LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHẨM LOẠI TÚC
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Phẩm 7: THIÊN VẤN BIỆN

(Biện về ngàn câu hỏi)

Học xứ, tịnh, quả, hành, Thánh chủng,
Chánh đoạn, thần túc, niệm trụ, đế,
Tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, định,
Giác phần, căn, xứ, uẩn, giới, kinh.
Học xứ tức là năm học xứ của người cận sự (cư sĩ).
Tịnh tức là bốn chứng tịnh.
Quả tức là bốn quả Sa-môn.
Hành tức là bốn thông hành.
Thánh chủng tức là bốn Thánh chủng.
Chánh đoạn tức là bốn chánh đoạn.
Thần túc tức là bốn thần túc.
Niệm trụ tức là bốn niệm trụ.
Đế tức là bốn Thánh đế.
Tĩnh lự tức là bốn tĩnh lự.
Vô lượng tức là bốn tâm vô lượng.
Vô sắc tức là bốn vô sắc.
Định tức là bốn tu định.
Giác phần tức là bảy giác chi.
Căn tức là hai mươi hai căn.
Xứ tức là mười hai xứ.
Uẩn tức là năm uẩn.
Giới tức là mười tám giới.
Kinh tức là trong bài tụng.

Trước có chín thứ, sau cũng có chín thứ, gọi chung thành nhất hợp, có hai mươi kinh. Dựa vào mỗi mỗi kinh mà đặt thành năm mươi câu hỏi.

Lại như dựa vào kinh năm học xứ của cận sự, đặt ra năm mươi câu hỏi như:

Đối với năm học xứ:

Bao nhiêu thứ có sắc, bao nhiêu thứ không có sắc?

Bao nhiêu thứ có thấy, bao nhiêu thứ không thấy?

Bao nhiêu thứ có đối, bao nhiêu thứ không đối?

Bao nhiêu thứ hữu lậu, bao nhiêu thứ vô lậu?

Bao nhiêu thứ hữu vi, bao nhiêu thứ vô vi?

Bao nhiêu thứ có dị thục, bao nhiêu thứ không có dị thục?

Bao nhiêu thứ là duyên sinh, là nhân sinh, là thuộc về thế gian; bao nhiêu thứ không phải là duyên sinh, không phải nhân sinh, không phải thuộc về thế gian?

Bao nhiêu thứ thuộc về sắc, bao nhiêu thứ thuộc về danh?

Bao nhiêu thứ thuộc nội xứ, bao nhiêu thứ thuộc ngoại xứ?

Bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp? Bao nhiêu thứ không phải là trí biết khắp về những gì được biết khắp?

Đối với năm học xứ:

Bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, bao nhiêu thứ không phải đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp?

Bao nhiêu thứ cần đoạn dứt và bao nhiêu thứ không cần đoạn dứt?

Bao nhiêu thứ cần tu, bao nhiêu thứ không cần tu?

Bao nhiêu thứ là nhiễm ô, bao nhiêu thứ không nhiễm ô?

Bao nhiêu thứ là quả mà không phải có quả, bao nhiêu thứ có quả mà không phải là quả? Bao nhiêu thứ là quả mà cũng là có quả, bao nhiêu thứ không phải là quả cũng không phải có quả?

Bao nhiêu thứ có chấp thọ, bao nhiêu thứ không có chấp thọ?

Bao nhiêu thứ do các đại tạo nên, bao nhiêu thứ không do các đại tạo nên?

Bao nhiêu thứ có trên, bao nhiêu thứ không có trên?

Bao nhiêu thứ là có, bao nhiêu thứ không phải là có?

Bao nhiêu thứ có nhân tương ưng, bao nhiêu thứ không có nhân tương ưng?

Đối với năm học xứ:

Có sáu thâu nhiếp xứ thiện, tức là năm uẩn thiện và trạch diệt. Vậy sáu xứ thiện thâu nhiếp năm học xứ hay năm học xứ thâu nhiếp sáu xứ thiện?

Có năm thâu nhiếp xứ bất thiện, tức là năm uẩn bất thiện. Vậy năm xứ bất thiện thâu nhiếp năm học xứ hay năm học xứ thâu nhiếp năm xứ bất thiện?

Có bảy thâu nhiếp xứ vô ký, tức là năm uẩn vô ký và hư không- phi trạch diệt. Vậy bảy xứ vô ký thâu nhiếp năm học xứ, hay năm học xứ thâu nhiếp bảy xứ vô ký?

Có ba thâu nhiếp xứ lậu, tức là lậu dục – lậu hữu – lậu vô sinh. Vậy ba xứ lậu thâu nhiếp năm học xứ hay năm học xứ thâu nhiếp ba xứ lậu?

Có năm thâu nhiếp xứ hữu lậu, tức là năm uẩn hữu lậu. Vậy năm

xứ hữu lậu thâu nhiếp năm học xứ hay năm học xứ thâu nhiếp năm xứ hữu lậu?

Có tám thâu nhiếp xứ vô lậu, tức là năm uẩn vô lậu và ba thứ vô vi. Vậy tám xứ vô lậu thâu nhiếp năm học xứ hay năm học xứ thâu nhiếp tám xứ vô lậu?

Năm học xứ này có bao nhiêu thứ ở quá khứ, bao nhiêu thứ ở vị lai, bao nhiêu thứ ở hiện tại? Có bao nhiêu thứ không phải ở quá khứ, bao nhiêu thứ không phải ở vị lai, bao nhiêu thứ không phải ở hiện tại?

Có bao nhiêu thứ thiện, bất thiện, vô ký?

Có bao nhiêu thứ ở cõi Dục, ở cõi Sắc, ở cõi Vô sắc và không hệ thuộc cõi nào? Có bao nhiêu thứ học, vô học và phi học phi vô học?

Đối với năm học xứ:

Có bao nhiêu thứ do thấy mà đoạn, do tu mà đoạn và bao nhiêu thứ không có gì phải đoạn?

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm, tâm sở, tâm tương ưng? Có bao nhiêu thứ là tâm, tâm sở cùng tâm tương ưng? Có bao nhiêu thứ chỉ là tâm?

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển không phải là thọ tương ưng? Có bao nhiêu thứ là thọ tương ưng không phải là tùy tâm chuyển? Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà cũng là thọ tương ưng? Có bao nhiêu thứ không phải là tùy tâm chuyển cũng không phải là thọ tương ưng?

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không phải là tưởng- hành tương ưng? Có bao nhiêu thứ là tưởng- hành tương ưng mà không phải là tùy tâm chuyển? Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển- cũng là tưởng, hành tương ưng? Có bao nhiêu thứ không phải là tùy tâm chuyển, cũng không phải là tưởng- hành tương ưng?

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không phải là tứ tương ưng? Có bao nhiêu thứ là tứ tương ưng mà không phải là tùy tầm chuyển? Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà cũng là tứ tương ưng? Có bao nhiêu thứ không phải là tùy tầm chuyển cũng không phải là tứ tương ưng?

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải kiến xứ? Có bao nhiêu thứ là kiến xứ mà không phải là kiến? Có bao nhiêu thứ là kiến mà cũng là kiến xứ? Có bao nhiêu thứ không phải là kiến cũng không phải kiến xứ?

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải có nhân của thân kiến? Có bao nhiêu thứ có nhân của thân kiến không phải là có thân kiến làm nhân? Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân cũng có nhân của thân kiến? Có bao nhiêu thứ không phải có thân kiến làm nhân cũng không phải có nhân của thân kiến?

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục? Có bao nhiêu thứ là nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp? Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà cũng là nghiệp dị thục? Có bao nhiêu thứ không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục?

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển? Có bao nhiêu thứ là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp? Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển? Có bao nhiêu thứ không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển?

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được? Có bao nhiêu thứ là sắc thấy được mà không phải do sắc tạo ra? Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà cũng là sắc thấy được? Có bao nhiêu thứ không phải sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được?

Đối với năm học xứ:

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối? Có bao nhiêu thứ là sắc có đối mà không phải do sắc tạo ra? Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà cũng là sắc có đối? Có bao nhiêu thứ không phải do sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối?

Có bao nhiêu thứ khó thấy bởi vì sâu xa? Có bao nhiêu thứ bởi vì sâu xa cho nên khó thấy?

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải thiện làm nhân? Có bao nhiêu thứ do thiện làm nhân mà không phải là thiện? Có bao nhiêu thứ là thiện mà cũng do thiện làm nhân? Có bao nhiêu thứ không phải là thiện mà cũng không phải do thiện làm nhân?

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải bất thiện làm nhân? Có bao nhiêu thứ do bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện? Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân? Có bao nhiêu thứ không phải là bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân?

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải vô ký làm nhân? Có bao nhiêu thứ do vô ký làm nhân mà không phải là vô ký? Có bao nhiêu thứ là vô ký mà cũng do vô ký làm nhân? Có bao nhiêu thứ không phải là vô ký mà cũng không phải vô ký làm nhân?

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải có nhân? Có bao nhiêu thứ có nhân mà không phải là nhân duyên? Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà cũng là có nhân? Có bao nhiêu thứ không phải là nhân duyên mà cũng không phải là có nhân?

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên? Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián duyên mà không phải là đẳng vô gián? Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên? Có bao nhiêu thứ không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên?

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên? Có bao nhiêu thứ có sở duyên mà không phải là sở duyên duyên? Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên? Có bao nhiêu thứ không phải là sở duyên duyên mà cũng không có sở duyên?

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng? Có bao nhiêu thứ có tăng thượng mà không phải là tăng thượng duyên? Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng? Có bao nhiêu thứ không phải là tăng thượng duyên mà cũng không có tăng thượng?

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu? Có bao nhiêu thứ là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu? Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu? Có bao nhiêu thứ không phải bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu?

Cũng như dựa vào học xứ mà đặt ra năm mươi câu hỏi, thì dựa vào mười chín thứ khác (của hai mươi kinh) đặt ra các câu hỏi cũng như thế. (Học xứ -> Giới: Theo cách dịch của Pháp sư Huyền Tráng) – Năm học xứ: Nghĩa là:

  1. Trọn đời luôn lìa bỏ việc giết hại.
  2. Trọn đời luôn lìa bỏ việc trộm cướp.
  3. Trọn đời luôn lìa bỏ việc tà dâm.
  4. Trọn đời luôn lìa bỏ việc nói dối.
  5. Trọn đời luôn lìa bỏ việc uống các thứ rượu.

Đó là năm học xứ của người cận sự (cư sĩ).

Năm học xứ này:

Có bao nhiêu thứ có sắc…? Tất cả đều có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy…? Có một thứ không thấy, bốn thứ cần phân biệt, tức là hoặc biểu hiện có thấy, hoặc biểu hiện không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối, không đối v.v…? Tất cả cần phân biệt, tức là hoặc biểu hiện có đối hoặc biểu hiện không có đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu…? Tất cả đều là hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục…? Tất cả đều có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh…? Tất cả đều là duyên sinh, là nhân sinh, là thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc…? Tất cả đều thuộc về sắc.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Tất cả đều thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Cứ mỗi phần là mười câu hỏi (có bao nhiêu), nếu thiếu là do bản

Hán thiếu, hoặc do người nhuận văn sót Năm học xứ này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp. Có bao nhiêu thứ nên đoạn dứt v.v…? Tất cả đều nên đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo ra v.v…? Tất cả đều do các đại tạo ra.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả đều là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả đều là nhân không tương ưng.

Năm học xứ này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau: Có phần ít của một xứ thiện thâu nhiếp năm học xứ và năm học xứ cũng thâu nhiếp phần ít của một xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp: Là chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp: Là chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau: Là chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau: Là có phần ít của một xứ hữu lậu thâu nhiếp năm học xứ và năm học xứ cũng thâu nhiếp phần ít của một xứ hữu lậu.

Cùng tám thứ vô lậu thâu nhiếp nhau: Là chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Có bao nhiêu thứ ở quá khứ v.v…? Tất cả hoặc là quá khứ, hoặc hiện tại hay vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả năm thứ đều thiện.

Có bao nhiêu thứ ở cõi Dục v.v…? Tất cả đều ở cõi Dục.

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Tất cả đều là phi học phi vô học.

Năm học xứ này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả đều do tu đạo mà đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả đều không phải là tâm – tâm sở – tâm tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không phải là thọ tương ưng v.v…? Tất cả đều không phải tùy tâm chuyển mà cũng không phải là thọ tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không phải là tưởng- hành tương ưng v.v…? Tất cả đều không phải tùy tâm chuyển mà cũng không phải là hành- tưởng tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không phải là tứ tương ưng v.v…? Tất cả đều không phải tùy tầm chuyển mà cũng không phải là tứ tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải kiến xứ v.v…? Tất cả đều là kiến xứ mà không phải là kiến.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả đều không phải có thân kiến làm nhân, mà cũng không phải có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển.

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Có một thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, còn bốn thứ cần phân biệt, tức là hoặc biểu hiện là sắc tạo ra mà cũng là sắc thấy được, hoặc không biểu hiện là sắc được tạo ra mà không phải sắc thấy được.

Năm học xứ này:

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả cần phân biệt, tức là hoặc có biểu hiện là sắc được tạo ra mà cũng là sắc có đối, hoặc không biểu hiện là sắc được tạo ra mà không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ khó thấy cho nên bảo là sâu xa v.v…? Tất cả đều khó thấy cho nên bảo là sâu xa, và vì quá sâu xa cho nên khó nhìn thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện và cũng do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện và không phải bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện, cũng không phải do bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải do vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải vô ký mà cũng không phải do vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả đều không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả đều là sở duyên duyên mà không có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả đều là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu.

– Bốn chứng tịnh: Tức là Phật chứng tịnh, Pháp chứng tịnh, Tăng chứng tịnh, và bậc Thánh quý trọng giới hạnh chứng tịnh.

Bốn chứng tịnh này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Có một thứ có sắc, ba thứ không có sắc.

Có bao nhiêu thứ thấy được v.v…? Tất cả đều không thấy được.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không có đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả đều vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả đều không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh, là nhân sinh, là thuộc về thế đế.

Có bao nhiêu thứ do sắc thâu nhiếp v.v…? Có một thứ do sắc thâu nhiếp, ba thứ do danh thâu nhiếp.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Tất cả đều thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn chứng tịnh này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều không phải là đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ cần đoạn dứt v.v…? Tất cả đều không nên đoạn dứt (đoạn trừ).

Có bao nhiêu thứ cần tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo ra v.v…? Có một thứ do các đại tạo ra, ba thứ không do các đại tạo ra.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả đều không phải là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Có một thứ là nhân không tương ưng, ba thứ là nhân tương ưng.

Bốn chứng tịnh này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau: Là phần ít của hai xứ thiện thâu nhiếp bốn chứng tịnh và bốn chứng tịnh cũng thâu nhiếp phần ít của hai xứ thiện.

Cùng với năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau: Chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau: Chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba lậu xứ thâu nhiếp nhau: Chúng cũng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng với năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau: Chúng cũng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau: Có một xứ vô lậu hoàn toàn, phần ít của một xứ vô lậu thâu nhiếp bốn chứng tịnh và bốn chứng tịnh cũng thâu nhiếp một xứ vô lậu hoàn toàn và phần ít của một xứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc về quá khứ v.v…? Tất cả đều thuộc về hoặc quá khứ, hiện tại hay vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả bốn chứng tịnh đều thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả đều không hệ thuộc cõi nào.

Có bao nhiêu thứ học v.v…? Tất cả nên phân biệt. Tức là Phật chứng tịnh hoặc học, hoặc vô học. Vì sao là học? Nghĩa là tác ý học tương ưng với Phật chứng tịnh. Vì sao là vô học? Nghĩa là tác ý vô học tương ưng với Phật chứng tịnh. Pháp và Tăng chứng tịnh cũng thế. Còn Thánh quý trọng giới hạnh thì cũng hoặc học, hoặc là vô học. Thế nào là học? Nghĩa là các nghiệp thân và ngữ hữu học. Thế nào là vô học?

Nghĩa là các nghiệp thân và ngữ vô học.

Bốn chứng tịnh này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả đều không cần phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Có một thứ không phải là tâm, không phải là tâm pháp, không phải là tâm tương ưng, còn lại ba thứ là tâm sở tương ưng với tâm.

Có bao nhiêu thứ tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Có một thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ. Còn lại ba thứ tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ.

Có bao nhiêu thứ tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành? Có một tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng. Còn lại ba tùy tâm chuyển tương ưng với tưởng; mật tùy tâm chuyển không tương ưng với hành, còn lại ba tùy tâm chuyển cũng tương ưng với hành, trừ tự tánh của nó ra.

Có bao nhiêu thứ tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả nên phân biệt: Nghĩa là Phật chứng tịnh hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm mà chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Thế nào là có tầm có tứ? Nghĩa là có tầm có tứ tác ý tương ưng với Phật chứng tịnh.

Thế nào là không có tầm chỉ có tứ? Nghĩa là không có tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với Phật chứng tịnh.

Thế nào là không có tầm không có tứ? Nghĩa là không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với Phật chứng tịnh.

Pháp và Tăng chứng tịnh cũng thế.

Còn Thánh quý trong giới hạnh hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ.

Thế nào là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ? Nghĩa là tùy tầm chuyển từ nghiệp vô lậu của thân và ngữ.

Thế nào là không phải tầm chuyển mà không tương ưng với tứ? Nghĩa là không tùy tầm chuyển các nghiệp vô lậu của thân và ngữ.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả không phải kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả đều không có thân kiến làm nhân cũng không phải có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Có một thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, ba thứ còn lại không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Có một thứ là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, còn lại ba thứ là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Có một thứ là sắc được tạo ra mà không phải là sắc thấy được, còn lại ba thứ không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được.

******

Bốn chứng tịnh này:

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Có một thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, còn ba thứ kia không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ vì khó thấy nên bảo là sâu xa v.v…? Tất cả đều khó thấy bởi vì rất sâu xa, vì quá sâu xa cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện mà cũng đều do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải do bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện mà cũng không phải do bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải do vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải là vô ký mà cũng không phải do vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên? Có một thứ không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, còn lại ba thứ cần phân biệt: Tức là Phật chứng tịnh hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên.

Thế nào là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên? Nghĩa là từ vị lai mà hiện đang khởi lên Phật chứng tịnh.

Thế nào là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên? Nghĩa là Phật chứng tịnh ở quá khứ và hiện tại.

Thế nào là không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên? Nghĩa là trừ ra vị lai mà hiện tiền khởi lên Phật chứng tịnh, còn lại là Phật chứng tịnh ở các thời vị lai khác.

Pháp và Tăng chứng tịnh cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Có một thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn ba thứ kia là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng đều có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả đều không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu.

– Bốn quả Sa-môn: Tức là quả Dự lưu, quả Nhất lai, quả Bất hoàn và quả A-la-hán.

Bốn quả Sa-môn này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các quả Sa-môn đã thâu nhiếp các nghiệp của thân và ngữ, đó là có sắc, còn lại đều không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Tất cả đều không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không có đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả đều vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả nên phân biệt: Nghĩa là với quả Dự lưu hoặc hữu vi, hoặc vô vi. Thế nào là hữu vi? Nghĩa là quả Dự lưu thâu nhiếp năm uẩn. Thế nào là vô vi? Nghĩa là quả Dự lưu thâu nhiếp trạch diệt.

Các quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả đều không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là quả Sa-môn hữu vi đều là duyên sinh, là nhân sinh, là đời thâu nhiếp, còn quả Sa-môn vô vi thì không phải là duyên sinh, là nhân sinh, là đời thâu nhiếp.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả nên phân biệt, tức là quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp thân và ngữ nên thuộc về sắc, còn lại đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc nội xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các quả Sa-môn thâu nhiếp cả tâm – ý – thức, là thuộc nội xứ. Còn lại đều thuộc ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn quả Sa-môn này:

Có bao nhiêu thứ đoạn trừ sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều không phải đoạn trừ sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn trừ v.v…? Tất cả đều không nên đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là quả Sa-môn hữu vi thì nên tu. Còn nếu quả Sa-môn vô vi thì không nên tu.

Có bao nhiêu thứ nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là quả Sa-môn hữu vi thì quả mà cũng là có quả. Còn quả Sa-môn vô vi thì quả mà không phải là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp của thân và ngữ, là do các đại tạo nên. Còn lại đều không phải do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là nếu quả Sa-môn hữu vi thì có trên, nếu quả Sa-môn vô vi thì không có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả đều không phải là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là nếu quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp của thân và ngữ, tâm bất tương ưng hành và trạch diệt là nhân không tương ưng. Còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn quả Sa-môn này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau: Phần ít của sáu xứ thiện thâu nhiếp bốn quả Sa-môn và bốn quả Sa-môn cũng thâu nhiếp phần ít của sáu xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau: Chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau: Chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau: Chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau: Chúng không thâu nhiếp lẫn.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau: Trong tám xứ thì có phần ít của sáu xứ vô lậu thâu nhiếp bốn quả Sa-môn và bốn quả Sa-môn cũng thâu nhiếp phần ít của sáu xứ vô lậu trong tám xứ ấy.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là nếu quả Sa-môn hữu vi thì có mặt ở quá khứ, hiện tại, vị lai. Nếu quả Sa-môn vô vi thì không hề có mặt ở quá khứ, hiện tại, vị lai.

Có bao nhiêu thứ thiện v.v…? Tất cả đều là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả đều không hệ thuộc cõi nào (bất hệ).

Có bao nhiêu thứ học v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là quả Dự lưu hoặc học, hoặc phi học phi vô học.

Thế nào là học? Tức là quả Dự lưu hữu vi. Thế nào là phi học phi vô học? Đó là quả Dự lưu vô vi.

Các quả Nhất lai, Bất hoàn cũng thế.

Quả A-la-hán hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học. Thế nào là vô học? Tức là quả A-la-hán hữu vi. Thế nào là phi học phi vô học? Đó là quả A-la-hán vô vi.

Bốn quả Sa-môn này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn v.v…? Tất cả không có gì đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là nếu các quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp của thân và ngữ, tâm bất tương ưng hành và trạch diệt, thì không phải là tâm- tâm sở- tâm bất tương ưng. Nếu các quả ấy là thọ uẩn tưởng uẩn và tương ưng với hành uẩn, thì tương ưng với tâm và tâm sở. Nếu là tâm – ý – thức thì chỉ là tâm mà thôi.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là quả Dự lưu có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là quả Dự lưu thâu nhiếp các nghiệp của thân ngữ và tùy tâm chuyển, tâm bất tương ưng hành, cùng thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, tức là quả Dự lưu thâu nhiếp tâm-ý-thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, nghĩa là quả Dự lưu thâu nhiếp tưởng uẩn và tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, nghĩa là trừ ra quả Dự lưu thâu nhiếp tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại thì quả Dự lưu thâu nhiếp tâm bất tương hành và trạch diệt.

Các quả Nhất lai, Bất hoàn, A-la-hán cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là trừ tự tánh ra, đều như thọ nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là quả Dự lưu cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là quả Dự lưu thâu nhiếp các nghiệp của thân-ngữ và tùy tầm chuyển, tâm bất tương ưng hành, cùng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, nghĩa là quả Dự lưu thâu nhiếp cả tầm.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là quả Dự lưu thâu nhiếp tầm- tứ tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, nghĩa là trừ ra quả Dự lưu thâu nhiếp tùy tầm chuyển -tâm bất tương ưng hành, còn lại là quả Dự lưu thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành và trạch diệt.

Quả Nhất lai cũng thế.

Quả Bất hoàn cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, là quả Bất hoàn thâu nhiếp các nghiệp thân và ngữ, tùy tầm chuyển, và tùy tầm chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, cùng tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, là quả Bất hoàn thâu nhiếp tầm, và tầm không tương ưng với tứ mà tương ưng với tâm và tâm sở.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển cũng tương ưng với tứ, là quả Bất hoàn thâu nhiếp cả tầm- tứ tương ưng với tâm và tâm sở.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, là trừ ra quả Bất hoàn thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ tùy tầm chuyển và tâm bất tương ưng hành. Còn lại các quả Bất hoàn thâu nhiếp nghiệp thân ngữ, tâm bất tương ưng hành, và quả Bất hoàn thâu nhiếp tầm mà không tương ưng với tứ, hoặc không có cả tầm, tứ, tâm, tâm sở và trạch diệt.

Quả A-la-hán cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là khi quả Dự lưu thâu nhiếp tuệ là kiến mà không phải là kiến xứ, còn lại đều không phải kiến cũng không phải kiến xứ. Quả Nhất lai và quả Bất hoàn cũng thế.

Quả A-la-hán, thâu nhiếp trí tận và vô sinh trí, không thâu nhiếp tuệ, là kiến mà không phải là kiến xứ. Còn lại đều không phải kiến cũng không phải kiến xứ.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là các quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp thân -ngữ và tư, là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục. Còn lại đều không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển? Tất cả cần phân biệt. Tức là quả Dự lưu có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, là quả Dự lưu thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, là quả Dự lưu đã thâu nhiếp các uẩn thọ – tưởng – thức và tư, không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, là quả Dự lưu đã thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra quả Dự lưu thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành và tùy nghiệp chuyển, cỏn lại thì quả Dự lưu thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành và trạch diệt.

Các quả Nhất lai, Bất hoàn và A-la-hán cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là các quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp thân và ngữ, thì đó là sắc đã tạo ra mà không phải là sắc thấy được. Còn lại đều không phải do sắc tạo mà cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn quả Sa-môn này:

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là nếu các quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp của thân và ngữ, là sắc đã tạo ra mà không phải là sắc có đối, còn lại đều không phải là sắc đã tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ khó thấy bởi vì rất sâu xa v.v…? Tất cả đều khó thấy bởi vì rất sâu xa, vì rất sâu xa cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các quả Sa-môn hữu vi thì thiện mà cũng do thiện làm nhân, nếu quả Sa-môn vô vi thì thiện mà không phải là thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải là bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả không phải là bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ vô ký mà không phải vô ký làm nhân v.v…? Tất cả không phải là vô ký mà cũng không phải vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…? Tất cả nên phân biệt, nếu các quả Sa-môn hữu vi thì là nhân duyên mà cũng có nhân, nếu quả Sa-môn vô vi thì không phải nhân duyên mà cũng không phải là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả đều cần phân biệt, nghĩa là các quả Sa-môn hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là quả Sa môn vị lai hiện tại đang khởi lên thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là quả Sa môn quá khứ hiện tại thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ ra vị lai mà hiện tiền khởi lên các quả Sa-môn thâu nhiếp tâm và tâm sở pháp, còn lại các quả Sa-môn ở vị lai đều thâu nhiếp tâm- tâm sở pháp, và các nghiệp thân- ngữ, tâm bất tương ưng hành cùng trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả nên phân biệt. Nếu như các quả Sa-môn thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ – tâm bất tương ưng hành và trạch diệt, thì đó là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng v.v…? Tất cả nên phân biệt. Quả Sa-môn hữu vi, là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng, nếu quả Sa-môn vô vi thì đó là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…?

Tất cả đều không phải là bộc lưu cũng không phải là thuận bộc lưu.

– Bốn thông hành: Tức là:

  1. Khổ trì thông hành.
  2. Khổ tốc thông hành.
  3. Lạc trì thông hành.
  4. Lạc tốc thông hành.

Bốn thông hành này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thông hành nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì có sắc, còn lại đều là không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Tất cả đều là không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều là không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả đều là vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả đều không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh, là nhân sinh, là thuộc thế đế.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thông hành nào thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ thì thuộc về sắc, còn lại thì đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc nội xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thông hành nào thâu nhiếp tâm-ý-thức thì thuộc nội xứ, còn lại thì đều thuộc ngoại xứ.

Có bao nhiêu trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn thông hành này:

Có bao nhiêu thứ cần đoạn dứt các sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều không phải đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn trừ v.v…? Tất cả đều không nên đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thông hành nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì do các đại tạo nên, còn lại thì đều không phải là do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ có v.v…? Tất cả đều không phải là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thông hành nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ và tâm bất tương ưng hành thì đó là nhân không tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn thông hành này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau thì có phần ít năm xứ thiện thâu nhiếp bốn thông hành, và bốn thông hành cũng thâu nhiếp phần ít của năm xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì chúng cũng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng cũng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng cũng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, thì có năm xứ vô lậu thâu nhiếp bốn thông hành, và bốn thông hành cũng thâu nhiếp năm xứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả đều có mặt ở hoặc quá khứ, hiện tại hay vị lai.

Có bao nhiêu thứ thiện v.v…? Tất cả đều là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả đều không hệ thuộc cõi nào.

Có bao nhiêu thứ học v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là bốn thông hành này hoặc học, hoặc vô học. Thế nào là học? Tức là năm uẩn hữu học. Thế nào là vô học? Tức là năm uẩn vô học.

Bốn thông hành này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn v.v…? Tất cả đều không có gì đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả cần nên phân biệt, nghĩa là thông hành nào thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ và tâm bất tương ưng hành thì không tương ưng với tâm, chẳng phải là tâm – tâm sở. Nếu thọ uẩn – tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn thì tâm sở tương ưng với tâm. Nếu là tâm – ý – thức thì chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thông hành, mỗi thứ đều có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, là thông hành thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ và tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành cùng thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, là các thông hành thâu nhiếp cả tâm-ý-thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, là thông hành thâu nhiếp tưởng uẩn và tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không phải tương ưng với thọ, là trừ ra các thông hành thâu nhiếp tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành. Còn lại các thông hành thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là trừ tự tánh của nó ra, thì cũng như thọ nên biết.

Có bao nhiêu thứ tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ? Tất cả nên phân biệt. Nghĩa la khổ trì thông hành gồm có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, là khổ trì thông hành thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, là khổ trì thông hành thâu nhiếp tầm, và tầm không tương ưng với tứ mà tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, là khổ trì thông hành thâu nhiếp tầm – tứ tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, là trừ ra khổ trì thông hành thâu nhiếp các nghiệp của thân- ngữ tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các khổ trì thông hành thâu nhiếp các nghiệp của thân- ngữ tâm bất tương ưng hành, và tâm không tương ưng với tứ, cùng với không tầm – không tứ – tâm – tâm sở pháp.

Khổ tốc thông hành cũng thế.

Lạc trì thông hành cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, là lạc trì thông hành thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành và tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, là lạc trì thông hành thâu nhiếp tầm.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, là lạc trì thông hành thâu nhiếp tầm – tứ tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, là trừ ra lạc trì thông hành thâu nhiếp các nghiệp của thân – ngữ tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, các thứ lạc trì thông hành khác thì thâu nhiếp các nghiệp của thân – ngữ tâm bất tương ưng hành, và các tâm- tâm sở không tầm không tứ.

Lạc tốc thông hành cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thông hành nào thâu nhiếp tận trí – vô sinh trí mà không thâu nhiếp tuệ, thì đó là kiến mà không phải là kiến xứ. Còn lại đều không phải kiến mà cũng không không phải kiến xứ.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả đều không có thân kiến làm nhân mà cũng không phải là có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thông hành nào thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ và tư thì đó là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục. Ngoài ra đều không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thông hành mỗi thứ đều có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, là các thông hành thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, là các thông hành thâu nhiếp các uẩn thọ – tưởng – thức và tư mà không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, là thông hành thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra thông hành thâu nhiếp các tâm bất tương ưng hành tùy nghiệp chuyển, còn lại các thông hành khác thì thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả nên phân biệt. Nếu thông hành nào thâu nhiếp các nghiệp thânngữ thì do sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được. Còn lại các thứ khác đều không phải do sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn thông hành này:

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là thông hành thâu nhiếp các nghiệp thânngữ thì đó là sắc đã tạo ra mà không phải là sắc có đối. Còn lại đều không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ khó thấy cho nên bảo là thâm diệu v.v…? Tất cả đều rất khó thấy bởi vì rất thâm diệu. Vì rất thâm diệu cho nên rất khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện mà cũng do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải là bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện mà cũng không phải là bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải là vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải vô ký mà cũng không phải là vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thông hành này hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, tức là ở đời vị lai mà hiện tại khởi lên thông hành thâu nhiếp tâm-tâm sở pháp.

Là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, tức là thông hành ở đời quá khứ và hiện tại thâu nhiếp các tâm và tâm sở pháp.

Không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra thông hành ở hiện tiền, vị lai khởi lên thâu nhiếp tâm và tâm sở pháp, còn lại các thông hành vị lai thâu nhiếp tâm và tâm sở, cùng các thông hành đã thâu nhiếp các tâm bất tương ưng hành các nghiệp thân và ngữ.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thông hành thâu nhiếp các tâm bất tương ưng hành, các nghiệp thân và ngữ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả đều không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu.

– Bốn Thánh chủng: Tức là:

  1. Thánh chủng tùy được y phục mà vui đủ.
  2. Thánh chủng tùy được ăn uống mà vui đủ.
  3. Thánh chủng tùy được ngọa cụ mà vui đủ.
  4. Thánh chủng vui thích đoạn trừ mà tu tập.

Bốn Thánh chủng này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp của thân-ngữ thì có sắc, còn lại đều là không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Tất cả đều là không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều là không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu. Thế nào là vô lậu?

Nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp năm uẩn vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Thánh chủng nào nếu là hữu lậu thì có dị thục. Còn Thánh chủng nào vô lậu thì không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả là duyên sinh, là nhân, là thuộc về thế đế.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì thuộc về sắc, còn lại đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc nội xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Thánh chủng nào thâu nhiếp tâm-ý-thức thì thuộc về nội xứ, còn lại thì thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn Thánh chủng này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt các sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng nào nếu là hữu lậu thì đoạn dứt các thứ biết khắp đều biết rõ, nếu là vô lậu thì không phải đoạn dứt các thứ biết khắp đều biết rõ.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn dứt v.v…? Tất cả đều nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng hữu lậu thì nên đoạn dứt, nếu là vô lậu thì không nên đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân và ngữ thì đó là do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng, nếu là hữu lậu thì có, nếu là vô lậu thì không phải có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng nào thâu nhiếp các tâm bất tương ưng hành của các nghiệp thân-ngữ thì đó là nhân không tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn Thánh chủng này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau thì có phần ít của năm xứ thiện thâu nhiếp bốn Thánh chủng và bốn Thánh chủng cũng thâu nhiếp phần ít của năm xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng cũng không thâu nhiếp.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc xứ hữu lậu không phải là Thánh chủng, là các Thánh chủng không thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

2. Hoặc Thánh chủng không phải là xứ hữu lậu, là bốn Thánh chủng vô lậu.

3. Hoặc xứ hữu lậu mà cũng là Thánh chủng, là bốn Thánh chủng hữu lậu.

4. Hoặc không phải xứ hữu lậu mà cũng không phải là Thánh chủng, là hư không và hai thứ diệt.

Cùng với tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc xứ vô lậu không phải là Thánh chủng, là hư không và hai diệt.

2. Hoặc Thánh chủng không phải là xứ vô lậu, là bốn Thánh chủng hữu lậu.

3. Hoặc xứ vô lậu cũng là Thánh chủng, nghĩa là bốn Thánh chủng vô lậu.

4. Hoặc không phải là xứ vô lậu mà cũng không phải là Thánh chủng, là các Thánh chủng không thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc về quá khứ v.v…? Tất cả đều là quá khứ, hiện tại, vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả đều là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc về cõi Dục v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thế nào là thuộc cõi Dục? Nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp năm uẩn thuộc cõi Dục.

Thế nào là thuộc cõi Sắc? Nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp năm uẩn thuộc cõi Sắc.

Thế nào là thuộc cõi Vô sắc? Nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp bốn uẩn thuộc cõi Vô sắc.

Thế nào là không hệ thuộc cõi nào? Nghĩa là năm uẩn vô lậu.

Có bao nhiêu thứ học v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Thế nào là học? Tức là năm uẩn học.

Thế nào là vô học? Tức là năm uẩn vô học.

Thế nào là phi học phi vô học? Tức là các Thánh chủng thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Bốn Thánh chủng này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng này, nếu là hữu lậu thì do tu đạo đoạn trừ, nếu là vô lậu thì không có gì đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ có tâm bất tương ưng hành, thì không phải là tâm – tâm sở- tâm bất tương ưng. Thánh chủng nào mà thâu nhiếp thọ uẩn – tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn, thì đó là tâm sở cùng với tâm tương ưng. Thánh chủng nào thâu nhiếp cả tâm-ý-thức thì đó chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng, mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, là Thánh chủng đã thâu nhiếp tùy tâm chuyển các nghiệp thân-ngữ có tâm bất tương ưng hành và thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, là các Thánh chủng thâu nhiếp tâm-ý-thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, là Thánh chủng thâu nhiếp tưởng uẩn và tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không phải là tương ưng với thọ, là trừ Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thânngữ có tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả nên phân biệt. Tức là các Thánh chủng mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không phải tương ưng với tứ, là Thánh chủng đã thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tùy tầm chuyển có tâm bất tương ưng hành và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với từ mà không phải là tùy tầm chuyển, là Thánh chủng đã thâu nhiếp tầm không tương ưng với tứ mà tương ưng với tâm và tâm sở.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, là các Thánh chủng đã thâu nhiếp cả tầm, tứ và tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, là trừ Thánh chủng nào đã thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, có lại các Thánh chủng thâu nhiếp nghiệp thân-ngữ, tâm bất tương ưng hành, và tầm không tương ưng với tứ, cùng các tâm- tâm sở không tầm không tứ.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các Thánh chủng, mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, nghĩa là tận trí và vô sinh trí không thâu nhiếp tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, nghĩa là kiến không thâu nhiếp bốn Thánh chủng hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp các chánh kiến thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp bốn Thánh chủng vô lậu.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà cũng không phải là có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả không phải có thân kiến làm nhân mà cũng không phải có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ và tư thì đó là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục. Còn lại đều không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả nên phân biệt. Tức là các Thánh chủng, mỗi thứ đều có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tùy nghiệp chuyển, còn lại các Thánh chủng thâu nhiếp các nghiệp của thân-ngữ và tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp các uẩn thọ- tưởng- thức và tư mà không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là các Thánh chủng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tùy nghiệp chuyển.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra Thánh chủng nào thâu nhiếp tùy nghiệp chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các Thánh chủng thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì đó là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được. Còn lại đều là không phải sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn Thánh chủng này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì đó là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối. Còn lại đều không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy cho nên rất thâm diệu v.v…? Tất cả là khó thấy bởi vì rất thâm diệu, và vì rất thâm diệu cho nên rất khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là nhân v.v…? Tất cả đều là thiện và cũng do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải do bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện cũng không phải do bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải là vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải là vô ký cũng không phải là vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên và cũng là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Thánh chủng hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là các Thánh chủng vị lai mà hiện tiền khởi lên thâu nhiếp tâm và tâm sở pháp.

Là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là các Thánh chủng ở quá khứ và hiện tại thâu nhiếp tâm và tâm sở pháp.

Không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra các Thánh chủng ở vị lai mà hiện tiền khởi lên thâu nhiếp tâm và tâm sở. Còn lại các Thánh chủng vị lai thâu nhiếp tâm và tâm sở cùng các Thánh chủng đã thâu nhiếp các nghiệp thân ngữ có tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Thánh chủng nào thâu nhiếp các nghiệp thân ngữ có tâm bất tương ưng hành thì đó là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các Thánh chủng, nếu hữu lậu thì thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu. Nếu vô lậu thì không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu.

– Như bốn Thánh chủng, bốn chánh đoạn và bốn thần túc cũng như thế.

– Bốn niệm trụ: Tức là:

  1. Thân niệm trụ.
  2. Thọ niệm trụ.
  3. Tâm niệm trụ.
  4. Pháp niệm trụ.

Thế nào là thân niệm trụ? Nghĩa là thân duyên nơi tuệ thiện hữu lậu và vô lậu.

Thế nào là thọ niệm trụ? Nghĩa là thọ duyên nơi tuệ thiện hữu lậu và vô lậu.

Tâm niệm trụ và pháp niệm trụ, thì tâm và pháp cũng duyên nơi tuệ thiện hữu lậu và vô lậu.

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả đều không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thể thấy v.v…? Tất cả đều không thấy được.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả nên phân biệt. Các tuệ của thân duyên nhau hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Thế nào là hữu lậu? Nghĩa là tác ý hữu lậu tương ưng với duyên nơi tuệ của thân.

Thế nào là vô lậu? Nghĩa là tác ý vô lậu tương ưng với duyên nơi tuệ của thân.

Tuệ duyên nơi thọ- tâm- pháp cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các niệm trụ nếu hữu lậu thì có dị thục, nếu là vô lậu thì không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh, là nhân sinh, là thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ là nội xứ v.v…? Tất cả đều là ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp.

*****

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt các sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các niệm trụ, nếu hữu lậu thì đoạn dứt các sự biết khắp về những gì được biết khắp, nếu vô lậu thì không phải đoạn dứt các sự biết khắp đều biết đều rõ.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn dứt v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các niệm trụ, nếu hữu lậu thì cần nên đoạn trừ, nếu là vô lậu thì không nên đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả đều là không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ là chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả đều không do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả là có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các niệm trụ, nếu hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không phải là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả đều là nhân tương ưng.

Bốn niệm trụ này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau thì có phần ít của một xứ thiện thâu nhiếp bốn niệm trụ và bốn niệm trụ thâu nhiếp phần ít của một xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ hữu lậu không phải là niệm trụ, nghĩa là các uẩn sắc-thọ-tưởng-hành-thức hữu lậu và niệm trụ nơi không thâu nhiếp hành uẩn hữu lậu.

2. Hoặc là niệm trụ không phải là xứ hữu lậu, là bốn niệm trụ vô lậu.

3. Hoặc là xứ hữu lậu cũng là niệm trụ, tức là bốn niệm trụ hữu lậu.

4. Hoặc không phải là xứ hữu lậu cũng không phải là niệm trụ, nghĩa là các uẩn sắc-thọ-tưởng-hành-thức vô lậu và niệm trụ không thâu nhiếp hành uẩn vô lậu và vô vi.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô lậu không phải là niệm trụ, nghĩa là các uẩn sắcthọ-tưởng-hành-thức vô lậu và niệm tru không thâu nhiếp hành uẩn vô lậu và vô vi.

2. Hoặc là niệm trụ không phải là xứ vô lậu, là bốn niệm trụ hữu lậu.

3. Hoặc là xứ vô lậu cũng là niệm trụ, tức là bốn niệm trụ vô lậu.

4. Hoặc không phải là xứ vô lậu cũng không phải là niệm trụ, nghĩa là các uẩn sắc-thọ-tưởng-hành-thức hữu lậu và niệm trụ không thâu nhiếp hành uẩn hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả đều có mặt ở quá khứ, hiện tại, vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả đều là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là duyên nơi tuệ của thân hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Là tác ý tương ưng với duyên nơi tuệ của thân ở cõi Dục.

Thuộc cõi Sắc là gì? Là tác ý tương ưng với duyên nơi tuệ của thân ở cõi Sắc.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Là tác ý tương ưng với duyên nơi tuệ của

thân ở cõi Vô sắc.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Là tác ý vô lậu tương ưng với duyên nơi tuệ của thân.

Duyên nơi tuệ của thọ- tâm- pháp cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ học v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là duyên nơi tuệ của thân hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Là tác ý học tương ưng với duyên thân tuệ.

Vô học là gì? Là tác ý vô học tương ưng với duyên thân tuệ

Phi học phi vô học là gì? Là tác ý hữu lậu tương ưng với duyên thân tuệ

Duyên nơi tuệ của thọ – tâm – pháp cũng thế.

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v..? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các niệm trụ, nếu là hữu lậu thì do tu đạo mà đoạn trừ, nếu là vô lậu thì không có gì đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ là tâm v.v…? Tất cả đều là tâm sở tương ưng với tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ

v.v…? Tất cả đều là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v..? Tất cả đều là tùy tâm chuyển mà cũng là tương ưng với tưởng- hành, chỉ trừ ra tự tánh của nó.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là duyên nơi tuệ của thân hoặc có tầm và tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Thế nào là có tầm có tứ? Nghĩa là có tầm có tứ tác ý tương ưng với duyên nơi tuệ của thân.

Thế nào là không có tầm chỉ có tứ? Nghĩa là không có tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với duyên nơi tuệ của thân.

Thế nào là không có tầm không có tứ? Nghĩa là không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với duyên nơi tuệ của thân.

Duyên nơi tuệ của thọ – tâm – pháp cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Tức là duyên nơi tuệ của thân có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, nghĩa là tận trí và vô sinh trí không thâu nhiếp duyên nơi tuệ của thân vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, nghĩa là năm thức của thân tương ưng với tuệ thiện.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, nghĩa là chánh kiến ở thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp duyên nơi tuệ của thân vô lậu.

Duyên nơi tuệ của thọ, hoặc kiến mà không phải là kiến xứ, hoặc kiến mà cũng là kiến xứ, hoặc không phải kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Kiến mà không phải là kiến xứ, nghĩa là tận trí và vô sinh không thâu nhiếp duyên nơi tuệ của thọ vô lậu.

Kiến cũng là kiến xứ, nghĩa là chánh kiến của thế gian.

Không phải kiến mà cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp duyên nơi tuệ của thọ vô lậu.

Duyên nơi Tuệ của tâm và pháp cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả đều không phải có thân kiến làm nhân mà cũng không phải là có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả đều không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả đều là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả đều không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả đều không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều là khó thấy bởi vì rất thâm diệu, và vì rất thâm diệu cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện mà cũng do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà cũng không phải là bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện cũng không phải do bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải là vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải vô ký mà cũng không phải do vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…?

Tất cả đều là nhân duyên mà cũng là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là duyên nơi tuệ của thân hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là ở hiện tiền, khởi lên duyên nơi tuệ của thân vị lai.

Là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, là duyên nơi tuệ của thân ở quá khứ và hiện tại.

Không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra ở hiện tiền, khởi lên duyên nơi tuệ của thân vị lai, còn lại đều là duyên nơi tuệ của thân vị lai.

Duyên vào tuệ của thọ- tâm- pháp cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các niệm trụ, nếu hữu lậu thì đó là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải bộc lưu cũng không phải là thuận bộc lưu.

Lại nữa, thân niệm trụ là gì? Tức là mười sắc xứ và sắc do pháp xứ thâu nhiếp.

Thọ niệm trụ là gì? Tức là sáu thọ thân.

Tâm niệm trụ là gì? Nghĩa là sáu thức thân.

Pháp niệm trụ là gì? Nghĩa là thọ không thâu nhiếp các thứ không phải là sắc nơi pháp xứ.

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Có một thứ có sắc, còn lại ba thứ không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Có ba thứ không thấy, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc có thấy, hoặc không thấy.

Có thấy là gì? Là một xứ.

Không thấy là gì? Là chín xứ và phần ít của một xứ.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Có ba thứ không đối, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc có đối, hoặc không đối.

Có đối là gì? Tức là mười xứ.

Không đối là gì? Tức là phần ít của một xứ.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Tức là mười xứ và phần ít của một xứ.

Vô lậu là gì? Tức là phần ít của một xứ.

Thọ niệm trụ hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là tác ý hữu lậu tương ưng với thọ uẩn.

Vô lậu là gì? Nghĩa là tác ý vô lậu tương ưng với thọ uẩn.

Tâm niệm trụ cũng thế.

Pháp niệm trụ hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là các uẩn tưởng- hành hữu lậu.

Vô lậu là gì? Nghĩa là các uẩn tưởng- hành vô lậu và ba thứ vô vi.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Có ba thứ là hữu vi, một thứ nên phân biệt, nghĩa là pháp niệm trụ hoặc hữu vi, hoặc vô vi.

Hữu vi là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn.

Vô vi là gì? Tức là ba thứ vô vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Tức là sắc uẩn bất thiện- thiện- hữu lậu.

Không có dị thục là gì? Tức là sắc uẩn vô ký- vô lậu.

Niệm trụ thọ- tâm- pháp cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Có ba thứ là duyên sinh, là nhân sinh, là thuộc về thế gian. Còn một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp niệm trụ, nếu là hữu vi thì đó là duyên sinh, nhân sinh, thuộc về thế gian; nếu là vô vi thì không phải là duyên sinh, nhân sinh, thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Có một thứ thuộc về sắc, còn ba thứ kia thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Có một thứ thuộc nội xứ, hai thứ thuộc ngoại xứ, một thứ cần phân biệt, nghĩa là thân niệm trụ hoặc thuộc nội xứ, hoặc thuộc ngoại xứ.

Thuộc nội xứ là gì? Tức là năm lãnh vực bên trong.

Thuộc ngoại xứ là gì? Tức là năm lãnh vực bên ngoài và phần ít của một lãnh vực bên ngoài.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các niệm trụ, nếu là hữu lậu thì cần đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, nếu vô lậu thì không cần phải đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ cần đoạn dứt v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là các niệm trụ nếu là hữu lậu thì cần đoạn dứt, nếu là vô lậu thì không cần đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thân niệm trụ hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là sắc uẩn thiện.

Không nên tu là gì? Tức là sắc uẩn bất thiện và vô ký.

Thọ niệm trụ, tâm niệm trụ cũng vậy.

Pháp niệm trụ hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn thiện.

Không nên tu là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn bất thiện- vô ký và ba thứ vô vi.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô.

Nhiễm ô là gì? Tức là sắc uẩn có ngăn che.

Không nhiễm ô là gì? Tức là sắc uẩn không có ngăn che.

Thọ – tâm – pháp niệm trụ cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Có ba thứ là quả mà cũng là có quả, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp niệm trụ hoặc là quả mà không phải là có quả, hoặc là quả mà cũng là có quả, hoặc không phải quả mà cũng không phải có quả.

Là quả mà không phải là có quả, tức là trạch diệt.

Là quả mà cũng là có quả, tức là các uẩn hành- tưởng.

Không phải quả mà cũng không phải là có quả, tức là hư không và phi trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là chấp thọ v.v…? Có ba thứ không có chấp thọ, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc có chấp thọ, hoặc không có chấp thọ.

Có chấp thọ là gì? Tức là tự thể của nó thâu nhiếp sắc uẩn.

Không có chấp thọ là gì? Tức là tự thể của nó không thâu nhiếp sắc uẩn.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Có ba thứ không do các đại tạo nên, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc do các đại tạo nên, hoặc không do các đại tạo nên.

Do các đại tạo nên là gì? Tức là chín xứ và phần ít của hai xứ.

Không do các đại tạo nên là gì? Tức là phần ít của một xứ.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Có ba thứ là có trên, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp niệm trụ hoặc có trên, hoặc không có trên (vô thượng).

Có trên là gì? Tức là các uẩn hành- tưởng và hư không -phi trạch diệt.

Không có trên là gì? Tức là trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các niệm trụ, nếu hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không phải có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Có một thứ là nhân không tương ưng, hai thứ là nhân tương ưng, một thứ nên phân biệt, nghĩa là pháp niệm trụ, nếu là tâm sở thì nhân tương ưng, nếu không phải là tâm sở thì nhân không tương ưng.

Bốn niệm trụ này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, thì sáu xứ thiện thâu nhiếp phần ít của bốn niệm trụ, phần ít của bốn niệm trụ cũng thâu nhiếp sáu xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì năm xứ bất thiện thâu nhiếp phần ít của bốn niệm trụ, phần ít của bốn niệm trụ cũng thâu nhiếp năm xứ bất thiện.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì bảy xứ vô ký thâu nhiếp phần ít của bốn niệm trụ, phần ít của bốn niệm trụ cũng thâu nhiếp bảy xứ vô ký.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì ba xứ lậu thâu nhiếp phần ít của một niệm trụ, phần ít của một niệm trụ cũng thâu nhiếp ba lậu xứ.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì năm xứ hữu lậu thâu nhiếp phần ít của bốn niệm trụ, phần ít của bốn niệm trụ cũng thâu nhiếp năm xứ hữu lậu.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, thì tám xứ vô lậu thâu nhiếp phần ít của bốn niệm trụ, và phần ít của bốn niệm trụ cũng thâu nhiếp tám xứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ ở quá khứ v.v…? Có ba thứ hoặc ở quá khứ- vị lai hoặc hiện tại, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp niệm trụ, nếu là hữu vi hoặc ở quá khứ- hiện tại hay vị lai, nếu là vô vi thì không phải ở quá khứ – hiện tại hay vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thân niệm trụ hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện bất thiện là gì? Tức là phần ít của ba xứ.

Vô ký là gì? Tức là tám xứ và phần ít của hai xứ.

Thọ niệm trụ hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là thiện tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Bất thiện là gì? Tức là bất thiện tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Vô ký là gì? Tức là vô ký tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Tâm niệm trụ cũng như thế.

Pháp niệm trụ hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là tưởng uẩn- hành uẩn thiện và trạch diệt.

Bất thiện là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn bất thiện.

Vô ký là gì? Tức là tưởng uẩn- hành uẩn vô ký và hư không- phi trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ thuôc cõi Dục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Tức là hai xứ và phần ít của chín xứ.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là phần ít của chín xứ.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là phần ít của một xứ.

Thọ niệm trụ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào. Thuộc cõi Dục là gì? Tức là tác ý tương ưng với thọ uẩn cõi Dục. Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là tác ý tương ưng với thọ uẩn cõi Sắc. Thuộc cõi Vô sắc là gì? Tức là tác ý tương ưng với thọ uẩn vô lậu. Tâm niệm trụ cũng thế.

Pháp niệm trụ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào. Thuộc cõi Dục là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn của cõi Dục. Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn của cõi Sắc. Thuộc cõi Vô sắc là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn của cõi Vô sắc. Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là tưởng uẩn và hành uẩn vô lậu, cùng với pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ học v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học và vô học là gì? Tức là phần ít của một xứ.

Phi học phi vô học là gì? Tức là mười xứ và phần ít của một xứ.

Thọ niệm trụ hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Tức là tác ý học tương ưng với thọ uẩn.

Vô học là gì? Tức là tác ý vô học tương ưng với thọ uẩn.

Phi học phi vô học là gì? Tức là tác ý hữu lậu tương ưng với thọ uẩn.

Tâm niệm trụ cũng thế.

Pháp niệm trụ hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Tức là hành uẩn- tưởng uẩn hữu học.

Vô học là gì? Tức là hành uẩn- tưởng uẩn vô học.

Phi học phi vô học là gì? Tức là hành uẩn – tưởng uẩn hữu lậu và pháp vô vi.

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Tức là mười xứ và phần ít của một xứ.

Không có gì đoạn trừ là gì? Tức là phần ít của một xứ.

Thọ niệm trụ hoặc do kiến đạo mà đoạn, hoặc do tu đạo mà đoạn, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Tức là thọ niệm trụ có các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám tùy miên tương ưng với thọ uẩn.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là thọ niệm trụ có các thứ học thấy vết tích và tu đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với thọ uẩn và các thọ uẩn hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là thọ uẩn vô lậu.

Tâm niệm trụ cũng thế.

Pháp niệm trụ hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là pháp niệm trụ có các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám tùy miên tương ưng với hành uẩn – tưởng uẩn, cùng nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành.

Do tu đạo mà đoạn trừ là sao? Nghĩa là pháp niệm trụ do học thấy vết tích, tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên và nó tương ưng với tưởng uẩn hành uẩn hoặc nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, hoặc các tưởng uẩn- hành uẩn hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là các hành uẩn – tưởng uẩn vô lậu và pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Có một thứ không phải phải là tâm – tâm sở – tâm tương ưng. Có một thứ là tâm sở tương ưng với tâm. Có một thứ chỉ là tâm. Có một thứ nên phân biệt, nghĩa là pháp niệm trụ nếu có sở duyên là tâm tương ưng với tâm sở, nếu không có sở duyên thì không phải là tâm, tâm sở, tâm tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Có một thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ. Một thứ tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển. Hai thứ nên phân biệt, nghĩa là thân niệm trụ hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, hoặc không phải tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ.

Tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, là tùy tâm chuyển các nghiệp thân- ngữ. Còn lại các sắc uẩn không phải tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ.

Pháp niệm trụ hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, hoặc không phải tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với thọ.

Tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, là tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành.

Tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, là tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn.

Không phải tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với thọ, là trừ ra tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại tâm bất tương ưng hành và pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với hành – tưởng v.v…? Trừ tự tánh của nó ra, thì giống như thọ nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thân niệm trụ, hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, hoặc không phải tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ.

Tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, là tùy tầm chuyển các nghiệp thân – ngữ.

Còn lại các sắc uẩn khác thì không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ.

Thọ niệm trụ hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Tức là có tầm có tứ tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Không có tầm chỉ có tứ là gì? Tức là không có tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Không có tầm không có tứ là gì? Nghĩa là không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Tâm niệm trụ cũng như thế.

Pháp niệm trụ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, tức là tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, tức là tầm và tầm không tương ưng với tứ, mà tương ưng với tưởng uẩn – hành uẩn.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, tức là tầm và tứ tương ưng với hành uẩn – tưởng uẩn.

4. Hoặc không phải tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, là trừ ra tùy tầm chuyển các tâm bất tương ưng hành, còn lại các tâm bất tương ưng hành, và tầm không tương ưng với tứ, hoặc là không có tầm không có tứ mà không phải là thọ tâm sở, hoặc là pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ, hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Kiến xứ mà không phải là kiến, tức là chín xứ và phần ít của một xứ.

Kiến mà cũng là kiến xứ, tức là một xứ.

Không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, tức phần ít của một xứ.

Thọ niệm trụ nếu hữu lậu thì đó là kiến xứ mà không phải là kiến, nếu vô lậu thì không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Tâm niệm trụ cũng như thế.

Pháp niệm trụ cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, nghĩa là tận trí và vô sinh trí không thâu nhiếp tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, nghĩa là tưởng uẩn hữu lậu, và kiến không thâu nhiếp hành uẩn hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, tức là năm cái thấy nhiễm ô và chánh kiến của thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, tức là tưởng uẩn vô lậu, và kiến không thâu nhiếp hành uẩn vô lậu cùng pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ, nếu nhiễm ô thì có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến. Nếu không nhiễm ô thì không phải là có thân kiến làm nhân mà cũng không phải là có nhân của thân kiến.

Thọ niệm trụ, hoặc có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, hoặc không phải là có thân kiến làm nhân mà cũng không phải là có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến, nghĩa là trừ ra ở quá khứ và hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên tương ưng với thọ uẩn, cũng trừ ra ở quá khứ và hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ biến hành tùy miên tương ưng với thọ uẩn, cũng trừ ra ở vị lai có thân kiến tương ưng với thọ uẩn, còn lại các thọ uẩn nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, nghĩa là các thọ uẩn đã trừ đi ở trước đó.

Không phải có thân kiến làm nhân mà cũng không phải là có nhân của thân kiến, tức là các thọ uẩn không nhiễm ô.

Tâm niệm trụ cũng thế.

Pháp niệm trụ hoặc có thân kiến làm nhân mà không phải có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, hoặc không phải có thân kiến làm nhân mà cũng không phải có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không phải là có nhân của thân kiến, là trừ ra ở quá khứ và hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên mà nó tương ưng đều ngang hàng với tưởng uẩn-hành uẩn, cũng trừ ra ở quá khứ và hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các biến hành tùy miên mà nó tương ưng với tưởng uẩn và hành uẩn, cũng trừ ra ở vị lai có thân kiến tương ưng với tưởng uẩn-hành uẩn. Cũng trừ ra ở vị lai có thân kiến mà nó tương ưng với các pháp sinh ra, già đi, trụ lại và vô thường, còn lại các uẩn hành và tưởng nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, tức là các thứ tưởng uẩn-hành uẩn đã trừ đi ở trước đó.

Không phải có thân kiến làm nhân mà cũng không phải là có nhân của thân kiến, tức là các tưởng uẩn-hành uẩn không nhiễm ô và pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là thân niệm trụ, hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, hoặc là nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục,

Nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, tức là các nghiệp thân và ngữ.

Nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, nghĩa là nghiệp dị thục sinh ra các sắc uẩn.

Không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục, tức là trừ ra nghiệp và nghiệp dị thục sắc uẩn, còn lại các sắc uẩn khác.

Thọ niệm trụ, hoặc là nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, nghĩa là nghiệp dị thục đã sinh ra các thọ uẩn. Còn lại các thọ uẩn khác thì không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Tâm niệm trụ cũng thế.

Pháp niệm trụ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, là nghiệp dị thục không thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, là tư không thâu nhiếp các nghiệp dị thục sinh ra các uẩn hành và tưởng.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là nghiệp dị thục, là nghiệp dị thục đã sinh ra tư.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục, nghĩa là trừ ra các hành uẩn- tưởng uẩn do nghiệp và nghiệp dị thục sinh ra, còn lại các uẩn hành- tưởng và pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Có hai thứ là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp. Có hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra tùy nghiệp chuyển các nghiệp thân- ngữ, còn lại các nghiệp thân- ngữ khác.

2. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, tức là tùy nghiệp chuyển các nghiệp thân- ngữ.

3. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ các sắc uẩn của nghiệp và tùy nghiệp chuyển, còn lại các sắc uẩn khác.

Pháp niệm trụ cũng có ba trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là tưởng. Uẩn và tư không thâu nhiếp tùy nghiệp chuyển hành uẩn.

3. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra nghiệp và hành uẩn của tùy nghiệp chuyển, còn lại các hành uẩn khác và pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được? Có ba thứ không phải sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, tức là tám xứ và phần ít của hai xứ.

2. Hoặc là sắc tạo ra mà cũng là sắc thấy được, tức là một xứ.

3. Hoặc không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được, tức là phần ít của một xứ.

Bốn niệm trụ này:

Có bao nhiêu thứ do sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Có ba thứ không phải là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối. Còn một thứ cần phân biệt, nghĩa là thân niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, nghĩa là phần ít của một xứ.

2. Hoặc là sắc có đối mà không phải là sắc tạo ra, nghĩa là phần ít của một xứ.

3. Hoặc là sắc tạo ra mà cũng là sắc có đối, nghĩa là chín xứ và phần ít của một xứ.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều là khó thấy bởi vì rất thâm diệu và vì rất thâm diệu cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc thiện làm nhân mà không phải là thiện, nghĩa là sắc uẩn do quả dị thục thiện sinh ra.

2. Hoặc thiện mà cũng là thiện làm nhân, tức là sắc uẩn thiện.

3. Hoặc không phải thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra các sắc uẩn do quả dị thục thiện sinh ra, còn lại các sắc uẩn vô ký và bất thiện.

Thọ niệm trụ, tâm niệm trụ cũng như thế.

Pháp niệm trụ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là thiện mà không phải do thiện làm nhân, tức là trạch diệt.

2. Hoặc do thiện làm nhân mà không phải thiện, tức là các tưởng uẩn-hành uẩn do quả dị thục thiện sinh ra.

3. Hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là các tưởng uẩn và hành uẩn thiện.

4. Hoặc không phải là thiện mà cũng không phải do thiện làm nhân, tức là trừ ra các tưởng uẩn-hành uẩn do quả dị thực thiện sinh ra, còn lại các tưởng uẩn- hành uẩn vô ký và bất thiện cùng hư không- phi trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải do bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc do bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, tức là Sắc uẩn do dị thục bất thiện sinh ra.

2. Hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là các sắc uẩn bất thiện.

3. Hoặc không phải bất thiện mà không phải do bất thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra các sắc uẩn do các dị thục bất thiện sinh ra, còn lại các sắc uẩn thiện và vô ký.

Thọ niệm trụ cũng có ba trường hợp:

1. Hoặc do bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, tức là thọ uẩn do các dị thục bất thiện sinh ra, và ở cõi Dục có thân kiến- biên chấp kiến tương ưng với thọ uẩn.

2. Hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là những thọ uẩn bất thiện.

3. Hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra các thọ uẩn do quả dị thục bất thiện sinh ra, và trừ ra ở cõi Dục có thân kiến- biên chấp kiến tương ưng với thọ uẩn, còn lại các thọ uẩn thiện và vô ký.

Tâm niệm trụ cũng như thế.

Pháp niệm trụ cũng có ba trường hợp:

1. Hoặc do bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, nghĩa là các uẩn hành – tưởng do các quả dị thục bất thiện sinh ra, và ở cõi Dục có thân kiến – biên chấp kiến, nó cùng tương ưng với các tưởng uẩn-hành uẩn.

2. Hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, nghĩa là các tưởng uẩn- hành uẩn bất thiện.

3. Hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra các hành – tưởng uẩn do dị thục bất thiện sinh ra, và trừ ra ở cõi Dục có thân kiến- biên chấp kiến mà nó tương ưng với các tưởng uẩn-hành uẩn. Còn lại các hành – tưởng uẩn thiện và vô ký cùng ba thứ vô vi.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải là vô ký làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, tức là sắc uẩn bất thiện.

2. Hoặc là vô ký mà cũng là vô ký làm nhân, tức là sắc uẩn vô ký.

3. Hoặc không phải là vô ký mà cũng không phải do vô ký làm nhân, tức là sắc uẩn thiện.

Thọ niệm trụ, tâm niệm trụ cũng thế.

Pháp niệm trụ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là vô ký mà không phải do vô ký làm nhân, tức là hư không- phi trạch diệt.

2. Hoặc là vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, tức là hành uẩn- tưởng uẩn bất thiện.

3. Hoặc là vô ký mà cũng do vô ký làm nhân, đó là hành uẩn và tưởng uẩn vô ký.

4. Hoặc không phải là vô ký mà cũng không phải là vô ký làm nhân, đó là các uẩn hành- tưởng thiện và trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…? Có ba thứ là nhân duyên mà cũng là có nhân, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp niệm trụ, nếu hữu vi thì đó là nhân duyên mà cũng có nhân, nếu vô vi thì không phải nhân duyên mà cũng không phải là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Có một thứ không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, ba thứ nên phân biệt, nghĩa là thọ niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là thọ uẩn vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và thọ uẩn của A-lahán khi mạng chung ở quá khứ hoặc hiện tại.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra thọ uẩn của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ hoặc hiện tại, còn lại thọ uẩn ở thời gian quá khứ- hiện tại khác.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra các thọ uẩn vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các thọ uẩn vị lai khác.

Tâm niệm trụ cũng như thế.

Pháp niệm trụ cũng có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là không phải thọ tâm sở ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, cũng không phải thọ tâm sở ở thời quá khứ hoặc hiện tại khi A-la-hán mạng chung, và vô tưởng diệt định đã sinh mà đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra không phải thọ tâm sở của A-la-hán khi mạng chung ở thời quá khứ hoặc hiện tại, còn lại các thứ không phải thọ tâm sở ở thời quá khứ hoặc hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra không phải thọ tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các thứ không phải là thọ tâm sở vị lai, và trừ ra các tâm bất tương ưng hành đẳng vô gián, còn lại tâm bất tương ưng hành và pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên? Có một thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, hai thứ là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên, một thứ cần phân biệt, nghĩa là pháp niệm trụ, nếu là tâm sở thì nó là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên, nếu không phải là tâm sở thì nó là sở duyên duyên mà không có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng v.v…? Có ba thứ là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng, một thứ cần phân biệt, nghĩa là pháp niệm trụ, nếu hữu vi thì đó là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng, nếu vô vi thì đó là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là thân niệm trụ, nếu hữu lậu thì đó là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu.

Thọ niệm trụ, tâm niệm trụ cũng như thế.

Pháp niệm trụ có ba trường hợp:

1. Hoặc là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nghĩa là tưởng uẩn hữu lậu và bộc lưu không thâu nhiếp hành uẩn hữu lậu.

2. Hoặc là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, tức là bốn thứ bộc lưu.

3. Hoặc không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu, thì đó là hành uẩn- tưởng uẩn vô lậu và các pháp vô vi.

– Bốn Thánh đế: Tức là khổ thánh đế, tập thánh đế, diệt thánh đế và đạo thánh đế.

Bốn Thánh đế này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Có một thứ là không có sắc, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc có sắc, hoặc không có sắc.

Có sắc là gì? Đó là mười xứ và phần ít của một xứ.

Không có sắc là gì? Đó là một xứ và phần ít của một xứ.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ thì có sắc, còn lại đều là không có sắc.

Có bao nhiêu thứ thấy được v.v…? Có hai thứ là không thấy, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc thấy, hoặc không thấy.

Thấy là gì? Đó là một xứ.

Không thấy là gì? Đó là mười một xứ.

Tập thánh đế cũng vậy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Có hai thứ không có đối, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là Khổ thánh đế hoặc có đối, hoặc không có đối.

Có đối là gì? Đó là mười xứ.

Không có đối là gì? Đó là hai xứ.

Tập thánh đế cũng vậy.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Có hai thứ hữu lậu, hai thứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Có ba thứ hữu vi, một thứ vô vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Có hai thứ có quả dị thục, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Nghĩa là khổ đế thiện- bất thiện.

Không có dị thục là gì? Nghĩa là khổ đế vô ký.

Tập thánh đế cũng vậy.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Có ba thứ là duyên sinh – nhân sinh – thuộc về thế gian. Còn một thứ không phải là duyên sinh – nhân sinh – thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Có một thứ thuộc về danh, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc thuộc về sắc, hoặc thuộc về danh.

Thuộc về sắc là gì? Tức là mười xứ và phần ít của một xứ.

Thuộc về danh là gì? Tức là một xứ và phần ít của một xứ.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp nghiệp của thân- ngữ thì thuộc về sắc. Còn lại đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc nội xứ v.v…? Có một thứ thuộc về ngoại xứ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc thuộc nội xứ, hoặc thuộc ngoại xứ.

Thuộc nội xứ là gì? Tức là sáu xứ bên trong.

Thuộc ngoại xứ là gì? Tức là sáu xứ bên ngoài.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp tâm- ý -thức thì thuộc về nội xứ, còn lại đều thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

******

Bốn Thánh đế này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt các sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Có hai thứ đoạn dứt các sự biết khắp về những gì được biết khắp, hai thứ không phải là đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn trừ v.v…? Có hai thứ nên đoạn trừ, hai thứ không nên đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Có một thứ nên tu, một thứ không nên tu, hai thứ cần phân biệt, nghĩa là khổ thánh đế hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Nghĩa là các khổ đế thiện.

Không nên tu là gì? Tức là các khổ đế bất thiện và vô ký.

Tập thánh đế cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ nhiễm ô v.v…? Có hai thứ không nhiễm ô, hai thứ nên phân biệt, nghĩa là khổ thánh đế hoặc nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô.

Nhiễm ô là gì? Tức là khổ đế có ngăn che.

Không nhiễm ô là gì? Tức là khổ đế không có ngăn che.

Tập thánh đế cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Có ba thứ là quả mà cũng là có quả, một thứ là quả mà không phải là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Hai thứ không có chấp thọ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc có chấp thọ, hoặc không có chấp thọ.

Có chấp thọ là gì? Nghĩa là tự thể của nó thâu nhiếp khổ đế.

Không có chấp thọ là gì? Nghĩa là tự thể của nó không thâu nhiếp khổ đế.

Tập thánh đế cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Có một thứ không phải do các đại tạo nên, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc do các đại tạo nên, hoặc không do các đại tạo nên.

Do các đại tạo nên là gì? Tức là chín xứ và phần ít của hai xứ.

Không do các đại tạo nên là gì? Tức là một xứ và phần ít của hai xứ.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp các nghiệp thân ngữ thì do các đại tạo nên, còn lại đều không phải là do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Có ba thứ có trên, một thứ không có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Có hai thứ là có, hai thứ là không có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Có một thứ là nhân tương ưng, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế thâu nhiếp các sắc có tâm bất tương ưng hành là nhân bất tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ có tâm bất tương ưng hành là nhân không tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn Thánh đế này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp, thì sáu xứ thiện thâu nhiếp hai đế và phần ít của hai đế, còn hai đế và phần ít của hai đế cũng thâu nhiếp sáu xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì năm xứ bất thiện thâu nhiếp phần ít của hai đế đó và phần ít của hai đế cũng thâu nhiếp năm xứ bất thiện.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô ký không phải là đế, tức là hư không- phi trạch diệt.

2. Hoặc là đế không phải là xứ vô ký, tức là hai đế và phần ít của hai đế.

3. Hoặc là xứ vô ký cũng là đế, tức là phần ít của hai đế.

4. Hoặc không phải xứ vô ký cũng không phải đế, thì điều này không thể xảy ra được.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì ba xứ lậu thâu nhiếp phần ít của hai đế, phần ít của hai đế cũng thâu nhiếp ba xứ lậu.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì năm xứ hữu lậu thâu nhiếp hai đế, hai đế cũng thâu nhiếp năm xứ hữu lậu.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô lậu không phải đế, tức là hư không-phi trạch diệt.

2. Hoặc là đế không phải là xứ vô lậu, tức là hai đế.

3. Hoặc là xứ vô lậu mà cũng là đế, tức là hai đế.

4. Hoặc không phải xứ vô lậu cũng không phải đế, điều này không thể có được.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Có ba thứ thuộc quá khứ- hiện tại – vị lai, một thứ không phải là quá khứ – hiện tại hay vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Có hai thứ thiện, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là khổ thánh đế thâu nhiếp năm uẩn thiện.

Bất thiện là gì? Tức là khổ thánh đế thâu nhiếp năm uẩn bất thiện.

Vô ký là gì? Tức là khổ thánh đế thâu nhiếp năm uẩn vô ký.

Tập thánh đế cũng vậy.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Có hai thứ không hệ thuộc cõi nào, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Nghĩa là khổ thánh đế thâu nhiếp năm uẩn thuộc cõi Dục.

Thuộc cõi Sắc là gì? Nghĩa là khổ thánh đế thâu nhiếp năm uẩn thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Nghĩa là khổ thánh đế thâu nhiếp năm uẩn thuộc cõi Vô sắc.

Tập thánh đế cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Có ba thứ là phi học phi vô học, một thứ cần phân biệt, nghĩa là đạo thánh đế hoặc học, hoặc vô học.

Học là gì? Nghĩa là năm uẩn hữu học.

Vô học là gì? Tức là năm uẩn vô học.

Bốn Thánh đế này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Có hai thứ không có gì phải đoạn trừ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là khổ thánh đế có các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám tùy miên tương ưng với khổ đế, và nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là khổ đế có các thứ học thấy vết tích do tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên, và nó tương ưng với khổ đế, cùng khởi lên các nghiệp thân – ngữ có tâm bất tương ưng hành, hoặc là khổ đế không nhiễm ô.

Tập thánh đế cũng như vậy.

Có bao nhiêu thứ là không phải tâm v.v…? Có một thứ không phải là tâm-tâm sở- tâm tương ưng, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khi khổ thánh đế thâu nhiếp sắc – tâm bất tương ưng hành, thì nó không phải là tâm- tâm sở- tâm tương ưng. Khi các thọ uẩn, tương uẩn tương ưng với hành uẩn, thì nó là tâm sở cùng tâm tương ưng. Còn tâm-ý-thức chỉ là tâm.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp nghiệp thân- ngữ, tâm bất tương ưng hành, không phải là tâm – tâm sở – tâm tương ưng. Khi các thọ uẩn- tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn thì nó là tâm sở cùng với tâm tương ưng. Còn tâm – ý – thức chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Có một thứ không phải tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là tùy tâm chuyển các nghiệp thân- ngữ, tâm bất tương ưng hành và thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, tức là tâm – ý – thức.

3. Hoặc tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, nghĩa là tưởng uẩn và hành uẩn tương ưng.

4. Hoặc không phải tùy tâm chuyển mà cũng không phải tương ưng với thọ, tức là trừ ra tùy tâm chuyển các nghiệp thân – ngữ tâm bất tương ưng hành, còn lại các sắc tâm bất tương ưng hành.

Tập thánh đế cũng như vậy.

Đạo thánh đế cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là các nghiệp thân- ngữ và tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành và thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, nghĩa là tâm –ý- thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, tức là tưởng uẩn và hành uẩn tương ưng.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, tức là trừ ra tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v…? Trừ tự tánh của nó ra, cũng như thọ nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ? Có một thứ không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là tùy tầm chuyển các nghiệp thân- ngữ tâm bất tương ưng hành, và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, tức là tầm và tầm không tương ưng với tứ, mà tương ưng với tâm và tâm sở của khổ đế.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là tầm và tứ tương ưng với tâm và tâm sở của khổ đế.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, tức là trừ ra tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, còn lại các sắc tâm bất tương ưng hành, và tầm không tương ưng với tứ, cùng với tâm – tâm sở của khổ đế không có tầm, không có tứ

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, tức là tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, tức là tầm và tầm không tương ưng với tứ mà tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là tầm tứ cũng tương ưng với tâm-tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, tức là trừ ra tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, còn lại các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và tầm không tương ưng với tứ, cùng với các pháp tâm-tâm sở không có tầm- không có tứ.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Có một thứ không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, hoặc là kiến xứ mà không phải kiến.

Hoặc kiến mà cũng là kiến xứ, tức là mắt nhìn thấy năm thứ nhiễm ô hoặc là chánh kiến của thế gian, còn lại đều là kiến xứ mà không phải là kiến.

Tập thánh đế cũng thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp tận trí và vô sinh trí mà không thâu nhiếp tuệ, là kiến mà không phải kiến xứ. Còn lại đều không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Có bao nhiêu thứ là thân kiến làm nhân mà không phải có nhân của thân kiến v.v…? Có hai thứ không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, còn hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, nghĩa là trừ ra ở quá khứ và hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên và nó tương ưng với câu hữu của khổ đế, cũng trừ ra ở quá khứ-hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành và nó tương ưng với câu hữu của khổ đế, cũng trừ ra ở vị lai có nhân của thân kiến tương ưng với khổ đế, cũng trừ ra ở vị lai có thân kiến và nó tương ưng với các pháp sinh ra – già đi – trụ lại và vô thường, còn lại các thứ khổ đế nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, nghĩa là các khổ đế đã trừ ra ở trước.

Không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, tức là các khổ đế không nhiễm ô.

Tập thánh đế cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Có một thứ không phải nghiệp cũng không phải nghiệp dị thục, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải nghiệp dị thục, nghĩa là các nghiệp của thân-ngữ và các nghiệp của dị thục không thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, là tư không thâu nhiếp các nghiệp của dị thục sinh ra khổ đế.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là nghiệp dị thục, tức là nghiệp của dị thục sinh ra tư.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải nghiệp dị thục, tức là trừ ra nghiệp và nghiệp dị thục sinh ra khổ đế, còn lại các khổ đế khác.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ và tư, là nghiệp mà không phải nghiệp dị thục, còn lại đều không phải nghiệp cũng không phải nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Có một thứ không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra tùy nghiệp chuyển các nghiệp thân-ngữ, còn lại các nghiệp thânngữ và tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, tức là các uẩn thọ – tưởng – thức, và tư không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là các nghiệp thân-ngữ tùy nghiệp chuyển.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, tức là trừ ra nghiệp và tùy nghiệp chuyển khổ đế, còn lại các khổ đế khác.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, tức là tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là các uẩn thọ – tưởng – thức, và tư không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp cũng là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là các nghiệp của thân và ngữ.

4. Hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra tùy nghiệp chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Có một thứ không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc thấy được, ba thứ nên phân biệt, nghĩa là khổ thánh đế có ba trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, tức là tám xứ và phần ít của hai xứ.

2. Hoặc là sắc tạo ra mà cũng là sắc thấy được, tức là một xứ.

3. Hoặc không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được, nghĩa là một xứ và phần ít của hai xứ.

Tập thánh đế cũng thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ, thì nó là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, còn lại đều không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn Thánh đế này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Có một thứ không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có bốn trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, nghĩa là phần ít của một xứ.

2. Hoặc là sắc có đối mà không phải là sắc tạo ra, nghĩa là phần ít của một xứ.

3. Hoặc là sắc tạo ra mà cũng là sắc có đối, tức là chín xứ và phần ít của một xứ.

4. Hoặc không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối, tức là một xứ và phần ít của một xứ.

Tập thánh đế cũng thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, còn lại đều không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều là khó thấy bởi vì rất thâm diệu và vì rất thâm diệu cho nên rất khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Có một thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân, có một thứ là thiện mà cũng do thiện làm nhân, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có ba trường hợp:

1. Hoặc là thiện làm nhân mà không phải là thiện, tức là khổ đế do dị thục thiện sinh ra.

2. Hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là khổ đế thiện.

3. Hoặc không phải thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra khổ đế do dị thục thiện sinh ra, còn lại các khổ đế bất thiện và vô ký.

Tập thánh đế cũng vậy.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải do bất thiện làm nhân v.v…? Có hai thứ không phải là bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có ba trường hợp:

1. Hoặc bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, tức là khổ đế do dị thục bất thiện sinh ra, và ở cõi Dục có thân kiến- biên chấp kiến và khổ đế mà nó đều có tương ưng.

2. Hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là các khổ đế bất thiện.

3. Hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, tức là trừ ra khổ đế do dị thục bất thiện sinh ra, và trừ ra thuộc cõi Dục có thân kiến- biên chấp kiến và khổ đế mà nó đều tương ưng đến, còn lại các khổ đế thiện và vô ký.

Tập thánh đế cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải do vô ký làm nhân v.v…? Có hai thứ không phải là vô ký cũng không phải do vô ký làm nhân, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có ba trường hợp:

1. Hoặc là vô ký làm nhân mà cũng không phải là vô ký, tức là khổ đế bất thiện.

2. Hoặc là vô ký cũng do vô ký làm nhân, tức là khổ đế vô ký.

3. Hoặc không phải là vô ký cũng không phải do vô ký làm nhân, tức là khổ đế thiện.

Tập thánh đế cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Có ba thứ là nhân duyên mà cũng có nhân, còn một thứ thì không phải là nhân duyên mà cũng không có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Có một thứ không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là tâm và tâm sở của khổ đế ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, tâm và tâm sở của khổ đế mà lúc A-la-hán mạng chung ở thời quá khứ hoặc hiện tại, và các thứ định diệt vô tưởng đã sinh đang khởi lên.

3. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, tức là trừ ra khổ đế của tâm-tâm sở khi A-la-hán mạng chung ở thời quá khứ hoặc hiện tại, còn lại các tâm-tâm sở của khổ đế ở quá khứ hay hiện tại.

4. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, tức là trừ ra các tâm-tâm sở khổ đế ở vị lai; mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại tâm-tâm sở của khổ đế ở vị lai trừ ra các tâm bất tương ưng hành đẳng vô gián, còn lại tâm bất tương ưng hành và các sắc khổ đế.

Tập thánh đế cũng thế.

Đạo thánh đế cũng có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là tâm và tâm sở của đạo đế ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là tâm và tâm sở của đạo đế ở thời quá khứ và hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, tức là trừ ra tâm và tâm sở của đạo đế ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các tâm và tâm sở của đạo đế ở vị lai, và các nghiệp thân- ngữ tâm bất tương ưng hành với đạo đế.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Có một thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế thâu nhiếp sắc tâm bất tương ưng hành, thì đó là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại các khổ đế đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Tập thánh đế cũng như thế.

Đạo thánh đế thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ tâm bất tương ưng hành, thì đó là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại các đạo đế đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Có một thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng, ba thứ là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Có hai thứ không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là khổ thánh đế hoặc là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, hoặc là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu.

Là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, tức là bốn bộc lưu. Còn lại các khổ đế, thì đó là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu.

Tập thánh đế cũng như thế.

– Bốn Tĩnh lự: Đó là tĩnh lự thứ nhất, tĩnh lự thứ hai, tĩnh lự thứ ba và tĩnh lự thứ tư.

Bốn tĩnh lự này:

Có bao nhiêu thứ có sắc…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là các

tĩnh lự này khi thâu nhiếp các nghiệp của thân-ngữ thì có sắc, còn lại đều là không co sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy…? Tất cả đều không thấy Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Vô lậu là gì? Nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp năm uẩn vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự này, nếu là hữu lậu thì có dị thục, nếu là vô lậu thì không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh – nhân sinh – thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự khi thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì thuộc về sắc, còn lại đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v… ? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các tĩnh lự khi thâu nhiếp các tâm – ý – thức, nó thuộc về nội xứ, còn lại đều thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn tĩnh lự này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các tĩnh lự, nếu hữu lậu thì đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, nếu vô lậu thì không có gì phải đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn dứt v.v…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự này, nếu là hữu lậu thì nên đoạn dứt, nếu vô lậu thì không nên đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì do các đại tạo nên, còn lại đều không do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự, nếu hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành thì nhân không tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn tĩnh lự này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp, có phần ít của năm xứ thiện thâu nhiếp bốn tĩnh lự, bốn tĩnh lự cũng thâu nhiếp phần ít của năm xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ hữu lậu mà không phải tĩnh lự, nghĩa là tĩnh lự không thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

2. Hoặc là tĩnh lự mà không phải xứ hữu lậu, nghĩa là bốn thứ tĩnh lự vô lậu.

3. Hoặc là xứ hữu lậu mà cũng là tĩnh lự, nghĩa là bốn thứ tĩnh lự hữu lậu.

4. Hoặc không phải xứ hữu lậu mà cũng không phải tĩnh lự, nghĩa là các tĩnh lự không thâu nhiếp năm uẩn vô lậu, và các pháp vô vi.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ hữu lậu mà không phải tĩnh lự, nghĩa là tĩnh lự không thâu nhiếp năm uẩn vô lậu, và pháp vô vi.

2. Hoặc là tĩnh lự mà không phải xứ vô lậu, nghĩa là bốn thứ tĩnh lự hữu lậu.

3. Hoặc là xứ hữu lậu mà cũng là tĩnh lự, nghĩa là bốn thứ tĩnh lự vô lậu.

4. Hoặc không phải xứ vô lậu mà cũng không phải tĩnh lự, nghĩa là các tĩnh lự không thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả đều thuộc quá khứ – hiện tại – vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả đều là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự này, nếu hữu lậu thì thuộc cõi Sắc, nếu vô lậu thì không hệ thuộc cõi nào.

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự này hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Nghĩa là các tĩnh lự này thâu nhiếp năm uẩn hữu học.

Vô học là gì? Nghĩa là các tĩnh lự này thâu nhiếp năm uẩn vô học.

Phi học phi vô học là gì? Nghĩa là các tĩnh lự này thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Bốn tĩnh lự này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự này, nếu hữu lậu thì do tu đạo mà đoạn trừ, nếu vô lậu thì không có gì phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự này, thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, thì không phải là tâm-tâm sở – tâm tương ưng. Khi các thọ uẩn- tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn, thì tâm sở cùng với tâm tương ưng, tâm – ý -thức thì chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không phải là thọ tương ưng v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là các tĩnh lự này thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, và tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành cùng với thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp các tâm- ý -thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, nghĩa là các tĩnh lự này thâu nhiếp các tưởng uẩn, và tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, nghĩa là trừ ra tĩnh lự thâu nhiếp tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các tĩnh lự thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v…? Trừ tự tánh nó ra, thì cũng như thọ nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Có ba thứ là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là sơ tĩnh lự có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là sơ tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, và tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành cùng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, nghĩa là sơ tĩnh lự thâu nhiếp tầm.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là sơ tĩnh lự thâu nhiếp tầm – tứ tương ưng với pháp tâm và tâm sở.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, tức là trừ ra sơ tĩnh lự thâu nhiếp các tâm bất tương ưng hành tùy tầm chuyển, còn lại các sơ tĩnh lự thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, nghĩa là tĩnh lự này thâu nhiếp tận trí và vô sinh trí mà không thâu nhiếp tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, nghĩa là kiến không thâu nhiếp bốn tĩnh lự hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, nghĩa là tĩnh lự thâu nhiếp các tuệ hữu lậu.

4. Hoặc không phải là kiến cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp bốn tĩnh lự vô lậu.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả đều không có thân kiến làm nhân, mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ và tư, thì đó là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, còn lại đều không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là tĩnh lự thâu nhiếp tư (ý).

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là tĩnh lự thâu nhiếp các uẩn thọ – tưởng – thức, và tư không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra tĩnh lự thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành tùy nghiệp chuyển, còn lại các tĩnh lự thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, còn lại đều không phải sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn tĩnh lự này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là khi các tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp của thân-ngữ, là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, còn lại đều không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều khó thấy bởi vì rất thâm diệu và vì thâm diệu cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện mà cũng do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải do bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả không phải bất thiện mà cũng không phải do bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải do vô ký làm nhân v.v…? Tất cả không phải vô ký mà cũng không phải do vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Tất cả đều cũng có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là sơ tĩnh lự có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là tâm và tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là tâm và tâm sở ở quá khứ hoặc hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, tức là trừ ra pháp tâm-tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại tâm-tâm sở pháp vị lai, và các nghiệp thân- ngữ tâm bất tương ưng hành.

Các tĩnh lự thứ hai, thứ ba cũng như thế.

Tĩnh lự thứ tư cũng có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là tâm và tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và định vô tưởng đã sinh đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là pháp tâm và tâm sở ở quá khứ và hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián cũng không phải là đẳng vô gián duyên, tức là trừ ra pháp tâm-tâm sở ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại tâm-tâm sở pháp của vị lai, và trừ ra tâm bất tương ưng hành đẳng vô gián, còn lại là tâm bất tương ưng hành cùng các nghiệp thân – ngữ.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ tâm bất tương ưng hành, là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là các tĩnh lự này, nếu hữu lậu thì thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu.

– Bốn vô lượng: Tức là Từ vô lượng, Bi vô lượng, Hỷ vô lượng và Xả vô lượng.

Bốn vô lượng này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp nghiệp thân-ngữ thì có sắc, còn lại đều không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Tất cả đều không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả đều là hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả đều có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh – nhân sinh, thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thì thuộc về sắc, còn lại đều là thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp tâm-ý-thức thì thuộc về nội xứ, còn lại đều thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn vô lượng này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn dứt v.v…? Tất cả đều nên đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng đều có quả.

Có bao nhiêu thứ là có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, là do các đại tạo nên, còn lại đều không phải do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả đều là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, là nhân không tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn vô lượng này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp, thì phần ít của năm xứ thiện thâu nhiếp bốn vô lượng, và bốn vô lượng cũng thâu nhiếp phần ít của năm xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì phần ít của năm xứ hữu lậu thâu nhiếp bốn vô lượng, và bốn vô lượng cũng thâu nhiếp phần ít của năm xứ hữu lậu.

Cùng với tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Có bao nhiêu thứ ở quá khứ v.v…? Tất cả đều ở hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả đều là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả đều thuộc cõi Sắc Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Tất cả đều phi học phi vô học.

Bốn vô lượng này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả đều do tu đạo mà đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, thì không phải là tâm-tâm sở- tâm tương ưng, thọ uẩn- tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn, là tâm sở cùng với tâm tương ưng, tâm-ýthức thì chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ và tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành với thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp tâm-ý-thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp tưởng uẩn và tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, nghĩa là trừ ra các vô lượng thâu nhiếp tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các vô lượng chỉ thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v…? Trừ tự tánh của nó ra, giống với thọ đã nói nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Từ vô lượng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, tức là Từ vô lượng thâu nhiếp tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, nghĩa là Từ vô lượng thâu nhiếp tầm, và tầm không tương ưng với tứ mà tương ưng với tâm và tâm sở.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là Từ vô lượng thâu nhiếp tầm – tứ tương ưng với tâm-tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, nghĩa là trừ ra Từ vô lượng thâu nhiếp tùy tầm chuyển các nghiệp thân- ngữ tâm bất tương ưng hành, còn lại các Từ vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ tâm bất tương ưng hành, và Từ vô lượng thâu nhiếp tâm không tương ưng với tứ, cùng với Từ vô lượng thâu nhiếp các tâm-tâm sở không có tầm không có tứ.

Bi và Xả vô lượng thì cũng thế.

Hỷ vô lượng cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là Hỷ vô lượng thâu nhiếp tùy tầm chuyển các nghiệp thân – ngữ tâm bất tương ưng hành và tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, nghĩa là Hỷ vô lượng thâu nhiếp tầm.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là Hỷ vô lượng thâu nhiếp tầm – tứ tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, nghĩa là trừ ra Hỷ vô lượng thâu nhiếp tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, còn lại Hỷ vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và Hỷ vô lượng thâu nhiếp các pháp tâm-tâm sở không có tầm không có tứ.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các vô lượng hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến. Là kiến mà cũng là kiến xứ, là các vô lượng thâu nhiếp tuệ, còn lại đều là kiến xứ mà không phải là kiến.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không phải có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả không phải là có thân kiến làm nhân, cũng không có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ và tư là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, còn lại đều không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là vô lượng thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là vô lượng thâu nhiếp các uẩn thọ- tưởng- thức, và tư không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ-ý.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra vô lượng thâu nhiếp tùy nghiệp chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các vô lượng thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, còn lại đều không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn vô lượng này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp của thân-ngữ, là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, còn lại đều không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ khó thấy bởi vì thâm diệu v.v…? Tất cả đều là khó thấy bởi vì rất thâm diệu và vì thâm diệu cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện mà cũng do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải do bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện mà cũng không phải do bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải do vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải là vô ký mà cũng không phải do vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là mỗi thứ có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các tâm và tâm sở ở vị lai mà hiện nên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các tâm và tâm sở ở quá khứ hoặc hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra các vô lượng thâu nhiếp các tâm-tâm sở ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các vô lượng thâu nhiếp các tâm-tâm sở ở vị lai, và các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các vô lượng thâu nhiếp các nghiệp thânngữ tâm bất tương ưng hành, là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại mà vô lượng thâu nhiếp đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả đều là thuận bộc lưu mà cũng không phải là bộc lưu.

******

– Bốn vô sắc: Tức là Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Bốn vô sắc này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả đều không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Tất cả đều là không thấy Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Có một thứ là hữu lậu, ba thứ cần phân biệt, tức là Không vô biên xứ hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Tức là Không vô biên xứ thâu nhiếp bốn uẩn hữu lậu.

Vô lậu là gì? Tức là Không vô biên xứ thâu nhiếp bốn uẩn vô lậu.

Thức vô biên xứ và Vô sở hữu xứ cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Tức là Không vô biên xứ hữu lậu thiện.

Không có dị thục là gì? Tức Không vô biên xứ vô ký và vô lậu.

Thức vô biên xứ và Vô sở hữu xứ cũng như vậy.

Phi tưởng phi phi tương xứ hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Nghĩa là Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện.

Không có dị thục là gì? Nghĩa là Phi tưởng phi phi tưởng xứ vô ký.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả là duyên sinh – nhân sinh – thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các vô sắc thâu nhiếp tâm-ý-thức thì thuộc về nội xứ, còn lại đều thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn vô sắc này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Có một thứ là đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, còn ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ba vô sắc này, nếu là hữu lậu thì đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, nếu là vô lậu thì không phải đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn dứt v.v…? Có một thứ cần đoạn dứt, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ba vô sắc ấy, nếu là hữu lậu thì nên đoạn dứt, nếu vô lậu thì không cần phải đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ hoặc nên tu, hoặc không cần phải tu.

Nên tu là gì? Tức là Không vô biên xứ thiện.

Không nên tu là gì? Tức là Không vô biên xứ vô ký.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng vậy.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ hoặc nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô.

Nhiễm ô là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ có ngăn che (hữu phú).

Không nhiễm ô là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ không có ngăn che (vô phú).

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả đều không phải các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Có một thứ là có, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ba vô sắc đó, nếu hữu lậu là có, nếu vô lậu thì không có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là vô sắc thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành, là nhân không tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn vô sắc này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc xứ thiện mà không phải là vô sắc, nghĩa là sắc uẩn thiện và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn thiện và trạch diệt.

2. Hoặc là vô sắc mà không phải là xứ thiện, nghĩa là bốn thứ vô sắc vô ký.

3. Hoặc là xứ thiện mà cũng là vô sắc, nghĩa là bốn thứ vô sắc thiện.

4. Hoặc không phải là xứ thiện mà cũng không phải là vô sắc, nghĩa là năm uẩn bất thiện, sắc uẩn vô ký và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn vô ký cùng hư không- phi trạch diệt.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô ký mà không phải là vô sắc, nghĩa là sắc uẩn vô ký và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn vô ký cùng hư không- phi trạch diệt.

2. Hoặc là vô sắc mà không phải là xứ vô ký, tức là bốn vô sắc thiện.

3. Hoặc là xứ vô ký mà cũng là vô sắc, nghĩa là bốn thứ vô sắc vô ký.

4. Hoặc không phải là xứ vô ký cũng không phải là vô sắc, nghĩa là năm uẩn bất thiện, sắc uẩn thiện và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn thiện cùng trạch diệt.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ lậu mà không phải là vô sắc, nghĩa là một xứ lậu và phần ít của hai xứ lậu.

2. Hoặc là vô sắc mà không phải là xứ lậu, nghĩa là xứ lậu không thâu nhiếp bốn thứ vô sắc.

3. Hoặc là xứ lậu mà cũng là vô sắc, nghĩa là phần ít của hai xứ lậu.

4. Hoặc không phải là xứ lậu mà cũng không phải là vô sắc, nghĩa là sắc uẩn và xứ lậu, vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn và pháp vô vi. Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ hữu lậu mà không phải là vô sắc, nghĩa là sắc uẩn hữu lậu và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn hữu lậu.

2. Hoặc là vô sắc mà không phải là xứ hữu lậu, nghĩa là phần ít của ba thứ vô sắc.

3. Hoặc là xứ hữu lậu mà cũng là vô sắc, nghĩa là một thứ vô sắc và phần ít của ba thứ vô sắc.

4. Hoặc không phải là xứ hữu lậu cũng không phải là vô sắc, nghĩa là sắc uẩn vô lậu và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn vô lậu cùng với pháp vô vi.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô lậu mà không phải là vô sắc, nghĩa là sắc uẩn vô lậu và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn vô lậu cùng với pháp vô vi.

2. Hoặc là vô sắc mà không phải là xứ vô lậu, tức là một thứ vô sắc và phần ít của ba thứ vô sắc.

3. Hoặc là xứ vô lậu mà cũng là vô sắc, nghĩa là phần ít của ba thứ vô sắc.

4. Hoặc không phải là xứ vô lậu cũng không phải là vô sắc, nghĩa là sắc uẩn hữu lậu và vô sắc không thâu nhiếp bốn uẩn hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả đều thuộc quá khứhiện tại-vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ hoặc thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp bốn uẩn thiện.

Vô ký là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp bốn uẩn vô ký.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng thế.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Có một thứ thuộc cõi Vô sắc, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ba thứ vô sắc, nếu là hữu lậu thì ở cõi Vô sắc, nếu là vô lậu thì không có ở cõi nào.

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Có một thứ phi học phi vô học, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp bốn uẩn hữu học.

Vô học là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp bốn uẩn vô học.

Phi học phi vô học là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp bốn uẩn hữu lậu.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng vậy.

Bốn vô sắc này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Không vô biên xứ hoặc do kiến đạo mà đoạn, hoặc do tu đạo mà đoạn, hoặc không có gì phải đoạn.

Do kiến đạo mà đoạn là gì? Nghĩa là Không vô biên xứ với các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành hiện quán biên nhẫn đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ hai mươi tám thứ tùy miên, luôn tương ưng và đều khởi tâm bất tương ưng hành với Không vô biên xứ.

Do tu đạo mà đoạn là sao? Nghĩa là Không vô biên xứ với học thấy dấu vết đạo và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ ba thứ tùy miên, và nó tương ưng luôn khởi tâm bất tương ưng hành, cùng với Không vô biên xứ hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là vô lậu.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng thế.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc do kiến đạo mà đoạn, hoặc do tu đạo mà đoạn.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là Phi tưởng phi phi tưởng xứ với các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ hai mươi tám thứ tùy miên, và nó tương ưng luôn khởi tâm bất tương ưng hành với Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Do tu đạo mà đoạn trừ là sao? Nghĩa là Phi tưởng phi phi tưởng xứ với học thấy dấu vết đạo và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ ba thứ tùy miên, và nó tương ưng luôn khởi tâm bất tương ưng hành cùng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các vô sắc thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành, là không phải tâm- tâm sở- tâm tương ưng. Khi các thọ uẩn – tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn, là tâm sở cùng với tâm tương ưng, còn tâm-ý-thức thì chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là mỗi thứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là các vô sắc thâu nhiếp các tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành và thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, nghĩa là các vô sắc thâu nhiếp tâm-ý-thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, nghĩa là các vô sắc thâu nhiếp tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, tức là trừ ra các vô sắc thâu nhiếp các tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các vô sắc thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v…? Trừ ra tự tánh của nó, cũng như thọ nói trên nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ? Tất cả đều không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả đều nên phân biệt, nghĩa là Không vô biên xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp tận trí và vô sinh trí mà không thâu nhiếp tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, nghĩa là kiến không thâu nhiếp Không vô biên xứ hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp năm kiến nhiễm ô và chánh kiến của thế tục.

4. Hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp Không vô biên xứ vô lậu.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng như thế.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến. Kiến mà cũng là kiến xứ, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ thâu nhiếp năm kiến nhiễm ô và chánh kiến của thế tục. Còn lại Phi tưởng phi phi tưởng xứ đều là kiến xứ mà không phải là kiến.

Có bao nhiêu thứ là thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, là trừ ra ở quá khứ và hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên và nó tương ưng cùng với Không vô biên xứ, cũng trừ ra ở quá khứ và hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành và nó tương ưng cùng với Không vô biên xứ, cũng trừ ra ở vị lai có thân kiến tương ưng với Không vô biên xứ, cũng trừ ra ở vị lai có thân kiến và nó tương ưng với các pháp sinh ra- già đi- trụ lại đến vô thường (sinh trụ dị diệt) cùng với Không vô biên xứ, còn lại Không vô biên xứ nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, nghĩa là các Không vô biên xứ đã trừ ra trước đây.

Không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, nghĩa là các Không vô biên xứ không nhiễm ô.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, nghĩa là Không vô biên xứ dị thục không thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, nghĩa là tư không thâu nhiếp nghiệp dị thục sinh ra Không vô biên xứ.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là nghiệp dị thục, nghĩa là Không vô biên xứ có nghiệp dị thục sinh ra tư.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục, nghĩa là trừ ra nghiệp và nghiệp dị thục sinh ra Không vô biên xứ, còn lại các Không vô biên xứ.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng hữu xứ cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Không vô biên xứ có ba trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp các tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là Không vô biên xứ thâu nhiếp các uẩn thọ- tưởng- thức, và tư không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra Không vô biên xứ thâu nhiếp các tâm bất tương ưng hành tùy nghiệp chuyển, còn lại các Không vô biên xứ thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng hữu xứ cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả đều không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn vô sắc này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả đều không phải là sắc tạo ra, cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì quá thâm diệu v.v…? Tất cả đều khó thấy bởi vì quá thâm diệu và vì quá thâm diệu cho nên rất khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ có ba trường hợp:

1. Hoặc thiện làm nhân mà không phải là thiện, tức là dị thục thiện sinh ra Không vô biên xứ.

2. Hoặc thiện mà cũng do thiện làm nhân, nghĩa là Không vô biên xứ thiện.

3. Hoặc không phải thiện mà cũng không phải thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra dị thục thiện sinh ra Không vô biên xứ, còn lại các Không vô biên xứ vô ký.

Ba vô sắc sau cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải là bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải vô ký làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ hoặc là vô ký mà cũng là vô ký làm nhân, hoặc không phải vô ký mà cũng không phải vô ký làm nhân.

Vô ký mà cũng do vô ký làm nhân, tức là Không vô biên xứ vô ký.

Không phải là vô ký mà cũng không phải vô ký làm nhân, nghĩa là Không vô biên xứ thiện.

Ba vô ký sau cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ, có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là các tâm-tâm sở của Không vô biên xứ ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và tâm- tâm sở Không vô biên xứ ở quá khứ hoặc hiện tại khi bậc A-la-hán mạng chung.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra tâm và tâm sở của Không vô biên xứ ở quá khứ hoặc hiện tại khi bậc A-la-hán mạng chung, còn lại các tâm- tâm sở của Không vô biên xứ ở quá khứ hay hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra các tâm-tâm sở của Không vô biên xứ ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các tâm-tâm sở của Không vô biên xứ ở thời vị lai, và Không vô biên xứ tâm bất tương ưng hành.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng như thế.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là tâm-tâm sở của Phi tưởng phi phi tưởng xứ ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và tâm-tâm sở của Phi tưởng phi phi tưởng xứ ở quá khứ -hiện tại của bậc A-la-hán khi mạng chung, cùng với định diệt đã sinh mà đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra tâm-tâm sở của Phi tưởng phi phi tưởng xứ ở quá khứ- hiện tại của bậc A-la-hán khi mạng chung, còn lại các tâm-tâm sở của Phi tưởng phi phi tưởng ở quá khứ hay hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra tâm-tâm sở của Phi tưởng phi phi tưởng xứ ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các tâm-tâm sở của Phi tưởng phi phi tưởng xứ ở vị lai, và trừ ra tâm bất tương ưng hành đẳng vô gián của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, còn lại các tâm bất tương ưng hành của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các vô sắc thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành, là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại các vô sắc là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Không vô biên xứ, có ba trường hợp:

1. Hoặc là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nghĩa là bộc lưu không thâu nhiếp Không vô biên xứ hữu lậu.

2. Hoặc là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, nghĩa là phần ít của ba thứ bộc lưu.

3. Hoặc không phải bộc lưu cũng không phải là thuận bộc lưu, nghĩa là Không vô biên xứ vô lậu.

Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ cũng như thế.

Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hoặc là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, hoặc là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu.

Bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, nghĩa là phần ít của ba thứ bộc lưu, còn lại đều là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu.

– Bốn thứ tu định: Đó là:

1. Có tu định, hoặc tu tập và làm mọi cách để trụ nơi pháp lạc hiện tiền.

2. Có tu định, hoặc tu tập và làm mọi cách để có được tri kiến thù thắng.

3. Có tu định, hoặc tu tập và làm mọi cách để có được pháp tuệ phân biệt.

4. Có tu định, hoặc tu tập và làm mọi cách để trừ hết các lậu. Bốn thứ tu định này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các tu định nào thâu nhiếp các nghiệp thân ngữ thì có sắc, còn lại đều là không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Tất cả đều không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Có một thứ hữu lậu, một thứ vô lậu, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là trụ trong pháp lạc hiện tiền hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Vô lậu là gì? Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp năm uẩn vô lậu.

Tuệ phân biệt tốt hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là tuệ phân biệt tốt thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Vô lậu là gì? Nghĩa là năm uẩn vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Có một thứ có dị thục, một thứ không có dị thục, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc và tuệ phân biệt tốt, nếu hữu lậu thì có dị thục, nếu vô lậu thì không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả là duyên sinh- nhân sinh- thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân ngữ là thuộc về sắc, còn lại đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp tâm-ý-thức thì thuộc về nội xứ, còn lại đều thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Bốn thứ tu định này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt các sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Có một thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, một thứ là không phải đoạn dứt, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc và tuệ phân biệt tốt, nếu hữu lậu thì đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, nếu vô lậu thì không phải đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ cần đoạn trừ v.v…? Có một thứ cần đoạn trừ, một thứ không cần đoạn trừ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc và tuệ phân biệt, nếu hữu lậu thì cần đoạn trừ, nếu vô lậu thì không cần đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả cần nên phân biệt, nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ, là do các đại tạo nên, còn lại đều không phải các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Có một thứ là có, một thứ không phải là có, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc và tuệ phân biệt, nếu hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không phải có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ tâm bất tương ưng hành, là nhân không tương ưng, còn lại đều là nhân tương ưng.

Bốn thứ tu định này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, thì phần ít của năm xứ thiện thâu nhiếp bốn thứ tu định, và bốn thứ tu định cũng thâu nhiếp phần ít của năm xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ hữu lậu mà không phải là tu định, tức là các tu định không thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

2. Hoặc là tu định mà không phải là xứ hữu lậu, tức là một thứ tu định và phần ít của hai thứ tu định.

3. Hoặc là xứ hữu lậu mà cũng là tu định, tức là một thứ tu định và phần ít của hai thứ tu định.

4. Hoặc không phải là xứ hữu lậu mà cũng không phải là tu định, tức là hư không và hai thứ diệt.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô lậu mà không phải là tu định, tức là hư không và hai thứ diệt.

2. Hoặc là tu định mà không phải là xứ vô lậu, tức là một thứ tu định và phần ít của hai thứ tu định.

3. Hoặc là xứ vô lậu mà cũng là tu định, nghĩa là một thứ tu định và phần ít của hai thứ tu định.

4. Hoặc không phải là xứ vô lậu mà cũng không phải là tu định, nghĩa là tu định không thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả đều có mặt hoặc ở quá khứ-hiện tại-vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Có một thứ thuộc cõi Sắc, một thứ không hệ thuộc cõi nào, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc, nếu hữu lậu thì thuộc về cõi Sắc, nếu vô lậu thì không hệ thuộc cõi nào.

Tuệ phân biệt hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Là tuệ phân biệt thâu nhiếp năm uẩn của cõi Dục.

Thuộc cõi Sắc là gì? Là tuệ phân biệt thâu nhiếp năm uẩn của cõi Sắc.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Là tuệ phân biệt thâu nhiếp bốn uẩn của cõi Vô sắc.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là năm uẩn vô lậu

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Có một thứ là học, một thứ là phi học phi vô học, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện pháp nơi trụ lạc hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp năm uẩn hữu học.

Vô học là gì? Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp năm uẩn vô học.

Phi học phi vô học là gì? Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Tuệ phân biệt hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Tức là năm uẩn hữu học.

Vô học là gì? Tức là năm uẩn vô học.

Phi học phi vô học là gì? Nghĩa là tuệ phân biệt thâu nhiếp năm uẩn hữu lậu.

Bốn thứ tu định này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Có một thứ do tu đạo mà đoạn trừ, một thứ không có gì phải đoạn trừ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc và tuệ phân biệt, nếu là hữu lậu thì do tu đạo mà đoạn trừ, nếu vô lậu thì không có gì phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành thì không phải là tâm-tâm sở- tâm tương ưng. Khi thọ uẩn- tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn, thì tâm sở cùng với tân tương ưng còn tâm-ý-thức chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ, và tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành cùng thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tâm-ý-thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tưởng uẩn và tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, nghĩa là trừ ra hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Hai thứ có tri kiến thù thắng và dứt hết các lậu cũng như thế.

Tuệ phân biệt, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là tùy tâm chuyển các nghiệp thân- ngữ, và tuệ phân biệt thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành cùng thọ.

2. Hoặc tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, nghĩa là tuệ phân biệt thâu nhiếp tâm-ý-thức.

3. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, nghĩa là tuệ phân biệt thâu nhiếp tưởng uẩn, và tương ưng với hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, nghĩa là trừ ra tùy tâm chuyển các nghiệp thân- ngữ, còn lại các tuệ phân biệt thâu nhiếp các nghiệp thân –ngữ, trừ ra tuệ phân biệt thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành, còn lại các tuệ phân biệt thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v…? Trừ tự tánh của nó, giống như thọ đã nói trên nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Có một thứ là không có tầm không có tứ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành và tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tầm.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tầm -tứ tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển cũng không tương ưng với tứ, nghĩa là trừ ra hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các hiện trụ pháp lạc thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Tri kiến thù thắng cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là trừ ra tri kiến thù thắng thâu nhiếp tùy tầm chuyển các nghiệp thân- ngữ tâm bất tương ưng hành và tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, nghĩa là tri kiến thù thắng thâu nhiếp tứ.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là tri kiến thù thắng thâu nhiếp tầm và tứ tương ưng với tâm và tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, nghĩa là tri kiến thù thắng thâu nhiếp tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, còn lại các thứ tri kiến thù thắng thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và các tri kiến thù thắng thâu nhiếp các tâm và tâm sở khôn có tầm không có tứ.

Tuệ phân biệt cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là tùy tầm chuyển các nghiệp thân – ngữ, và tuệ phân biệt thâu nhiếp các tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, cùng tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, tức là tuệ phân biệt thâu nhiếp tầm, và tầm không tương ưng với tứ, mà tương ưng với các pháp tâm và tâm sở.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, tức là tuệ phân biệt thâu nhiếp tầm và tứ tương ưng với tâm-tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, nghĩa là trừ ra tùy theo tầm chuyển các nghiệp thân -ngữ, còn lại tuệ phân biệt thâu nhiếp nghiệp thân ngữ và trừ ra tuệ phân biệt thâu nhiếp tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các tuệ phân biệt thâu nhiếp các tâm bất tương ưng hành, cùng với tầm không tương ưng với tứ, hoặc là các tâm-tâm sở khôn có tầm không có tứ.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả cần phân biệt, tức là hiện trụ pháp lạc có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, tức là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tận trí và vô sinh trí mà không thâu nhiếp các tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, nghĩa là kiến không thâu nhiếp hiện trụ nơi pháp lạc hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, tức là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp các chánh kiến của thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp hiện trụ nơi pháp lạc vô lậu.

Tri kiến thù thắng hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến. Kiến mà cũng là kiến xứ, tức là tri kiến thù thắng thâu nhiếp chánh kiến của thế gian. Còn lại các tri kiến thù thắng, là kiến xứ mà không phải là kiến.

Tuệ phân biệt cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, nghĩa là tận trí và vô sinh trí không thâu nhiếp tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, tức là kiến không thâu nhiếp tuệ phân biệt hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, nghĩa là tuệ phân biệt thâu nhiếp chánh kiến thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp tuệ phân biệt vô lậu.

Còn dứt hết các lậu thâu nhiếp tuệ, là kiến mà không phải là kiến xứ, còn lại đều không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả đều không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ và tư là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục, còn lại đều không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp uẩn thọ, tưởng, thức và tư không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra hiện trụ nơi pháp lạc thâu nhiếp tùy nghiệp chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các hiện trụ pháp lạc thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Tri kiến thù thắng và dứt hết các lậu cũng như thế.

Tuệ phân biệt cũng có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra tuệ phân biệt thâu nhiếp tùy nghiệp chuyển các nghiệp thân – ngữ, còn các tuệ phân biệt thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ và tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là tuệ phân biệt thâu nhiếp các uẩn thọ, tưởng thức, và tư không thâu nhiếp các hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là tuệ phân biệt thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ tùy nghiệp chuyển.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ tuệ phân biệt thâu nhiếp tùy nghiệp chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại các tuệ phân biệt thâu nhiếp tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ, là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, còn lại đều không phải sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được.

Bốn thứ tu định này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ, là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, còn lại đều là không phải sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều là khó thấy vì rất thâm diệu, và vì rất thâm diệu cho nên là khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện và cũng do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải là vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải vô ký mà cũng không phải vô ký làm nhân

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là mỗi thứ có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các tâm-tâm sở ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các tâm-tâm sở ở quá khứ hoặc hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra các tu định thâu nhiếp các tâm-tâm sở ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các thứ tu định thâu nhiếp các tâm-tâm sở ở thời vị lai, và các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thânngữ tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là các thứ tu định thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, là sở duyên duyên mà không có sở duyên, còn lại đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Có một thứ là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, một thứ không phải bộc lưu cũng không phải là thuận bộc lưu, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là hiện trụ nơi pháp lạc và tuệ phân biệt, nếu hữu lậu thì thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải bộc lưu cũng không phải thuận bộc lưu.

– Bảy giác chi: Đó là Niệm giác chi… cho đến Xả giác chi.

Bảy giác chi này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Tất cả đều không có sắc.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Tất cả đều không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Tất cả đều không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả đều vô lậu.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả đều không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh- nhân sinh- thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Tất cả đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Tất cả đều thuộc về ngoại xứ

Có bao nhiêu là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

******

Bảy giác chi này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều không đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn dứt v.v…? Tất cả đều không nên đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả đều nên tu.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả đều không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng là có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Tất cả đều không có chấp thọ.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Tất cả đều không do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả đều không phải là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Tất cả đều là nhân tương ưng.

Bảy giác chi này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, thì có phần ít của hai xứ thiện thâu nhiếp bảy giác chi, và bảy giác chi cũng thâu nhiếp phần ít của hai xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng tám thứ vô lậu thâu nhiếp nhau, thì có phần ít của hai xứ vô lậu thâu nhiếp bảy giác chi, và bảy giác chi cũng thâu nhiếp phần ít của hai xứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả hoặc là quá khứ- hiện tại hay vị lai…

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả đều là thiện.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả đều không hệ thuộc cõi nào.

Có bao nhiêu thứ có học v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Niệm giác chi hoặc học, hoặc vô học.

Học là gì? Nghĩa là tác ý học tương ưng với Niệm giác chi.

Vô học là gì? Tức là tác ý vô học tương ưng với Niệm giác chi.

Sáu thứ giác chi kia cũng như thế.

Bảy giác chi này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả đều không có gì phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Tất cả đều là tâm sở cùng tâm tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Có một thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ. Còn sáu thứ là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không phải là tương ưng với tưởng-hành v.v…? Tất cả đều là tùy tâm chuyển tương ưng với tưởng hành, trừ ra tự tánh của nó.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là Niệm giác chi hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Nghĩa là có tầm có tứ tác ý tương ưng với Niệm giác chi.

Không tầm chỉ có tứ là gì? Nghĩa là không tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với Niệm giác chi.

Không có tầm không có tứ là gì? Nghĩa là không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với Niệm giác chi.

Trạch pháp, Tinh tiến, Khinh an, Định, Xả giác chi cũng thế.

Hỷ giác chi hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Nghĩa là có tầm có tứ tác ý tương ưng với hỷ giác chi.

Không có tầm không có tứ là gì? Nghĩa là không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với hỷ giác chi.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Có sáu thứ không phải kiến mà cũng không phải là kiến xứ, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là Trạch pháp giác chi thâu nhiếp tận trí và vô sinh trí mà không thâu nhiếp tuệ, là kiến mà không phải là kiến xứ, còn lại đều không phải là kiến cũng không phải là kiến xứ.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả đều là không phải có thân kiến làm nhân mà cũng không phải có nhân của thân kiến.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục v.v…? Tất cả đều không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Tất cả đều là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp.

Có bao nhiêu thứ có sắc tạo ra mà không phải là có sắc thấy được v.v…? Tất cả đều không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được (có thấy).

Bảy giác chi này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Tất cả đều không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều là khó thấy bởi vì rất thâm diệu, vì thâm diệu cho nên rất khó thấy.

Có bao nhiêu thứ thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Tất cả đều là thiện mà cũng đều do thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải bất thiện v.v…? Tất cả đều không phải bất thiện, mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải do vô ký làm nhân v.v…? Tất cả đều không phải là vô ký mà cũng không phải do vô ký làm nhân.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không phải là có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng là có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là Niệm giác chi hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là Niệm giác chi ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên.

Là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, nghĩa là Niệm giác chi ở quá khứ hoặc hiện tại.

Không phải là đẳng vô gián cũng không phải là đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ Niệm giác chi ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các Niệm giác chi ở vị lai. Sáu thứ giác chi còn lại cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Tất cả đều là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…?

Tất cả không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu.

– Hai mươi hai căn: Đó là nhãn căn… cho đến cụ tri căn.

Hai mươi hai căn này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Có bảy thứ có sắc, mười lăm thứ không có sắc.

Có bao nhiêu thứ là thấy được v.v…? Tất cả đều không thấy được.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Có bảy thứ có đối, mười lăm thứ không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu…? Có mười thứ là hữu lậu, ba thứ vô lậu, chín thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là tác ý hữu lậu tương ưng với ý căn.

Vô lậu là gì? Nghĩa là tác ý vô lậu tương ưng với ý căn.

Lạc, hỷ, xả, tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ cũng vậy.

Có bao nhiêu thứ là hữu vi v.v…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Có một thứ là dị thục, mười một thứ không có dị thục, mười thứ cần phân biệt, nghĩa là ý căn hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Nghĩa là ý căn bất thiện và thiện hữu lậu.

Không có dị thục là gì? Là ý căn vô ký và vô lậu.

Lạc căn, hỷ căn, xả căn cũng như thế.

Khổ căn hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Tức là khổ căn thiện- bất thiện.

Không có dị thục là gì? Tức là khổ căn vô ký.

Còn các căn tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ nếu là hữu lậu thì có dị thục, nếu vô lậu thì không có dị thục.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh- nhân sinh – thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Có bảy thứ thuộc về sắc, mười lăm thứ thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Có tám thứ thuộc về nội xứ, mười một thứ thuộc về ngoại xứ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn thâu nhiếp tâm -ý -thức thuộc về nội xứ, còn lại đều thuộc ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Hai mươi hai căn này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Có mười thứ đoạn dứt sự biết khắp, ba thứ không phải đoạn dứt và chín thứ cần phân biệt: Nghĩa là chín căn như ý … nếu là hữu lậu thì đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, nếu vô lậu thì không phải đoạn dứt.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn trừ v.v…? Có mười thứ nên đoạn trừ, ba thứ không cần đoạn trừ, chín thứ cần phân biệt: Nghĩa là chín căn nếu là hữu lậu thì nên đoạn trừ, nếu vô lậu thì không cần phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Có tám thứ nên tu, tám thứ không cần nên tu, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc cần nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là các ý căn thiện.

Không nên tu là gì? Tức là ý căn bất thiện – vô ký.

Lạc căn, hỷ căn, khổ căn, xả căn cũng như thế.

Ưu căn hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là ưu căn thiện.

Không nên tu là gì? Tức là ưu căn bất thiện.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Có mười sáu thứ không nhiễm ô, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô.

Nhiễm ô là gì? Tức là ý căn có ngăn che (hữu phú).

Không nhiễm ô là gì? Tức là ý căn không có ngăn che (vô phú).

Lạc, khổ, hỷ, ưu, xả căn cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Có mười lăm thứ không có chấp thọ, bảy thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn căn hoặc có chấp thọ, hoặc không có chấp thọ.

Có chấp thọ là gì? Nghĩa là tự thể thâu nhiếp nhãn căn.

Không có chấp thọ là gì? Nghĩa là không phải tự thể thâu nhiếp nhãn căn.

Còn lại sáu sắc căn cũng như vậy.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Có bảy thứ do các đại tạo nên, mười lăm thứ không phải các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Có mười thứ là có, ba thứ là không có, chín thứ cần phân biệt: Nghĩa là chín căn, như ý… nếu là hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không phải có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Có tám thứ là nhân không tương ưng, mười bốn thứ là nhân tương ưng.

Hai mươi hai căn này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ thiện mà không phải là căn, nghĩa là Sắc uẩn, tưởng uẩn thiện, và căn không thâu nhiếp hành uẩn thiện và trạch diệt.

2. Hoặc là căn mà không phải là xứ thiện, nghĩa là tám căn và phần ít của sáu căn.

3. Hoặc là xứ thiện mà cũng là căn, nghĩa là tám căn và phần ít của sáu căn.

4. Hoặc không phải xứ thiện mà cũng không phải là căn, nghĩa là sắc uẩn- hành uẩn bất thiện, tưởng uẩn bất thiện và vô ký, và căn không thâu nhiếp sắc uẩn-hành uẩn, cùng hư không – phi trạch diệt.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ bất thiện mà không phải căn, là sắc uẩn – tưởng uẩn – hành uẩn bất thiện.

2. Hoặc là căn mà không phải là xứ bất thiện, là mười sáu căn và phần ít của sáu căn.

3. Hoặc là xứ bất thiện mà cũng là căn, là phần ít của sáu căn.

4. Hoặc không phải là xứ bất thiện mà cũng không phải căn, là sắc uẩn thiện, tưởng uẩn thiện và vô ký, căn không thâu nhiếp các hành uẩn thiện -vô ký, và căn không thâu nhiếp sắc uẩn vô ký cùng các pháp vô vi.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô ký mà không phải là căn, là tưởng uẩn vô ký và căn không thâu nhiếp sắc uẩn-hành uẩn vô ký, cùng hư không-phi trạch diệt.

2. Hoặc là căn mà không phải là xứ vô ký, là chín căn và phần ít của năm căn.

3. Hoặc là xứ vô ký mà cũng là căn, là tám căn và phần ít của năm căn.

4. Hoặc không phải xứ vô ký mà cũng không phải căn, là sắc uẩn- tưởng uẩn thiện và bất thiện, hành uẩn bất thiện, và căn không thâu nhiếp hành uẩn thiện cùng trạch diệt. Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp thì chúng không thâu nhiếp lẫn nhau.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ hữu lậu mà không phải là căn, là tưởng uẩn hữu lậu, và căn không thâu nhiếp sắc uẩn-hành uẩn hữu lậu.

2. Hoặc là căn mà không phải là xứ hữu lậu, nghĩa là ba căn và phần ít của chín căn.

3. Hoặc là xứ hữu lậu mà cũng là căn, là mười căn và phần ít của chín căn.

4. Hoặc không phải là xứ hữu lậu mà cũng không phải là căn, là sắc uẩn- tưởng uẩn vô lậu, và căn không thâu nhiếp hành uẩn vô lậu cùng ba thứ vô vi.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô lậu mà không phải là căn, là sắc uẩn, tưởng uẩn vô lậu và căn không thâu nhiếp hành uẩn vô lậu, cùng ba thứ vô vi.

2. Hoặc là căn mà không phải là xứ vô lậu, tức là mười căn và phần ít của chín căn.

3. Hoặc là xứ vô lậu mà cũng là căn, là ba căn và phần ít của chín căn.

4. Hoặc không phải xứ vô lậu mà cũng không phải là căn, là tưởng uẩn hữu lậu và căn không thâu nhiếp sắc uẩn-hành uẩn hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả hoặc quá khứ, hoặc hiện tại, hoặc vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Có tám thứ thiện, tám thứ vô ký, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là tác ý thiện tương ưng với ý căn.

Bất thiện là gì? Tức là tác ý bất thiện tương ưng với ý căn.

Vô ký là gì? Tức là tác ý vô ký tương ưng với ý căn.

Lạc căn, khổ căn, hỷ căn, xả căn cũng như thế.

Ưu căn hoặc thiện, hoặc bất thiện.

Thiện là gì? Tức là tác ý thiện tương ưng với ưu căn.

Bất thiện là gì? Tức là tác ý bất thiện tương ưng với ưu căn.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Có bốn thứ thuộc cõi Dục, ba thứ không hệ thuộc cõi nào, mười lăm thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn căn hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Là các đại ở cõi Dục tạo nên nhãn căn.

Thuộc cõi Sắc là gì? Là các đại ở cõi Sắc tạo nên nhãn căn.

Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân… cũng như thế.

Mạng căn hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Là thọ mạng ở cõi Dục.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là thọ mạng ở cõi Sắc.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Nghĩa là thọ mạng ở cõi Vô sắc.

Ý căn hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Tức là cõi Dục tác ý tương ưng với ý căn.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là cõi Sắc tác ý tương ưng với ý căn.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Tức là cõi Vô sắc tác ý tương ưng với ý căn.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là vô lậu tác ý tương ưng với ý căn.

Xả và năm căn như tín v.v… cũng như thế.

Lạc căn hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Tức là cõi Dục tác ý tương ưng với lạc căn.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là cõi Sắc tác ý tương ưng với lạc căn.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là vô lậu tác ý tương ưng với lạc căn.

Hỷ căn cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Có hai thứ là học, một thứ là vô học, mười thứ là phi học phi vô học, chín thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Tức là học tác ý tương ưng với ý căn.

Vô học là gì? Tức là vô học tác ý tương ưng với ý căn.

Phi học phi vô học là gì? Tức là hữu lậu tác ý tương ưng với ý căn.

Lạc, hỷ, xả, tín gồm năm căn cũng như thế.

Hai mươi hai căn này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Có chín thứ do tu đạo mà đoạn trừ, ba thứ không có gì phải đoạn trừ, mười thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là sao Nghĩa là ý căn với các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên tương ưng với ý căn.

Do tu đạo mà đoạn trừ là sao Nghĩa là ý căn với học thấy dấu vết đạo và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với ý căn, và ý căn hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là ý căn vô lậu.

Xả căn cũng thế.

Lạc căn hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là lạc căn với các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ hai mươi tám tùy miên tương ưng với lạc căn.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là lạc căn với học thấy dấu đạo và tu… mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ năm thứ tùy miên tương ưng với lạc căn và lạc căn hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn là gì? Tức là lạc căn vô lậu.

Hỷ căn hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là hỷ căn với các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Nghĩa là sao? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ năm mươi hai tùy miên tương ưng với hỷ căn.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là căn thiện học thấy dấu đạo và tu… mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ sáu thứ tùy miên với hỷ căn, và hỷ căn hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là hỷ căn vô lậu.

Ưu căn hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Là ưu căn được đoạn do bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn. Vậy nghĩa là sao? Là do kiến đạo mà đoạn trừ mười sáu tùy miên tương ưng với ưu căn.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Là ưu căn nhờ học thấy dấu đạo và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ hai thứ tùy miên tương ưng với ưu căn, và ưu căn không nhiễm ô.

Năm căn như tín v.v… nếu là hữu lậu thì do tu mà đoạn trừ, nếu vô lậu thì không có gì phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Có tám thứ không phải là tâm- tâm sở- tâm tương ưng, mười thứ là tâm sở và tâm tương ưng, một thứ là tâm, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là có ba căn vô lậu thâu nhiếp tám căn, là tân sở cùng với tâm tương ưng, còn một căn chỉ là tâm.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Có năm thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, một thứ tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, có năm thứ là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, tám thứ không phải tùy tâm chuyển mà cũng không phải tương ưng với thọ, còn ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ba căn vô lậu thâu nhiếp ba căn tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, một căn tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, năm căn tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v…? Có một tưởng tương ưng mà không phải là tùy tâm chuyển, mười thứ là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với tưởng, tám thứ không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với tưởng, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ba căn vô lậu thâu nhiếp tám căn tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với tưởng, một căn tương ưng với tưởng mà không phải là tùy tâm chuyển.

Có một hành tương ưng mà không phải là tùy tâm chuyển, mười thứ là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với hành, trừ ra tự tánh của nó. Tám thứ không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với hành, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ba căn vô lậu thâu nhiếp một hành tương ưng mà không phải là tùy tâm chuyển, tám thứ là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với hành, trừ ra tự tánh của nó. Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Hai thứ có tầm có tứ, tám thứ không có tầm không có tứ, mười hai thứ cần phân biệt:

Nghĩa là ý căn hoặc có tầm có tứ, hoặc không tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Tức là có tầm có tứ tác ý tương ưng với ý căn.

Không tầm chỉ có tứ là gì? Tức là không tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với ý căn.

Không có tầm không có tứ là gì? Tức là không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với ý căn.

Năm căn như xả, tín … và ba căn vô lậu cũng thế.

Lạc căn hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Tức là có tầm có tứ tác ý tương ưng với lạc căn.

Không có tầm không có tứ là gì? Tức là không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với lạc căn.

Hỷ căn cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Có một thứ là kiến mà cũng là kiến xứ, chín thứ là kiến mà không phải là kiến xứ, mười hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn, nếu hữu lậu thì kiến xứ mà không phải là kiến, nếu vô lậu thì không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Cả bốn căn lạc, hỷ, xả, tín… cũng như thế.

Tuệ căn có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, là tận trí và vô sinh trí không thâu nhiếp các tuệ căn vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, là kiến không thâu nhiếp tuệ căn hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, là chánh kiến của thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến mà cũng không phải là kiến xứ, là kiến không thâu nhiếp tuệ căn vô lậu.

Vị tri đương tri căn và dĩ tri căn thâu nhiếp tuệ, căn là kiến mà không phải là kiến xứ, còn lại đều không phải kiến mà cũng không phải là kiến xứ.

Cụ tri căn thâu nhiếp tận trí và vô sinh trí mà trí không thâu nhiếp tuệ căn, là kiến mà không phải kiến xứ, còn lại thì không phải kiến cũng không phải là kiến xứ.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Có mười sáu thứ là khôn có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc là có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến. (hình như thiếu) Hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, nghĩa là trừ ra ở quá khứ- hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên tương ưng với ý căn. Cũng trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với ý căn, cũng trừ ra vị lai có thân kiến tương ưng ý căn, còn lại đều là ý căn nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, nghĩa là các ý căn đã trừ ra ở trước.

Không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, là ý căn không nhiễm ô.

Lạc căn, hỷ căn, xả căn cũng như thế.

Khổ căn nếu nhiễm ô thì có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, nếu không nhiễm ô thì không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Ưu căn hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, là trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên tương ưng với ưu căn, và trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với ưu căn, còn lại là ưu căn nhiễm ô

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, nghĩa là các ưu căn đã trừ ra trước đó.

Không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, là ưu căn không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp dị thục v.v…? Có một thứ là nghiệp dị thục mà không phải là nghiệp, chín thứ không phải nghiệp cũng không phải là nghiệp dị thục, mười hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn căn (mắt) hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục.

Là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, là dị thục sinh ra nhãn căn. Còn lại các nhãn căn không phải nghiệp cũng không phải nghiệp của dị thục.

Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, ý, lạc, khổ, hỷ, xả căn cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải tùy nghiệp chuyển v.v…? Có tám thứ không phải nghiệp không phải tùy nghiệp chuyển, mười bốn thứ là tùy nghiệp chuyển mà không phải nghiệp.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Có bảy thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, mười lăm thứ không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc thấy được.

Hai mươi hai căn này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Có bảy thứ là sắc tạo ra cũng là sắc có đối, mười lăm thứ không phải sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều khó thấy bởi vì rất thâm diệu và vì rất thâm diệu cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Có tám thứ thiện mà cũng do thiện làm nhân, mười bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn căn hoặc là thiện làm nhân mà không phải là thiện, hoặc không phải là thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân.

Thiện làm nhân mà không phải là thiện, là dị thục thiện sinh ra nhãn căn, còn lại các nhãn căn đều không phải là thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân.

Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, mạng căn cũng như thế.

Ý căn hoặc là thiện làm nhân mà không phải là thiện, hoặc là thiện mà cũng là thiện làm nhân. Hoặc không phải là thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân. (hình như thiếu)

Thiện làm nhân mà không phải là thiện, là quả dị thục thiện sinh ra ý căn.

Là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là ý căn thiện.

Không phải là thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân, là trừ ra ý căn do quả dị thục thiện sinh ra, còn lại đều là ý căn vô ký và bất thiện.

Các căn lạc, hỷ, xả cũng vậy.

Khổ căn hoặc là thiện mà cũng là thiện làm nhân, hoặc không phải là thiện cũng không phải thiện làm nhân.

Là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là khổ căn thiện.

Không phải là thiện cũng không phải là thiện làm nhân, tức là khổ căn bất thiện và vô ký.

Ưu căn hoặc là thiện cũng do thiện làm nhân, hoặc không phải là thiện cũng không phải là thiện làm nhân.

Là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là ưu căn thiện.

Không phải là thiện cũng không phải là thiện làm nhân, tức là ưu căn bất thiện.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải bất thiện làm nhân? Có tám thứ không phải bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân, mười bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn căn hoặc là bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân. Bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, tức là quả dị thục bất thiện sinh ra nhãn căn, còn lại các nhãn căn không phải bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân.

Các căn nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ, và mạng cũng như thế.

Ý căn hoặc là bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc là bất thiện mà cũng là bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, nghĩa là quả dị thục bất thiện sinh ra ý căn, và cõi Dục có thân kiến biên -chấp kiến tương ưng với ý căn.

Bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là ý căn bất thiện.

Không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, là trừ ra ý căn do quả dị thục bất thiện sinh ra, và trừ ra cõi Dục có thân kiến biên chấp kiến tương ưng với ý căn, còn lại các ý căn vô ký và thiện.

Lạc căn hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là lạc căn bất thiện.

Không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, tức là lạc căn thiện và vô ký.

Khổ căn hoặc là bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc bất thiện mà cũng là bất thiện làm nhân. Hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, nghĩa là khổ căn do quả dị thục sinh ra.

Bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, nghĩa là khổ căn bất thiện.

Không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, là trừ ra khổ căn do dị thục sinh ra, còn lại các khổ căn vô ký và thiện.

Hỷ căn hoặc là bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, nghĩa là ở cõi Dục có thân kiến biên chấp kiến tương ưng với hỷ căn.

Bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, là hỷ căn bất thiện.

Không phải bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân là trừ việc ở cõi Dục có thân kiến biên chấp kiến tương ưng với hỷ căn, còn lại các hỷ căn thiện và vô ký.

Xả căn cũng như thế.

Ưu căn hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện mà cũng là bất thiện làm nhân, tức là ưu căn bất thiện.

Không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, tức là ưu căn thiện.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải vô ký làm nhân v.v…? Có tám thứ là vô ký mà cũng là vô ký làm nhân, tám thứ không phải vô ký mà cũng không phải vô ký làm nhân, sáu thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc là vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, hoặc cũng là vô ký mà cũng do vô ký làm nhân, hoặc không phải vô ký cũng không phải do vô ký làm nhân.

Vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, tức là ý căn bất thiện.

Vô ký mà cũng là vô ký làm nhân, tức là ý căn vô ký.

Không phải là vô ký mà cũng không phải vô ký làm nhân, tức là ý căn thiện.

Các căn lạc, khổ, hỷ, xả… cũng thế.

Ưu căn hoặc là vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, hoặc không phải vô ký cũng không phải do vô ký làm nhân.

Vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, tức là ưu căn bất thiện.

Không phải vô ký cũng không phải vô ký làm nhân, tức là ưu căn thiện.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Có tám thứ không phải là đẳng vô gián cũng không phải là đẳng vô gián duyên, mười bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý căn hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên. Tức là ý căn ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và ý căn ở quá khứ-hiện tại của A-la-hán khi lâm chung.

Là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, tức là trừ ra ý căn ở quá khứ-hiện tại của A-la-hán khi mạng chung, còn lại các ý căn ở quá khứ-hiện tại.

Không phải đẳng vô gián cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ ra ý căn ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các ý căn ở vị lai. Xả căn cũng như vậy.

Lạc căn hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc là không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, tức là lạc căn ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên.

Là đẳng vô gián mà cũng đẳng vô gián duyên, tức là lạc căn ở quá khứ-hiện tại.

Không phải là đẳng vô gián cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ lạc căn ở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại lạc căn ở vị lai.

Các căn khổ, hỷ, ưu và năm căn như tín… với ba căn vô lậu cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Có tám thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, mười bốn thứ là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Có mười thứ là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, ba thứ không phải bộc lưu mà cũng không phải thuận bộc lưu, chín thứ cần phân biệt: Nghĩa là chín căn như ý … nếu hữu lậu thì thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải bộc lưu cũng không phải thuận bộc lưu.

– Mười hai xứ: Tức là nhãn xứ- sắc xứ… cho đến ý xứ- pháp xứ.

Mười hai xứ này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Có mười thứ có sắc, một thứ không có sắc, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ hoặc có sắc, hoặc không có sắc.

Có sắc là gì? Nghĩa là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ.

Không có sắc là gì? Nghĩa là còn lại pháp xứ.

Có bao nhiêu thứ có thấy v.v…? Có một thứ có thấy, mười một thứ không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Có mười thứ có đối, hai thứ không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu…? Có mười thứ là hữu lậu, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Tức là tác ý hữu lậu tương ưng với ý xứ.

Vô lậu là gì? Tức là tác ý vô lậu tương ưng với ý xứ.

Pháp xứ hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Tức là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ hữu lậu, và các uẩn thọ tưởng hành hữu lậu.

Vô lậu là gì? Tức là các nghiệp thân- ngữ vô lậu, và các uẩn thọ- tưởng- hành vô lậu, và các pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Có mười một thứ là hữu vi, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ hoặc hữu vi, hoặc vô vi.

Hữu vi là gì? Nghĩa là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ, và các uẩn thọ- tưởng- hành.

Vô vi là gì? Tức là hư không và hai thứ diệt.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Có tám thứ không có dị thục, bốn thứ cần phân biệt, tức là sắc xứ hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Tức là sắc xứ thiện và bất thiện.

Không có dị thục là gì? Tức là sắc xứ vô ký.

Thanh xứ cũng thế.

Ý xứ hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Là ý xứ bất thiện và thiện hữu lậu.

Không có dị thục là gì? Là ý xứ vô ký, vô lậu.

Pháp xứ cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Có mười một thứ là duyên sinh – nhân sinh- thuộc về thế gian, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ, nếu là hữu vi thì duyên sinh – nhân sinh – thuộc về thế gian, nếu vô vi thì không phải là duyên sinh – nhân sinh – thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Có mười thứ thuộc về sắc, một thứ thuộc về danh, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân ngữ thì thuộc về sắc, còn lại đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về nội xứ v.v…? Có sáu thứ thuộc về nội xứ, sáu thứ thuộc về ngoại xứ.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Mười hai xứ này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Có mười thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, hai thứ cần phân biệt: Tức là ý xứ và pháp xứ, nếu hữu lậu thì đoạn dứt sự biết khắp, nếu vô lậu thì không phải đoạn dứt sự biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn trừ v.v…? Có mười thứ nên đoạn trừ, hai thứ cần phân biệt, tức là ý xứ và pháp xứ, nếu là hữu lậu thì nên đoạn trừ, nếu vô lậu thì không phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Có tám thứ không cần tu, bốn thứ cần phân biệt, tức là sắc xứ hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là sắc xứ thiện.

Không nên tu là gì? Tức là sắc xứ bất thiện và vô ký.

Thanh xứ và ý xứ cũng thế.

Pháp xứ hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là pháp xứ thiện hữu vi

Không nên tu là gì? Tức là pháp xứ bất thiện, vô ký cùng với trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Có tám thứ không nhiễm ô, bốn thứ cần phân biệt, tức là sắc xứ hoặc nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô.

Nhiễm ô là gì? Tức là sắc xứ hữu phú.

Không nhiễm ô là gì? Tức là sắc xứ vô phú.

Các thanh – ý – pháp xứ cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Có mười một thứ là quả mà cũng là có quả, một thứ cần phân biệt: Tức là pháp xứ hoặc là quả mà không phải là có quả, hoặc là quả mà cũng là có quả, hoặc không phải là quả mà cũng không phải là có quả.

Là quả mà không phải là có qua, tức là trạch diệt.

Là quả mà cũng là có quả. Tức là pháp xứ hữu vi.

Không phải là quả mà cũng không phải là có quả, tức là hư khôngphi trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Có ba thứ không có chấp thọ, chín thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn xứ hoặc có chấp thọ, hoặc không có chấp thọ.

Có chấp thọ là gì? Nghĩa là tự thể thâu nhiếp nhãn xứ.

Không có chấp thọ là gì? Nghĩa là không phải tự thể thâu nhiếp nhãn xứ.

Các xứ sắc, nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc xứ cũng như thế.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Có chín thứ do các đại tạo nên, một thứ không phải các đại tạo nên, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là xúc xứ với các thứ có tánh cứng, ướt, ấm, động đậy… thì không phải la các đại tạo nên, còn lại đều do các đại tạo nên.

Các nghiệp thân – ngữ mà pháp xứ thâu nhiếp là do các đại tạo nên, còn lại thì không phải do các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Có mười một thứ có trên, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ trạch diệt là không có trên (vô thượng), còn lại đều là có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Có mười thứ là có, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ và pháp xứ, nếu là hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không phải là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Có mười thứ là nhân không tương ưng, một thứ là nhân tương ưng, một thứ cần phân biệt, nghĩa là các pháp tâm sở là nhân tương ưng của pháp xứ, còn lại đều là nhân không tương ưng.

******

Mười hai xứ này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, thì sáu xứ thiện thâu nhiếp phần ít của bốn xứ, và phần ít của bốn xứ cũng thâu nhiếp sáu xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì năm xứ bất thiện thâu nhiếp phần ít của bốn xứ thiện, và phần ít của bốn xứ thiện cũng thâu nhiếp năm xứ bất thiện.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì bảy xứ vô ký thâu nhiếp tám xứ và phần ít của bốn xứ, tám xứ và phần ít của bốn xứ cũng thâu nhiếp bảy xứ vô ký.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì ba xứ lậu thâu nhiếp phần ít của một xứ, phần ít của một xứ cũng thâu nhiếp ba xứ lậu.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì năm xứ hữu lậu thâu nhiếp mười xứ và phần ít của hai xứ, mười xứ và phần ít của hai xứ cũng thâu nhiếp năm xứ hữu lậu.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, thì tám xứ vô lậu thâu nhiếp phần ít của hai xứ, và phần ít của hai xứ cũng thâu nhiếp tám xứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Có mười một thứ thuộc quá khứ- hiện tại- hoặc vị lai, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ nếu là hữu vi thì nó có mặt hoặc ở quá khứ hay hiện tại, hoặc vị lai; nếu là vô vi thì không có mặt ở quá khứ – hiện tại hay vị lai…

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Có tám thứ vô ký, bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc xứ hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Nghĩa là thân biểu hiện thiện.

Bất thiện là gì? Nghĩa là thân biểu hiện bất thiện.

Vô ký là gì? Nghĩa là trừ ra thân biểu hiện thiện hoặc bất thiện ở trên, còn lại các sắc xứ khác.

Thanh xứ hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Nghĩa là lời nói biểu hiện thiện.

Bất thiện là gì? Nghĩa là lời nói biểu hiện bất thiện

Vô ký là gì? Nghĩa là trừ ra lời nói có biểu hiện thiện hoặc bất thiện, còn lại các thanh xứ khác.

Ý xứ hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là tác ý thiện tương ưng với ý xứ.

Bất thiện là gì? Tức là tác ý bất thiện tương ưng với ý xứ.

Vô ký là gì? Tức là tác ý vô ký tương ưng với ý xứ.

Pháp xứ hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thiện của thân – ngữ, và thọ- tưởng- hành uẩn thiện cùng với trạch diệt.

Bất thiện là gì? Là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp bất thiện của thân – ngữ, và thọ – tưởng – hành uẩn bất thiện.

Vô ký là gì? Là thọ- tưởng- hành uẩn vô ký và hư không-phi trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Có hai thứ thuộc cõi Dục, mười thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn xứ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Là các đại chủng nơi cõi Dục tạo nên nhãn xứ.

Thuộc cõi Sắc là gì? Là các đại chủng ở cõi Sắc tạo nên nhãn xứ.

Các xứ: Sắc, nhĩ, thanh, tỷ, thiệt, thân… cũng thế.

Xúc xứ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Nghĩa là bốn đại thuộc cõi Dục và các đại ở cõi Dục tạo nên xúc xứ.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là bốn đại thuộc cõi Sắc và các đại ở cõi Sắc tạo nên xúc xứ.

Ý xứ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Tức là cõi Dục tác ý tương ưng với ý xứ.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là cõi Sắc tác ý tương ưng với ý xứ.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Tức là cõi Vô sắc tác ý tương ưng với ý xứ.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức vô lậu tác ý tương ưng với ý xứ.

Pháp xứ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ ở cõi Dục, và các uẩn thọ- tưởng- hành thuộc cõi Dục.

Thuộc cõi Sắc là gì? Là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thuộc cõi Sắc, và các uẩn thọ- tưởng- hành thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Là các uẩn thọ-tưởng-hành thuộc cõi Vô sắc.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Là các nghiệp thân-ngữ vô lậu và các uẩn thọ-tưởng-hành vô lậu, cùng ba pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ học v.v…? Có mười thứ phi học phi vô học, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Tức là học tác ý tương ưng với ý xứ.

Vô học là gì? Tức là vô học tác ý tương ưng với ý xứ.

Phi học phi vô học là gì? Nghĩa là hữu lậu tác ý tương ưng với ý xứ.

Pháp xứ hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Nghĩa là các nghiệp thân-ngữ hữu học và các uẩn thọtưởng-hành hữu học.

Vô học là gì? Nghĩa là các nghiệp thân-ngữ vô học và các uẩn thọ-tưởng-hành vô học.

Phi học phi vô học là gì? Tức là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ hữu lậu, và các uẩn thọ-tưởng-hành hữu lậu cùng với hư không và hai thứ diệt.

Mười hai xứ này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Có mười thứ do tu đạo mà đoạn trừ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là sao Nghĩa là ý xứ với tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên tương ưng với ý xứ.

Do tu đạo mà đoạn trừ là sao Nghĩa là ý xứ với các thứ học thấy vết tích và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với ý xứ, và ý xứ hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn là gì? Tức là ý xứ vô lậu.

Pháp xứ hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là sao? Nghĩa là pháp xứ với tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán, biên nhẫn… mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên, và tương ưng với pháp xứ, nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành.

Do tu đạo mà đoạn trừ là sao Nghĩa là pháp xứ với các thứ học thấy vết tích và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là sao? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên, và tương ưng với pháp xứ, nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành không biểu hiện nghiệp của thân-ngữ, hoặc là pháp xứ hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là pháp xứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Có mười thứ không phải là tâm- tâm sở- tâm tương ưng, một thứ chỉ là tâm, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ nếu có sở duyên thì tâm tương ưng với tâm sở, nếu không có sở duyên thì không phải là tâm- tâm sở- tâm tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Có mười thứ không phải là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, một thứ tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, một thứ cần phân biệt: Tức là pháp xứ hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, hoặc không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ.

Tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, nghĩa là tùy tâm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành và thọ.

Tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, là tưởng uẩn tương ưng với hành uẩn.

Không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, là trừ ra tùy tâm chuyển các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, còn lại các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và các pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng- hành v.v…? Tức là trừ ra tự tánh của nó, giống như thọ đã nói trên nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Có mười thứ không phải là tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với tứ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Là có tầm có tứ tác ý tương ưng với ý xứ.

Không tầm chỉ có tứ là gì? Tức là không tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với ý xứ.

Không có tâm không có tứ là gì? Nghĩa là không có tâm không có tứ tác ý tương ưng với ý xứ.

Pháp xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển không tương ưng với tứ, là tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ, tâm bất tương ưng hành, và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, là tầm và tầm không tương ưng với tứ, mà tương ưng với tâm sở pháp.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, là tầm và tứ tương ưng với tâm sở pháp.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, là trừ ra tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ và tâm bất tương ưng hành, còn lại các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và tầm không tương ưng với tứ, cùng với các tâm sở không có tầm không có tứ, hoặc là các pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Có một thứ là kiến mà cũng là kiến xứ, chín thứ là kiến xứ mà không phải là kiến, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ, nếu là hữu lậu thì kiến xứ mà không phải kiến, nếu vô lậu thì không phải kiến xứ cũng không phải là kiến.

Pháp xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc kiến mà không phải là kiến xứ, là tận trí và vô sinh trí không thâu nhiếp các tuệ vô lậu.

2. Hoặc kiến xứ mà không phải là kiến, là kiến không thâu nhiếp các pháp xứ hữu lậu.

3. Hoặc kiến mà cũng là kiến xứ, là năm kiến nhiễm ô và chánh kiến của thế tục.

4. Hoặc không phải kiến cũng không phải là kiến xứ, nghĩa là kiến không thâu nhiếp các pháp xứ vô lậu.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Có tám thứ không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc xứ, nếu nhiễm ô thì có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, nếu không nhiễm ô thì không có thân kiến làm nhân cũng không có nhân của thân kiến.

Thanh xứ cũng như vậy.

Ý xứ hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, nghĩa là trừ ra ở quá khứ hay hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên tương ưng với ý xứ, cũng trừ ra quá khứ và hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với ý xứ, cũng trừ ra vị lai có thân kiến tương ưng ý xứ, còn lại ý xứ nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, tức là các ý xứ đã trừ ra trước đây.

Không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, tức là ý xứ không nhiễm ô.

Pháp xứ hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, tức là trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên tương ưng cùng có của pháp xứ, cũng trừ ra quá khứ- hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng cùng có của pháp xứ, cũng trừ ra vị lai có thân kiến tương ưng với pháp xứ, cũng trừ ra ở vị lai có thân kiến tương ưng với pháp sinh ra- già đi- trụ lại và vô thường (sinh, trụ, dị, diệt), còn lại các pháp xứ nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, là các pháp xứ đã trừ ra trên đây.

Không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, là pháp xứ không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nhãn xứ, hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, hoặc không phải nghiệp cũng không phải nghiệp của dị thục.

Nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, nghĩa là trừ nhãn xứ do quả dị thục sinh ra, còn lại các nhãn xứ không phải là nghiệp cũng không phải nghiệp của dị thục.

Các xứ: Nhĩ, thanh, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc, và ý… cũng thế.

(coi lại)

Sắc xứ hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục, hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, hoặc không phải nghiệp mà cũng không phải nghiệp của dị thục.

Là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục, tức là các biểu hiện của thân (sự hoạt động của thân).

Là nghiệp của dị thục mà không phải nghiệp, tức là sắc xứ do nghiệp của dị thục sinh ra.

Không phải là nghiệp mà cũng không phải nghiệp của dị thục, là trừ ra nghiệp và sắc xứ của nghiệp của dị thục, còn lại các sắc xứ khác.

Thanh xứ hoặc là nghiệp mà không phải nghiệp của dị thục, hoặc không phải nghiệp mà cũng không phải nghiệp của dị thục.

Là nghiệp mà không phải nghiệp của dị thục, nghĩa là sự biểu hiện của lời nói (ngữ nghiệp), còn lại các thanh xứ, không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục.

Pháp xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải nghiệp của dị thục, tức là pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, và các dị thục không thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải nghiệp, nghĩa là tư không thâu nhiếp các nghiệp của dị thục sinh ra pháp xứ.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là nghiệp của dị thục, nghĩa là tư do dị thục sinh ra.

4. Hoặc không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục, nghĩa là trừ ra nghiệp và nghiệp của dị thục sinh ra pháp xứ, còn lại các pháp xứ.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Có tám thứ không phải nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, một thứ là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc xứ, hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, hoặc không phải nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển.

Là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là sự biểu hiện của thân, còn lại sắc xứ không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển.

Thanh xứ hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, hoặc không phải nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển.

Là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là sự biểu hiện của lời nói (ngữ nghiệp), còn lại các thanh xứ, không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển.

Pháp xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra tùy nghiệp chuyển các nghiệp thân-ngữ, còn lại các pháp xứ thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ và tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải nghiệp, là thọ uẩn- tưởng uẩn, và tư không thâu nhiếp hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, là tùy nghiệp chuyển các nghiệp thân-ngữ.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra nghiệp và pháp xứ tùy nghiệp chuyển, còn lại các pháp xứ.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được (có thấy) v.v…? Có ba trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, là tám xứ và phần ít hai xứ.

2. Hoặc là sắc tạo ra cũng là sắc thấy được, nghĩa là có một xứ.

3. Hoặc không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc thấy được, tức là một xứ và phần ít hai xứ.

Mười hai xứ này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…?

Có bốn trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, nghĩa là phầnít một xứ.

2. Hoặc là sắc có đối mà không phải là sắc tạo ra, tức là phần ít một xứ.

3. Hoặc là sắc tạo ra mà cũng là sắc có đối, tức là chín xứ và phầnít một xứ.

4. Hoặc không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc có đối, tức là một xứ và phần ít một xứ.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều là khó thấy bởi vì rất thâm diệu sâu xa, và vì thâm diệu sâu xa cho nên rất khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nhãn xứ hoặc là thiện làm nhân mà không phải thiện, hoặc không phải thiện cũng không phải thiện làm nhân.

Thiện làm nhân mà không phải thiện, tức là nhãn xứ do dị thục thiện sinh ra. Còn lại các nhãn xứ khác, không phải thiện mà cũng không phải do thiện làm nhân.

Các xứ: Nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc cũng như thế.

Sắc xứ hoặc là thiện làm nhân mà không phải thiện, hoặc là thiện mà cũng là thiện làm nhân, hoặc không phải thiện mà cũng không phải thiện làm nhân.

Thiện làm nhân mà không phải thiện, tức là sắc xứ do dị thục thiện sinh ra.

Thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là sắc xứ thiện.

Không phải thiện mà cũng không phải thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra sắc xứ do dị thục thiện sinh ra, còn lại sắc xứ bất thiện và vô ký.

Ý xứ cũng như thế.

Thanh xứ hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, hoặc không phải thiện mà cũng không phải thiện làm nhân.

Thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là thanh xứ thiện, còn lại các thanh xứ khác, không phải thiện mà cũng không phải do thiện làm nhân.

Pháp xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là thiện mà không phải do thiện làm nhân, đó là trạch diệt.

2. Hoặc là thiện làm nhân mà không phải thiện, tức là pháp xứ do dị thục thiện sinh ra.

3. Hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là pháp xứ hữu vi thiện.

4. Hoặc không phải thiện mà cũng không phải thiện làm nhân, nghĩa là trừ pháp xứ do dị thục thiện sinh ra, còn lại các pháp xứ bất thiện và vô ký.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nhãn xứ hoặc do bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải là bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, tức là nhãn xứ do dị thục bất thiện sinh ra, còn các nhãn xứ khác, không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Các xứ: Nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc cũng như thế.

Sắc xứ hoặc bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc bất thiện cũng là bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, tức là các sắc xứ do dị thục bất thiện sinh ra.

Bất thiện cũng là bất thiện làm nhân, tức là các sắc xứ bất thiện.

Không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, nghĩa là trừ các sắc xứ do các dị thục bất thiện sinh ra, còn lại các sắc xứ thiện và vô ký.

Thanh xứ hoặc bất thiện mà cũng là bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là các thanh xứ bất thiện, còn các thanh xứ khác không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Ý xứ hoặc bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc bất thiện cũng là bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, nghĩa là các ý xứ do các dị thục bất thiện sinh ra và ở cõi Dục có thân kiến biên- chấp kiến tương ưng với ý xứ.

Bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là ý xứ bất thiện.

Không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, nghĩa là trừ ý xứ do các dị thục do bất thiện sinh ra, và trừ ra cõi Dục có thân kiến biên chấp kiến tương ưng với ý xứ, còn lại các ý xứ thiện và vô ký.

Pháp xứ hoặc bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, hoặc bất thiện cũng do bất thiện làm nhân, hoặc không phải bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, tức là các pháp xứ do dị thục bất thiện sinh ra, và ở cõi Dục có thân kiến biên chấp kiến cùng nó tương ưng với pháp xứ, hoặc là nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành.

Bất thiện cũng là bất thiện làm nhân, tức là các pháp xứ bất thiện cùng dấy khởi. (coi lại)

Không phải bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân, nghĩa là trừ các pháp xứ do các dị thục bất thiện sinh ra, và trừ ra cõi Dục có thân kiến biên chấp kiến cùng nó tương ưng với pháp xứ, hoặc nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, còn lại các pháp xứ thiện và vô ký.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải vô ký làm nhân v.v…? Có tám thứ là vô ký mà cũng do vô ký làm nhân, bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc xứ, hoặc là vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, hoặc là vô ký cũng do vô ký làm nhân, hoặc không phải là vô ký cũng không phải vô ký làm nhân.

Vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, tức là các sắc xứ bất thiện.

Vô ký cũng là vô ký làm nhân, tức là các sắc xứ vô ký.

Không phải vô ký cũng không phải là vô ký làm nhân, tức là các sắc xứ thiện.

Thanh xứ và ý xứ cũng như thế.

Pháp xứ có bốn trường hợp:

1. Hoặc là vô ký mà không phải vô ký làm nhân, đó là hư không và phi trạch diệt.

2. Hoặc là vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, đó là pháp xứ bất thiện.

3. Hoặc là vô ký cũng do vô ký làm nhân, đó là pháp xứ hữu vi vô ký.

4. Hoặc không phải là vô ký cũng không phải do vô ký làm nhân, đó là pháp xứ thiện.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Có mười một thứ là nhân duyên mà cũng có nhân, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ, nếu thì hữu vi là nhân duyên mà cũng có nhân, nếu vô vi thì không phải là nhân duyên cũng không có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải đẳng vô gián duyên v.v…? Có mười thứ không phải đẳng vô gián cũng không phải đẳng vô gián duyên, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ, hoặc là đẳng vô gián mà không phải đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải đẳng vô gián cũng không phải đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải đẳng vô gián duyên, tức là ý xứ vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và ý xứ của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ- hiện tại.

Là đẳng vô gián cũng là đẳng vô gián duyên, tức là trừ ra ý xứ của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ-hiện tại, còn lại ý xứ quá khứ và hiện tại.

Không phải đẳng vô gián cũng không phải đẳng vô gián duyên, nghĩa là trừ ra ý xứ vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các ý xứ vị lai.

Pháp xứ hoặc là đẳng vô gián mà không phải đẳng vô gián duyên, hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, hoặc không phải đẳng vô gián mà cũng không phải đẳng vô gián duyên.

Là đẳng vô gián mà không phải đẳng vô gián duyên, là pháp tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và các tâm sở của bậc A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ hay hiện tại, cùng với các vô tưởng diệt định đã sinh mà đang khởi lên.

Là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, là trừ ra các tâm sở của bậc A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ hay hiện tại, còn lại các tâm sở quá khứ hay hiện tại.

Không phải đẳng vô gián cũng không phải đẳng vô gián duyên, là trừ ra các tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các tâm sở vị lai, và trừ ra các tâm bất tương ưng hành đẳng vô gián, còn lại các tâm bất tương ưng hành, cùng với các nghiệp thân-ngữ, hư không và hai thứ diệt.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Có mười thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, một thứ là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ, nếu các tâm sở thì sở duyên duyên mà cũng có sở duyên, nếu không phải các tâm sở thì sở duyên duyên mà không có sở duyên. (coi lại)

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Có mười một thứ là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp xứ, nếu là hữu vi thì nó có tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng, nếu vô vi thì nó là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Có mười thứ là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý xứ, nếu hữu lậu thì thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải là bộc lưu mà cũng không phải thuận bộc lưu.

Pháp xứ hoặc là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, hoặc là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, hoặc không phải bộc lưu cũng không phải là thuận bộc lưu.

Thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, là bộc lưu không thâu nhiếp pháp xứ hữu lậu.

Bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, là bốn thứ bộc lưu.

Không phải bộc lưu cũng không phải là thuận bộc lưu, là pháp xứ vô lậu.

– Năm uẩn: Tức là sắc uẩn… cho đến thức uẩn.

Năm uẩn này:

Có bao nhiêu thứ là sắc v.v…? Có một thứ là sắc và bốn thứ không có sắc.

Có bao nhiêu thứ là không thấy được v.v…? Có bốn thứ không thấy, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn hoặc có thấy, hoặc không thấy.

Có thấy là gì? Tức là một xứ.

Không thấy là gì? Tức là chín xứ và phần ít một xứ.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Có bốn thứ có đối, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn hoặc có đối, hoặc không đối.

Có đối là gì? Tức là mười xứ.

Không đối là gì? Tức là phần ít một xứ.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Tức là mười xứ và phần ít một xứ.

Vô lậu là gì? Tức là phần ít một xứ.

Thọ uẩn hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Tức là hữu lậu tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Vô lậu là gì? Tức là vô lậu tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Tưởng uẩn và thức uẩn cũng như vậy.

Hành uẩn hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là hữu lậu tâm tương ưng và tâm bất tương ưng với hành uẩn.

Vô lậu là gì? Nghĩa là vô lậu tâm tương ưng và tâm bất tương ưng với hành uẩn.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Tất cả đều là hữu vi.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Tức là sắc uẩn bất thiện và thiện hữu lậu.

Không có dị thục là gì? Tức là sắc uẩn vô ký vô lậu.

Bốn uẩn còn lại cũng như vậy.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Tất cả đều là duyên sinh, là nhân sinh, là thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ là thuộc về sắc v.v…? Có một thứ thuộc về sắc, bốn thứ thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc lãnh vực bên trong v.v…? Có một thứ thuộc lãnh vực bên trong, ba thứ thuộc lãnh vực bên ngoài, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn hoặc thuộc lãnh vực bên trong, hoặc thuộc lãnh vực bên ngoài.

Thuộc lãnh vực bên trong là gì? Tức là năm lãnh vực bên trong.

Thuộc lãnh vực bên ngoài là gì? Tức là năm lãnh vực bên ngoài.

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Năm uẩn này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các uẩn, nếu hữu lậu thì đoạn dứt sự biết khắp, nếu vô lậu thì không phải đoạn dứt sự biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn trừ v.v…? Tất cả cần phân biệt, nếu các uẩn là hữu lậu thì nên đoạn trừ, nếu vô lậu thì không phải đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nếu các uẩn thiện thì nên tu, nếu các uẩn không phải thiện thì không nên tu.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Tất cả nên phân biệt, nghĩa là nếu các uẩn có ngăn che thì nhiễm ô, nếu không bị ngăn che thì không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Tất cả đều là quả mà cũng có quả.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Có bốn thứ không có chấp thọ, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn hoặc có chấp thọ, hoặc không có chấp thọ.

Có chấp thọ là gì? Nghĩa là tự thể của nó thâu nhiếp sắc uẩn.

Không có chấp thọ là gì? Nghĩa là không phải tự thể của nó thâu nhiếp các sắc uẩn.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Có bốn thứ không phải các đại tạo nên, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn hoặc do các đại tạo nên, hoặc không do các đại tạo nên.

Do các đại tạo nên là gì? Tức là chín xứ và phần ít hai xứ.

Không phải các đại tạo nên là gì? Tức là phần ít một xứ.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Tất cả đều có trên.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nếu các uẩn là hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Có ba thứ là nhân tương ưng, một thứ là nhân không tương ưng, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là hành uẩn, nếu các tâm sở thì nhân tương ưng, nếu không phải là các tâm sở thì nhân không tương ưng.

Năm uẩn này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ thiện mà không phải là uẩn, là trạch diệt.

2. Hoặc là uẩn mà không phải xứ thiện, là năm uẩn bất thiện và vô ký.

3. Hoặc là xứ thiện mà cũng là uẩn, tức là năm uẩn thiện.

4. Hoặc không phải xứ thiện cũng không phải là uẩn, là hư khôngphi trạch diệt.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp, thì năm xứ bất thiện thâu nhiếp phần ít năm uẩn, và phần ít năm uẩn cũng thâu nhiếp năm uẩn bất thiện.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô ký mà không phải uẩn, là hư không-phi trạch diệt.

2. Hoặc là uẩn mà không phải xứ vô ký, tức là năm uẩn thiện và bất thiện.

3. Hoặc là xứ vô ký mà cũng là uẩn, tức là năm uẩn vô ký.

4. Hoặc không phải là xứ vô ký mà cũng không phải uẩn, tức là trạch diệt.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì ba xứ lậu thâu nhiếp phần ít một uẩn, và phần ít một uẩn thâu nhiếp ba xứ lậu.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì năm xứ hữu lậu thâu nhiếp phần ít năm uẩn, và phần ít năm uẩn cũng thâu nhiếp năm xứ hữu lậu.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, có bốn trường hợp:

1. Hoặc là xứ vô lậu mà không phải uẩn, là hư không và hai thứ diệt.

2. Hoặc là uẩn mà không phải là xứ vô lậu, là năm uẩn hữu lậu.

3. Hoặc là xứ vô lậu mà cũng là uẩn, là năm xứ vô lậu.

4. Hoặc không phải xứ vô lậu cũng không phải uẩn, thì điều này không thể có được.

Có bao nhiêu thứ thuộc quá khứ v.v…? Tất cả đều thuộc quá khứhiện tại, hoặc vị lai.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các uẩn hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Nghĩa là năm uẩn thiện.

Bất thiện là gì? Tức là năm uẩn bất thiện.

Vô ký là gì? Tức là năm uẩn vô ký.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các uẩn này hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Tức là năm uẩn thuộc cõi Dục.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là năm uẩn thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Tức là bốn uẩn thuộc cõi Vô sắc.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là năm uẩn vô lậu.

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là các uẩn hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Tức là năm uẩn hữu học.

Vô học là gì? Tức là năm uẩn vô học.

Phi học phi vô học là gì? Tức là năm uẩn hữu lậu.

Năm uẩn này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn, nếu hữu lậu thì do tu đạo mà đoạn trừ, nếu vô lậu thì không có gì phải đoạn trừ.

Thọ uẩn hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là sao? Nghĩa là thọ uẩn với tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên tương ưng với thọ uẩn.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là thọ uẩn với học thấy vết tích và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với thọ uẩn, và các thọ uẩn hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là thọ uẩn vô lậu.

Tưởng uẩn, thức uẩn cũng như thế.

Hành uẩn hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là hành uẩn với tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên, và tương ưng với hành uẩn, nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là hành uẩn với các thứ học thấy vết tích và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Nghĩa là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với hành uẩn, và nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành, hoặc là hành uẩn hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là hành uẩn vô lậu.

Có bao nhiêu thứ là không phải tâm v.v…? Có một thứ không phải tâm – tâm sở – tâm tương ưng, hai thứ là tâm sở với tâm tương ưng, một thứ chỉ là tâm, một thứ cần phân biệt: Tức là hành uẩn, nếu có sở duyên thì tâm sở với tâm tương ưng, nếu không có sở duyên thì nó không phải là tâm- tâm sở- tâm tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ v.v…? Có một thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, một thứ tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, một thứ là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn, hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, hoặc không phải tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với thọ.

Tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, là tùy tâm chuyển các nghiệp thân-ngữ, còn lại các sắc uẩn không phải là tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với thọ.

Hành uẩn, có ba trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, là tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành.

2. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, tức là tâm sở của hành uẩn.

3. Hoặc không phải tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với thọ, là trừ ra tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng hành v.v…? Trừ ra tự tánh của tưởng, giống như thọ vừa nêu trên, nên biết.

Hai tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với hành, một thứ tương ưng với hành mà không phải là tùy tâm chuyển, hai thứ cần phân biệt, tức là: Sắc uẩn hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với hành, hoặc không phải tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với hành.

Tùy tâm chuyển mà không tương ưng với hành, nghĩa là tùy tâm chuyển các nghiệp thân-ngữ. Còn lại các sắc uẩn không phải là tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với hành.

Hành uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với hành, là các tâm bất tương hành tùy tâm chuyển.

2. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với hành, tức là tâm sở của hành uẩn, trừ tự tánh của nó ra.

3. Hoặc không phải tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với hành, là trừ ra tâm bất tương ưng hành tùy tâm chuyển, còn lại các tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn, hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, hoặc không phải tùy tâm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ.

Tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là tùy tầm chuyển các nghiệp thân-ngữ, còn lại các sắc uẩn không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ.

Thọ uẩn hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Tức là có tầm có tứ tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Không có tầm chỉ có tứ là gì? Tức là không có tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Không có tâm không có tứ là gì? Nghĩa là không có tâm không có tứ tác ý tương ưng với thọ uẩn.

Tưởng uẩn và thức uẩn cũng như thế.

Hành uẩn có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, là tâm bất tương ưng hành tùy tầm chuyển, và tâm tương ưng với tứ.

2. Hoặc là tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, là tầm và tâm không tương ưng với tứ mà tương ưng với tâm sở và hành uẩn.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng là tương ưng với tứ, là tầm và tứ tương ưng với tâm sở của hành uẩn.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển cũng không tương ưng với tứ, nghĩa là trừ ra tâm bất tương ưng hành tùy tầm chuyển, còn lại các tâm bất tương ưng hành, và tầm không tương ưng với tứ, cùng các tâm sở của hành uẩn không có tầm không có tứ.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, là chín xứ và phần ít một xứ.

2. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, tức là một xứ.

3. Hoặc không phải là kiến cũng không phải là kiến xứ, tức là phần ít một xứ.

Các uẩn thọ – tưởng – thức, nếu là hữu lậu thì kiến xứ mà không phải là kiến, nếu vô lậu thì không phải là kiến cũng không phải là kiến xứ.

Hành uẩn có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, là tận trí và vô sinh trí không gồm thân tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, là kiến không thâu nhiếp các hành uẩn hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, tức là năm kiến nhiễm ô và chánh kiến của thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến cũng không phải là kiến xứ, là kiến không thâu nhiếp các hành uẩn vô lậu.

******

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn, nếu nhiễm ô thì có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, nếu không nhiễm ô thì không có thân kiến làm nhân cũng không có nhân của thân kiến.

Thọ uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, là trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên tương ưng với thọ uẩn, và trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với thọ uẩn, cũng trừ ra vị lai có thân kiến tương ưng với thọ uẩn, còn lại các thọ uẩn nhiễm ô.

2. Hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, tức là các thọ uẩn đã trừ ra ở trên.

3. Hoặc là không có thân kiến làm nhân cũng không có nhân của thân kiến, là thọ uẩn không nhiễm ô.

Tưởng uẩn và thức uẩn cũng như thế.

Hành uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến là trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên và nó tương ưng với hành uẩn đều có, cũng trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành và nó tương ưng với hành uẩn đều có, cũng trừ ra vị lai có thân kiến tương ưng với hành uẩn, cũng trừ ra vị lai có thân kiến và nó tương ưng với các pháp sinh ra – già đi – trụ lại và vô thường (sinh trụ dị diệt)…, còn lại các hành uẩn nhiễm ô.

2. Hoặc là có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, là các thọ uẩn đã trừ ra ở trên.

3. Hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, là các hành uẩn không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn, có ba trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục, tức là các nghiệp thân – ngữ

2. Hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, tức là sắc uẩn do nghiệp của dị thục sinh ra.

3. Hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp của dị thục, là trừ ra sắc uẩn do nghiệp và nghiệp của dị thục sinh, còn lại các sắc uẩn.

Thọ uẩn hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp cũng không phải nghiệp của dị thục.

Nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, là thọ uẩn do nghiệp của dị thục sinh ra, còn lại các thọ uẩn không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp của dị thục.

Tưởng uẩn và thức uẩn cũng như thế.

Hành uẩn có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục, là nghiệp của dị thục không thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, là tư không thâu nhiếp hành uẩn do nghiệp của dị thục sinh ra.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là nghiệp của dị thục, là nghiệp của dị thục sinh ra tư.

4. Hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp của dị thục, là trừ ra hành uẩn do nghiệp và nghiệp của dị thục sinh ra, còn lại các hành uẩn.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Có ba thứ là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, hai thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra nghiệp thân – ngữ tùy nghiệp chuyển, còn lại các nghiệp thân-ngữ.

2. Hoặc là nghiệp mà cũng là nghiệp tùy chuyển, là nghiệp – thân – ngữ tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra sắc uẩn của nghiệp và tùy nghiệp chuyển, còn lại sắc uẩn.

Hành uẩn cũng có ba trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, tức là tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, nghĩa là tư không thâu nhiếp các hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra tâm bất tương ưng hành tùy nghiệp chuyển, còn lại tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Có bốn thứ không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc thấy được, một thứ cần phân biệt, tức là sắc uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, tức là tám xứ và phần ít hai xứ.

2. Hoặc là sắc tạo ra cũng là sắc thấy được, tức là một xứ.

3. Hoặc không phải là sắc tạo ra cũng không phải là sắc thấy được, tức là một phần ít một xứ.

Năm uẩn này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Có bốn thứ không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối, một thứ cần phân biệt, tức là sắc uẩn có bốn trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, tức là phần ít một xứ.

2. Hoặc là sắc có đối mà không phải là sắc tạo ra, tức là phần ít một xứ.

3. Hoặc là sắc tạo ra mà cũng là sắc có đối, tức là chín xứ và phần ít một xứ.

4. Hoặc không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối, sắc như thế thì không thể có được.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả là khó thấy bởi vì rất thâm diệu và vì thâm diệu cho nên rất khó thấy.

Có bao nhiêu thứ thiện mà không phải do thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt, nghĩa là đều có ba trường hợp:

1. Hoặc là thiện làm nhân mà không phải thiện, tức là năm uẩn do dị thục thiện sinh ra.

2. Hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là năm uẩn thiện.

3. Hoặc không phải là thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân, nghĩa là trừ ra năm uẩn do dị thục thiện sinh, còn lại năm uẩn bất thiện và vô ký.

Có bao nhiêu thứ là bất thiện mà không phải bất thiện làm nhân? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, là sắc uẩn do dị thục bất thiện sinh ra.

2. Hoặc bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, là sắc uẩn bất thiện.

3. Hoặc không phải bất thiện mà cũng không phải bất thiện làm nhân, là trừ ra sắc uẩn do dị thục bất thiện sinh, còn lại các sắc uẩn thiện và vô ký.

Thọ uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, là thọ uẩn do dị thục bất thiện sinh ra, và ở Dục giới có thân kiến- biên chấp kiến tương ưng với thọ uẩn.

2. Hoặc bất thiện mà cũng là bất thiện làm nhân, là các thọ uẩn bất thiện.

3. Hoặc không phải bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân, là trừ ra thọ uẩn do dị thục bất thiện sinh, và trừ ra thân kiến- biên chấp kiến thuộc cõi Dục tương ưng thọ uẩn, còn lại thọ uẩn thiện và vô ký.

Tưởng uẩn, thức uẩn cũng như vậy.

Hành uẩn có ba trường hợp:

1. Bất thiện làm nhân mà không phải bất thiện, là các hành uẩn do dị thục bất thiện sinh ra, và thân kiến biên chấp kiến thuộc cõi Dục cùng với nó tương ưng và khởi lên hành uẩn.

2. Hoặc bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, là hành uẩn bất thiện.

3. Hoặc không phải bất thiện cũng không phải bất thiện làm nhân, là trừ ra hành uẩn do dị thục bất thiện sinh, và trừ ra thân kiến biên chấp kiến thuộc cõi Dục cùng với nó tương ưng và khởi lên hành uẩn, còn lại hành uẩn thiện và vô ký.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải là vô ký làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là đều có ba trường hợp:

1. Hoặc là vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, tức là năm uẩn bất thiện.

2. Hoặc là vô ký mà cũng là vô ký làm nhân, là năm uẩn vô ký.

3. Hoặc không phải là vô ký mà cũng không phải là vô ký làm nhân, tức là năm uẩn thiện.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Tất cả đều là nhân duyên mà cũng có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Có một thứ không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là thọ uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, là thọ uẩn vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và thọ uẩn quá khứ – hiện tại khi bậc A-la-hán mạng chung.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, là trừ ra thọ uẩn của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ -hiện tại, còn lại thọ uẩn quá khứ -hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ ra thọ uẩn vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại thọ uẩn vị lai.

Thức uẩn, tưởng uẩn cũng như vậy.

Hành uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, là tâm sở của hành uẩn vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và tâm sở của hành uẩn quá khứ -hiện tại khi A-la-hán mạng chung, và vô tưởng diệt định đã sinh đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián cũng là đẳng vô gián duyên, là trừ ra tâm- tâm sở của hành uẩn quá khứ-hiện tại khi bậc A-la-hán mạng chung, còn lại tâm sở của hành uẩn quá khứ-hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ ra tâm sở của hành uẩn vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại tâm sở của hành uẩn vị lai, và trừ ra tâm bất tương ưng hành đẳng vô gián, còn lại tâm bất tương ưng hành.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Có một thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, ba thứ là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là hành uẩn nếu các tâm sở là sở duyên duyên thì cũng có sở duyên, nếu không phải tâm sở là sở duyên duyên thì cũng không có sở duyên. (coi lại)

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không có tăng thượng v.v…? Tất cả đều là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là sắc uẩn, nếu hữu lậu thì thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải là bộc lưu cũng không phải là thuận bộc lưu.

Thọ – tưởng – thức uẩn cũng như thế.

Hành uẩn có ba trường hợp:

1. Hoặc là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nghĩa là bộc lưu không thâu nhiếp hành uẩn hữu lậu.

2. Hoặc là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, là bốn thứ bộc lưu.

3. Hoặc không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu, là hành uẩn vô lậu.

– Mười tám giới: Tức là nhãn giới – sắc giới – nhãn thức giới… cho đến ý giới- pháp giới- ý thức giới.

Mười tám giới này:

Có bao nhiêu thứ có sắc v.v…? Có mười thứ có sắc, bảy thứ không có sắc, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới hoặc có sắc, hoặc không có sắc.

Có sắc là gì? Là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ, còn lại các pháp giới khác là không có sắc.

Có bao nhiêu thứ thấy được v.v…? Có một thứ thấy được, mười bảy thứ không thấy.

Có bao nhiêu thứ có đối v.v…? Có mười thứ có đối, tám thứ không đối.

Có bao nhiêu thứ hữu lậu v.v…? Có mười lăm thứ là hữu lậu, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý giới hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Tức là hữu lậu tác ý tương ưng với ý giới.

Vô lậu là gì? Tức là vô lậu tác ý tương ưng với ý giới.

Ý thức giới cũng như thế.

Pháp giới hoặc hữu lậu, hoặc vô lậu.

Hữu lậu là gì? Nghĩa là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ hữu lậu, và các uẩn thọ-tưởng- hành hữu lậu.

Vô lậu là gì? Nghĩa là các nghịêp thân – ngữ vô lậu và các uẩn thọ – tưởng – hành vô lậu, cùng các pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ hữu vi v.v…? Có mười bảy thứ là hữu vi, một thứ cần phân biệt, tức là pháp giới hoặc hữu vi, hoặc vô vi.

Hữu vi là gì? Nghĩa là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ, và các uẩn thọ tưởng hành.

Vô vi là gì? Tức là hư không và hai thứ diệt.

Có bao nhiêu thứ có dị thục v.v…? Có tám thứ không có dị thục, mười thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc giới hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Tức là sắc giới thiện và bất thiện.

Không có dị thục là gì? Tức là sắc giới vô ký.

Thanh và năm thức giới cũng thế.

Ý giới hoặc có dị thục, hoặc không có dị thục.

Có dị thục là gì? Là ý giới bất thiện và thiện hữu lậu.

Không có dị thục là gì? Tức là ý giới vô lậu vô ký.

Pháp giới và ý thức giới cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là duyên sinh v.v…? Có mười bảy thứ là duyên sinh- nhân sinh- thuộc về thế gian, một thứ cần phân biệt, nghĩa là pháp giới, nếu hữu vi thì đó là duyên sinh – nhân sinh – thế gian; nếu vô vi thì không phải là duyên sinh – nhân sinh – thuộc về thế gian.

Có bao nhiêu thứ thuộc về sắc v.v…? Có mười thứ thuộc về sắc, bảy thứ thuộc về danh, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới thâu giữ các nghịêp thân – ngữ thì thuộc về sắc, còn lại đều thuộc về danh.

Có bao nhiêu thứ thuộc về lãnh vực bên trong v.v…? Có mười hai thứ thuộc về lãnh vực bên trong, sáu thứ thuộc về lãnh vực bên ngoài

Có bao nhiêu thứ là trí biết khắp về những gì được biết khắp v.v…?

Tất cả đều là trí biết khắp về những gì được biết khắp.

Mười tám giới này:

Có bao nhiêu thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp v.v…? Có mười lăm thứ đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, ba thứ cần phân biệt, tức là ý giới, pháp giới và ý thức giới, nếu hữu lậu thì đoạn dứt sự biết khắp về những gì được biết khắp, nếu vô lậu thì không phải là sự biết khắp về những gì được biết khắp.

Có bao nhiêu thứ nên đoạn trừ v.v…? Có mười lăm thứ nên đoạn trừ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý- pháp và ý thức giới nếu là hữu lậu thì nên đoạn trừ, nếu là vô lậu thì không nên đoạn trừ.

Có bao nhiêu thứ nên tu v.v…? Có tám thứ không nên tu, có mười thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc giới hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là sắc giới thiện.

Không nên tu là gì? Tức là sắc giới bất thiện và vô ký.

Thanh giới – sáu thức giới và ý giới… cũng như thế.

Pháp giới hoặc nên tu, hoặc không nên tu.

Nên tu là gì? Tức là pháp giới hữu vi thiện.

Không nên tu là gì? Tức là pháp giới bất thiện – vô ký và trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là nhiễm ô v.v…? Có tám thứ không nhiễm ô, mười thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc giới hoặc nhiễm ô, hoặc không nhiễm ô.

Nhiễm ô là gì? Tức là sắc giới có ngăn che (hữu phú).

Không nhiễm ô là gì? Tức là sắc giới không có ngăn che (vô phú).

Thanh giới – sáu thức giới, ý và pháp giới cũng thế.

Có bao nhiêu thứ là quả mà không phải là có quả v.v…? Có mười bảy thứ là quả mà cũng là có quả, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là quả mà không phải là có quả, tức là trạch diệt.

2. Hoặc là quả mà cũng là có quả, là pháp giới hữu vi.

3. Hoặc không phải là quả mà cũng không phải là có quả, là hư không và phi trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ có chấp thọ v.v…? Có chín thứ không có chấp thọ, chín thứ cần phân biệt: Tức là nhãn giới hoặc có chấp thọ, hoặc không có chấp thọ.

Có chấp thọ là gì? Nghĩa là tự thể thâu nhiếp nhãn giới.

Không có chấp thọ là gì? Nghĩa là không phải tự thể thâu nhiếp nhãn giới.

Sắc, nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc giới cũng thế.

Có bao nhiêu thứ do các đại tạo nên v.v…? Có chín thứ và phần ít hai thứ là do các đại tạo nên, bảy thứ và phần ít hai thứ không phải là các đại tạo nên.

Có bao nhiêu thứ có trên v.v…? Có mười bảy thứ có trên, một thứ cần phân biệt, tức là pháp giới hoặc có trên, hoặc không có trên (vô thượng).

Có trên là gì? Tức là pháp giới hữu vi và hư không – phi trạch diệt.

Không có trên là gì? Tức là trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ là có v.v…? Có mười lăm thứ là có, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý – pháp – ý thức giới, nếu hữu lậu thì có, nếu vô lậu thì không phải là có.

Có bao nhiêu thứ là nhân tương ưng v.v…? Có bảy thứ là nhân tương ưng, mười thứ là nhân không tương ưng, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới, nếu là các tâm sở thì đó là nhân tương ưng, nếu không phải tâm sở thì đó là nhân không tương ưng.

Mười tám giới này:

Cùng sáu xứ thiện thâu nhiếp nhau, thì sáu xứ thiện thâu nhiếp phần ít mười giới, và phần ít mười giới cũng thâu nhiếp sáu xứ thiện.

Cùng năm xứ bất thiện thâu nhiếp nhau, thì năm xứ bất thiện thâu nhiếp phần ít mười giới, và phần ít mười giới cũng thâu nhiếp năm xứ bất thiện.

Cùng bảy xứ vô ký thâu nhiếp nhau, thì bảy xứ vô ký thâu nhiếp tám giới và phần ít mười giới, tám giới và phần ít mười giới cũng thâu nhiếp bảy xứ vô ký.

Cùng ba xứ lậu thâu nhiếp nhau, thì ba xứ lậu thâu nhiếp phần ít một giới, và phần ít một cũng giới thâu nhiếp ba xứ lậu.

Cùng năm xứ hữu lậu thâu nhiếp nhau, thì năm xứ hữu lậu thâu nhiếp mười lăm giới và phần ít ba giới, mười lăm giới và phần ít ba giới cũng thâu nhiếp năm xứ hữu lậu.

Cùng tám xứ vô lậu thâu nhiếp nhau, thì tám xứ vô lậu thâu nhiếp phần ít ba giới, và phần ít ba giới cũng thâu nhiếp tám xứ hữu lậu.

Có bao nhiêu thứ thuộc về quá khứ v.v…? Có mười bảy thứ hoặc quá khứ-hiện tại hoặc vị lai, một xứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới, nếu hữu vi thì nó hoặc thuộc quá khứ- vị lai hay hiện tại, nếu là vô vi thì không thuộc quá khứ hoặc vị lai hay hiện tại.

Có bao nhiêu thứ là thiện v.v…? Có tám thứ là vô ký, mười thứ cần phân biệt, tức là sắc giới hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là sự biểu hiện thiện của thân.

Bất thiện là gì? Tức là sự biểu hiện bất thiện của thân.

Vô ký là gì? Tức là trừ ra sự biểu hiện thiện và bất thiện của thân, còn lại các sắc giới khác.

Thanh giới hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là biểu hiện của lời nói (ngữ) thiện.

Bất thiện là gì? Tức là biểu hiện của lời nói bất thiện.

Vô ký là gì? Tức là trừ ra các biểu hiện của lời nói thiện và bất thiện, còn lại các thanh giới khác.

Nhãn thức giới hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Tức là thiện tác ý tương ưng với nhãn thức.

Bất thiện là gì? Tức là bất thiện tác ý tương ưng với nhãn thức.

Vô ký là gì? Tức là vô ký tác ý tương ưng với nhãn thức, còn lại năm thức giới và ý giới cũng thế.

Pháp giới hoặc thiện, hoặc bất thiện, hoặc vô ký.

Thiện là gì? Nghĩa là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ thiện và các uẩn thọ – tưởng – hành thiện, cùng với trạch diệt.

Bất thiện là gì? Nghĩa là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân- ngữ bất thiện và các uẩn thọ – tưởng – hành bất thiện.

Vô ký là gì? Nghĩa là các uẩn thọ – tưởng – hành vô ký và hư không- phi trạch diệt.

Có bao nhiêu thứ thuộc cõi Dục v.v…? Có bốn thứ thuộc cõi Dục, mười bốn thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn giới hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Nghĩa là các đại ở cõi Dục tạo nên nhãn giới.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là các đại thuộc cõi Sắc tạo nên nhãn giới.

Sắc, nhĩ, thanh, tỷ, thiệt, thân giới cũng thế.

Xúc giới hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Nghĩa là bốn đại thuộc cõi Dục và sự tạo nên xúc giới.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là bốn đại thuộc cõi Sắc và sự tạo nên xúc giới.

Nhãn thức giới hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc.

Thuộc cõi Dục là gì? Tức là cõi Dục tác ý tương ưng với nhãn thức.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là cõi Sắc tác ý tương ưng với nhãn thức.

Nhĩ giới, thân giới, thức giới cũng như thế.

Ý giới hoặc thuộc cõi Dục – Sắc – Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Tức là cõi Dục tác ý tương ưng với ý giới.

Thuộc cõi Sắc là gì? Tức là cõi Sắc tác ý tương ưng với ý giới.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Tức là cõi Vô sắc tác ý tương ưng với ý giới.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là vô lậu tác ý tương ưng với ý giới.

Ý thức giới cũng như thế.

Pháp giới hoặc thuộc cõi Dục- Sắc- Vô sắc, hoặc không hệ thuộc cõi nào.

Thuộc cõi Dục là gì? Nghĩa là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ thuộc cõi Dục, và các uẩn thọ – tưởng – hành thuộc cõi Dục.

Thuộc cõi Sắc là gì? Nghĩa là pháp giới thâu nhiếp các nghịêp thân-ngữ thuộc cõi Sắc, và các uẩn thọ tưởng hành ở cõi Sắc.

Thuộc cõi Vô sắc là gì? Tức là các uẩn thọ – tưởng – hành ở cõi Vô sắc.

Không hệ thuộc cõi nào là gì? Tức là nghiệp thân-ngữ vô lậu, cùng các uẩn thọ tưởng hành vô lậu và các pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là học v.v…? Có mười lăm thứ là phi học phi vô học, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý giới hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Tức là học tác ý tương ưng với ý giới.

Vô học là gì? Tức là vô học tác ý tương ưng với ý giới.

Phi học phi vô học là gì? Nghĩa là hữu lậu tác ý tương ưng với ý giới.

Ý thức giới cũng vậy.

Pháp giới hoặc học, hoặc vô học, hoặc phi học phi vô học.

Học là gì? Nghĩa là các nghịêp thân-ngữ hữu học, và các uẩn thọ – tưởng – hành hữu học.

Vô học là gì? Là các nghiệp thân-ngữ vô học, và các uẩn thọ – tưởng – hành vô học.

Phi học phi vô học là gì? Là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân – ngữ hữu lậu, và các uẩn thọ – tưởng – hành hữu lậu cùng các pháp vô vi.

Mười tám giới này:

Có bao nhiêu thứ do kiến đạo mà đoạn v.v…? Có mười lăm thứ do tu đạo mà đoạn trừ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý giới hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là ý giới với các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên tương ưng với ý giới.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Là ý giới có các thứ học thấy vết tích và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với ý giới, và ý giới hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Là ý giới vô lậu.

Ý thức giới cũng vậy.

Pháp giới hoặc do kiến đạo mà đoạn trừ, hoặc do tu đạo mà đoạn trừ, hoặc không có gì phải đoạn trừ.

Do kiến đạo mà đoạn trừ là gì? Là pháp giới với các bậc tùy tín hành, tùy pháp hành, hiện quán biên nhẫn mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Là do kiến đạo mà đoạn trừ tám mươi tám thứ tùy miên tương ưng với pháp giới và nó luôn khởi tâm bất tương ưng hành.

Do tu đạo mà đoạn trừ là gì? Nghĩa là pháp giới có các thứ học thấy vết tích và tu mà đoạn trừ. Vậy nghĩa là gì? Là do tu đạo mà đoạn trừ mười thứ tùy miên tương ưng với pháp giới và nó luôn khởi các nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, hoặc là pháp giới hữu lậu không nhiễm ô.

Không có gì phải đoạn trừ là gì? Tức là pháp giới vô lậu.

Có bao nhiêu thứ không phải là tâm v.v…? Có mười thứ không phải là tâm – tâm sở – tâm tương ưng, bảy thứ chỉ là tâm, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới, nếu có sở duyên thì đó là tâm sở cùng với tâm tương ưng, nếu không có sở duyên thì không phải là tâm- tâm sở- tâm tương ưng.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng thọ v.v…? Có mười thứ không phải là tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với thọ, bảy thứ tương ưng với thọ mà không phải là tùy tâm chuyển, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với thọ, là nghiệp thân-ngữ tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành và thọ.

2. Hoặc là tùy tâm chuyển mà cũng tương ưng với thọ, là tưởng uẩn và hành uẩn tương ưng với nhau.

3. Hoặc không phải là tùy tâm chuyển cũng không tương ưng với thọ, là trừ ra nghiệp thân-ngữ tùy tâm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là tùy tâm chuyển mà không tương ưng với tưởng-hành? Trừ ra tự tánh của nó, còn lại giống như thọ nên biết.

Có bao nhiêu thứ là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ v.v…? Có mười thứ không phải là tùy tầm chuyển cũng không tương ưng với tứ, năm thứ có tầm có tứ, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý giới hoặc có tầm có tứ, hoặc không có tầm chỉ có tứ, hoặc không có tầm không có tứ.

Có tầm có tứ là gì? Tức là có tầm có tứ tác ý tương ưng với ý giới.

Không có tầm chỉ có tứ là gì? Tức là không có tầm chỉ có tứ tác ý tương ưng với ý giới.

Không có tầm không có tứ là gì? Tức không có tầm không có tứ tác ý tương ưng với ý giới.

Ý thức giới cũng như thế.

Pháp giới có bốn trường hợp:

1. Hoặc là tùy tầm chuyển mà không tương ưng với tứ, nghĩa là tùy tầm chuyển nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và tầm tương ưng với tứ.

2. Hoặc là tương ưng với tứ mà không phải là tùy tầm chuyển, nghĩa là tầm và tầm không tương ưng với tứ mà tương ưng với tâm sở pháp.

3. Hoặc là tùy tầm chuyển mà cũng tương ưng với tứ, nghĩa là tầm – tứ tương ưng với pháp tâm sở.

4. Hoặc không phải là tùy tầm chuyển mà cũng không tương ưng với tứ, là trừ ra nghiệp thân-ngữ tùy tầm chuyển tâm bất tương ưng hành, còn lại nghiệp thân-ngữ tâm bất tương ưng hành, và tầm không tương ưng với tứ, cùng với pháp tâm sở không có tầm không có tứ, hoặc là pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là kiến mà không phải là kiến xứ v.v…? Có một thứ là kiến mà cũng là kiến xứ, mười bốn thứ là kiến xứ mà không phải là kiến, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là ý giới, nếu hữu lậu thì kiến xứ mà không phải là kiến, nếu vô lậu thì không phải là kiến cũng không phải là kiến xứ.

Ý thức giới cũng như thế.

Pháp giới có bốn trường hợp:

1. Hoặc là kiến mà không phải là kiến xứ, là tận trí và vô sinh trí không thâu nhiếp tuệ vô lậu.

2. Hoặc là kiến xứ mà không phải là kiến, là kiến không thâu nhiếp pháp giới hữu lậu.

3. Hoặc là kiến mà cũng là kiến xứ, là năm kiến nhiễm ô và chánh kiến của thế gian.

4. Hoặc không phải là kiến cũng không phải là kiến xứ, là kiến không thâu nhiếp pháp giới vô lậu.

Có bao nhiêu thứ có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến v.v…? Có tám thứ không có thân kiến làm nhân cũng không có nhân của thân kiến, mười thứ cần phân biệt: Tức là sắc giới, nếu nhiễm ô thì có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, nếu không nhiễm ô thì không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Thanh giới và năm thức giới cũng như thế.

Ý thức giới hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến. (coi lại). Hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến.

Có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, là trừ ra quá khứ – hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên tương ưng với ý giới, cũng trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ các tùy miên biến hành tương ưng với ý giới, cũng trừ ra vị lai có thân kiến tương ưng với ý giới, còn lại ý giới nhiễm ô.

Có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, tức là ý giới đã trừ ra ở trên.

Không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, là ý giới không nhiễm ô.

Ý thức giới cũng như thế.

Pháp giới có ba trường hợp:

1. Hoặc có thân kiến làm nhân mà không có nhân của thân kiến, là trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy khổ mà đoạn trừ các tùy miên cùng nó tương ưng với pháp giới đều có, cũng trừ ra quá khứ-hiện tại do thấy tập mà đoạn trừ tùy miên biến hành và nó tương ưng với pháp giới cùng có, cũng trừ ra vị lai có thân kiến tương ưng với pháp giới, cũng trừ ra vị lai có thân kiến và nó tương ưng với các pháp sinh ra – già đi – trụ lại và vô thường (sinh trụ diệt đi), còn lại các pháp giới nhiễm ô.

2. Hoặc có thân kiến làm nhân mà cũng có nhân của thân kiến, là các pháp giới đã trừ ra ở trên.

3. Hoặc không có thân kiến làm nhân mà cũng không có nhân của thân kiến, là pháp giới không nhiễm ô.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nhãn giới, hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, hoặc là không phải nghiệp cũng không phải là nghiệp của dị thục.

Nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, là nhãn giới do nghiệp của dị thục sinh ra.

Không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục, là còn lại nhãn giới.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân, hương, vị, xúc giới và bảy giới thuộc tâm (tâm giới) cũng như thế.

Sắc giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục, tức là biểu hiện của thân.

2. Hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, tức là các sắc giới do nghiệp của dị thục sinh ra.

3. Hoặc không phải nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục, là trừ ra các sắc giới do nghiệp và nghiệp của dị thục sinh, còn lại các sắc giới.

Thanh giới có hai trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục, tức là sự biểu hiện của lời nói.

2. Hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp của dị thục, là còn lại các thanh giới.

Pháp giới có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là nghiệp của dị thục, là pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ, và nghiệp của dị thục không thâu nhiếp tư.

2. Hoặc là nghiệp của dị thục mà không phải là nghiệp, nghĩa là tư không thâu nhiếp pháp giới của nghiệp dị thục.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là nghiệp của dị thục, tức là tư do nghiệp của dị thục sinh ra.

4. Hoặc không phải là nghiệp mà cũng không phải là nghiệp của dị thục, là trừ ra pháp giới của nghiệp và nghiệp của dị thục, còn lại pháp giới khác.

Có bao nhiêu thứ là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển v.v…? Có bảy thứ là tùy nghiệp chuyển, mà không phải là nghiệp, tám thứ không phải nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, ba thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc giới, hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, hoặc không phải nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển.

Nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, là các biểu hiện của thân.

Không phải nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, là các sắc giới khác.

Thanh giới hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, hoặc không phải nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển.

Nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, là sự biểu hiện của lời nói.

Không phải nghiệp cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, tức là các thanh giới khác.

Pháp giới có bốn trường hợp:

1. Hoặc là nghiệp mà không phải là tùy nghiệp chuyển, nghĩa là trừ ra các nghiệp thân-ngữ tùy nghiệp chuyển, còn lại các pháp giới thâu nhiếp các nghiệp thân-ngữ và tư.

2. Hoặc là tùy nghiệp chuyển mà không phải là nghiệp, là thọ uẩn- tưởng uẩn, và tư không thâu nhiếp các hành uẩn tùy nghiệp chuyển.

3. Hoặc là nghiệp mà cũng là tùy nghiệp chuyển, là các nghiệp thân-ngữ tùy nghiệp chuyển.

4. Hoặc không phải nghiệp mà cũng không phải là tùy nghiệp chuyển, là trừ ra pháp giới của nghiệp và tùy nghiệp chuyển, còn lại các giới pháp khác.

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được v.v…? Có ba trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc thấy được, tức là tám giới và phần ít hai giới.

2. Hoặc là sắc tạo ra cũng là sắc thấy được, nghĩa là một giới.

3. Hoặc không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc thấy được, nghĩa là bảy giới và phần ít hai giới.

Mười tám giới này:

Có bao nhiêu thứ là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối v.v…? Có bốn trường hợp:

1. Hoặc là sắc tạo ra mà không phải là sắc có đối, tức là phần ít một giới.

2. Hoặc là sắc có đối mà không phải là sắc tạo ra, tức là phần ít một giới.

3. Hoặc là sắc tạo ra mà cũng là sắc có đối, tức là chín giới và phần ít một giới.

4. Hoặc không phải là sắc tạo ra mà cũng không phải là sắc có đối, tức là bảy giới và phần ít một giới.

Có bao nhiêu thứ là khó thấy bởi vì rất thâm diệu v.v…? Tất cả đều khó thấy bởi vì rất thâm diệu và vì rất thâm diệu cho nên khó thấy.

Có bao nhiêu thứ là thiện mà không phải là thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nhãn giới hoặc là thiện làm nhân mà không phải là thiện, hoặc không phải thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân.

Thiện làm nhân mà không phải là thiện, tức là nhãn giới do dị thục thiện sinh ra.

Không phải thiện cũng không phải là thiện làm nhân, tức là các nhãn giới khác.

Nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc giới cũng như thế.

Sắc giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là thiện làm nhân mà không phải là thiện, nghĩa là dị thục thiện sinh ra sắc giới.

2. Hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, tức là sắc giới thiện.

3. Hoặc không phải thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân, là trừ ra dị thục thiện sinh sắc giới, còn lại sắc giới bất thiện và vô ký.

Sáu thức và ý giới cũng như thế.

Thanh giới có hai trường hợp:

1. Hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, là thanh giới thiện.

2. Hoặc không phải là thiện mà cũng không phải là thiện làm nhân, là thanh giới bất thiện và vô ký.

Pháp giới có bốn trường hợp:

1. Hoặc là thiện mà không phải là thiện làm nhân, là trạch diệt.

2. Hoặc là thiện làm nhân mà không phải là thiện, là pháp giới do dị thục thiện sinh ra.

3. Hoặc là thiện mà cũng do thiện làm nhân, là pháp giới hữu vi thiện.

4. Hoặc không phải là thiện cũng không phải là thiện làm nhân, là trừ pháp giới do dị thục thiện sinh ra, còn lại các pháp giới bất thiện và vô ký.

Có bao nhiêu thứ bất thiện mà không phải là bất thiện làm nhân v.v…? Tất cả cần phân biệt: Nghĩa là nhãn giới, hoặc bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, hoặc không phải là bất thiện mà cũng không phải là bất thiện làm nhân.

Bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, là các nhãn giới do dị thục bất thiện sinh ra.

Không phải là bất thiện cũng không phải là bất thiện làm nhân, là các nhãn giới khác.

Nhĩ, tỷ, hương, thiệt, vị, thân, xúc giới cũng như thế.

Sắc giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, là các sắc giới do dị thục bất thiện sinh ra.

2. Hoặc là bất thiện mà cũng là bất thiện làm nhân, là các sắc giới bất thiện.

3. Hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là bất thiện làm nhân, là trừ sắc giới do các dị thục bất thiện sinh ra, còn lại các sắc giới thiện và vô ký.

Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, thức giới cũng thế.

Thanh giới có hai trường hợp:

1. Hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, tức là thanh giới bất thiện.

2. Hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là bất thiện làm nhân, tức là thanh giới thiện và vô ký.

Ý giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, là ý giới do dị thục bất thiện sinh ra, và thuộc cõi Dục có thân kiến – biến chấp kiến tương ưng với ý giới.

2. Hoặc là bất thiện mà cũng là bất thiện làm nhân, là ý giới bất thiện.

3. Hoặc không phải là bất thiện mà cũng không phải là bất thiện làm nhân, là trừ ý giới do dị thục bất thiện sinh ra và trừ ra thuộc cõi Dục có thân kiến – biên chấp kiến tương ưng với ý giới, còn lại các ý giới thiện và vô ký.

Ý thức giới cũng như thế.

Pháp giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là bất thiện làm nhân mà không phải là bất thiện, là pháp giới do dị thục bất thiện sinh ra, và thuộc cõi Dục có thân kiến – biến chấp kiến, và pháp giới cùng nó tương ưng khởi lên.

2. Hoặc là bất thiện mà cũng do bất thiện làm nhân, là pháp giới bất thiện.

3. Hoặc không phải là bất thiện cũng không phải là bất thiện làm nhân, là trừ pháp giới do dị thục bất thiện sinh ra, và trừ ra thuộc cõi Dục có thân kiến – biên chấp kiến, cùng pháp giới tương ưng khởi lên, còn lại các pháp giới thiện và vô ký.

Có bao nhiêu thứ là vô ký mà không phải là vô ký làm nhân v.v…? Có tám thứ là vô ký cũng do vô ký làm nhân, mười thứ cần phân biệt: Nghĩa là sắc giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, là sắc giới bất thiện.

2. Hoặc là vô ký mà cũng do vô ký làm nhân, tức là sắc giới vô ký.

3. Hoặc không phải là vô ký mà cũng không phải là vô ký làm nhân, là sắc giới thiện.

Thanh giới – sáu thức giới và ý giới cũng như thế.

Pháp giới có bốn trường hợp:

1. Hoặc vô ký mà không phải là vô ký làm nhân, là hư không- phi trạch diệt.

2. Hoặc vô ký làm nhân mà không phải là vô ký, là pháp giới bất thiện.

3. Hoặc vô ký mà cũng là vô ký làm nhân, là pháp giới hữu vi vô ký.

4. Hoặc không phải vô ký mà cũng không phải là vô ký làm nhân, là pháp giới thiện.

Có bao nhiêu thứ là nhân duyên mà không có nhân v.v…? Có mười bảy thứ là nhân duyên mà cũng có nhân, một thứ cần phân biệt, nghĩa là pháp giới, nếu hữu vi thì nó là nhân duyên mà cũng có nhân, nếu vô vi thì không phải nhân duyên mà cũng không có nhân.

Có bao nhiêu thứ là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên v.v…? Có mười thứ không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, tám thứ cần phân biệt: Nghĩa là nhãn thức giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, là nhãn thức vị lai mà hiện tiền đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, là nhãn thức quá khứ hoặc hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ ra nhãn thức vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các nhãn thức vị lai.

Nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức giới cũng như vậy.

Ý giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, là ý giới vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và ý giới của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ -hiện tại.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, là trừ ra ý giới của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ hay hiện tại, còn lại các ý giới ở quá khứ hay hiện tại.

3. Hoặc không phải đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ ra ý giới vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các ý giới vị lai.

Ý thức giới cũng như thế.

Pháp giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là đẳng vô gián mà không phải là đẳng vô gián duyên, là các pháp tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, và các pháp tâm sở của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ hoặc hiện tại, cùng với các định diệt vô tưởng đã sinh mà đang khởi lên.

2. Hoặc là đẳng vô gián mà cũng là đẳng vô gián duyên, là trừ ra các tâm sở của A-la-hán khi mạng chung ở quá khứ hay hiện tại, còn lại các tâm sở quá khứ hay hiện tại.

3. Hoặc không phải là đẳng vô gián mà cũng không phải là đẳng vô gián duyên, là trừ ra các tâm sở vị lai mà hiện tiền đang khởi lên, còn lại các tâm sở vị lai, và trừ ra các tâm bất tương ưng hành đẳng vô gián, còn lại các tâm bất tương ưng hành, và nghiệp thân-ngữ cùng với pháp vô vi.

Có bao nhiêu thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên v.v…? Có mười thứ là sở duyên duyên mà không có sở duyên, bảy thứ là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên, một thứ cần phân biệt: Nghĩa là pháp giới, nếu các tâm sở thì đó là sở duyên duyên mà cũng có sở duyên, nếu không phải là tâm sở thì đó là sở duyên duyên mà không có sở duyên.

Có bao nhiêu thứ là tăng thượng duyên mà không phải là có tăng thượng v.v…? Có mười bảy thứ là tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng, một thứ cần phân biệt, nghĩa là pháp giới, nếu hữu vi thì tăng thượng duyên mà cũng có tăng thượng, nếu vô vi thì tăng thượng duyên mà không có tăng thượng.

Có bao nhiêu thứ là bộc lưu mà không phải là thuận bộc lưu v.v…? Có mười lăm thứ là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, ba thứ cần phân biệt, nghĩa là ý giới, nếu hữu lậu thì thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, nếu vô lậu thì không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu.

Ý thức giới cũng như vậy.

Pháp giới có ba trường hợp:

1. Hoặc là thuận bộc lưu mà không phải là bộc lưu, là các bộc lưu không thâu nhiếp pháp giới hữu lậu.

2. Hoặc là bộc lưu mà cũng là thuận bộc lưu, đó là bốn thứ bộc lưu.

3. Hoặc không phải là bộc lưu mà cũng không phải là thuận bộc lưu, đó là pháp giới vô lậu.