng là quy hướng chư Phật.

Nói ta là đệ tử của một Phật: nghĩa là lễ thấy chỗ chân đế của Phật kia thì nói: Ta là đệ tử của vị Phật đó.

Hỏi: Nếu người quy hướng pháp, là vì quy hướng các ấm diệt của thân mình, hay vì quy hướng các ấm diệt của thân người, hay vì quy hướng các ấm diệt của thân mình và thân người? Nếu quy hướng các ấm diệt của thân mình, thì sao không là quy hướng nơi phần? Nếu quy hướng nơi người, thì làm sao nghĩa nghĩa cứu giúp là nghĩa quy hướng?

Đáp: Nếu quy hướng, nghĩa là quy hướng thân mình và thân người. Hỏi: Nếu vậy thì sao lại nói nghĩa cứu giúp là nghĩa quy hướng?

Đáp: Mặc dù đối với ta không có cứu giúp, nhưng về tánh là cứu giúp, cho nên, nghĩa cứu giúp là nghĩa quy hướng.

Hỏi: Nếu quy hướng tăng là quy hướng một vị Phật hay quy hướng chư Phật? Nếu quy hướng một vị Phật thì sao không là quy hướng theo phần? Nếu quy hướng chư Phật thì sao lại nói là quy hướng một Phật? Kinh nầy nói làm sao hiểu? Như nói: Phật bảo người đi buôn: Ông phải quy hướng tăng của đời vị lai.

Bình luận: Nên nói rằng: Quy hướng chư Phật tăng.

Hỏi: Nếu vậy vì sao lại nói quy hướng tăng của một Phật?

Đáp: Văn ấy lẽ ra phải nói rằng: Quy hướng tăng của Chư Phật, mà không nói. Nếu quy hướng tăng của một Phật, tức là vì quy hướng tăng của chư Phật.

Như kinh nầy nói làm sao hiểu? Nghĩa là do không có tăng bảo hiện ở trước.

Lại có thuyết nói: Vì tăng bảo khó đạt được. Vì sao? Vì có Phật ra đời mà không có tăng bảo.

Hỏi: Chỗ nào có quy hướng nầy?

Đáp: Nếu đi chung với giới, thì chỉ có ở loài người. Nếu không đi chung với giới, thì các đường khác đều có.

Hỏi: Có thọ giới mà không thọ quy hướng, người nầy có đắc giới không?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Không đắc giới. Vì sao? Vì nếu muốn thọ giới, trước phải thọ quy hướng.

Lại có thuyết nói: Nếu kẻ nào do tâm tự đại kêu mạn, mà không quy hướng, tất nhiên kẻ đó sẽ không đắc giới. Nếu người nào không biết là thọ giới trước, hay thọ quy hướng trước, bèn không thọ quy hướng mà thọ giới, thì người nầy sẽ đắc giới, nhưng người truyền giới đắc tội.

Hỏi: Nếu không cầu thọ quy hướng thì có được quy hướng hay không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Nếu không được quy hướng, hoặc có trẻ sơ sinh hoặc còn nằm trong bụng mẹ mà cũng thọ quy hướng, thì điều nầy làm sao hiểu?

Đáp: Trường hợp nầy là thuận theo giới. Người nầy về đời trước

vốn hay ban cho người khác thọ giới đầy đủ. Nếu khi còn ở trong bụng mẹ, hoặc lúc mới sinh, cha mẹ đã vì chúng thọ quy hướng. Về sau, khi lớn khôn, làm chuyện phi pháp, người ta bèn trách: Lúc còn ở trong bụng mẹ và hồi mới sinh, ông đã thọ quy hướng rồi, nay sao lại làm chuyện phi pháp! Sau khi nghe lời quở trách người ấy vội tránh xa điều ác, tu việc thiện. Cho nên thuận theo vì giới, mà thọ quy hướng, chứ thật ra thì không được.

Lại có thuyết nói: Vì muốn cho chúng sinh tin Phật, chư thiên sẽ vì đấy mà ủng hộ.

Hỏi: Nếu người khác cầu thọ quy hướng dùm, thì người ấy có được hay không?

Đáp: Không được.

Hỏi: Nếu không được thì khi Phật sắp Niết-bàn, Tôn giả A-nan bạch Phật: Có một số người ở thành Câu Thi xin quy hướng Thế tôn, cũng quy Pháp, tăng v.v… làm sao hiểu lời nầy?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Nhờ năng lực oai thần của Phật, nên khi sắp nhập Niết-bàn, đã khiến cho các lực sĩ của thành Câu-thi đồng với người khác vì cầu mà được giới.

Lại có thuyết nói: Tôn giả A-nan đi vào thành Câu-thi vì nhiều lực sĩ mà truyền trao quy hướng và giới, rồi trở lại bạch Phật: Thế tôn! Lại có chúng đệ tử sau cùng như thế.

Lại có thuyết nói: Được. Như nàng Ca-thi là người câm không nói được, nếu nói: Nếu quy hướng Phật, sẽ không bị đọa vào đường ác.

Hỏi: Những người quy hướng Phật đều không bị đọa vào đường ác chăng?

Đáp: Đây là vì người có được niềm tin không hư hoại, Nên nói rằng.

Lại có thuyết nói: Vì người có tâm quy hướng sâu xa, Nên nói rằng.

Hỏi: Như Pháp bảo là vượt hơn Phật, vì sao khi quy hướng lại quy hướng Phật trước, rồi mới quy hướng pháp?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì Đức Phật là bậc tôn quý ở trong giáo pháp, nên trước phải quy hướng Phật.

Lại có thuyết nói: Cũng như người bệnh, trước phải nương vào thầy thuốc, sau đó mới uống thuốc. Đức Phật người thầy thuốc sư sáng suốt, Pháp như thuốc hay, tăng như người cho thuốc.