LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHẨM LOẠI TÚC
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Phẩm 5: BIỆN VỀ TÙY MIÊN
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên này, có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục- cõi Sắc và cõi Vô sắc?
Đáp: Có ba mươi sáu thứ thuộc cõi Dục, ba mươi mốt thứ thuộc cõi Sắc và ba mươi mốt thứ thuộc cõi Vô sắc.
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên này có bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tu mà đoạn?
Đáp: Có tám mươi tám thứ thuộc kiến đoạn và mười thứ thuộc về tu mà đoạn.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục, có bao nhiêu thứ do kiến đoạn và bao nhiêu thứ do tu mà đoạn?
Đáp: Có ba mươi hai thứ thuộc kiến đoạn và bốn thứ thuộc tu mà đoạn.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc, có bao nhiêu thứ thuộc kiến đoạn, bao nhiêu thứ thuộc tu mà đoạn?
Đáp: Có hai mươi tám thứ thuộc kiến đoạn, ba thứ thuộc tu mà đoạn.
Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên này, có bao nhiêu thứ do thấy khổ mà đoạn, bao nhiêu thứ do thấy tập – diệt – đạo – tu mà đoạn?
Đáp: Có hai mươi tám thứ do thấy khổ mà đoạn, mười chín thứ do thấy tập mà đoạn, mười chín thứ do thấy diệt mà đoạn, hai mươi hai thứ do thấy đạo mà đoạn, mười thứ do tu mà đoạn.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục, có bao nhiêu thứ do thấy khổ mà đoạn, bao nhiêu thứ do thấy tập-diệt-đạo-tu mà đoạn?
Đáp: Có mười thứ do thấy khổ mà đoạn, bảy thứ do thấy tập mà đoạn, bảy thứ do thấy diệt mà đoạn, tám thứ do thấy đạo mà đoạn, bốn thứ do thấy tu mà đoạn.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc, có bao nhiêu thứ do thấy khổ mà đoạn và bao nhiêu thứ do thấy tập-diệt-đạo-tu mà đoạn?
Đáp: Có chín thứ do thấy khổ mà đoạn, sáu thứ do thấy tập mà đoạn, sáu thứ do thấy diệt mà đoạn, bảy thứ do thấy đạo mà đoạn, ba thứ do tu mà đoạn.
Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Tùy miên là nghĩa thế nào?
Đáp: Vi tế cũng là nghĩa của tùy miên. Tùy tăng cũng là nghĩa của tùy miên. Tùy trục cũng là nghĩa của tùy miên. Tùy phược (theo các thứ trói buộc) cũng là nghĩa của tùy miên. Các thứ tùy miên như thế, nếu chưa đoạn dứt, chưa biết khắp, thì do hai duyên cớ nên là tùy tăng: Đó là chỗ nó duyên lấy và sự tương ưng. Hai tùy tăng như vậy, thì chỉ thuộc phạm vi của chính nó chứ không thuộc vào phạm vi khác.
Có mười hai thứ tùy miên. Đó là:
- Tùy miên dục tham.
- Tùy miên giận dữ.
- Tùy miên sắc tham.
- Tùy miên vô sắc tham.
- Tùy miên kiêu mạn.
- Tùy miên vô minh.
- Tùy miên hữu thân kiến.
- Tùy miên biên chấp kiến.
- Tùy miên tà kiến.
- Tùy miên kiến thủ.
- Tùy miên giới cấm thủ.
- Tùy miên nghi.
1- Thế nào là tùy miên tùy tăng dục tham? Nghĩa là các thứ yêu thương, ưa thích, tham luyến, vừa ý.
2- Thế nào là tùy miên tùy tăng giận dữ? Nghĩa là các thứ không đáng yêu thương, ưa thích, tham luyến, vừa ý.
3- Thế nào là tùy miên tùy tăng sắc tham? Nghĩa là các thứ ưa thích, yêu thương, vui lòng, hợp ý.
4- Thế nào là tùy miên tùy tăng vô sắc tham? Nghĩa là các thứ yêu thương, ưa thích, vừa ý.
5- Thế nào là tùy miên tùy tăng kiêu mạn? Nghĩa là cao ngạo, khinh miệt mọi người.
6- Thế nào là tùy miên tùy tăng vô minh? Nghĩa là không biết gì, tối tăm, ngu si.
7- Thế nào là tùy miên tùy tăng hữu thân kiến? Nghĩa là chấp cho là có ta, có cái của ta.
8- Thế nào là tùy miên tùy tăng biên chấp kiến? Nghĩa là chấp đoạn chấp thường.
9- Thế nào là tùy miên tùy tăng tà kiến? Nghĩa là cho rằng không có nhân quả, không có tác dụng, bài bác hủy báng.
10 – Thế nào là tùy miên tùy tăng kiến thủ? Nghĩa là chấp cho rằng kiến giải của mình là tôn quý hơn hết, tột bậc nhất.
11- Thế nào là tùy miên tùy tăng giới cấm thủ? Nghĩa là cho việc tuân giữ các điều đó thì sẽ được thanh tịnh, giải thoát, xuất ly.
12 -Thế nào là tùy miên tùy tăng nghi? Nghĩa là mê lầm, ngờ vực, hoang mang, do dự.
Hỏi: Thế nào là khởi lên các tùy miên dục tham… cho đến thế nào là khởi lên các tùy miên nghi?
Đáp: Tùy miên dục tham khởi lên là do ba nguyên nhân:
1. Là do tùy miên dục tham chưa đoạn dứt, chưa biết khắp.
2. Là do các pháp hiện tiền, thuận hợp với sự ràng buộc của tham dục.
3. Là do ở nơi đó, có sự tác ý không đúng lý.
Cho đến tùy miên nghi ngờ cũng từ ba nguyên nhân mà khởi lên:
1. Là do tùy miên nghi ngờ chưa đoạn dứt, chưa biết khắp.
2. Là do các pháp hiện tại trước mắt thuận hợp với sự trói buộc của nghi ngờ.
3. Là do ở nơi đó, có tác ý không đúng lý.
Hỏi: Có bảy tùy miên và mười hai tùy miên, thì bảy thứ gồm thâu mười hai thứ hay mười hai thứ gồm thâu bảy thứ?
Đáp: Chúng cùng gồm thâu lẫn nhau tùy theo sự việc. Nghĩa là tùy miên dục tham gồm thâu tùy miên dục tham, tùy miên giận dữ gồm thâu tùy miên giận dữ, tùy miên hữu tham gồm thâu các tùy tiên sắc tham và vô sắc tham. Tùy miên mạn gồm thâu tùy miên mạn, tùy miên vô minh gồm thâu tùy miên vô minh. Tùy miên kiến gồm thâu tùy miên năm kiến, tùy miên nghi gồm thâu tùy miên nghi.
Hỏi: Có bảy tùy miên và chín mươi tám tùy miên, thì bảy thứ gồm thâu chín mươi tám thứ hay chín mươi tám thứ gồm thâu bảy thứ?
Đáp: Chúng cùng gồm thâu lẫn nhau tùy theo sự việc. Nghĩa là các tùy miên dục tham – sân giận thì mỗi thứ gồm thâu năm thứ, tùy miên hữu tham gồm thâu mười thứ, tùy miên mạn và vô minh thì mỗi thứ gồm thâu mười lăm thứ. Tùy miên kiến gồm thâu ba mươi sáu thứ. Tùy miên nghi gồm thâu mười hai thứ.
Hỏi: Có mười hai tùy miên và chín mươi tám tùy miên, thì mười hai thứ gồm thâu chín mươi tám thứ hay chín mươi tám thứ gồm thâu mười hai thứ?
Đáp: Chúng cùng gồm thâu lẫn nhau tùy theo sự việc. Nghĩa là các tùy miên dục tham – sân giận – sắc tham và vô sắc tham, mỗi thứ gồm thâu năm thứ. Các thứ tùy miên mạn – vô minh, mỗi thứ gồm thâu mười lăm thứ. Các thứ tùy miên hữu thân kiến- biên chấp kiến, mỗi thứ gồm thâu ba thứ. Các thứ tùy miên tà kiến – kiến thủ và nghi, thì mỗi thứ gồm thâu mười hai thứ. Tùy miên giới cấm thủ gồm thâu sáu thứ.
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên có bao nhiêu thứ là biến hành, bao nhiêu thứ không phải là biến hành?
Đáp: Có hai mươi bảy thứ là biến hành, sáu mươi lăm thứ không phải là biến hành, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là như tùy miên vô minh do thấy khổ – tập mà đoạn trừ, thì nó hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là do thấy khổ – tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải là biến hành, không tương ưng với vô minh.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là do thấy khổ – tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải là biến hành, tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục, có bao nhiêu thứ là biến hành, bao nhiêu thứ không phải là biến hành?
Đáp: Có chín thứ là biến hành, hai mươi lăm thứ không phải là biến hành, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ở cõi Dục, tùy miên vô minh do thấy khổ – tập mà đoạn trừ, thì nó hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là ở cõi Dục, do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các tùy miên không phải là biến hành, không tương ưng với vô minh.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là ở cõi Dục, do thấy khổ – tập mà đoạn trừ các tùy miên không phải là biến hành, tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc có bao nhiêu thứ là biến hành và bao nhiêu thứ không phải là biến hành?
Đáp: Có chín thứ là biến hành, hai mươi thứ không phải là biến hành, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ở cõi Sắc, tùy miên vô minh do thấy khổ – tập mà đoạn trừ thì nó hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là ở cõi Sắc, do thấy khổ – tập mà đoạn trừ các thứ tuỳ miên không phải là biến hành, không tương ưng với vô minh.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là ở cõi Sắc, do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải biến hành, tương ưng với vô minh.
Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên có bao nhiêu thứ là biến hành do tu mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu mà đoạn trừ?
Đáp: Có ba mươi bảy thứ là biến hành do tu mà đoạn trừ, năm mươi lăm thứ không phải là biến hành cũng không do tu mà đoạn trừ, sáu thứ cần phân biệt rõ: Nghĩa là tùy miên vô minh do thấy khổ-tập mà đoạn trừ, thì nó hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải là biến hành, không tương ưng với vô minh.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải là biến hành, tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên ở cõi Dục có bao nhiêu thứ là biến hành do tu mà đoạn trừ, bao nhiêu thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu mà đoạn trừ?
Đáp: Có mười ba thứ là biến hành do tu mà đoạn trừ, hai mươi mốt thứ không phải là biến hành cũng không do tu mà đoạn trừ, hai thứ cần phải phân biệt: Tức là ở cõi Dục, tùy miên vô minh do thấy khổ-tập mà đoạn trừ, thì nó hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là ở cõi Dục do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải là biến hành, không tương ưng với vô minh.
Thế nào là không phải biến hành? Là ở cõi Dục do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải là biến hành, tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Sắc có bao nhiêu thứ là biến hành do tu mà đoạn trừ, bao nhiêu thứ không phải là biến hành cũng không phải do tu mà đoạn trừ?
Đáp: Có mười hai thứ là biến hành do tu mà đoạn trừ, mười bảy thứ không phải là biến hành cũng không do tu mà đoạn trừ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ở cõi Sắc, tùy miên vô minh do thấy khổ-tập mà đoạn trừ, thì nó hoặc là biến hành, hoặc không phải là biến hành.
Thế nào là biến hành? Nghĩa là ở cõi Sắc do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các tùy miên không phải là biến hành, và nó không tương ưng với vô minh.
Thế nào là không phải biến hành? Nghĩa là ở cõi Sắc do thấy khổtập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải là biến hành, và nó tương ưng với vô minh.
Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu thứ duyên hữu lậu và bao nhiêu thứ duyên vô lậu?
Đáp: Có tám mươi thứ duyên hữu lậu, mười hai thứ duyên vô lậu, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các tùy miên vô minh, hoặc là nó duyên hữu lậu, hoặc duyên vô lậu.
Thế nào là duyên hữu lậu? Nghĩa là do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu tương ưng với vô minh.
Thế nào là duyên vô lậu? Nghĩa là do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu không tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên thuộc cõi Dục có bao nhiêu thứ duyên hữu lậu và bao nhiêu thứ duyên vô lậu?
Đáp: Có ba mươi thứ duyên hữu lậu, bốn thứ duyên vô lậu và hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ở cõi Dục do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên vô minh, thì nó hoặc là duyên hữu lậu, hoặc là duyên vô lậu.
Thế nào là duyên hữu lậu? Nghĩa là ở cõi Dục do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu tương ưng với vô minh.
Thế nào là duyên vô lậu? Nghĩa là ở cõi Dục do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu không tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc có bao nhiêu thứ duyên hữu lậu và bao nhiêu thứ duyên vô lậu?
Đáp: Có hai mươi lăm thứ duyên hữu lậu, bốn thứ duyên vô lậu, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ở cõi Sắc do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các tùy miên vô minh, thì nó hoặc là duyên hữu lậu, hoặc là duyên vô lậu.
Thế nào là duyên hữu lậu? Nghĩa là ở cõi Sắc do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu tương ưng với vô minh.
Thế nào là duyên vô lậu? Nghĩa là ở cõi Sắc do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu không tương ưng với vô minh.
Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên, có bao nhiêu thứ duyên hữu vi và bao nhiêu thứ duyên vô vi?
Đáp: Có tám mươi chín thứ duyên hữu vi, sáu thứ duyên vô vi, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên vô minh, thì nó hoặc là duyên hữu vi, hoặc là duyên vô vi.
Thế nào là duyên hữu vi? Nghĩa là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu vi, vì nó tương ưng với vô minh.
Thế nào là duyên vô vi? Nghĩa là do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu vi, vì nó không tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi sáu tùy miên ở cõi Dục có bao nhiêu thứ duyên hữu vi và bao nhiêu thứ duyên vô vi?
Đáp: Có ba mươi ba thứ duyên hữu vi, hai thứ duyên vô vi và một thứ cần phân biệt: Nghĩa là ở cõi Dục do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên vô minh, thì nó hoặc là duyên hữu vi, hoặc là duyên vô vi.
Thế nào là duyên hữu vi? Nghĩa là ở cõi Dục do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu vi tương ưng với vô minh.
Thế nào là duyên vô vi? Nghĩa là ở cõi Dục do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu vi, không tương ưng với vô minh.
Hỏi: Ba mươi mốt tùy miên thuộc cõi Sắc có bao nhiêu thứ duyên hữu vi và bao nhiêu thứ duyên vô vi?
Đáp: Có hai mươi tám thứ duyên hữu vi, hai thứ duyên vô vi, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là ở cõi Sắc khi thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên vô minh, thì nó hoặc là duyên hữu vi, hoặc là duyên vô vi.
Thế nào là duyên hữu vi? Nghĩa là ở cõi Sắc do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu vi tương ưng với vô minh.
Thế nào là duyên vô vi? Nghĩa là ở cõi Sắc do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu vi không tương ưng với vô minh.
Ba mươi mốt tùy miên ở cõi Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Chín mươi tám tùy miên có bao nhiêu thứ là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ là tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Là sở duyên vốn là tùy tăng mà không tương ưng, tức là không có tương ưng.
Tùy tăng mà không phải là sở duyên, nghĩa là tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng, nghĩa là tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng, nghĩa là không có.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc các cõi Dục- cõi Sắc – cõi Vô sắc cũng như thế.
Có hai mươi pháp: Là pháp do thấy khổ mà đoạn trừ, pháp do thấy tập mà đoạn trừ, pháp do thấy diệt mà đoạn trừ, pháp do thấy đạo mà đoạn trừ, pháp do tu mà đoạn trừ. Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc cõi Dục – Sắc và Vô sắc cũng thế.
Hỏi: Đối với pháp do thấy khổ mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy khổ mà đoạn trừ hết thảy, và do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do thấy tập mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy tập mà đoạn trừ hết thảy, và do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do thấy diệt mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ hết thảy, cùng tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do thấy đạo mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy đạo mà đoạn trừ hết thảy, và các tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp do tu mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do tu mà đoạn trừ tất cả và các thứ tùy miên biến hành.
Như không thuộc cõi nào, thuộc cõi Dục- Sắc hay Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Đối với pháp do thấy khổ mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành và do thấy diệt-đạo, tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do thấy tập mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ
tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng nên là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng nên là tùy tăng mà không phải là sở duyên: La không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo, tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng nên là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng nên là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy đạo và tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do thấy đạo mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng nên là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng nên là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy đạo mà đoạn trừ các tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng: Là do thấy đạo mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt- tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp do tu mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng nên là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc cõi Dục, Sắc hay Vô sắc cũng như thế.
********
Có hai mươi pháp chỉ: Tức là pháp chỉ do thấy khổ mà đoạn trừ, pháp chỉ do thấy tập mà đoạn trừ, pháp chỉ do thấy diệt mà đoạnn trừ, pháp chỉ do thấy đạo mà đoạn trừ, pháp chỉ do thấy tu mà đoạn trừ. Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc cõi Dục- Sắc và Vô sắc cũng thế.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy khổ mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Pháp chỉ do thấy khổ mà đoạn trừ, không phải là tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy tập mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Pháp chỉ do thấy tập mà đoạn trừ, không phải là tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy diệt mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Pháp chỉ do thấy diệt mà đoạn trừ, là tất cả các thứ tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy đạo mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Pháp chỉ do thấy đạo mà đoạn trừ, là tất cả các thứ tùy miên.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do tu mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Pháp chỉ do tu mà đoạn trừ, là tất cả các thứ tùy miên.
Như không thuộc vào cõi nào, thuộc các cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy khổ mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng: Không có.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Cũng không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là chỉ do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải biến hành.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Cũng không có.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy tập mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Không có.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Cũng không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là chỉ do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên không phải biến hành.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Cũng không có.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng: Không có.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Cũng không có.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy đạo mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng: Không có.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Cũng không có.
Hỏi: Đối với pháp chỉ do thấy tu mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng: Không có.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Cũng không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là chỉ do tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Cũng không có.
Có hai mươi tâm: Tức là tâm do thấy khổ mà đoạn trừ, tâm do thấy tập mà đoạn trừ, tâm do thấy diệt mà đoạn trừ, tâm do thấy đạo mà đoạn trừ, tâm do tu mà đoạn trừ. Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc các cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng thế.
Hỏi: Đối với tâm do thấy khổ mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy khổ mà đoạnn trừ tất cả, và do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Pháp tương ưng với tùy miên biến hành đó, và cùng khởi tâm bất tương ưng hành cũng như thế.
Hỏi: Đối với tâm do thấy tập mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy tập mà đoạn trừ tất cả, và do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Pháp tương ưng với tùy miên biến hành đó, và cùng khởi tâm bất tương ưng hành cũng thế.
Hỏi: Đối với tâm do thấy diệt mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành.
Pháp tương ưng với tùy miên biến hành đó, và cùng khởi tâm bất tương hành cũng thế. Do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với tâm do thấy đạo mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy đạo mà đoạn trừ tất cả và các thứ tùy miên biến hành.
Pháp tương ưng với tùy miên biến hành, và cùng khởi các tâm bất tương ưng hành cũng thế. Do thấy đạo mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với tâm do tu mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do tu mà đoạn trừ tất cả cùng các thứ tùy miên biến hành.
Pháp tương ưng với tùy miên biến hành, cùng khởi các tâm bất tương ưng hành cũng như thế.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc các cõi Dục- Sắc và Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Đối với tâm do thấy khổ mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành
Tương ưng vốn là tùy tăng không phải là sở duyên: Không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt- đạo- tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Pháp tương ưng với tùy miên biến hành cũng vậy, đối với nó đều khởi tâm bất tương ưng hành, vì thấy khổ mà đoạn trừ tất cả, và do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác, không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm do thấy tập mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành
Tương ưng vốn là tùy tăng không phải là sở duyên: Không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Pháp tương ưng với tùy miên biến hành cũng vậy, đối với nó cùng khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy tập mà đoạn trừ tất cả và do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác thì chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ- tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy đạo- tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Pháp tương ưng với tùy miên đó cũng như thế, đối với nó cùng khởi tâm bất tương ưng hành, và do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm do thấy đạo mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy đạo mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy đạo mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Pháp tương ưng với tùy miên đó cũng như thế, vì cùng khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy đạo mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác thì chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm do tu mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Pháp tương ưng với tùy miên kia cũng vậy, đối với nó cùng khởi tâm bất tương ưng hành, do tu mà đoạn trừ tất cả, cùng các thứ tùy miên biến hành.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác thì chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc các cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng như thế.
Có bốn mươi tám tâm: Tâm tương ưng với tà kiến do thấy diệt mà đoạnn.
Tâm tương ưng với nghi do thấy diệt mà đoạnn.
Tâm tương ưng với tà kiến- nghi do thấy diệt mà đoạnn.
Tâm không tương ưng với tà kiến do thấy diệt mà đoạnn.
Tâm không tương ưng với nghi do thấy diệt mà đoạnn.
Tâm không tương ưng với tà kiến -nghi do thấy diệt mà đoạnn.
Tâm thấy đạo mà đoạn cũng vậy.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc các cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng vậy.
Hỏi: Đối với tâm tương ưng với tà kiến do thấy diệt mà đoạnn có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến và nó tương ưng với vô minh, hoặc do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu, hoặc các tùy miên biến hành. Pháp tương ưng với tùy miên đó, và đối với nó cùng khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với tâm tương ưng với nghi do thấy diệt mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi và nó tương ưng với vô minh, hoặc do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu, hoặc các thứ tùy miên biến hành. Đối với các pháp tương ưng với tùy miên cũng thế, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với tâm tương ưng với tà kiến nghi do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến- nghi và vô minh mà nó tương ưng, hoặc do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu, hoặc các tùy miên biến hành. Đối với các pháp tương ưng với tùy miên cũng vậy, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với tâm không tương ưng với tà kiến do thấy diệt mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Trừ tà kiến và vô minh mà nó tương ưng do thấy diệt mà đoạn trừ, còn lại thì thấy diệt mà đoạn hết thảy cùng với tùy miên biến hành. Đối với pháp tương ưng với tùy miên cũng vậy, nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với tâm không tương ưng với nghi do thấy diệt mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Trừ nghi do thấy diệt mà đoạn trừ cùng nghi tương ưng với vô minh, các thứ còn lại thì do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả, và các thứ tùy miên biến hành. Đối với các pháp tương ưng với tùy miên cũng thế, nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Đối với tâm không tương ưng với tà kiến nghi do thấy diệt mà đoạn trừ, có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Trừ ra nghi và vô minh cùng nó tương ưng do thấy diệt mà đoạn trừ, các thứ còn lại thì do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả, và các thứ tùy miên biến hành. Đối với các pháp tương ưng với tùy miên cũng thế, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tâm do thấy đạo mà đoạn trừ cũng như thế.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc về cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng vậy.
Hỏi: Tâm tương ưng với tà kiến do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu, và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là không có.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là trừ ra ra việc thấy diệt mà đoạnn trừ tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng, các thứ khác thì do thấy diệt mà đoạn trừ duyên vô lậu và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ tất cả các tùy miên. Vả lại, do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả tùy miên, đối với pháp mà tùy miên tương ưng cũng thế, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng, còn các thứ tùy miên khác, chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm tương ưng với nghi do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu, và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi và vô minh cùng nó tương ưng.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là không có.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là trừ ra ra việc thấy diệt mà đoạnn trừ các nghi và vô minh cùng nó tương ưng, các thứ còn lại do thấy diệt mà đoạn trừ duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng cũng thế, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng, còn các thứ tùy miên khác thì chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm tương ưng với tà kiến-nghi do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu, và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến-nghi và vô minh cùng nó tương ưng.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là không có.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là trừ ra ra việc thấy diệt mà đoạnn trừ tà kiến-nghi và vô minh cùng nó tương ưng, các thứ khác do thấy diệt mà đoạn trừ duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, do thấy đạo và tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng cũng thế, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng, còn các thứ tùy miên khác thì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm không tương ưng với tà kiến do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là trừ ra ra tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng do thấy diệt mà đoạn trừ, các thứ còn lại đều do thấy diệt mà đoạn trừ là các tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng, hoặc do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, hoặc do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng cũng vậy, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên khi thấy diệt mà đoạnn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác vì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm không tương ưng với nghi do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là trừ ra các nghi và vô minh cùng nó tương ưng do thấy diệt mà đoạn trừ, các thứ còn lại đều do thấy diệt mà đoạn trừ là các tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi và vô minh cùng nó tương ưng, hoặc do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, hoặc do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng cũng vậy, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên khi thấy diệt mà đoạnn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác thì chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Hỏi: Đối với tâm không tương ưng với tà kiến-nghi do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là trừ ra tà kiến-nghi và vô minh cùng nó tương ưng do thấy diệt mà đoạn trừ, các thứ còn lại đều do thấy diệt mà đoạn trừ là các tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến-nghi và vô minh cùng nó tương ưng, hoặc do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, hoặc do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng cũng vậy, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạnn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác thì chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Đối với tâm do thấy đạo mà đoạn trừ cũng như vậy.
Như không hệ thuộc cõi nào, các thứ thuộc cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng như thế.
Có ba mươi sáu tùy miên: Tức là do thấy khổ mà đoạn trừ có mười thứ, thấy tập mà đoạn trừ có bảy thứ, thấy diệt mà đoạnn trừ có bảy thứ, thấy đạo mà đoạn trừ có tám thứ và do tu mà đoạn trừ có bốn thứ.
Mười thứ tùy miên do thấy khổ mà đoạn trừ là: Hữu thân kiến, biên chấp kiến. Thấy khổ mà đoạn trừ là các thứ: Tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi ngờ, tham lam, sân hận, kiêu mạn và vô minh.
Bảy thứ tùy miên do thấy tập mà đoạn trừ là: Tà kiến, kiến thủ, nghi ngờ, tham lam, sân giận, kiêu mạn, vô minh.
Bảy thứ tùy miên do thấy diệt mà đoạn trừ là: Tà kiến, kiến thủ, nghi ngờ, tham lam, sân giận, kiêu mạn, vô minh.
Tám thứ tùy miên do thấy đạo mà đoạn trừ là: Tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi ngờ, tham lam, sân hận, kiêu mạn, vô minh.
Bốn thứ tùy miên do tu mà đoạn trừ là: Tham lam, sân hận, kiêu mạn, vô minh.
Hỏi: Hữu thân kiến có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả và do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành. Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng cùng nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành cũng như thế.
Như nói về hữu thân kiến; biên chấp kiến, do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi ngờ, tham lam, sân giận, kiêu mạn, vô minh… cũng như thế.
Hỏi: Tà kiến do thấy tập mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy tập mà đoạn trừ tất cả và thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành. Đối với pháp mà tùy miên tương ưng cùng nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành thì cũng vậy.
Như nói về thấy tập mà đoạn trừ tà kiến; các thứ kiến thủ, nghi ngờ, tham lam, sân giận, kiêu mạn, vô minh cũng như thế.
Hỏi: Tà kiến do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến tương ưng với vô minh, và do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ duyên hữu lậu cùng các tùy miên biến hành. Đối với pháp mà tùy miên tương ưng do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng, hoặc do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, hoặc các tùy miên biến hành, vì nó đều khởi tâm bất tương ưng hành. Do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành, do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi ngờ cũng vậy.
Hỏi: Kiến thủ do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng và vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành cũng như thế.
Do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tham lam, giận dữ, kiêu mạn cũng như vậy.
Hỏi: Vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các vô minh duyên vô lậu, các thứ còn lại đều là do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành. Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng, thì do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Do thấy đạo mà đoạn trừ cũng như thế.
Hỏi: Tham lam do tu mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do tu mà đoạn trừ tất cả cùng các thứ tùy miên biến hành. Đối với các pháp mà tùy miên tương ưng vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành thì cũng thế.
Do tu mà đoạn trừ giận dữ, kiêu mạn, vô minh cũng vậy.
Hỏi: Đối với hữu thân kiến: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là trừ ra việc hữu thân kiến tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả và do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là hữu thân kiến tương ưng với vô minh.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, trừ ra hữu thân kiến tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả, và do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Do tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên, thì không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do hữu thân kiến và vô minh cùng nó tương ưng.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với chúng luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả, và do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Các thứ tùy miên khác thì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng.
Cũng như hữu thân kiến; biên chấp kiến, các thứ do thấy khổ mà đoạn trừ: Tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi ngờ, tham lam, giận dữ, kiêu mạn… cũng như thế.
Hỏi: Vô minh do thấy khổ mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là là do thấy khổ mà đoạn trừ vô minh và do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là trừ ra do thấy khổ mà đoạn trừ vô minh, các thứ còn lại đều do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp mà nó tương ưng, thì sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Không có.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên thấy khổ mà đoạnn trừ tất cả các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác thì chúng không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng.
Hỏi: Tà kiến do thấy tập mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là trừ ra việc do thấy tập mà đoạn trừ tà kiến tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy tập mà đoạn trừ tất cả và do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các tà kiến tương ưng với vô minh.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là trừ ra do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng, các thứ còn lại đều do thấy tập mà đoạn trừ tất cả và do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy tập mà đoạn trừ tất cả và do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các tùy miên khác thì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng.
Như do thấy tập mà đoạn trừ tà kiến; kiến thủ, nghi ngờ, tham lam, sân giận và kiêu mạn cũng như thế.
Hỏi: Vô minh do thấy tập mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ vô minh, và do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là trừ ra việc do thấy tập mà đoạn trừ vô minh, các thứ khác đều do thấy tập mà đoạn trừ tất cả tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy tập mà đoạn trừ các thứ tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy khổ mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên khi thấy tập mà đoạn trừ tất cả, và do thấy khổ mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các tùy miên khác thì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng.
Hỏi: Tà kiến do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến tương ưng với vô minh.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả tà kiến tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tà kiến tương ưng với vô minh.
Vì sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là trừ ra thấy diệt mà đoạnn trừ tà kiến tương ưng với vô minh. Các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Còn các tùy miên khác thì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi cũng như thế.
Hỏi: Kiến thủ do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các kiến thủ tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các kiến thủ tương ưng với vô minh.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ duyên vô lậu, và do thấy khổtập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là trừ ra thấy diệt mà đoạnn trừ kiến thủ tương ưng với vô minh, các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng cũng là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các kiến thủ tương ưng với vô minh.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng cũng không phải là tương ưng: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ duyên vô lậu, và do thấy khổtập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó đều luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ được các thứ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác, không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tham lam, giận dữ và kiêu mạn cũng như thế.
*******
Hỏi: Vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là trừ ra thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên vô lậu, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu. Còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạotu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng, là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, và do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng.
Còn các tùy miên khác thì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng.
Do thấy đạo mà đoạn trừ cũng như thế.
Hỏi: Tham do tu mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các tham lam tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là do tu mà đoạn trừ các tham tương ưng với vô minh.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn tùy tăng mà không phải là tương ưng, là trừ ra do tu mà đoạn trừ tất cả, cùng với các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là do tu mà đoạn trừ các tham tương ưng với vô minh.
Không phải sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng, là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, và do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ tất cả các tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên biến hành. Là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, còn các thứ tùy miên khác thì không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng.
Do tu mà đoạn trừ các thứ sân giận, kiêu mạn cũng thế.
Hỏi: Vô minh do tu mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do tu mà đoạn trừ vô minh và các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là trừ ra do tu mà đoạn trừ vô minh, các thứ khác đều do tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là do thấy tập-khổ mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Đối với pháp mà tùy miên tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là do tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, và do thấy diệt-đạo mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do tu đạo mà đoạn trừ tất cả, và các thứ tùy miên biến hành, sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Còn các tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng.
Có bốn mươi tám thứ vô minh: Tức là thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến tương ưng với vô minh. Thấy diệt mà đoạn trừ các thứ nghi tương ưng với vô minh. Thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến và nghi tương ưng với vô minh. Thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến không tương ưng với vô minh. Thấy diệt mà đoạn trừ các nghi không tương ưng với vô minh. Thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và nghi không tương ưng với vô minh.
Thấy đạo mà đoạn trừ cũng vậy. Không hệ thuộc cõi nào, thuộc về cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng như thế.
Hỏi: Tà kiến tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến, và thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, cùng các thứ tùy miên biến hành. Đối với pháp mà nó tương ưng, do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến tương ưng với vô minh, hoặc thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, hoặc các thứ tùy miên biến hành. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Nghi tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi ngờ, và do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, cùng các tùy miên biến hành. Đối với pháp mà nó tương ưng, do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi ngờ tương ưng với vô minh, hoặc thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, hoặc các thứ tùy miên biến hành. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu cùng các tùy miên biến hành.
Hỏi: Tà kiến-nghi tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến-nghi, và do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, cùng các thứ tùy miên tùy miên biến hành. Đối với pháp mà nó tương ưng, do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tà kiến và các nghi tương ưng với vô minh, hoặc do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, hoặc các tùy miên biến hành, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, cùng các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Tà kiến không tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi, và do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu, cùng các tùy miên biến hành. Nơi pháp tương ưng, trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến và vô minh cùng nó tương ưng, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Hỏi: Nghi không tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến, và do thấy diệt mà
đoạn trừ các duyên hữu lậu, cùng các tùy miên biến hành. Đối với pháp mà nó tương ưng, trừ ra thấy diệt mà đoạn trừ các nghi tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả cùng các tùy miên biến hành, vì nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Hỏi: Tà kiến-nghi không tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ có bao nhiêu thứ tùy miên tùy tăng?
Đáp: Do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Đối với pháp mà nó tương ưng, trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến và nghi tương ưng với vô minh, các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ tất cả cùng các thứ tùy miên biến hành. Đối với nó đều luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ được các duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Do thấy đạo mà đoạn trừ cũng như thế.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc các cõi Dục-Sắc-Vô sắc cũng như vậy.
Hỏi: Tà kiến tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là Không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Đối với pháp tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến tương ưng với vô minh.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là Không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó đều luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng.
Hỏi: Nghi tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ nghi ngờ.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là Không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Đối với pháp tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi tương ưng với vô minh.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là Không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó đều luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng.
Hỏi: Tà kiến-nghi tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và nghi ngờ.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là Không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và các nghi, các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các tùy miên.
Đối với pháp tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến và nghi tương ưng với vô minh.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là Không có điều này.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và các nghi tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng.
Hỏi: Tà kiến không tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ nghi, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu, và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến tương ưng với vô minh, hoặc do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, hoặc do thấy đạo và tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó đều luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng.
Hỏi: Nghi không tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các tà kiến, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu và do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các nghi tương ưng với vô minh, hoặc do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, hoặc do thấy đạo và tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó đều luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng.
Hỏi: Tà kiến-nghi không tương ưng với vô minh do thấy diệt mà đoạn trừ: Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng? Có bao nhiêu thứ tùy miên không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng?
Đáp: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu và các thứ tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là không có điều này.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ vô minh duyên hữu lậu, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên vô lậu, do thấy khổtập mà đoạn trừ các thứ không phải là biến hành, cũng do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên.
Đối với pháp tương ưng: Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng, là các tùy miên biến hành.
Tương ưng vốn là tùy tăng mà không phải là sở duyên: Là trừ ra do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và nghi tương ưng với vô minh, còn các thứ khác đều do thấy diệt mà đoạn trừ các thứ tùy miên duyên vô lậu.
Sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng là tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ các tùy miên duyên hữu lậu.
Không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải tương ưng, là do thấy diệt mà đoạn trừ tà kiến và nghi tương ưng với vô minh, hoặc do thấy khổ-tập mà đoạn trừ các thứ không phải biến hành, hoặc do thấy đạo-tu mà đoạn trừ tất cả các thứ tùy miên. Đối với nó đều luôn khởi tâm bất tương ưng hành, nên do thấy diệt mà đoạn trừ các duyên hữu lậu và các tùy miên biến hành. Sở duyên vốn là tùy tăng mà không phải là tương ưng. Còn các thứ tùy miên khác không phải là sở duyên vốn là tùy tăng mà cũng không phải là tương ưng.
Do thấy đạo mà đoạn trừ cũng như thế.
Như không hệ thuộc cõi nào, thuộc các cõi Dục-Sắc-Vô sắc thì cũng như vậy.
Hỏi: Các thứ tùy miên duyên hữu lậu, thì các tùy miên ấy tương ưng với sở được duyên nên là tùy tăng chăng?
Đáp: Hoặc là tùy miên tương ưng với sở được duyên nên là tùy tăng, tức các tùy miên ấy duyên hữu lậu. Có tùy miên duyên hữu lậu thì tùy miên ấy không tương ưng với sở được duyên, nên là tùy tăng. Nghĩa là tùy miên biến hành duyên nơi cảnh giới khác. Việc này như thế nào? Tức là các tùy miên thuộc cõi Dục duyên nơi cõi Sắc. Hoặc các tùy miên thuộc cõi Dục duyên nơi cõi Vô sắc. Hoặc các tùy miên thuộc cõi Sắc duyên nơi cõi Vô sắc. Hoặc các tùy miên thuộc cõi Dục duyên nơi cõi Sắc-cõi Vô sắc.
Duyên nơi cõi khác cũng vậy.
Hỏi: Các thứ tùy miên duyên vô lậu, thì các tùy miên tương ưng đó vốn là tùy tăng chăng?
Đáp: Hoặc là tùy miên duyên vô lậu là tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng. Hoặc có tùy miên tương ưng vốn là tùy tăng, nhưng tùy miên ấy không phải duyên vô lậu, đó là tùy miên biến hành duyên nơi cõi khác. Đây nghĩa là gì? Nghĩa là các thứ tùy miên thuộc cõi Dục duyên nơi cõi Sắc, hoặc các tùy miên thuộc cõi Dục duyên nơi cõi Vô sắc, hoặc các thứ tùy miên thuộc cõi Sắc duyên nơi cõi Vô sắc, hoặc các tùy miên thuộc cõi Dục duyên nơi cõi Sắc hay Vô sắc.
Duyên nơi khác cũng vậy.