LUẬN A TỲ ĐÀM TỲ BÀ SA
Tác giả: Tôn giả Ca Chiên Diên Tử
Giải thích: Năm trăm A La Hán
Hán dịch: Sa-môn Phù Đà Bạt Ma, Đạo Thái v.v…Đời Bắc Lương
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh

 

Chương 1: KIỀN-ĐỘ TẠP

Phẩm 1: PHÁP THẾ ĐỆ NHẤT

(Từ cuối quyển 1 – quyển 4)

Thế nào là pháp Thế đệ nhất?

Vì sao kinh nầy, trước nói pháp Thế đệ nhất? Vì nói theo thứ lớp hay nói nghịch với thứ lớp? Nếu nói theo thứ lớp, thì lẽ ra trước hết nên nói quán Bất tịnh, kế là nói An ban (quán Sổ tức), kế nói niệm xứ, kế là nói bảy xứ. Noãn, Đảnh, Nhẫn là nghĩa của ba thứ quán thiện, sau đó mới nói pháp Thế đệ nhất.

Còn nếu nói nghịch với thứ lớp, thì trước phải nói về quả A-la-hán, kế nói quả A-na-hàm, kế nói quả Tư-đà-hàm, kế nói quả Tu-đà-hoàn, kế nữa là nói kiến đạo, sau đó mới nên nói pháp Thế đệ nhất?

Lại hỏi: Do đầu tiên nhập pháp nên nói, hay là do thông đạt phần căn thiện nên nói, hay do công đức tối thắng nên nói? Nếu do đầu tiên nhập pháp mà nói, thì lẽ ra nói quán Bất tịnh, hoặc nói An ban (quán Sổ tức). Nếu do đạt phần căn thiện mà nói, thì trước phải nói pháp Noãn, vì pháp Noãn được đặt ở đầu. Như trong luận của Tôn giả Cù-sa nói pháp Noãn trước. Nếu vì công đức tối thắng mà nói, thì trước nên nói về quả A-la-hán có những việc như thế v.v…? Như lúc Phật còn ở đời, Tôn giả Đại Ca-chiên-diên có trí tuệ chánh quán, thành tựu vô lượng công đức, tinh tiến vô ngại, nhập vào biển A-tỳ-đàm, tâm không tăng giảm, ý giác vô biên, ngôn luận khó có ai hơn, tất cả nghĩa luận, không ai có thể sánh bằng. Ca-chiên-diên-tử thứ hai, cũng có công đức trí tuệ như thế, vì sao soạn kinh nầy, trước lại nói về pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Các Luận sư khi nói về pháp Thế đệ nhất, có nhiều cách nói khác nhau.

Hoặc có thuyết nói: Không do thuận theo thứ lớp nên nói, cũng không vì nghịch với thứ lớp nên nói, mà chỉ vì ý của người soạn kinh kia đã quyết định như vậy. Vì tùy ý của tác giả soạn kinh nầy, không trái với pháp tướng, cho nên, trước nói về pháp Thế đệ nhất.

Hoặc có thuyết nói: A-tỳ-đàm nên dùng tướng để tìm cầu, không tìm cầu thứ lớp. Kinh của Tu-đa-la tìm cầu thứ lớp. Tỳ-ni nên tìm cầu nhân duyên. Kinh – A-tỳ-đàm, nếu tìm cầu thứ lớp, thì về văn sẽ thêm, rối rắm, cho nên không cầu thứ lớp.

Hoặc có thuyết nói: Trong kinh của Đức Thế Tôn nói: Nếu người không thể quán đúng tánh tướng của các hành mà có thể khởi pháp Thế đệ nhất thì không thể có việc đó. Nếu có thể quán sát chân chánh tánh, tướng của các hành thì mới có thể khởi pháp Thế đệ nhất, điều nầy thì hợp lý. Như trong kinh của Đức Thế tôn nói pháp Thế đệ nhất trước tiên. Người tạo kinh nầy, vì nhờ vào kinh mà tạo luận, nên cũng trước nói pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Xin gác lại việc người tạo kinh. Xin hỏi Đức Thế tôn do đâu trước nói về pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Vì hóa độ chúng sinh, nên Đức Thế tôn thứ lớp nói pháp. Các người tiếp nhận sự hóa độ của Phật, đã được nhẫn phẩm hạ, nhẫn phẩm trung, chưa được nhẫn phẩm thượng và pháp Thế đệ nhất. Vì muốn cho chúng sinh đều được, nên Đức Thế tôn nói chánh quán tư duy về tánh, tướng của các hành, nên biết đó tức là nhẫn phẩm thượng. Kế là, được pháp Thế đệ nhất nầy, vì thế nói trước.

Hoặc có thuyết nói: Vì để ngăn dứt các thứ chê bai. Nên Pháp Thế đệ nhất có nhiều thứ chê bai, đó là danh nhận lấy sự chê bai, thể nhận lấy sự chê bai, giới nhận lấy sự chê bai, hiện tiền nhận lấy sự chê bai, thối lui nhận lấy sự chê bai.

Danh nhận lấy sự chê bai: Nghĩa là hoặc nói pháp của tánh địa chẳng phải pháp Thế đệ nhất.

Thể nhận lấy sự chê bai: Nghĩa là hoặc nói tánh của năm căn.

Giới nhận lấy sự chê bai: Nghĩa là hoặc nói thuộc về cõi Dục, hoặc thuộc về cõi Sắc, Vô sắc, hoặc lệ thuộc ba cõi, hoặc không lệ thuộc.

Hiền tiền nhận lấy sự chê bai: Nghĩa là hoặc nói do nhiều tâm nối tiếp nhau, chứ chẳng phải một tâm.

Thối lui nhận lấy sự chê bai: Nghĩa là hoặc nói thối lui của pháp Thế đệ nhất.

Vì ngăn dứt các sự chê bai như thế v.v…, nên trước nói pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, tất cả sinh tử, chẳng phải pháp bền chắc, như rác rưỡi ô uế. Trong đây, thế nào là hơn? Thế nào là bền chắc? Cái gì như đề hồ? Đó là pháp Thế đệ nhất, cho nên nói trước.

Lại nữa, vì thuận theo vô ngã, nên kinh nầy thường nói vô ngã, không như sách ngoài nói: Ngã, là nói pháp dục, nói có pháp, nói của cải. Kinh nầy chỉ nói vô ngã, giải thoát, Niết-bàn. pháp Thế đệ nhất nầy cũng quán vô ngã. Vì thuận theo kinh nầy, cho nên nói về nó trước.

Lại nữa, kinh nầy hơn hết trong tất cả luận. Pháp Thế đệ nhất là hơn trong tất cả pháp thiện thế tục. Vì kinh nầy là hơn, nên trước nói thắng pháp.

Lại nữa, nếu khi trụ ở pháp Thế đệ nhất, thì gọi là chân Phật ra đời có thể được tự tại, thọ dụng Thánh pháp. Đức Phật xuất hiện ở thế gian, chúng sinh nhập pháp, gồm có hai hạng:

  1. Giả danh.
  2. Chân thật.

Hạng giả danh: Cạo bỏ râu tóc, mặc pháp phục, chánh tín xuất gia.

Hạng chân thật: Khởi pháp Thế đệ nhất, theo thứ lớp có thể nhập khổ pháp nhẫn.

Sa-môn giả danh nầy có hai lỗi:

  1. Phá giới.
  2. Xả giới.

Người nhập chánh pháp, không có lỗi như thế.

Sa-môn chân thật, thọ dụng Thánh pháp, có thể được tự tại, tùy thuộc phần tánh của mình, không bao giờ thối mất.

Lại nữa, lúc trụ nơi pháp Thế đệ nhất, từ sinh tử vô thỉ đến nay, cổng Thánh đạo đóng kín, nay mới mở ra, không hề xả tánh phàm phu, nay bắt đầu bỏ, không hề đạt được Thánh đạo vô lậu, nay bắt đầu được. Vì thế, nên trước nói pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, lúc trụ nơi pháp Thế đệ nhất, bỏ danh, được danh, bỏ số, được số, bỏ giới, được giới, bỏ tánh, được tánh.

Bỏ danh được danh: Nghĩa là bỏ danh phàm phu, được danh bậc Thánh. Số, giới, tánh cũng giống như vậy.

Lại nữa, lúc trụ nơi pháp Thế đệ nhất, được tâm mà không được nhân của tâm, được sự sáng suốt mà không được nhân của sự sáng suốt, được thọ mà không được nhân của thọ.

Lại nữa, lúc trụ nơi pháp Thế đệ nhất kia, là bỏ duyên cũ được duyên mới, bỏ chung được không chung, bỏ thế gian được xuất thế gian.

Lại nữa, vì dứt trừ hoài nghi, nên chúng sinh nói là tánh phàm phu, vô thỉ cũng cho là vô chung, nay nói pháp Thế đệ nhất, tức chỉ rõ cái chung cuộc của phàm phu kia.

Lại nữa, lúc trụ nơi pháp Thế đệ nhất kia, phàm phu thối lui, sự biến đổi khác của phàm phu, sự ngang bướng của phàm phu, đều không còn khởi. Pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn, đôi khi có khởi.

Lại nữa, lúc trụ lại ở pháp kia, không ai không được pháp bậc Thánh mà qua đời. Noãn, Đảnh, Nhẫn thì không như vậy. Lúc trụ trong pháp kia, không ai không được Thánh đạo mà qua đời, không được chánh quyết định thì được chánh quyết định, không được quả thì được quả, ra khỏi nhóm bất định, nhập nhóm chánh định, không Thánh đạo thì có Thánh đạo, không bất hoại tịnh thì có bất hoại tịnh, cũng giống như thế.

Lại nữa, trụ trong căn thiện nầy, không có sự dừng trệ. Pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn thì có dừng trệ.

Lại nữa, lúc trụ ở pháp Thế đệ nhất, phàm phu đã tu niệm xứ thì đầy đủ rốt ráo, các pháp khác thì không như thế.

Lại nữa, lúc trụ nơi pháp kia, tâm lậu, vô lậu có dứt trừ, có nối tiếp. Dứt trừ nghĩa là tâm hữu lậu, nối tiếp nghĩa là tâm vô lậu. Các pháp khác thì không như vậy.

Lại nữa, như núi chúa Tu-di yên định trên kim luân, sức gió giật dữ dội từ bốn phương thổi đến không thể làm lay động. Lúc an trụ ở pháp nầy, ngọn gió tà của bốn điên đảo không thể làm lay động

Lại nữa, lúc trụ ở pháp kia, vì chỉ rõ thỉ, chung nên cũng như minh tướng chỉ rõ đêm tàn, bắt đầu ban ngày. Pháp kia cũng giống như vậy, sau cuối của thế tục, là bắt đầu của Thánh đạo. Chỉ rõ đầu cuối như vậy, độ xong, dùng phương tiện độ mà vào, ra, rốt ráo cũng giống như thế.

Lại nữa, vì muốn chỉ bày pháp tương tự, có tướng khác nhau, nên pháp Thế đệ nhất thuộc về khổ đế, có thể sinh ra đạo diệt khổ. Do thuộc về khổ, thuộc về sinh tử, thuộc về thế tục, thuộc về các hữu, thuộc về thân kiến sai khiến, nên có thể sinh ra đạo diệt khổ. Pháp khác thì không như vậy.

Lại nữa, thể của pháp Thế đệ nhất là duyên của thế tục, có thể sinh ra duyên xuất thế. Vì cho nên nói trước.

Cũng thế, có nhơ, không nhơ, có lỗi, không lỗi, có độc, không độc, có vẩn đục, không có vẩn đục, có nhóm thân kiến, không có nhóm thân kiến, có nhóm điên đảo, không có nhóm điên đảo, có nhóm ái, không có nhóm ái, có nhóm sử, không có nhóm sử, cũng giống như thế.

Lại nữa, do pháp Thế đệ nhất có thế, có lực nên có thể tạo tác, cũng như người mạnh khỏe, vì trụ trong pháp nầy mà được quyết định chân chánh.

Lại nữa, vì ba việc:

  1. Vì nghĩa kinh.
  2. Vì đình chỉ sự chê bai.
  3. Vì tức sát-na nầy được quả.

Về nghĩa kinh và dứt sự chê bai, thì đã nói như trên, tức sát-na nầy được quả, nghĩa là pháp Thế đệ nhất theo thứ lớp có thể sinh khởi khổ pháp nhẫn, gọi là quả công dụng.

Do các nhân duyên thứ lớp như thế v.v…, nên trước nói pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, vì muốn nghịch thứ lớp, nói pháp phàm phu đạt được, như nói pháp Thế đệ nhất, cho đến pháp Noãn, đó gọi là pháp xuất ly mà phàm phu chứng được. Như nói hai mươi thân kiến v.v… đó gọi là pháp phiền não của phàm phu. Hai thứ pháp nầy, ai có thể biết được?

Chỉ bậc trí vô ngã, cho nên trong phẩm thứ hai, nói rằng: Có một trí biết tất cả pháp cho đến nói rộng. Trí vô ngã nầy do đâu mà sinh? Do giác ngộ về duyên khởi. Cho nên trong phẩm thứ ba, đã nói rằng: Với đời nầy của một người có mười hai thứ duyên, cho đến nói rộng. Sở dĩ giác ngộ được duyên khởi là do ái, kính, cho nên trong phẩm thứ tư nói: Sao gọi là ái? Sao gọi là kính? Cho đến nói rộng. Ái, kính nầy nhờ đâu mà khởi? Do có sự hổ thẹn. Vì thế trong phẩm thứ năm, đã nói: Thế nào là hổ? Thế nào là thẹn? Cho đến nói rộng. Ai có thể hổ thẹn? Vì hiểu rõ pháp tướng, do đó trong phẩm thứ sáu, nói rằng: Sinh, trụ, già, vô thường trong sắc, phải nói là sắc, phi sắc, cho đến nói rộng. Do đâu hiểu rõ được pháp tướng? Tức do dứt nghĩa không, tu tập nghĩa có. Cho nên, trong phẩm thứ bảy nói rằng: Các lối tu khổ hạnh của người khác, phải biết đều là vô nghĩa, cho đến nói rộng. Do đâu dứt nghĩa không, tu nghĩa có? Do nhớ nghĩ chân chánh, cho nên trong phẩm tám nói rằng: Thế nào là nghĩ? Thế nào là nhớ? Cho đến nói rộng.

Vì các việc nhân duyên nầy, muốn trái với thứ lớp, nói pháp phàm phu chứng được. Cho nên, trước nói pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Thế nào là pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Đối với các pháp tâm, tâm sở, theo thứ lớp, được chánh quyết định. Đó gọi là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Đã có thể được chánh quyết định, sẽ được chánh quyết định, lại là pháp Thế đệ nhất phải không?

Đáp: Cũng phải. Nếu đã nói hiện tại, phải biết tức đã là nói quá khứ, vị lai.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất được chánh quyết định, là lúc trụ được hay diệt rồi mới được? Nếu lúc trụ được, thì vừa là phàm phu, vừa là bậc Thánh. Nếu diệt rồi được, thì vì sao không nói đã được chánh quyết định mà nói là nay được?

Đáp: Lẽ ra phải nói đã được mới phải, cho nên văn kinh không nói đã được vì tự có đã được, nên nói nay được. Ví như nói: Đại vương từ nơi nào đến? Đó gọi là đã đến mà nói là nay đến. Đã hiểu các thọ đã dứt lậu, đã được giải thoát cũng giống như thế.

Hoặc có thuyết nói: Nên nói rằng: Không có gián dứt được chánh quyết định, đó gọi là pháp Thế đệ nhất.

Lời bình: Không có gián dứt được chánh quyết định, có khác gì với thứ lớp được chánh quyết định?

Lại có thuyết nói: Dù khổ pháp nhẫn chưa sinh, nhưng pháp Thế đệ nhất nầy quyết định là thứ lớp duyên, cho nên nói là nay được chánh quyết định.

Hoặc có thuyết nói: Đối với năm căn, theo thứ lớp được chánh quyết định, đó gọi là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Ai nói lời nầy?

Đáp: Thuyết của người cựu A-tỳ-đàm.

Hỏi: Vì sao người A-tỳ-đàm kia, lại nói năm căn là pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Vì người kia không hẳn là muốn cho năm căn là pháp Thế đệ nhất, mà vì dứt dị luận, dị luận là thuyết của Tỳ-bà Xà-bà-đề, vì năm căn như tín căn, v.v… hoàn toàn là vô lậu, tất cả phàm phu đều không thành tựu.

Hỏi: Vì sao người A-tỳ-đàm kia nói như thế?

Đáp: Vì người kia dựa vào kinh Phật. Kinh Phật nói: Năm căn, nhạy bén, thấu suốt đầy đủ, hướng về A-la-hán, nếu không có năm căn thì rơi vào số phàm phu.

Người kia lấy cớ kinh đã nói như thế, nên nói năm căn như tín căn, v.v… đều là vô lậu. Vì để dứt trừ lối biện luận như thế của người kia, nói năm căn như tín căn, v.v… là pháp Thế đệ nhất. Nếu năm căn như tín căn, v.v… là vô lậu thì từ vô thỉ đến nay, phàm phu không hề có khả năng khởi một niệm vô lậu mà được pháp Thế đệ nhất, cho nên phải biết năm căn chẳng phải thuần vô lậu.

Lại nữa, nếu năm căn là vô lậu, thì sẽ trái với chánh kinh của Phật, như nói: Nếu đối với năm căn như tín căn v.v…, ta không có khả năng quán như thật là tập, là diệt, là vị, là hoạn, là xả, thì sẽ không thể đạt được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cho đến nói rộng. Không nên dùng tướng như thế để quán pháp vô lậu.

Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Nên dùng tướng như thế để quán pháp vô lậu. Vì sao nên quán như kinh nói? Vì không thể quán như thật năm căn như tín căn, v.v… là quán tướng riêng của năm căn như tín căn, v.v… do đâu mà được? Do gần thiện tri thức, chứa nhóm mà được, đó gọi là quán tập.

Quán diệt là sao? Chưa biết, muốn biết, căn diệt đã biết căn sinh, đó gọi là quán diệt.

Quán vị là sao? Pháp vô lậu nầy cũng là sở duyên của ái, đó gọi là quán vị.

Hỏi: Pháp vô lậu có bị ái ràng buộc chăng?

Đáp: Không! Như trong pháp của ông có duyên vô lậu, duyên sử mà không bị ràng buộc. Ta cũng giống như thế.

Quán tai hại là sao? Vì các pháp vô lậu là không có ái, đó gọi là quán tai hại.

Quán xả là sao? Vì tất cả hữu vi, lúc Niết-bàn đều xả hết, đó gọi là quán xả.

Vì dứt trừ các thứ biện luận như thế, nên nói rằng: Đối với thứ lớp của năm căn được chánh quyết định, đó gọi là pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, nếu năm căn hoàn toàn vô lậu, thì lại trái với kinh Phật, như nói: Ta dùng Phật nhãn, quán căn của chúng sinh có thượng, trung, hạ.

Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Kinh Phật nói, bậc thượng căn A-la-hán, trung căn là A-na-hàm, hạ căn là Tư-đà-hàm, Tu-đà-hoàn.

Dục-đa-bà-đề nói: Nếu vậy thì Đức Thế tôn không chuyển pháp luân mà gọi là chuyển pháp luân, tất cả bậc Thánh đầy khắp thế gian. Đức Phật cũng không cần phải chuyển pháp luân.

Tỳ-bà Xà-bà-đề nói: Sở dĩ Đức Thế tôn nói các căn thượng, trung, hạ của các chúng sinh là nói chỗ nương của các căn, chứ không nói thể của căn.

Dục-đa-bà-đề nói: Nếu vậy thì lại trái với kinh nầy. Như nói Bàla-môn Xà-đề Du-na đến chỗ Phật, bạch Phật rằng: Sa-môn Cù-đàm nói có bao nhiêu căn?

Phật đáp: Có hai mươi hai căn. Đấy cũng là nói chỗ nương của căn, nhưng đều đồng nói là căn. Một là chỗ nương của căn, một là thể của căn, thì không có việc nầy, cho nên, năm căn như tín căn v.v… lẽ ra là hữu lậu, vô lậu.

Hỏi: Kinh Phật mà Tỳ-bà Xà-bà-đề dẫn, phải làm sao hiểu?

Đáp: Năm căn như tín căn v.v… có hai thứ: Hữu lậu, vô lậu. Kinh kia chỉ nói vô lậu. Vì sao? Vì các căn cho nên nói sự khác nhau của bậc Thánh. Hơn nữa, năm căn là hữu lậu, vô lậu, mà kinh kia chỉ nói vô lậu. Vì sao? Vì Thánh là pháp đối trị, nên bậc Thánh có khác nhau.

Hỏi: Ở trên đã nói: Nếu không có năm căn thì sẽ rơi vào số phàm phu. Câu nói nầy làm sao hiểu?

Đáp: Nói rơi vào số phàm phu, có nghĩa là phàm phu dứt bỏ căn thiện.

Hoặc có thuyết nói: Thuyết của Độc Tử bộ nói: Năm căn là pháp Thế đệ nhất. Vì sao? Vì năm căn là tánh thiện, vì năm căn thiện, nên pháp số khác cũng thiện, cũng do căn nên bậc Thánh có khác nhau. Như nói: Năm căn, nhạy bén, thông đạt đầy đủ, được A-la-hán, nói rộng như trên.

Hỏi: Vì việc gì mà, Tôn giả Ca-chiên-diên-tử dẫn Độc Tử bộ để lập nghĩa?

Đáp: Vì Độc Tử bộ kia nói, mà, có đôi chút trái với kinh nầy. Đó là cho năm căn là pháp Thế đệ nhất tánh của phàm phu hoàn toàn nhiễm ô. Thuyết kia lấy khổ đế cõi Dục dứt trừ mười sử, là tánh phàm phu. Niết-bàn có ba hạng: Học, Vô học, phi học phi Vô học. A-tu-la là đạo thứ sáu, nói có ngã, nhân. Vì các việc như thế, v.v…, nên nếu nói năm, hoặc sáu căn, đều trái với kinh nầy, đừng cho bộ kia nói đều đồng với kinh nầy.

Người soạn kinh kia vì muốn dứt ý như thế, nên kế là nói rằng: Như nghĩa của ta đối với pháp tâm, tâm sở, theo thứ lớp được chánh quyết định, đó gọi là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Như ông vừa nói: Tánh của năm căn là thiện, tánh của tâm, tâm số khác chẳng phải thiện, nên là bất thiện, vô ký? Nếu do tánh của năm căn là thiện, bất thiện, vô ký, thì gần với năm căn cũng gọi là thiện, nay năm căn cũng gần với bất thiện, vô ký, nên là bất thiện, vô ký?

Đáp: Điều nầy không đúng! Vì sao? Vì căn và pháp tâm, tâm sở đều đồng một chỗ nương, đồng một hành, đồng một sở duyên, đồng một quả, đồng một nương, đồng một báo, thành chung một việc, mà cho tánh của năm căn là thiện, là gần với thiện, thì chỉ là vọng tưởng.

Hoặc có thuyết nói: Người tụng trì Tu-đa-la nói năm căn là pháp Thế đệ nhất.

Tôn giả Đạt-ma-đa-la nói: Thể tánh của pháp Thế đệ nhất là tư, gọi là khác nhau.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Thể tánh của pháp Thế đệ nhất là tâm, gọi là khác nhau. Vì sao? Vì tín tâm khác nhau, cho đến tuệ tâm khác nhau. Nếu có chúng sinh nào cùng lúc dùng năm thứ tâm, theo thứ lớp được chánh quyết định, thì không có việc đó! Nếu mỗi mỗi thứ lớp được chánh quyết định, thì điều nầy có lý.

Hỏi: Nếu vậy thì dùng pháp bất tương ưng được chánh quyết định?

Đáp: Không! Vì sao? Vì tâm pháp của ông không tương ưng với tâm, là sở duyên của hữu vi, vì là sở duyên của hữu vi, nên có thể theo thứ lớp được chánh quyết định, Tín của ta cũng thế, không tương ưng với tín, có thể có sở duyên, vì có sở duyên nên theo thứ lớp được chánh quyết định, cho đến tuệ cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu vậy thì có lỗi lớn. Vì sao? Vì nếu chỉ có lòng tin mà được chánh quyết định, không do tinh tiến, niệm, định, tuệ được chánh quyết định, thì lười biếng, quên mất, ý tán loạn, tuệ ác, lẽ ra cũng theo thứ lớp được chánh quyết định? Cho đến tuệ cũng thế.

Đáp: Vì dứt trừ các ý nghĩ như thế của người kia, nên nói rằng: Như nghĩa của ta đối với các pháp tâm, tâm sở, theo thứ lớp được chánh quyết định, là pháp Thế đệ nhất. Như nghĩa của ta, nghĩa là không điên đảo, thuận theo pháp tánh, văn kinh đồng với ý của ta, nên nói rằng: Các pháp tâm, tâm sở, theo thứ lớp được chánh quyết định, đó gọi là pháp Thế đệ nhất.

Tôn giả Ca-chiên-diên-tử, vì muốn hiển bày chánh nghĩa, nên nói pháp Thế đệ nhất vừa là căn, vừa chẳng phải căn.

Hỏi: Như pháp Thế đệ nhất hiện ở trước mặt, pháp tâm, tâm sở đời vị lai cũng tu năm căn kia là pháp Thế đệ nhất phải không?

Đáp: Hoặc có người nói: theo kinh nầy thì chẳng phải pháp Thế đệ nhất. Vì sao? Vì kinh nầy nói: Các pháp tâm, tâm sở, theo thứ lớp được chánh quyết định, là pháp Thế đệ nhất. Tâm, pháp tâm sở ở vị lai kia, không thể tạo ra thứ lớp, cho nên chẳng phải pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, nếu thích hợp thì sẽ trái với bản kinh. Như nói, pháp Thế đệ nhất chính là nói một tâm, chứ chẳng phải nói nhiều tâm.

Lời bình: Nên nói rằng: Người vị lai kia cũng là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Người vị lai kia không thể làm thứ lớp, làm sao là pháp Thế đệ nhất được?

Đáp: Người vị lai kia, dù không thể làm thứ lớp duyên, nhưng có thể thuận theo làm pháp thứ lớp. Ví như Tỳ-kheo lúc bố-tát, không ở trong tăng, nhưng vẫn gởi dục cho tăng, và cũng được gọi là là bố-tát, việc tăng cũng thành. Cũng thế người kia ở đời vị lai, vì hiện tại được như người gởi dục. Nếu ở đời vị lai không có vì hiện tại, được như không người gởi dục, thì người hiện tại hôm nay cũng không thể tạo ra thứ lớp. Nếu tạo ra thứ lớp, phải biết đó đều là năng lực của người vị lai. Vì sao? Vì người ở vị lai kia sẽ không tạo ra chướng ngại cho Thánh đạo. Hơn nữa, nếu vị lai kia chẳng phải pháp Thế đệ nhất, thì sẽ trái với văn kinh của Kiền-độ Trí. Vì sao? Vì như không hề được đạo, nay hiện ở trước, tương tự gieo trồng sự tu ở đời vị lai kia. Nếu người nào không tạo ra pháp Thế đệ nhất ở đời vị lai, thì sao gọi là gieo trồng tương tự tu. Do việc nầy, nên người vị lai kia cũng là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Nếu vị lai là pháp Thế đệ nhất, thì vì sao văn kinh không nói?

Đáp: Nếu có thể duyên với thứ lớp thì văn kinh mới nói. Vì người kia không thể duyên với thứ lớp nên kinh không nói.

Lại nữa, nếu lưu chuyển ba đời thì kinh nói. Vị lai thì không như vậy.

Hoặc có thuyết nói: Từ nhân mà sinh, thành tựu pháp nầy, trụ ở trong thân, cho nên nói là pháp Thế đệ nhất. Người vị lai kia dù từ nhân sinh, thành tựu pháp nầy, nhưng vì không ở trong thân, cho nên không nói.

Hỏi: Nếu vậy thì tại sao chẳng phải nhiều tâm?

Đáp: Vì trong đây chỉ nói sát-na hiện tại có thể thành sự, nên chẳng phải nhiều tâm.

Hoặc có thuyết nói: Nếu có thể khiến cho người tu ở đời vị lai thì nói. Vị lai thì không như vậy.

Hoặc có thuyết nói: Nếu tâm là nhân kia, tâm của là quả nầy, vì cho nên nói. Vị lai thì không như vậy.

Hoặc có thuyết nói: Có thể cho nhân, có thể hái lấy quả trụ ở trong thân, có thể có sở duyên, vì cho nên nói. Vị lai thì không như vậy.

Hoặc có thuyết nói: Có hai nghĩa tu, vì cho nên nói. Người vị lai kia chỉ có đắc tu, không có hạnh tu, cho nên không nói.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất kia đều cùng sinh sắc tâm bất tương ưng hành, thì có được làm pháp Thế đệ nhất nầy không?

Đáp: Hoặc có người nói: Như kinh nầy nói: Pháp kia chẳng phải pháp Thế đệ nhất. Vì sao? Vì pháp kia không thể duyên với thứ lớp.

Lời bình: Nên nói rằng: Pháp kia cũng là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Pháp kia không thể duyên với thứ lớp, sao lại gọi là pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Pháp kia dù không thể duyên với thứ lớp, nhưng có thể thuận theo nghĩa của thứ lớp duyên. Vì sao? Vì pháp kia và pháp Thế đệ nhất đều cùng sinh, trụ, diệt, đồng một quả, một nương, một báo, vì cho nên nói.

Hỏi: Nếu pháp kia là pháp Thế đệ nhất, thì vì sao bản kinh nầy không nói?

Đáp: Vì pháp kia không thể duyên với thứ lớp, nên không nói.

Hoặc có thuyết nói: Nếu từ nhân sinh, thành tựu pháp nầy, thì có thể có sở duyên, vì cho nên nói. Dù pháp kia từ nhân sinh, thành tựu pháp nầy, nhưng không thể có sở duyên, cho nên không nói.

Hoặc có thuyết nói: Nếu là tương ưng, có nương, có thế lực, có hành, có duyên, vì cho nên nói. Pháp kia chẳng phải tương ưng, không có nương, không có thế lực, không có hành, không có duyên, cho nên không nói.

Hỏi: Đắc của pháp Thế đệ nhất kia, có phải là pháp Thế đệ nhất không?

Đáp: Pháp kia chẳng phải pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Vì sao? Vì sinh, trụ, vô thường là pháp Thế đệ nhất, mà đắc thì chẳng phải chăng?

Đáp: Pháp Thế đệ nhất của một việc sinh v.v… đều đồng một quả, hành chung, không lìa nhau, thường theo nhau, không trước sau. Còn đắc thì không như thế, không đồng một quả, hành không chung, xa lìa nhau, không theo nhau có trước sau. Hoặc lìa pháp sở đắc, như vỏ cây tách lìa khỏi cây, do nghĩa nầy, nên chẳng phải pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Vì sao đắc của quả Sa-môn, tức quả Sa-môn, mà đắc của pháp Thế đệ nhất nầy, lại chẳng phải pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Vì thành tựu đắc, gọi là quả Sa-môn, là vì đắc tức là quả Samôn, có thể duyên với thứ lớp, cũng có thể thuận theo nghĩa của thứ lớp duyên, nên được gọi là pháp Thế đệ nhất, còn đắc thì không như thế, vì vậy chẳng phải pháp Thế đệ nhất.

Cũng thế, căn thiện đạt phần còn lại, đắc chẳng phải căn thiện đạt phần. Vì sao? Vì nếu đắc tức căn thiện đạt phần, nghĩa là đã được quả Thánh, nên khởi lại căn thiện đạt phần hiện ở trước, vì đắc thành tựu, thật sự không như vậy. Cho nên đắc chẳng phải căn thiện đạt phần.

Hoặc có thuyết nói: Nếu pháp Thế đệ nhất khởi chung, đều cùng sinh thì gọi là pháp Thế đệ nhất, sinh sau thì chẳng phải. Thấu căn thiện đạt phần còn lại cũng giống như thế.

Hoặc có thuyết nói: Đắc tức là pháp Thế đệ nhất, ngoài ra đắc của căn thiện đạt phần, tức là căn thiện đạt phần.

Hỏi: Nếu vậy thì được quả Thánh, nên phải khởi lại, căn thiện đạt phần hiện ở trước?

Đáp: Hoặc hiện tiền, hoặc không hiện ở trước. Hiện tiền là sao? Đó gọi là đắc! Sao là không hiện ở trước? Đó gọi là các pháp tương ưng.

Lời bình: Không nên nói như thế. Như trước đã nói là tốt.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất có bao nhiêu niệm xứ?

Đáp: Hiện tại có một pháp niệm xứ của duyên hư hoại, ở vị lai có bốn.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất là bao nhiêu duyên?

Đáp: Là bốn duyên:

Nhân duyên: Là tương ưng với nhân cộng hữu.

Duyên Thứ đệ: Làm thứ lớp duyên cho khổ pháp nhẫn.

Cảnh giới duyên: Làm sở duyên cho nhẫn trí.

Duyên oai thế: Trừ tự thể của nó, tất cả pháp khác là pháp duyên sinh kia.

Pháp Thế đệ nhất cũng có bốn duyên:

Nhân duyên: Nghĩa là tương ưng pháp cộng hữu.

Duyên Thứ đệ: Nghĩa là khổ nhẫn.

Cảnh giới duyên: Nghĩa là năm ấm cõi Dục.

Duyên oai thế: Nghĩa là trừ tự thể của nó, tất cả pháp khác lại có nghĩa của người nói.

Hỏi: Sao gọi là pháp xuất thế đệ nhất?

Đáp: Là khổ pháp nhẫn. Vì sao? Vì là hạt giống của Thánh đạo.

Lại có người nói: Là định Kim cương dụ. Vì sao? Vì có thể diệt hết các kiết, được quả rốt ráo.

Lại có người nói: Là tận trí. Vì sao? Vì đầu tiên được tận trí, lúc tịnh tu pháp vô lậu khác.

Lại có người nói: Là chánh tam-muội. Vì sao? Vì trong tất cả pháp hữu vi đạt được chánh định là hơn.

Lại có người nói: Là Niết-bàn. Vì sao? Vì nó rất mầu nhiệm, thù thắng trong tất cả pháp.

Lại có người nói: Là tâm sau cùng của A-la-hán. Vì sao? Vì tâm sau cùng của người phàm phu gọi là pháp thế đệ nhất. Tâm sau cùng của A-la-hán gọi là pháp xuất thế đệ nhất.

Lời bình: Không nên nói như thế, vì tâm sau cùng của A-la-hán chẳng phải pháp xuất thế. Nói như thuyết trước là tốt.

Hỏi: Có pháp Thế đệ nhất không làm thứ lớp duyên cho khổ pháp nhẫn chăng?

Đáp: Có, là pháp sắc, tâm bất tương ưng của pháp thế gian đệ nhất.

Hỏi: Có pháp tương ưng nào không làm thứ lớp duyên cho khổ pháp nhẫn chăng?

Đáp: Có, là người tu ở vị lai.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Nếu do tâm tín được chánh quyết định, đó gọi là pháp Thế đệ nhất làm thứ lớp duyên cho khổ pháp nhẫn. Ngoài ra, tâm tinh tiến, niệm, định, tuệ, đó gọi là pháp Thế đệ nhất mà không làm thứ lớp duyên cho khổ pháp nhẫn.

Nói là pháp tương tự, thuyết Diệu Môn nói: Thọ làm thứ lớp duyên cho thọ, không cho tưởng v.v…, pháp tâm sở khác cũng giống như thế. Khi tâm pháp sinh, hễ gặp duyên liền sinh. Nếu ái duyên trước thì sinh lạc thọ. Dục hữu được tưởng thì sinh ra tưởng, dục hữu được tạo tác thì sinh tư.

Hỏi: Nếu đúng vậy thì không có nghĩa thứ lớp tương tự hay sao?

Đáp: Có. Nhưng chẳng phải mỗi mỗi thứ lớp.

Trong pháp của ông, chúng sinh Vô tưởng, khi sinh tâm diệt, khi chết tâm sinh, tưởng tuy bỏ đi xa, nhưng tạo ra được thứ lớp. Pháp ta cũng vậy. Như thọ diệt tưởng v.v… phát sinh, thì lại sinh thọ. Nếu cách nhau tuy xa nhưng được làm thứ lớp.

Lời bình: Không nên nói như vậy! Tâm và tâm tạo ra thứ lớp. Thọ và thọ tạo ra thứ lớp, pháp tâm, tâm sở sinh mỗi mỗi thứ lớp, tạo ra thứ lớp duyên. Nếu nói như vậy thì trái với văn kinh. Như nói: Thế nào là pháp thứ lớp của tâm?

Đáp: Ấy chính là pháp tâm, tâm sở.

Nếu đúng vậy thì lại có lỗi! Ví như dựa tam-muội có giác có quán, nhập tam-muội vô giác vô quán. Vì tam-muội có giác có quán không nên cùng với Tam-muội vô giác vô quán tạo ra thứ lớp duyên. Cho nên không có sự tương tự.

Tam-muội vô giác vô quán thì không từ thứ lớp duyên sinh ra, nếu dựa vào tam-muội vô giác vô quán nhập tam-muội có giác có quán cũng giống như vậy.

Nếu đúng như thế thì không có giải thoát. Vì sao? Vì muốn tương ưng, tâm chỉ sinh thứ lớp, muốn tương ưng, tâm quán bất tịnh, v.v… và các tâm thiện không do đó mà được sinh! Nếu tâm thiện không sinh tức không có giải thoát. Vì có lỗi như vậy, nên như thuyết ban đầu là tốt.

Do những điều đó, nên gọi là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Do đâu mà soạn luận nầy?

Đáp: Trước tuy đã nói thể tánh của pháp Thế đệ nhất, chưa nói lý do gọi là tên pháp Thế đệ nhất, nay sẽ nói. Cũng như ở đời, có người được xưng tụng là hơn. Chưa biết là vìng họ, tiền tài, sức khỏe, quyến thuộc mà nói là hơn. Người soạn luận nầy cũng vậy.

Nay muốn nói về lý do gọi là pháp Thế đệ nhất.

Gọi đệ nhất, nghĩa là tâm, tâm pháp đó đối với các pháp khác là cao tột, là hơn, là lâu dài, là tôn quý, là nhiệm mầu. Do những nghĩa như vậy nên gọi là đệ nhất.

Hỏi: Nói đệ nhất, nghĩa là ở trong thế pháp, thì toàn bộ là hơn hay từng phần là hơn?

Nếu toàn bộ là hơn thì nó không hơn đẳng trí kiến đế biên. Vì sao? Vì đẳng trí kia là quyến thuộc của thấy đạo không xa lìa nhau. Tuệ lực là hơn, vì hết thảy tuệ lực của thấy đạo phần nhiều đều nghiêng về đấy. Lại nữa, đệ nhất kia cũng không hơn sự huân tu thiền thanh tịnh. Vì sao? Vì huân tu thiền không đồng sinh một chỗ với phàm phu. Lại nữa, đệ nhất kia cũng không hơn được hết thảy căn thiện lúc đạt được tận trí. Vì sao? Vì lúc được tận trí, căn thiện đã tu lìa hẳn hết thảy các chướng cấu uế. Lại nữa, đệ nhất kia cũng không hơn không của tam-muội không, vô nguyên của tam-muội vô nguyên, vô tướng của tam-muội vô tướng. Vì sao? Vì không của tam-muội không, v.v… cho đến vô lậu ác tiện còn không có làm gì có hữu lậu.

Còn nếu là từng phần hơn thì pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn kia cũng nên nói là đệ nhất.

Đáp: Hoặc có người nói: Nên nói là từng phần hơn. Vì sao? Vì chỉ hơn đối với các pháp Noãn, Đảnh, Nhẫn.

Lại có người nói: Đệ nhất, nghĩa là pháp kia phải hơn hết thảy thiền vô lượng giải thoát mà phàm phu chứng được, trừ nhập, hết thảy nhập cho đến đệ nhất tư trong hữu.

Hoặc có người nói: Pháp đó thì toàn bộ là hơn. Nói toàn bộ hơn, nghĩa là chẳng phải trong hết thảy sự nghiệp gọi là hơn, chỉ do có khả năng mở cửa Thánh đạo, nên hơn. Với biên đẳng trí của thấy đạo kia, tuy là quyến thuộc của thấy đạo không xa lìa nhau, tuệ lực hơn hết, nhưng không có khả năng mở cửa Thánh đạo. Như đẳng trí, tịnh huân tu thiền, tận trí, căn thiện cùng sinh, không của tam-muội không v.v… không thể mở cửa Thánh đạo cũng giống như vậy.

Hoặc có người nói: Toàn bộ là hơn, vì có khả năng mở cửa Thánh đạo. Biên đẳng trí của thấy đạo, dù là quyến thuộc của Thánh đạo, cho đến tánh tuệ phần nhiều đều nghiêng về, nếu đang là pháp Thế đệ nhất thì không mở cửa Thánh đạo, nghĩa là pháp ấy không tu, nếu đắc tu thì đều là sức nơi công dụng của pháp Thế đệ nhất kia. Ngoài ra, tịnh huân tu thiền, tận trí, căn thiện cùng sinh, không của tam-muội không v.v… cũng giống như vậy.

Hỏi: Đệ nhất có nghĩa là gì?

Đáp: Nghĩa tối thắng là nghĩa đệ nhất. Nghĩa được quả tốt đẹp là nghĩa đệ nhất. Nghĩa có thể nhập nơi phần thù thắng phá trừ hữu tình là nghĩa đệ nhất. Nghĩa của tâm sau cùng là nghĩa đệ nhất. Ví như trên đỉnh của lá cờ cao, không có gì trên đó nữa.

Hỏi: Nói trên hết, tối thắng có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có người nói: Không có khác nhau. Vì sao? Vì lời đó đều nói ra những nghĩa cao đẹp, khen ngợi.

Hoặc có người nói: Do căn thiện mà có khác nhau. Đối với quán bất tịnh, an ban (quán sổ tức), gọi là cao tột. Với văn tuệ gọi là hơn, với tư tuệ gọi là lớn, với pháp Noãn gọi là tôn, với pháp Đảnh gọi là trên, với pháp Nhẫn gọi là khéo.

Hoặc có người nói: Do địa mà có sự khác nhau. Nếu dựa vào định Vị chí gọi là cao tột. Nếu dựa vào Sơ thiền gọi là hơn. Nếu dựa vào trung gian gọi là lớn. Nếu dựa vào Nhị thiền gọi là tôn. Nếu dựa vào Tam thiền gọi là trên. Nếu dựa vào Tứ thiền gọi là khéo.

Hoặc có người nói: Nghĩa biên Đảnh gọi là cao tột. Nghĩa trên gọi là hơn. Nghĩa tăng thiện gọi là lớn. Nghĩa thăng tiến gọi là tôn. Nghĩa kiên cố gọi là trên. Nghĩa đầy đủ gọi là khéo.

Lại có người nói: Có khả năng cùng khổ pháp nhẫn tạo ra thứ lớp, nên gọi là cao tột, hơn các căn thiện của phàm phu, nên gọi là hơn. Tạo dựng sự thắng tiến, nên gọi là lớn. Hơn căn thiện của thế tục nên gọi là tôn. Không hai nên gọi là trên, tương ưng với vô lậu nên gọi là khéo.

Lại có người nói: Vì cao tột nên gọi là hơn, vì hơn nên gọi là lớn, vì lớn nên gọi là tôn, vì tôn quý nên gọi là trên, vì trên nên gọi là khéo.

Lại có người nói: Là tâm sau cùng của phàm phu, nên gọi là cao tột, cũng như cây ngay. Có thể mở cửa Thánh đạo nên gọi là hơn. Căn cơ, nhạy bén nên gọi là lớn. Hơn cả trong phần căn thiện đạt nên gọi là tôn, chiết phục phiền não nên gọi là trên. Được quả tốt nên gọi là khéo.

Lại nữa, tâm, tâm pháp đó là xả tánh phàm phu.

Hỏi: Xả bỏ tánh phàm phu là pháp Thế đệ nhất hay khổ pháp nhẫn? Nếu pháp Thế đệ nhất xả tánh phàm phu thì làm thế nào với một Sát-na, dùng pháp phàm phu xả tánh phàm phu? Nếu cho khổ pháp nhẫn xả tánh phàm phu, là cho lúc sinh xả hay là lúc diệt xả. Nếu cho lúc sinh là xả, thì làm sao pháp chưa khởi mà có chỗ tạo tác? Nếu cho lúc diệt là xả, thì chủ thể xả kia đã diệt, đâu còn gì để lại xả?

Đáp: Hoặc có người nói: Tức là khi pháp Thế đệ nhất nầy xả.

Hỏi: Nếu đúng như vậy thì làm sao với một sát-na dùng pháp phàm phu xả tánh phàm phu?

Đáp: Tánh phàm phu, tướng pháp Thế đệ nhất là sự ngăn ngại! Cho nên khi trụ ở pháp Thế đệ nhất thì xả. Như người nài voi, cỡi voi điều khiển. Người dạy ngựa, người lái thuyền vượt qua những nỗi sợ hãi cũng giống như vậy.

Lại có người nói: Xả là khi khổ pháp nhẫn phát sinh, khi tánh phàm phu diệt. Đoạn mười sử do thấy khổ mà dứt. Như khi đèn sáng thì phá tan bóng tối và sáng cho đến khi tim đèn tàn, dầu cạn hết.

Hỏi: Nếu vậy thì làm sao pháp chưa khởi mà có pháp được tạo tác? Lại một pháp sao làm được hai việc?

Đáp: Nếu thế thì đâu có lỗi gì! Hết thảy nội pháp đều có hai thứ. Ở vị lai, có thể có chỗ tạo tác tương ưng là khổ pháp nhẫn, không tương ưng là tướng sinh. Tất cả ngoại pháp, ở đời vị lai đều có thể có chỗ tạo tác, chỉ là đèn.

Hoặc có người nói: Pháp Thế đệ nhất và khổ pháp nhẫn đều xả bỏ tánh phàm phu, pháp Thế đệ nhất như đạo vô ngại, khổ pháp nhẫn như đạo giải thoát. Pháp Thế đệ nhất cùng với tánh phàm phu được thành tựu đều diệt. Khổ pháp nhẫn cùng với tánh phàm phu không thành tựu được cùng sinh. Pháp Thế đệ nhất nương vào khổ pháp nhẫn. Khổ pháp nhẫn giúp cho thế lực của pháp Thế đệ nhất, mới xả bỏ được tánh phàm phu. Ví như người yếu sức phải dựa vào người mạnh mới hàng phục kẻ thù. Đây cũng giống như thế.

Được Thánh pháp, ấy là khổ pháp nhẫn. Xả bỏ tánh tà, là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Tánh tà có ba thứ: Một là tánh tà của đường, hai là tánh tà của nghiệp. Ba là tánh tà của kiến. Tánh tà của đường, nghĩa là ba đường ác. Tánh tà của nghiệp đó là năm nghiệp Vô gián. Tánh tà của kiến là năm kiến. Đối với ba thứ tánh tà, thì xả những gì? Nếu xả tánh tà của nghiệp, đường, thì bấy giờ không thành tựu, nếu xả tánh tà của kiến thì đạo tỷ trí hiện ở trước mặt, bấy giờ mới xả.

Đáp: Ba thứ đều xả.

Hỏi: Thế nào là đều xả?

Đáp: Không đường, không tạo, không hành gọi là xả. Không đường, nghĩa là xả tánh tà của đường. Không tạo, nghĩa là xả tánh tà của nghiệp. Không hành, nghĩa là xả tánh tà của kiến.

Hỏi: Nếu vậy thì khi dừng nghỉ ở nhẫn đã xả sao lại nói là trụ nơi pháp Thế đệ nhất mới xả?

Đáp: Vì phá trừ chỗ nương của nó. Các phiền não dùng tánh phàm phu làm chỗ nương để có thể khởi những lỗi lầm trong sinh tử. Giống như sư tử, dựa vào hang động, rình bắt các loài thú khác. Việc ấy cũng giống như vậy. Cho nên mới nói khi trụ pháp Thế đệ nhất thì xả.

Hoặc có người nói: Khổ pháp nhẫn là sự đối trị tánh tà.

Hỏi: Tánh tà của đường, tánh tà của nghiệp là do tu đạo mà dứt. Sao lại còn nói khổ pháp nhẫn là sự đối trị của nó?

Đáp: Đối trị có nhiều cách. Có đối trị bằng xả, có đối trị bằng dứt, có đối trị bằng nắm giữ, có đối trị bằng không tạo tác, có đối trị bằng không hướng. Khổ pháp nhẫn là đối trị bằng xả của tánh phàm phu. Thấy khổ dứt mười sử là đối trị bằng dứt. Các đạo vô lậu là đối trị bằng nắm giữ. Không gây ra nghiệp Vô gián và nghiệp bất thiện khác là đối trị bằng không tạo tác. Không hướng về đường ác là đối trị bằng không hướng về. Tất cả những điều đó gọi là xả tánh tà.

Đắc chánh tánh là khổ pháp nhẫn. Đắc chánh quyết định là thấy đạo.

Hỏi: Tất cả Thánh đạo là chánh quyết định. Vì sao chỉ nói thấy đạo?

Đáp: Hoặc có người nói: Các phiền não làm cho căn thiện của chúng sinh không thành thục, ái cứ tăng trưởng thêm dày, đắm nhiễm không lìa! Đạo kiến đế kia có công năng khiến cho căn thiện của chúng sinh thành thục, làm khô cạn nước ái, xa lìa đắm nhiễm, không tạo ra chướng ngại che lấp, không bị hư hoại, tâm không xen lẫn với các thứ khác, nên thấy đạo gọi là chánh quyết định.

Hoặc có người nói: Chúng sinh căn cơ thành thục, nhập vào Thánh đạo, cho nên thấy đạo gọi là chánh quyết định.

Lại có người nói: Nhổ sạch gốc rễ phiền não, nhập ở Thánh đạo, cho nên thấy đạo được gọi là chánh quyết định.

Lại có người nói: Xả bỏ năm loại người, nhập tánh của tám người, cho nên thấy đạo gọi là chánh quyết định.

Lại có thuyết nói: Trợ giúp, nuôi lớn, gọi là chánh quyết định.

Cũng như bò, ngựa, nhờ vào nước, cỏ để nuôi lớn tánh mạng.

Tất cả bậc Thánh nhờ vào thấy đạo mà nuôi lớn tuệ mạng, cho nên thấy đạo được gọi là chánh quyết định.

Hoặc có người nói: Pháp đó giải thoát sự ràng buộc nên không bao giờ bị lệ thuộc. Vì thế thấy đạo gọi là chánh quyết định.

Hoặc có người nói: Chánh tất nhiên là nghĩa của định, là nghĩa quyết định. Tự có sự quyết định mà chẳng phải chánh, đó là định tà, cho nên tất định gọi là chánh quyết định.

Hoặc có người nói: Tương ưng với nghĩa đúng như pháp, là nghĩa quyết định. Thấy đạo tương ưng như pháp nên gọi là chánh quyết định.

Hỏi: Các chánh là chánh tánh chăng?

Đáp: Các chánh tánh là chánh kia.

Đã từng có chánh chẳng phải chánh tánh chăng?

Đáp: Có, là pháp thế đệ nhất.

Hỏi: Vì sao pháp Thế đệ nhất là chánh mà chẳng phải chánh tánh?

Đáp: Hoặc có người nói: Chúng sinh từ vô thỉ đến nay, với hạnh ác, phiền não, tà kiến, điên đảo, khiến tâm nầy não loạn, nên trụ vào pháp Thế đệ nhất mà chế phục, cho nên gọi là chánh thể, hữu lậu nầy bị sai khiến không gọi là chánh tánh.

Lại có người nói: Nghĩa bình đẳng là nghĩa chánh, giống như nơi bàn cân, đem một vật treo ở giữa, bên nghiêng lệch tức là thấp.

Cũng vậy, pháp Thế đệ nhất bình đẳng trụ trong tánh phàm phu. Thấy đạo trung gian, nếu là khổ pháp nhẫn, phần nhiều phát sinh nghiêng về Thánh đạo. Cho nên nghĩa bình đẳng là nghĩa chánh.

Lại có người nói: Nghĩa bình đẳng là nghĩa chánh. Phật, Bích-chi Phật, A-la-hán, v.v… trụ trong pháp thượng thượng, cho nên nghĩa bình đẳng là nghĩa chánh.

Lại có người nói: Nghĩa cùng hành hiện tiền là nghĩa chánh, tất cả hành đều trụ trong một sát-na.

Lại có thuyết nói: Pháp Thế đệ nhất kia và khổ pháp nhẫn, bốn sự là đồng đẳng, đó là địa của căn, hành, duyên địa. Như khổ pháp nhẫn nương vào địa nào, cùng tương ưng với căn nào, hành thì hành những gì, duyên với pháp nào? Pháp kia cũng giống như vậy, cùng với khổ pháp nhẫn, bốn sự đồng nên gọi là chánh thể. Hữu lậu, nầy bị sử sai sử nên không gọi là chánh tánh.

 

*******

Pháp Thế đệ nhất nên nói là thuộc về cõi Dục chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước đã nói về thể tánh của pháp Thế đệ nhất và cũng đã nói lý do vì sao gọi là pháp Thế đệ nhất, nhưng chưa nói thuộc về cõi nào. Như con người gọi là vượt hơn, đã nói về sự vượt hơn, nhưng chưa biết chỗ trụ. Nay vì muốn nói nên mới soạn luận nầy.

Hoặc có người nói: Vì ý nhằm đình chỉ nghĩa đồng đều, như bộ Ma-ha-tăng-kỳ nói: Pháp Thế đệ nhất là thuộc về cõi Dục.

Như Độc Tử bộ nói: Là thuộc cõi Sắc, Vô sắc. Vì sao? Vì nếu địa nào có lĩnh vực của Thánh đạo, thì cũng có pháp Thế đệ nhất.

Như bộ Đàm-ma-quật nói: Hoặc nói lệ thuộc ba cõi, hoặc nói không lệ thuộc, hoặc nói chẳng phải pháp không lệ thuộc. Vì ý nhằm ngăn những thuyết về nghĩa đều cùng như thế, nên soạn luận nầy.

Hỏi: Vì sao pháp Thế đệ nhất không nên nói thuộc về cõi Dục, nên nói về lý do, không thể chỉ vì lời nói mà nghĩa nầy được lập?

Đáp: Không do đạo cõi Dục dứt được các cái, cũng không thể chế ngự, khuất phục các triền, cũng không thể làm cho chúng không hiện hành ở trước. Nói dứt, chế ngự khiến không hiện hành nghĩa là hoàn toàn dứt, chế ngự không hiện hành. Vì sao? Vì không có đạo nào trong cõi Dục, có thể làm cho cái, triền hoàn toàn được dứt trừ, chế ngự không hiện hành.

Hỏi: Vì sao trong cõi Dục, không có đạo nào có thể dứt trừ cái, triền rốt ráo?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì căn bất thiện trong cõi Dục thì mạnh mẽ, mà căn thiện thì yếu ớt, cho nên không có đạo nào có thể dứt trừ cái, chế phục triền. Ở cõi Sắc, căn thiện mạnh mẽ, không có căn bất thiện, cho nên có đạo có thể dứt trừ cái, chế phục triền.

Lại có người nói: Căn bất thiện cõi Dục như người ở lâu, còn căn thiện thì như khách. Người ở lâu có thế lực, khách thì không có thế lực, cho nên không có đạo nào có thể dứt trừ. Căn thiện cõi Sắc như người ở lâu, đều là thiện, cho nên có đạo dứt trừ.

Lại có thuyết nói: Căn thiện, bất thiện cõi Dục đều đồng một ràng buộc, cho nên không có đạo dứt trừ. Căn thiện cõi Sắc, căn bất thiện cõi Dục không đồng trói buộc, do đó đạo cõi Sắc có thể dứt trừ cái, chế phục triền cõi Dục.

Lại có người nói: Oai nghi cõi Dục, không có sự kiêng dè, giống như chồng, vợ. Oai nghi cõi Sắc cùng kính trọng nhau như mẹ con.

Lại có người nói: Cõi Dục là phá bỏ pháp hổ thẹn, như con Cư sĩ giao du với con của Chiên-đà-la. Cõi Sắc có hổ thẹn, như vua không giao tiếp với hàng Chiên-đà-la.

Lại có người nói: Kiết ái cõi Dục căn thiện ái cõi Dục. Vì yêu căn thiện nên không thể sinh khởi tưởng chán lìa. Ái cõi Dục không thể căn thiện cõi Sắc, vì không yêu nên có thể sinh khởi tưởng chán lìa. Do những nhân duyên như thế v.v…, nên trong cõi Dục không có đạo nào có thể dứt cái, chế phục triền, cõi Sắc thì có đạo có thể dứt trừ cái, chế phục triền.

Hoặc có người nói: Nói dứt bỏ cái là dứt trừ rốt ráo, chế phục các triền không hiện hành ở trước nghĩa là dứt ngay trong giây lát. Dứt bỏ rốt ráo, dứt ngay trong giây lát như thế, thì có ràng buộc, không có ràng buộc, có hình, không có hình, có phần nhỏ, không có phần nhỏ, cũng giống như thế.

Lại có người nói: Nói dứt bỏ cái, nghĩa là nhổ bỏ gốc rễ của cái. Nói chế phục không hiện hành ở trước, nghĩa là chế phục các triền.

Lại có người nói: Nói dứt trừ cái nghĩa là nhổ bỏ các phiền não. Chế phục triền không hiện hành ở trước, là chế phục các triền.

Hỏi: Trong cõi Dục, dù không có đạo rốt ráo dứt trừ cái, chế phục triền, nhưng có thể có đạo không dứt cái, chế phục triền trong giây lát chăng?

Đáp: Có, nhưng không đáng tin cậy. Vì sao? Vì không bền chắc, không trụ lâu, không nối tiếp nhau, không liên hệ nhau. Trong tâm không trụ lâu thì không thể chế phục phiền não lâu để được chánh quyết định. Cũng như đám bèo nổi trên mặt nước, ném viên đá nhỏ vào nó, tuy nó giạt ra rồi lại hợp lại ngay. Ếch, nhái chui vào giữa nó, vừa tan là hợp ngay. Vì có những duyên như thế, nên ở cõi Dục dù có đạo dứt bỏ trong phút chốc mà không đáng tin, còn đạo dứt bỏ cõi Sắc thì đáng tin cậy. Vì sao? Vì ở lâu, bền chắc, nối tiếp nhau, liên hệ nhau. Trong tâm trụ lâu thì có thể chế phục phiền não, được chánh quyết định. Giống như ném viên đá to vào giữa đám bèo, bèo giạt ra mà không thể hợp. Voi lớn lội vào giữa thì cũng tan mà không hợp. Vì có các duyên như thế, nên đạo cõi Sắc có thể nhổ bỏ các cái, chế phục sự tác hại của triền, các phiền não bị chế phục sẽ không hiện hành nữa.

Hỏi: Nếu vậy thì theo như ông đã nói: Pháp Thế đệ nhất lẽ ra chỉ ở thiền Vị chí. Vì sao? Vì đạo đối trị đã dứt trừ cái, chế phục triền cõi Dục chỉ có thể ở thiền Vị chí, còn địa trên khác thì không nên có?

Đáp: Đối trị có hai thứ:

  1. Đối trị bằng dứt trừ.
  2. Đối trị lỗi lầm.

Nếu dựa vào thiền Vị chí, dứt trừ dục cõi Dục thì sẽ có hai thứ đạo đối trị. Các địa trên khác dù không có đối trị dứt, nhưng vẫn có đối trị lỗi lầm.

Tôn giả Cù-sa nói: Trong sáu địa đều có hai thứ đạo đối trị dứt dục cõi Dục, đó là đối trị bằng dứt trừ và đối trị lỗi lầm. Vì sao? Vì dựa vào thiền Vị chí dứt trừ dục cõi Dục. Ngoài ra, các địa không dứt, nghĩa là trước đó đã dứt rồi. Giống như sự sáng suốt mặt trời bất cứ lúc nào cũng ngăn ngại với bóng tối. Lúc mặt trời mới mọc là đã phá tan bóng tối của đêm. Ngoài ra, về ban ngày, dù trái với bóng tối nhưng không phá trừ bóng tối, vì trước đó đã phá rồi. Cũng như sáu người đồng có một kẻ thù, cùng bàn với nhau, ở bất cứ chỗ nào cùng tìm dịp để hại kẻ thù kia, giống như có người đem sáu ngọn đèn đi vào ngôi nhà tối, ngọn đèn đầu tiên đã phá tan bóng tối, các ngọn đèn kế đó, dù trái với bóng tối, nhưng không phá trừ, vì bóng tối đã phá rồi. Cũng thế, trong sáu địa đều có hai thứ đạo đối trị dứt trừ dục cõi Dục, cho đến nói rộng.

Lại nữa, làm sao biết được trong sáu địa đều có hai thứ đối trị dứt trừ dục cõi Dục? Nếu ngay trong sáu địa không có hai thứ đối trị dứt trừ dục cõi Dục, thì hành giả sẽ dựa vào địa trên để được chánh quyết định, không nên phân biệt cõi Dục, cũng không làm chứng, nhưng có thể phân biệt làm chứng. Do duyên nầy, nên biết được trong sáu địa đều có hai thứ đối trị dứt dục cõi Dục. Nếu đạo cõi Dục có thể dứt trừ cái, chế phục triền, thì cũng có thể trừ diệt được kiết cõi Dục, cho đến nói rộng.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất không thể dứt trừ kiết, vì sao lại nói: phải dùng đạo cõi Dục để dứt trừ cái, chế phục triền? Cho đến nói rộng.

Đáp: Pháp Thế đệ nhất dù không thể dứt trừ kiết, nhưng căn thiện diệu thù thắng bậc nhất nầy, ở chỗ sâu xa, cần phải cùng với địa kia lìa đạo cõi Dục cùng ở một chỗ, cho nên dùng đạo để chứng biết.

Hỏi: Vì sao pháp Thế đệ nhất không thể dứt trừ kiết?

Đáp: Vì căn thiện kia quá nhỏ, pháp thân thì chưa lớn, dù vậy vẫn có uy thế lớn, nhưng vì căn thiện nhỏ bé, pháp thân chưa lớn, nên không thể dứt trừ kiết. Nhờ có oai thế lớn, nên không bị các kiết hủy hoại. Như con của sử tử, thân bé nhỏ, chưa lớn thì không thể hại người thợ săn, nhưng vẫn có uy thế lớn, tất cả các thợ săn không thể xâm hại.

Hoặc có người nói: Pháp Thế đệ nhất vì là một sát-na nên không thể dứt trừ kiết.

Hỏi: Khổ pháp nhẫn cũng là một sát-na, vì sao có thể dứt trừ kiết?

Đáp: Khổ pháp nhẫn kia dù là một sát-na, nhưng về sau vì có tánh đồng nối tiếp nhau, cho nên có thể dứt trừ kiết.

Hoặc có người nói: Khổ pháp nhẫn kia là đạo phương tiện, không dùng đạo phương tiện để có thể dứt phiền não, chỉ không dùng đạo cõi Dục để dứt trừ cái, chế phục triền, cũng không thể trừ kiết cõi Dục, mà chính là dùng đạo cõi Sắc để dứt trừ cái, chế phục triền, cho đến nói rộng.

Người tạo nghĩa nói: Vì sao, pháp Thế đệ nhất không thuộc về cõi Dục?

Hoặc có người nói: Vì cõi Dục thấp kém, mà căn thiện của pháp Thế đệ nhất kia thì cao quý.

Lại có người nói: Vì cõi Dục thì mỏng, nhạt, mà căn thiện của pháp kia thì tốt đẹp.

Lại có người nói: Vì cõi Dục thì tán loạn, còn căn thiện kia thì vắng lặng.

Lại có người nói: Vì cõi Dục chẳng phải tu, còn căn thiện kia thì tu.

Lại có người nói: Vì cõi Dục chẳng phải pháp lìa dục, căn thiện kia lại thuận theo pháp lìa dục.

Lại có người nói: Nếu pháp Thế đệ nhất thuộc về cõi Dục, nghĩa là có lỗi tự duyên. Sao gọi là lỗi tự duyên? Như khổ pháp nhẫn duyên với năm ấm cõi Dục, nếu pháp Thế đệ nhất thuộc cõi Dục, thì cũng duyên với năm ấm thuộc về cõi Dục. Nếu duyên với năm ấm thuộc cõi Dục thì pháp kia lẽ ra tự duyên, vì nếu không duyên thì lại trái với văn kinh. Như nói: Như sở duyên của khổ pháp nhẫn, pháp Thế đệ nhất kia cũng duyên, tức sẽ có lỗi tự duyên như thế.

Người tạo nghĩa nói: Vì những lý do đó, nên pháp Thế đệ nhất thuộc về cõi Sắc chăng?

Đáp: Pháp cõi Sắc có thể cùng ba thứ đạo tạo ra thứ lớp duyên. Đó là thấy đạo, tu đạo và đạo Vô học. Lãnh vực khác thì không thể cùng ba thứ đạo tạo ra duyên Thứ đệ. Nếu cõi Dục có thể cùng với ba thứ đạo tạo ra duyên Thứ đệ, thì có pháp Thế đệ nhất. Như ba đạo, ba địa, ba căn, thì phần pháp trí sinh đầu tiên, kế là sinh phần tỷ trí. Cứ như vậy v.v… cõi Sắc có các thứ công đức nên phải nói rộng.

Hỏi: Vì sao pháp Thế đệ nhất không nên nói là thuộc cõi Vô sắc?

Đáp: Vì được chánh quyết định, thì sự thấy đầu tiên ở cõi Dục là khổ hạnh khổ đế, về sau mới cùng với cõi Sắc, Vô sắc.

Hỏi: Khổ đế có bốn hành, vì sao trong đây khi nói thấy khổ chỉ nói khổ hạnh không nói hành vô thường, không, vô ngã?

Đáp: Do câu văn kia nên mới nói như vậy. Khi được chánh quyết định, thấy trước hết là khổ đế cõi Dục, không nên nói là khổ hạnh. Nhưng không như vậy thì người tạo kinh kia có ý gì?

Đáp: Vì biện pháp phương tiện thứ lớp đầu tiên. Như nói khổ hạnh, hạnh vô thường, không, vô ngã lẽ ra cũng nên nói như khổ hạnh.

Lại có thuyết nói: Do khổ hạnh chỉ ở trong khổ đế, còn hành vô thường thì ở trong ba đế, hành không, vô ngã thì có ở tất cả pháp.

Lại có người nói: Khổ đó trái với hết thảy hữu pháp, có thể trừ bỏ sinh tử giống như đứa trẻ, tuy trước mặt có đủ thức ăn ngon, nhưng nếu có người nói: Những đồ ăn ấy là khổ, tức thì liền bỏ.

Lại có người nói: Tất cả chúng sinh ngu, trí, già, trẻ, trong đạo hay ngoài đạo đều tin là khổ.

Lại có người nói: Khổ đó thô, hiện rõ dễ dùng trí nhận biết. Vì sao? Vì Phật nói khổ trí, vì duyên với pháp nào cũng tức là duyên với pháp khổ. Như trí và đối tượng nhận biết của trí, giác và đối tượng được biết rõ của giác, hành và việc thực hành hóa của hành, căn và nghĩa của căn, duyên và sở duyên, nên như trí mà nói.

Lại có thuyết nói: Nói câu văn khổ, tức đã truyền lâu xa. Thuở xưa, chư Phật đều nói khổ hạnh, là vì người tu hành trước là thấy khổ.

Hỏi: Vì sao trước thấy khổ cõi Dục, sau, cõi Sắc, Vô sắc đều đi chung?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì khổ cõi Dục thô, hiện rõ ràng dễ thấy cho nên thấy trước. Khổ cõi Sắc, Vô sắc vi tế, không hiện, không rõ ràng, khó thấy, vì cho nên thấy sau.

Hỏi: Nếu vậy thì nỗi khổ thô cõi Sắc và khổ vi tế cõi Vô sắc, vì sao đều thấy?

Đáp: Vì định, bất định. Cõi Dục không định, cho nên thấy trước. Khổ cõi Sắc dù thô, nhưng vì đồng định với cõi Vô sắc nên đều thấy. Định, bất định như thế, trụ ở địa ly dục, trụ ở địa không lìa dục, trụ ở địa tu, không trụ địa tu, nói cũng giống như thế.

Lại có người nói: Khổ cõi Dục là hành, nghĩa là thân sinh bệnh đau khổ, vì cho nên thấy trước. Khổ cõi Sắc, Vô sắc chẳng phải hành, nghĩa là thân không sinh khổ thọ, vì cho nên thấy sau.

Lại có người nói: Vì khổ cõi Dục gần nên thấy trước, khổ cõi Sắc, Vô sắc xa nên thấy sau. Như gần hay xa, hiện thấy hay không hiện thấy, cùng đi chung hay không đi chung, thân này hay thân người khác, cũng giống như thế.

Lại có người nói: Người tu hành, vì thành tựu tánh phàm phu cõi Dục, nên thấy trước, vì không thành tựu tánh phàm phu cõi Sắc, Vô sắc, nên thấy sau.

Lại có người nói: Người tu hành, vì hiện thấy khổ cõi Dục nên thấy trước, khổ cõi Sắc, Vô sắc vì không hiện thấy nên thấy sau.

Hỏi: Nếu khổ cõi Sắc, Vô sắc không hiện thấy, thì người tu hành làm sao thấy?

Đáp: Hiện thấy có hai cách:

  1. Lìa dục hiện thấy.
  2. Tự thân hiện thấy.

Người tu hành đối với khổ cõi Dục, thì có đủ hai cách hiện thấy, là lìa dục hiện thấy và tự thân hiện thấy.

Người tu hành đối với nỗi khổ ở cõi Sắc, Vô sắc có một thứ hiện thấy, đó là lìa dục hiện thấy. Ví như người đi buôn có hai gánh của cải: một gánh tự mình gánh, một gánh sai người khác gánh. Đối với gánh của cải tự mình gánh lấy thì có hai thứ hiện thấy:

  1. Biết vật hiện thấy.
  2. Biết nhẹ, nặng hiện thấy.

Đối với gánh của cải sai người khác gánh thì chỉ có một thứ hiện thấy, gọi là biết vật hiện thấy.

Lại có người nói: Khổ cõi Dục có ba thứ: Thiện, bất thiện, vô ký, vì cho nên thấy trước. Khổ cõi Sắc, Vô sắc có hai thứ: Thiện, vô ký, nên thấy sau.

Lại có người nói: Khi thấy khổ cõi Dục dứt trừ hai thứ kiết: bất thiện, vô ký. Lúc thấy khổ cõi Sắc, Vô sắc, chỉ dứt trừ vô ký, Như bất thiện, vô ký, thì có báo, không có báo, sinh một quả, sinh hai quả, tương ưng với không hổ, không thẹn, không tương ưng với không hổ, không thẹn, phải biết cũng giống như thế.

Lại có người nói: Chê bai nói là không có khổ thì trước là từ cõi Dục, sau là cõi Sắc, Vô sắc. Còn nếu tin là có khổ thì cũng trước là từ cõi Dục, sau mới là cõi Sắc, Vô sắc. Như chê bai sinh niềm tin, thì không trí, có trí, nghi ngờ, quyết định, tà kiến, chánh kiến, phải biết cũng giống như thế. Nếu Thánh đạo khởi thì trước đã làm xong các việc cõi Dục, sau thì cõi Sắc, Vô sắc mới đều cùng có.

Hỏi: Biện sự và thấy đạo có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có người nói: Không có khác nhau.

Hoặc có người nói: Cũng có khác nhau.

Biết rõ nhóm là thấy đạo, dứt trừ kiết là biện sự.

Lại có người nói: Trí nhận biết là thấy đạo, trí dứt trừ là biện sự. Như vậy, trí làm chứng, minh đắc làm chứng, minh đạo giải thoát, quả của đạo, phải biết cũng giống như thế.

Lại có người nói: Chủ thể nhận thức duyên theo cảnh giới là thấy đạo, đối tượng tác động là biện sự.

Lại có người nói: Một sát-na là thấy đạo, trạng thái nối tiếp sau là biện sự.

Như một sát-na, nối tiếp nhau sau đấy, nhập số, số nhập, phải biết cũng giống như thế.

Lại có người nói: Sở tác của đạo vô ngại, gọi là thấy đạo, sở tác của đạo giải thoát, gọi là biện sự. Như sở tác của đạo vô ngại, sở tác của đạo giải thoát, thì lánh xa ác, tu thiện, bỏ vô nghĩa được có, nghĩa ra khỏi nơi thấp kém, nhập thắng xứ, từ bỏ sự hừng cháy của ái, lìa ái để được yên vui, phải biết cũng giống như thế.

Nếu khi được chánh quyết định, trước thấy khổ hành của khổ đế ở cõi Vô sắc. Cũng thế, pháp Thế đệ nhất, nên nói là thuộc cõi Vô sắc chăng? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Lúc được chánh quyết định, không thấy trước khổ cõi Sắc, không ngăn pháp Thế đệ nhất được gọi là thuộc cõi Sắc. Như vậy, khi được chánh quyết định, sẽ không thấy trước hành khổ của khổ đế cõi Vô sắc, pháp Thế đệ nhất là thuộc cõi Vô sắc thì có lỗi gì?

Đáp: Trong cõi Sắc có duyên khắp, trí biết có thể duyên với địa dưới, cho nên có được pháp Thế đệ nhất. Trong cõi Vô sắc, không có trí duyên khắp, có thể duyên với địa dưới, cho nên không có pháp Thế đệ nhất. Chỉ có Thánh đạo khởi, trước đã xong việc ở cõi Dục cho đến nói rộng. Không nên nói pháp Thế đệ nhất là thuộc về cõi Vô sắc. Người tạo ra nghĩa nói: Vì sao pháp Thế đệ nhất không nên nói là thuộc về cõi Vô sắc?

Hoặc có người nói: Cõi Vô sắc kia chẳng phải nhân, chẳng phải địa, chẳng phải đồ đựng. Vì chẳng phải đồ đựng v.v…, nên không có pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Nếu xứ kia có căn thiện quán đế, như Noãn, Đảnh, Nhẫn, thì xứ nầy nên có pháp Thế đệ nhất. Vì trong cõi Vô sắc kia không có, nên không có pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Nếu xứ có thấy đạo thì sẽ có pháp Thế đệ nhất. Trong cõi Vô sắc, vì không có thấy đạo nên không có pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Nếu địa có trí duyên khắp tất cả pháp, cũng có đạo đối trị dứt trừ kiết, tức có pháp Thế đệ nhất. Trong cõi Dục, tuy có trí có thể duyên với tất cả địa nhưng không có đạo đối trị dứt trừ kiết. Trong cõi Vô sắc, tuy có đạo đối trị dứt trừ kiết mà không có trí để duyên với tất cả địa. Cho nên ở cõi Dục, cõi Vô sắc không có pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Vì căn thiện cõi Dục không vắng lặng, nên không có pháp Thế đệ nhất. Vì đạo cõi Vô sắc rất vắng lặng, nên không có pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Vì căn thiện cõi Dục suy yếu, nên không có pháp Thế đệ nhất. Trong cõi Vô sắc, vì chẳng phải cảnh giới nên không có pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, hoặc có người nói: Nhập định vô sắc, bỏ đi tưởng sắc, cho đến nói rộng.

Hỏi: Không nên nói: Lại nữa, hoặc có người nói. Nếu nói lại có người nói thì nghĩa sẽ không nhất định. Nên nói rằng: Nhập định vô sắc, bỏ đi tưởng sắc, cho đến nói rộng. Vì sao? Vì cùng làm rõ một nghĩa, thành thử không nên như trước đã nói: Hành khổ v.v… của khổ đế ở cõi Vô sắc, mà nên nói rằng: Nhập định vô sắc, bỏ đi tưởng sắc, cho đến nói rộng. Vì sao? Vì đó là nghĩa căn bản, nên nói như thế, nhưng không như vậy thì có nghĩa gì?

Đáp: Ngôn ngữ có hai thứ:

  1. Phương tiện.
  2. Căn bản.

Trước đã nói, là lời phương tiện, sau đã nói, là lời căn bản.

Lại có người nói: Thuyết trước, là nói về khổ pháp nhẫn duyên với pháp cõi Dục, thuyết sau, là nói về pháp Thế đệ nhất đồng một duyên với khổ pháp nhẫn. Phải biết, cõi Vô sắc không thể duyên với cõi Dục.

Hỏi: Bỏ đi tưởng sắc, thể tánh là gì?

Đáp: Là bảy địa. Đó là bốn định vô sắc và ba Vị chí.

Hỏi: Chỗ nầy nói trừ bỏ tưởng sắc, kiền-độ Bốn đại cũng nói trừ bỏ tưởng sắc, như Ba-la-diên nói kệ:

Bỏ đi tưởng sắc
Đoạn được ái dục
Với pháp trong, ngoài
Không gì chẳng thấy.
Như kinh Chúng nghĩa, nói kệ:
Cũng không có hữu tưởng
Cũng chẳng không Vô tưởng
Bỏ tưởng sắc như thế
Dứt được nhân khát ái.
 
Những điều như thế có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có người nói: Chỗ nầy nói trừ bỏ tưởng sắc, nghĩa là trừ bỏ tưởng sắc của địa dưới. Kiền-độ Bốn đại nói loại trừ tưởng sắc nghĩa là bỏ đi sắc có đối, như các kinh Ba-la-diên chúng nghĩa nói kệ:

Trừ bỏ tưởng sắc
Dứt duyên sắc ái.

Hoặc có người nói: Chỗ nầy nói trừ bỏ tưởng sắc là bốn niệm xứ. Kiền-độ bốn đại nói trừ bỏ tưởng sắc nghĩa là thân niệm xứ, như kinh Ba-la-diên chúng nghĩa nói. Trừ bỏ tưởng sắc là pháp niệm xứ.

Lại có người nói: Chỗ nầy nói trừ bỏ tưởng sắc là bốn định vô sắc và ba Vị chí. Kiền-độ bốn đại nói trừ bỏ tưởng sắc là đệ Tứ thiền, là bài kệ mà kinh Ba-la-diên Chúng Nghĩa đã nói:

Trừ bỏ tưởng sắc
Trừ ái duyên sắc.

Lại có người nói: Ở đây nói trừ bỏ tưởng sắc, nghĩa là đạo nội ngoại nầy cùng trừ bỏ pháp tưởng sắc, ba pháp còn lại không cùng trừ bỏ pháp tưởng sắc.

Pháp Thế đệ nhất nên nói là có giác, có quán; không giác, có quán; không giác không quán?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Vì để ngăn ý của những người kia nói pháp Thế đệ nhất là thuộc về cõi Dục.

Lại có người nói: Trước đã nói thể tánh của pháp Thế đệ nhất đã nói lý do, đã nói về giới, mà chưa nói về địa. Nay sẽ nói.

Lại có người nói: Trước dù đã làm rõ pháp Thế đệ nhất là thuộc về cõi Sắc, nhưng trong cõi Sắc lại có ba thứ địa: Địa có giác, có quán, địa không giác, có quán, địa không giác, không quán, chưa nói pháp Thế đệ nhất là ở địa nào? Nay vì muốn nói. Vì sao? Vì căn thiện cõi Sắc, có loại ở một địa, như tịnh giải thoát, có loại ở hai địa, như hỷ v.v…

Nay vì muốn nói địa của pháp Thế đệ nhất, nên soạn luận nầy.

Pháp Thế đệ nhất hoặc có giác, có quán, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là có giác có quán?

Đáp: Nếu dựa vào Tam-muội có giác, có quán, sẽ được pháp Thế đệ nhất, như thiền Vị chí và Sơ thiền.

Hỏi: Trên nói nương điều ấy có nghĩa gì?

Đáp: Hoặc có người nói: Đều có nghĩa sinh, là nghĩa nương. Khi pháp Thế đệ nhất kia sinh, vì tương ưng với sức định, nên đã gìn giữ phẩm tâm không để tán loạn, đó là nghĩa nương.

Lấy gì để nhận biết? Vì có thành văn nói là đều có nghĩa sinh, là nghĩa nương. Như nói: Nếu nương Tam-muội không thì được chánh quyết định. Trong đây tức đã nói đều có sinh là nghĩa nương. Như khổ pháp nhẫn tương ưng với Tam-muội Không là nghĩa nương, đều có sinh. Tam-muội Không cũng tương ưng với pháp Thế đệ nhất, đó gọi là nghĩa nương.

Lại có người nói: Với nghĩa thứ lớp duyên là nghĩa nương. Như nhẫn tăng thượng tương ưng với Tam-muội, làm thứ lớp duyên cho pháp Thế đệ nhất, đó gọi là nghĩa nương.

Lời bình: Tức nương vào địa kia, đó gọi là nghĩa nương, thuyết như thế là hay.

Hỏi: Thế nào là không giác, có quán?

Đáp: Nếu dựa vào Tam-muội không giác, có quán sẽ được pháp Thế đệ nhất, đấy gọi là không giác có quán, như thiền trung gian chẳng hạn.

Hỏi: Thế nào là không giác, không quán?

Đáp: Nếu nương Tam-muội không giác, không quán sẽ được pháp Thế đệ nhất, đó gọi là không giác, không quán, chẳng hạn như Nhị thiền, cho đến Đệ Tứ thiền.

Hỏi: Vì sao nói pháp Thế đệ nhất ở ba địa?

Đáp: Vì ý muốn nhằm ngăn nghĩa cùng đều, như Di-sa-tắc bộ nói: Pháp Thế đệ nhất là pháp có giác, có quán, có tướng, có thế lực, không nhất định, là tánh phàm phu, duyên hữu vi. Có giác, có quán, là có thể phân biệt.

Có tướng: Vì là năng duyên.

Có thế lực: Vì khó được.

Không nhất định: Vì không có tâm tương tự nối tiếp nhau.

Là phàm phu: Nghĩa là có thể đạt được trong thân phàm phu.

Duyên hữu vi: Nghĩa là duyên các hành.

Vì ý nhằm ngăn nghĩa cùng đều như thế, nên nói là ở ba địa. Nếu dựa vào địa Vị chí được chánh quyết định. Một địa kia thì thấy đạo tu, một địa thì tu pháp Thế đệ nhất. Nếu dựa vào Sơ thiền đạt được chánh quyết định, hai địa kia thì thấy đạo tu, một địa thì pháp Thế đệ nhất tu.

Nếu nương thiền trung gian, được chánh quyết định, ba địa thấy đạo tu, một địa pháp Thế đệ nhất tu. Nếu nương Nhị thiền được chánh quyết định, thì bốn địa thấy đạo tu, một địa pháp Thế đệ nhất tu.

Nếu dựa vào ba thiền được chánh quyết định, thì năm địa thấy đạo tu, một địa pháp Thế đệ nhất tu. Nếu nương Bốn thiền được chánh quyết định, thì sáu địa thấy đạo tu, một địa pháp Thế đệ nhất tu.

Lại có người nói: Nếu dựa vào thiền Vị chí, được chánh quyết định, thì một địa thấy đạo tu, còn một địa pháp Thế đệ nhất tu. Nếu dựa vào Sơ thiền được chánh quyết định, thì hai địa thấy đạo tu, hai địa pháp Thế đệ nhất tu. Nếu nương thiền trung gian được chánh quyết định, thì ba địa thấy đạo tu, ba địa pháp Thế đệ nhất tu. Vì sao? Vì đều là pháp của một địa.

Pháp hữu lậu trong ấy, một thứ. Vị sử sai khiến, nên các việc thiện trong đấy xoay vần chuyển biến thành nhân. Hai thiền trở lên, như trước đã nói.

Lời bình: Người kia không nên nói như thế. Vì sao? Vì nếu dựa vào Tam-muội không giác, có quán được chánh quyết định thì sẽ được hai thứ pháp Thế đệ nhất: Có giác có quán, không giác có quán. Nếu vậy thì sẽ trái với văn kinh. Như nói: Sao gọi là không giác, có quán? Nếu dựa vào thiền trung gian thì sẽ được pháp Thế đệ nhất, đấy gọi là không giác, có quán, như trước nói là hay.

Hỏi: Vì sao thấy đạo tu ở địa mình địa người mà chẳng phải pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì thấy đạo xoay vần làm nhân, nên chẳng phải pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Thấy đạo tu trong thân bậc Thánh, vì tu trong thân bậc Thánh nên tu ở địa mình địa người. Pháp Thế đệ nhất được tu trong thân phàm phu, do tu trong thân phàm phu nên chỉ tu ở tự địa, chẳng phải tu ở địa người khác.

Lại có người nói: Vì thấy đạo có ba việc cho nên tu:

  1. Từ nhân sinh.
  2. Có thể làm đối trị.
  3. Có thể biện sự.

Từ nhân sinh, nghĩa là trong sáu địa xoay vần làm nhân lẫn nhau.

Đối trị: Nếu đối trị dứt trừ dục của một địa thì địa còn lại cũng được gọi là đối trị dứt trừ.

Biện sự: Như biện sự của một địa, địa còn lại cũng biện. Pháp Thế đệ nhất không từ nhân sinh, nghĩa là không xoay vần làm nhân. Không phải đối trị, nghĩa là không dứt trừ kiết.

Không biện sự, nghĩa là chẳng phải như Thánh đạo có thể làm xong mọi việc. Vì tu đạo cũng lấy ba việc nầy, nên tu ở địa mình và địa người kia cũng xoay vần làm nhân. Như pháp trí dứt trừ kiết cõi Dục, tỷ trí cũng tu. Tỷ trí đó chẳng phải đạo đối trị cõi Dục. Khi pháp trí hiện tiền, vừa gọi là tu, vừa gọi là đối trị. Biện sự: Như địa đệ Tứ thiền tu khổ trí thì địa Sơ thiền cũng tu. Như đạo của địa Sơ thiền hoàn thành xong công việc thì đạo của địa đệ Tứ thiền cũng hoàn thành. Như đạo của địa đệ Tứ thiền hoàn tất công việc thì địa Sơ thiền cũng hoàn thành.

Lại có người nói: Những việc làm của pháp vô lậu là khác, việc làm của pháp hữu lậu là khác. Vì sao? Vì pháp Thế đệ nhất bị ái trói buộc, còn pháp vô lậu thì không bị thuộc về ái.

Lại có người nói: Vì pháp Thế đệ nhất có nhơ, có lỗi lầm, có cặn đục độc hại, cho nên không tu ở địa mình và địa người. Thấy đạo không có vết nhơ, không có lỗi, không có độc hại, không có cặn đục, vì cho nên tu ở địa mình, địa người.

Lại có người nói: Pháp Thế đệ nhất ở giới nào thì thuộc về giới đó, tại địa nào thì thuộc về địa đó. Còn pháp vô lậu thì ở tại giới, tại ở địa nào đều không bị lệ thuộc ở địa, nơi giới đó.

Lại có người nói: Pháp Thế đệ nhất ở thân có trói buộc, còn pháp vô lậu ở thân không trói buộc.

Lại có người nói: Pháp Thế đệ nhất tất nhiên sinh báo, còn pháp vô lậu thì không sinh báo.

Hỏi: Đồng là hữu lậu. Vì sao đẳng trí biên của thấy đạo tu ở địa mình, địa người mà chẳng phải pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Hoặc có người nói: Đẳng trí của thấy đạo không dụng công mà được, do sức của thấy đạo nên tu. Như trong thấy đạo có thể tu ở địa mình, địa người, đẳng trí của thấy đạo kia cũng tu. Còn pháp Thế đệ nhất cần phải dùng công sức lớn mới được, vì cho nên chỉ tu ở địa mình, không tu ở địa người.

Lại có người nói: Đẳng trí của thấy đạo là quyến thuộc của thấy đạo, thường không lìa nhau. Như thấy đạo tu ở địa mình và địa người, thì đẳng trí kia cũng giống như thế. Pháp Thế đệ nhất chẳng phải quyến thuộc của thấy đạo, lại lìa nhau, vì cho nên chỉ tu ở địa mình, không tu địa người.

Lại có người nói: Đẳng trí của thấy đạo là bậc Kiên tín, Kiên pháp, có thể đạt được trong thân. Nếu khởi ở địa trên, thì pháp sẽ hiện ở trước, ở địa dưới liền tu. Pháp Thế đệ nhất có thể đạt được trong thân phàm phu, mà tất cả phàm phu thì không thể tu ở địa người.

Hỏi: Vì sao thấy đạo của địa trên, khi hiện ở trước lại tu ở địa dưới? Thấy đạo của địa dưới lúc hiện ở trước, thì địa trên không tu?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì pháp của địa trên là hơn, nếu khi hiện ra ở trước, tức là tu ở địa dưới. Còn pháp của địa dưới kém, nên lúc hiện ở trước, không tu ở địa trên. Ví như người vượt hơn không cần phải đến chỉ người yếu kém, còn người yếu kém thì phải tìm đến chỗ người vượt hơn, pháp ấy cũng giống như thế.

Lại có người nói: Nếu nương ở địa trên, được chánh quyết định, các pháp của địa dưới, vì trước đã được, cho nên tu. Nếu dựa vào địa dưới được chánh quyết định, thì các pháp của địa trên hoặc được, không được, vì cho nên không tu.

Lại có người nói: Các pháp của địa trên từ nhân của địa dưới sinh, các pháp của địa dưới không từ nhân của địa trên sinh, thế nên không tu.

Lại có người nói: Pháp của địa dưới không thể đối trị địa trên, pháp của địa trên có thể đối trị địa dưới. Vì không đối trị nên không tu.

Lại có người nói: Nếu dựa vào địa trên được chánh quyết định, thì bấy giờ vì lìa dục của địa dưới nên tu. Nếu dựa vào địa dưới được chánh quyết định, thì địa trên hoặc lìa dục, hoặc không lìa dục. Nếu lìa dục thì đối với pháp của địa trên sẽ không được tự tại. Nếu được tự tại, thì lẽ ra địa trên được chánh quyết định nhưng không thể được, nên biết không tự tại.

Lại có người nói: Pháp của địa dưới thuộc về địa trên, vì cho nên tu. Còn pháp của địa trên không thuộc về địa dưới, vì cho nên không tu.

Lại có người nói: Giống như có sáu thứ pháp phòng hộ, vì trời Ba Mươi Ba chuẩn bị đối phó với A-tu-la, nên sắp đặt sáu thứ phòng hộ là:

  1. Dựavào nước nơi rồng ở.
  2. Thần tay cầm chày.
  3. Thần tay cầm tràng hoa.
  4. Thần Thường buông lung.
  5. Bốn Thiên vương.
  6. Trời Ba Mươi Ba.

Nếu nương vào nước nơi rồng ở, mà có thể đập tan A-tu-la, thì năm thứ còn lại không có việc gì. Nếu rồng ở nước không thể thắng, thì thần tay cầm giúp đỡ, bốn thứ còn lại vô sự, đứng yên. Nếu hai thứ không chiến thắng nổi A-tu-la thì thần Trì Hoa Man giúp đỡ, ba thứ còn lại vô sự, yên ổn. Nếu cả ba không chiến thắng A-tu-la, thì thần buông lung giúp đỡ, hai thứ còn lại vô sự, đứng yên. Nếu bốn thứ không chiến thắng nổi A-tu-la, thì Tứ Thiên vương giúp đỡ, một thứ còn lại vô sự, đứng yên. Nếu cả năm thứ không thắng nổi A-tu-la, thì trời Ba Mươi Ba giúp đỡ, Đế-thích vô sự, đứng yên. Nếu những người kia không chiến thắng, thì bấy giờ Đế-thích đích thân tham chiến, cầm chày Kim cang tuôn mưa bão Kim cương, lúc đó chúng A-tu-la liền thối lui, tan trận! Cũng thế, đối trị dứt trừ kiết của thấy đạo, trong sáu địa, nếu dựa vào địa Vị chí được chánh quyết định, tức thấy đạo của địa ấy sẽ dứt trừ kiết, thấy đạo thì dứt kiết thì năm địa còn lại vô sự mà trụ. Nếu nương nơi Sơ thiền được chánh quyết định thì các địa trên sẽ vô sự mà trụ. Tu đắc thiền Vị chí cũng thuận theo Sơ thiền. Nếu dựa vào trung gian, Nhị thiền, Tam thiền cũng giống như thế. Nếu dựa vào Tứ thiền được chánh quyết định thì thấy đạo trong bốn thiền kia sẽ dứt trừ kiết, thấy đạo dứt kiết thì tu đắc của địa dưới cũng thuận theo thiền thứ tư.

Lại có người nói: Giống như trên sườn núi có sáu lớp ao thứ lớp mà xuống, nước ở ao trên xoay vần chảy xuống, còn nước nơi ao dưới không thể chảy ngược lên ao trên. Đây cũng giống như thế. Dòng vô lậu của địa trền tuôn chảy xuống địa dưới, vì cho nên tu. Dòng vô lậu của địa dưới không thể chảy ngược lên địa trên, do đó nên không tu.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất từng có giác không có quán chăng? Có quán không có giác chăng? Cũng có giác, có quán chăng? Không có giác, không có quán chăng?

Đáp: Có.

Thế nào là có giác không có quán ? Như giác của thiền Vị chí, Sơ thiền, tương ưng với quán. Vì sao? Vì quán không tương ưng.

Thế nào là có quán, không có giác? Đáp: Giác tức các pháp tương ưng với quán của thiền trung gian.

Thế nào là có giác, có quán? Như thiền Vị chí, Sơ thiền, trừ giác, quán của hai thiền đó ra, là pháp tương ưng còn lại, cái gọi mười đại địa, là mười thiện đại địa và tâm.

Thế nào là không có giác, không có quán? Đáp: Nghĩa là quán của thiền trung gian, các giác quán còn lại, là pháp bất tương ưng. Như pháp tương ưng cua Hai thiền, Ba thiền, Bốn thiền và sắc, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Có pháp Thế đệ nhất không có giác, có quán, chẳng phải không giác, có quán, chẳng phải không giác, không quán chăng?

Đáp: Có. Như quán ở địa của thiền Vị chí, Sơ thiền. Hai thiền đó không có giác, có quán. Vì sao? Vì như nói: Thế nào là pháp tương ưng với giác quán? Nếu pháp tương ưng với giác quán thì quán kia chỉ tương ưng với giác, không tương ưng với quán.

Thế nào là chẳng không giác, có quán? Đáp: Là quán. Vì sao? Vì như nói: Thế nào là pháp tương ưng với không giác, có quán? Nếu pháp không tương ưng với giác mà pháp tương ưng với quán thì quán kia chỉ tương ưng với giác không tương ưng với quán.

Thế nào là chẳng phải không giác, không quán? Đáp: Là quán. Vì sao? Vì như nói: Thế nào là pháp tương ưng với không giác, không quán? Nếu pháp không tương ưng với giác, quán, thì quán kia tuy không tương ưng với quán, nhưng tương ưng với giác.

Hỏi: Có pháp Thế đệ nhất, chẳng phải tương ưng với có giác, có quán, chẳng phải không là quán chăng?

Đáp: Có. Quán của thiền trung gian, thiền kia không tương ưng với giác, quán, chẳng phải không là quán.

Hỏi: Có khi nào pháp Thế đệ nhất ở địa có giác, có quán, chẳng phải giác chỉ là quán chăng?

Đáp: Có. Ở địa Vị chí và Sơ thiền, giác chỉ tương ưng với quán, chẳng phải giác.

Hỏi: Có khi nào pháp Thế đệ nhất ở địa không có giác, có quán, tương ưng với chẳng phải giác, chẳng phải quán chăng?

Đáp: Có, là quán của thiền trung gian.

Hỏi: Có khi nào pháp Thế đệ nhất ở địa có giác, có quán, cũng có

giác, có quán, không giác, có quán, không giác, không quán chăng?

Đáp: Có.

Thế nào là có giác, có quán? Như địa của thiền Vị chí và Sơ thiền, pháp tương ưng với giác, quán.

Thế nào là không giác, có quán? Tức là giác kia.

Thế nào là không giác, không quán? Tức là sắc, tâm bất tương ưng hành kia.

Hỏi: Có khi nào pháp Thế đệ nhất ở địa không giác, có quán, không giác, có quán, không giác, không quán chăng?

Đáp: Có.

Thế nào là không giác, có quán? Như thiền trung gian và pháp tương ưng với không giác, có quán.

Thế nào là không giác, không quán? Là người kia quán sắc, tâm bất tương ưng hành.

Pháp Thế đệ nhất nên nói là tương ưng với lạc căn, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước đã nói về lý do, giới địa, thể tánh của pháp Thế đệ nhất, nhưng chưa nói đến tương ưng, nay vì muốn nói (nên soạn luận nầy).

Lại có người nói: Trước đã nói pháp Thế đệ nhất ở ba địa, chưa nói ở sáu địa. Nay muốn dùng căn để nói về nghĩa sáu địa cho rõ ràng, như nhìn quả A-ma-lặc trong tâm bàn tay.

Hỏi: Thế nào là pháp Thế đệ nhất tương ưng với lạc căn?

Đáp: Nếu dựa vào đệ Tam thiền để được pháp Thế đệ nhất, thì thế nào là tương ưng với lạc căn? Thế nào là không tương ưng với lạc căn? Trừ lạc căn, là pháp tương ưng với các lạc căn khác. Thế nào là không tương ưng? Đáp: Là sắc, tâm bất tương ưng hành của lạc căn.

Hỏi: Thế nào là tương ưng với hỷ căn?

Đáp: Nếu dựa vào Sơ thiền, Nhị thiền để được pháp Thế đệ nhất, thì trong đây tương ưng với cái gì, không tương ưng với cái gì? Trừ hỷ căn, pháp tương ưng với các hỷ căn khác. Không tương ưng với cái gì?

Là sắc, tâm bất tương ưng hành của hỷ căn.

Hỏi: Thế nào là tương ưng với xả căn?

Đáp: Nếu dựa vào thiền Vị chí, đệ Tứ thiền, được pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Vì sao không nói thiền trung gian?

Đáp: Nên nói rằng: Nếu dựa vào thiền Vị chí trung gian, đệ Tứ thiền, được pháp Thế đệ nhất, mà không nói như vậy thì có nghĩa gì? Trung gian thiền chung là Vị chí, trong thiền nầy, tương ưng với cái gì? Không tương ưng với cái gì?

Tương ưng với cái gì? Trừ xả căn, pháp tương ưng với các xả căn khác.

Không tương ưng với cái gì? Là sắc, tâm bất tương ưng hành của xả căn.

Hỏi: Có pháp Thế đệ nhất, không tương ưng với hỷ căn, lạc căn, xả căn chăng?

Đáp: Có, là sắc, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Có pháp tương ưng nào không tương ưng với pháp Thế đệ nhất chăng?

Đáp: Có. Tức là thể của ba căn.

Pháp Thế đệ nhất nên nói là một tâm hay nhiều tâm, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Đối với pháp Thế đệ nhất, trước đã nói về thể tánh, đã nói về lý do, đã nói về giới, đã nói về địa, đã nói về tương ưng, nhưng chưa nói hiện ở trước, nay muốn nói về điều ấy.

Hoặc có người nói: Nói pháp Thế đệ nhất là hiện tiền nối tiếp nhau. Vì để ngăn người có ý như vậy, vì muốn làm rõ pháp Thế đệ nhất trong một sát-na hiển hiện ở trước mặt.

Hoặc có người nói: Trước đã nói các pháp tâm, tâm sở theo thứ lớp được chánh quyết định. Hoặc cho là có nhiều tâm pháp tâm sở nơi sátna kia cũng nhiều. Vì quyết định nghĩa như vậy nên soạn luận nầy.

Lại có người nói: Nối tiếp nhau có ba thứ: Một là thời tương tục, hai là sinh tương tục, ba là tương trợ tương tục, hoặc cho là không có hai tương tục, chỉ có tương tợ tương tục. Như bộ Di-sa-tắc nói. Vì ngăn ý của người kia nên soạn luận nầy.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất nên nói là một tâm hay nhiều tâm?

Đáp: Nên nói một tâm, không nên nói nhiều tâm.

Hỏi: Như Pháp Thế đệ nhất hiện tiền, vị lai tu tâm pháp tâm sở, cũng gọi là pháp Thế đệ nhất, trong đây vì sao không nói?

Đáp: Điều đó lẽ ra nên nói mà không nói, phải biết là nghĩa đó là thuyết hữu dư. Như nghĩa hữu dư, nghĩa giản lược cũng giống như vậy.

Lại có người nói: Vị lai kia nghĩa là thuộc về hiện tại. Nếu nói đời hiện tại, phải biết là cũng nói vị lai.

Lại có người nói: Nếu có thể cùng với thứ lớp duyên, thì trong đây

nói. Nghĩa như thế, nên như trước theo thứ lớp mà nói.

Hỏi: Vì sao pháp Thế đệ nhất nên nói là một tâm. Phải nói lý do, vì không chỉ dùng lời mà nghĩa nầy được lập?

Đáp: Tâm tâm pháp nầy, theo thứ lớp lại không khởi, chỉ sinh ra tâm hữu lậu thế gian. Tâm tương ưng với khổ pháp nhẫn vô lậu, nếu sẽ khởi thì không có việc đó. Vì phân biệt nên giả sử khởi, hoặc nhỏ, hoặc tương tự, hoặc hơn. Nếu thích hợp với nhỏ thì không thể được chánh quyết định. Vì sao? Vì không do suy thối, chưa thành đạo mà được chánh quyết định. Phải dùng đạo với thế lực thắng tiến mới được chánh quyết định.

Nếu tương tự, nghĩa là cũng không thể được chánh quyết định. Vì sao? Vì trước đã không dùng đạo nầy để được chánh quyết định. Như sát-na đầu tiên, sát-na sau cũng thế. Như sát-na ban đầu bị trở ngại, dừng lại, không được chánh quyết định, thì nhiều sát-na sau cũng bị trở ngại, dừng lại, nên không được chánh quyết định.

Như sát-na đầu tiên không thể nhận lấy Thánh đạo, thì nhiều sátna sau cũng không thể nhận lấy Thánh đạo.

Hỏi: Nếu vậy thì trong tu đạo, nếu dùng tâm phẩm hạ cũng không thể tiếp nhận Thánh đạo?

Đáp: Thấy đạo khác, vốn từng được đạo khác. Nếu tương đương với pháp vượt hơn, thì cũng không thể được chánh quyết định. Vì sao?

Vì pháp trước, chẳng phải pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Nếu chẳng phải thì là pháp gì?

Đáp: Là nhẫn tăng thượng, sau là pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Vì sao trong tu đạo, hoặc tương tự, hoặc nhỏ, đều có thể làm thứ lớp cho vô lậu, còn thấy đạo thì chỉ là vượt hơn?

Đáp: Vì tu đạo là đạo đã từng được, không dùng nhiều công sức mà vẫn hiện ở trước, do đó, hoặc giống nhau, hoặc nhỏ, đều làm thứ lớp. Còn thấy đạo là đạo không hề được, cần phải dùng nhiều công sức mới được hiện ở trước, cho nên cần phải dùng pháp vượt hơn là pháp Thế đệ nhất. Về oai thế của nhân pháp Thế đệ nhất, thì nhân là nhân cộng sinh, nhân tương ưng nhân tương tự. Ba nhân nầy là nghĩa nói chung. Nếu nói riêng thì quá khứ đối với quá khứ có hai nhân là tương ưng và cộng sinh. Quá khứ đối với vị lai có một nhân là tương tự. Vị lai đối với vị lai có hai nhân là tương ưng và cộng sinh. Hiện tại đối với hiện tại có hai nhân là tương ưng, cộng sinh. Hiện tại đối với vị lai có một nhân là tương tơ. Không chướng ngại pháp được sinh là duyên oai thế.

Pháp Thế đệ nhất nên nói là thối lui hay nên nói không thối lui, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước đã nói về thể tánh, lý do, giới địa, căn, một tâm của pháp Thế đệ nhất, chưa nói về không thối lui, nay vì muốn nói về vấn đề đó nên soạn luận nầy.

Hoặc có người nói: Pháp Thế đệ nhất là thối lui. Vì nhằm ngăn ý của người đó, nên soạn luận nầy. Hoặc có người nói: pháp thế đệ nhất là lui sụt, vì để ngăn ý người khác. Lại muốn trừ bỏ nghĩa của người khác, hiển bày nghĩa của mình, vì tương ưng với pháp tướng.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất nên nói là thối lui hay nói không thối lui?

Đáp: Không thối lui.

Thế nào là không thối lui? Phải nói rõ lý do tại sao pháp ấy không thối lui? Vì không thể chỉ dùng lời mà nghĩa ấy được lập? Đáp: Pháp Thế đệ nhất thuận theo đế, chuyển gần đế, nhập vào đế.

Tùy thuận đế là sao? Là thuận theo thấy đạo.

Chuyển gần đế là sao?Là chuyển biến, gần thấy đạo.

Nhập vào đế là sao? Là nhập vào thấy đạo.

Lại có người nói: Tùy thuận đạo đế, chuyển gần đạo đế, nhập vào đạo đế.

Lại có người nói: Tùy thuận khổ pháp nhẫn, chuyển gần khổ pháp nhẫn, nhập vào khổ pháp nhẫn. Pháp Thế đệ nhất đối với khổ pháp nhẫn có hai thứ chuyển gần:

  1. Tùy thuận chuyển gần.
  2. Nhập vào chuyển gần.

Trung gian kia không khởi tâm hữu lậu bất tương tự, khiến cho khổ pháp nhẫn không thể hiện ở trước.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất là tâm hữu lậu. Như vừa nói, không khởi tâm hữu lậu không tương tự, khổ pháp nhẫn là tâm không tương tự, vì sao nói hữu lậu là tâm không tương tự, vô lậu là tâm tương tự?

Đáp: Pháp Thế đệ nhất là tâm hữu lậu yếu kém, vì lý do yếu kém nên nói là không tương tự, vô lậu nói là tương tự. Giống như có người bị bà con mình làm cho khổ nào, nên gần người khác, nghĩ như bà con, còn đối với thân thuộc mình, nghĩ là người khác. Tâm kia cũng giống như thế.

Lại có người nói: Vì pháp Thế đệ nhất và khổ pháp nhẫn đồng nói một việc, đó gọi là xả việc phàm phu được trụ trong Thánh pháp, cũng như sĩ phu qua sông, qua hang, qua núi, qua hầm, cho đến nói rộng.

Qua sông là từ bờ sông bên nầy sang bờ sông bên kia. Qua hang là từ dốc bên nầy qua dốc bên kia. Qua núi là từ núi nầy đến núi nọ. Qua hầm hố là từ chỗ cao xuống chỗ thấp, từ dưới thấp trèo lên trên cao. Giống như có người từ trên cao rớt xuống, trong khoảng chưa xuống tới mặt đất, bèn nghĩ rằng: Mình muốn trở lại chỗ cũ, chẳng biết có được như ý không?

Đáp: Không được! Dù cho người đó, hoặc dùng thần túc, hoặc dùng chú thuật hay cỏ thuốc để trở lại chỗ cũ thì có thể có việc ấy. Lúc trụ trong pháp Thế đệ nhất, không một pháp nào có thể ngăn ngại khiến cho khổ pháp nhẫn không hiện tiền, thí như cõi Diêm-phù-đề có năm con sông lớn:

  1. Hằng -già.
  2. Dạ-Ma-Na.
  3. Tát- La-Do.
  4. A-Di-La-Bạt-Đề
  5. Ma-Hê.

Đều chảy ra biển cả cho đến nói rộng.

Hỏi: Thí dụ trước, thí dụ sau có gì khác nhau không?

Đáp: Không có khác nhau. Vì sao? Vì muốn nhờ vào hai thí dụ nầy để nói về một nghĩa, cho rõ ràng.

Lại có người nói: Người trước, dùng vật của nội pháp làm dụ. Người sau dùng vật của ngoại pháp làm dụ.

Lại có người nói: Thí dụ trước vì ngăn dứt pháp gây trở ngại bên trong. Dụ sau nhằm năgn dứt pháp gây trở ngại bên ngoài.

Lại có người nói: Dụ trước vì ngăn dứt các việc không đúng như pháp. Dụ sau nhằm làm sáng tỏ các việc đúng như pháp.

Năm con sông kia chảy ra biển cả, không ai có thể ngăn, không người nào có thể làm cho chúng dừng lại, không ai có thể dời đổi chúng được.

Hỏi: Năm con sông lớn đó chảy ra biển cả, liệu có người nào có thể ngăn, làm cho chúng đứng lại, không chảy chăng?

Đáp: Không! Nếu có người dùng thần túc, chú thuật, cỏ thuốc, để làm cho năm con sông lớn đó dừng lại, không chảy nữa thì cũng chưa phải là khó. Cũng thế, không cách nào có thể gây trở ngại cho pháp Thế đệ nhất, khiến khổ pháp nhẫn không hiện ở trước.

Lúc soạn kinh (luận) nầy, là đang ở phương Đông, năm con sông lớn nầy cũng ở phương Đông, nên dùng làm dụ. Lại có bốn con sông lớn, bắt nguồn từ ao A-nậu-đạt chảy ra biển cả:

  1. Hằng-Già.
  2. Tân-Đầu.
  3. Bác-Xoa.
  4. Tư-Đà.

Sông Hằng -Già từ miệng voi vàng chảy ra, uốn quanh ao A-nậuđạt rồi chảy về biển Đông. Sông Tân-Đầu từ miệng của bò bạc chảy ra, cũng chảy quanh ao lớn trước khi chảy ra biển Nam. Sông Bác Xoa từ mõm ngựa lưu ly chảy ra, uốn quanh ao lớn, rồi chảy ra biển Tây. Còn sông Tư -Đà từ miệng sư tử pha lê chảy ra, cũng quanh ao lớn, rồi chảy ra biển Bắc.

Sông Hằng-già có bốn con sông lớn làm quyến thuộc.

  1. Da-Ma-Na.
  2. Tát-La-Do.
  3. A-Di-La-Bạt-Đê.
  4. Ma- Hê.

Sông Tân Đầu cũng có bốn con sông lớn làm quyến thuộc:

  1. Tỳ Bà Xa.
  2. Y La Bạt Đề.
  3. Xa Đa Đầu.
  4. Tỳ Đức Đa.

Sông Bác Xoa cũng có bốn con sông lớn làm quyến thuộc:

  1. Bà-Na.
  2. Tỳ-Đa-La- Ni.
  3. Đa-Xa.
  4. Cứu-Trọng-Bà.

Sông Tư- Đà cũng có bốn con sông lớn làm quyến thuộc:

  1. Tát Lê.
  2. Tỳ Ma.
  3. Na Đề.
  4. Tỳ Thọ Ba Bà.

Ở đây chỉ nói những con sông g lớn, nổi tiếng. Nhưng bốn con sông kia, mỗi sông đều có cả năm trăm quyến thuộc, tính chung có đến hai ngàn dòng chảy ra biển cả.

Hỏi: Có người nào có thể chận đứng các dòng chảy ấy được chăng?

Đáp: Không thể. Vì không có việc nầy. Do phân biệt, nên giả sử có người dùng thần túc, chú thuật, cỏ thuốc, làm cho các sông kia dừng lại không chảy thì vẫn chưa phải là việc khó, không một pháp nào có thể làm chướng ngại pháp Thế đệ nhất khiến khổ pháp nhẫn không hiện trước mặt.

Lại nữa, pháp Thế đệ nhất làm thứ lớp duyên cho khổ pháp nhẫn, văn nầy là văn đáp thứ nhất về nghĩa căn bản. Vì sao? Vì lúc pháp Thế đệ nhất sinh, có thể làm quả của thứ lớp duyên cho khổ pháp nhẫn.

Nếu pháp nầy có thể làm quả của thứ lớp duyên cho pháp kia thì pháp nầy sẽ không có chúng sinh, hoặc pháp, hoặc chú thuật, cỏ thuốc, hoặc Phật, hoặc Bích-chi Phật, hoặc Thanh văn, đều có thể làm chướng ngại, khiến cho sát-na thứ hai không hiện ở trước, nghĩa là không một pháp nào nhanh chóng hơn tâm, ngay bấy giờ có thể gây chướng ngại, làm cho không thể được chánh quyết định.

Người kia nói không một pháp nào nhanh chóng hơn tâm, tức tâm tương ưng với khổ pháp nhẫn.

Hỏi: Người tạo ra nghĩa nói: Vì sao pháp Thế đệ nhất không nên nói là thối lui?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì căn bản bền chắc, nên hành giả kia lúc tu bố thí đều hồi hướng giải thoát. Trì giới quán bất tịnh, an ban, niệm xứ, bảy xứ thiện, Noãn, Đảnh, Nhẫn cũng hồi hướng giải thoát. Đó gọi là căn bản vững chắc

Lại có người nói: Pháp Thế đệ nhất kế sau là sinh thấy đạo. Vì thấy đạo không có thối lui nên pháp Thế đệ nhất kia cũng không thối lui.

Lại có người nói: Pháp Thế đệ nhất kế sau là sinh nhẫn tri. Vì nhẫn trí không có thối lui pháp Thế đệ nhất cũng không có thối lui.

Lại có người nói: Sau pháp Thế đệ nhất, cho đến dứt trừ kiết, do thấy đạo dứt của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Vì thấy đạo không có thối lui trong việc dứt trừ kiết của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nên pháp Thế đệ nhất kia cũng không thối lui.

Lại có người nói: Pháp Thế đệ nhất là căn thiện của phần thắng tiến, không có thối lui đối với căn thiện của phần thắng tiến. Nghĩa là pháp Noãn có ba thứ: phần thối lui, phần trụ và phần thắng tiến.

Đảnh cũng có ba thứ. Nhẫn có hai thứ là phần trụ và phần thắng tiến.

Pháp Thế đệ nhất chỉ có một thứ, đó là phần thắng tiến.

Hỏi: Đây đều là căn thiện của phần đạt được, vì sao nói ba thứ?

Đáp: Vì số tên gọi khác.

Như Kiền-độ Định nói: Căn thiện nầy có ba thứ: Thối lui nơi căn thiện nầy, gọi là phần thối. Không thối lui, không tiến tới gọi là phần Trụ.

Thắng tiến gọi là phần thắng tiến. Luận kia nói căn thiện có ba thứ, ở đây nói căn thiện của phần đạt được, chỉ số tên gọi khác mà thôi.

Lại có người nói: Căn thiện nầy là một sát-na, không có thối lui một nửa sát-na.

Hỏi: Có trường hợp nào cả hai bậc vị Thánh đồng sinh một chỗ ? Với pháp Thế đệ nhất có một thành tựu, một không thành tựu chăng?

Đáp: Có. Một là dựa vào Sơ thiền, được chánh quyết định. Hai là dựa vào đệ Nhị thiền, được chánh quyết định. Hai bậc Thánh ấy đều qua đời, sinh trong Hai thiền. bậc Thánh kia dựa vào Sơ thiền, được chánh quyết định thì không thành tựu. Vì sao? Vì lìa địa nên mất. bậc Thánh nương Nhị thiền thì thành tựu.

Hỏi: Có khi nào hai A-la-hán đều ở trong cõi Dục, đối với pháp Thế đệ nhất có một thành tựu, một không thành tựu hay chăng?

Đáp: Có! Một La-lán dựa vào Sơ thiền, được chánh quyết định. Một A-la-hán nương Nhị thiền, được chánh quyết định. Hai La-hán kia đều qua đời, sinh vào Hai thiền, trong ấm chứng quả A-la-hán. A-la-hán dựa vào Sơ thiền, được chánh quyết định thì không thành tựu. Vì sao? Vì lìa địa nên mất.

Hỏi: Có bậc Thánh nào không thành tựu pháp Thế đệ nhất mà thành tựu pháp Thế đệ nhất giải thoát chăng?

Đáp: Có! Dựa vào Sơ thiền, được chánh quyết định. bậc Thánh đó qua đời, sinh trong Hai thiền. Vì lìa địa, nên không thành tựu pháp Thế đệ nhất. bậc Thánh kia thành tựu pháp Thế đệ nhất, được giải thoát. bậc Thánh được giải thoát thuộc về Hai thiền. Nếu qua đời, sinh Tam thiền trở lên thì không thành tựu pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Có bậc Thánh nào không thành tựu pháp Thế đệ nhất, cũng không thành tựu giải thoát đắc chăng?

Đáp: Có! Dựa vào Sơ thiền được chánh quyết định, nếu bậc Thánh đó qua đời, sẽ sinh vào thiền thứ ba trở lên, thì không thành tựu pháp Thế đệ nhất và giải thoát đắc.

Như kinh nói: Các Tỳ-kheo! Ta không thấy một pháp nào hồi chuyển nhanh chóng hơn tâm! Khó dùng thí dụ để nhận biết, cho đến nói rộng.

Hỏi: Nói hồi chuyển nhanh chóng là vì thế gian hay vì duyên? Nếu ở thế gian, thì tất cả pháp hữu vi cũng tùy theo thế gian mà hồi chuyển nhanh chóng, không chỉ có tâm! Nếu ở duyên, thì các pháp tâm, tâm sở nhận lấy duyên, cũng sẽ hồi chuyển nhanh chóng, không chỉ có tâm?

Đáp: Trong đây, vừa nói thế gian hồi chuyển nhanh chóng, vừa nói duyên hồi chuyển nhanh chóng. Nghĩa là trong một thân, chẳng phải nói một sát-na. Nếu một sát-na mà nói hồi chuyển nhanh chóng, thì sẽ có phần ít hồi chuyển nhanh chóng và phần ít không hồi chuyển nhanh chóng. Cũng không có hồi chuyển nhanh chóng ở duyên. Vì sao? Vì như nói: Nếu pháp có thể duyên với pháp kia, thì khi không duyên sẽ không có việc nầy! Vì thế, nói hồi chuyển nhanh chóng duyên với thế gian, nghĩa là trong một thân chẳng phải một sát-na. Trong một thân kia, hoặc sinh ra tâm thiện, hoặc có khi nhiễm ô, đôi lúc vô ký không ẩn mất, hoặc dựa vào mắt sinh, cho đến dựa vào ý sinh. Nếu duyên theo sắc sinh, cho đến duyên theo pháp mà sinh.

Hỏi: Nếu đối với thế gian, đối với duyên, gọi là hồi chuyển nhanh chóng, pháp tâm, tâm sở cũng hồi chuyển nhanh chóng ở thế gian, ở duyên. Vì sao chỉ nói tâm?

Đáp: Hoặc có người nói: Đây là thuyết hữu dư của Thế tôn. Cũng là Đức Thế tôn, vì hóa độ chúng sinh, nên nói giản lược.

Lại có người nói: đối với tâm pháp, thế nào là hơn? Đó chính là tâm, cho nên nói tâm, giống như vua đến, người khác cũng đến. Vì vua hơn nên chỉ nói vua đến.

Lại có người nói: Vì tâm nên gọi là tâm sở, cho nên nói tâm. Vì tâm lớn, nên số pháp cũng gọi là địa lớn, nên nói là tâm.

Lại có người nói: Nếu khi tu chứng, tâm hiểu các pháp đạo vô ngại kia, chỉ duyên theo tâm, cho nên nói tâm.

Lại có người nói: Tâm là pháp đi xa, như nói:

Một mình đi
Không ở thân nầy
Nếu điều phục được
Là Phạm chí đời.

Lại có người nói: Tâm là người dẫn đường cao quý, như nói:

Tâm là dẫn trước
Tâm tôn, tâm khiến
Trong tâm niệm thiện
Cũng nói, cũng đi
Yên vui tự theo
Như bóng theo hình.

Hoặc có người nói: Tâm giống như vua, như nói:

Vua tăng thượng thứ sáu
Đây nhiễm, kia cũng nhiễm
Không nhiễm mà sinh nhiễm
Người nhiễm, gọi ngu nhỏ.

Lại có người nói: Tâm, gọi là người đứng đầu trong thành, như nói: Tỳ-kheo! Phải biết, nói là người đứng đầu trong thành, tức là thức hữu lậu.

Lại có thuyết nói: Tâm là pháp bên trong, ở khắp mọi nơi, có sở duyên. Nội, là thuộc về nội nhập. Khắp, nghĩa là từ địa ngục A-tỳ, lên đến Hữu Đảnh. Có thể có sở duyên nghĩa là duyên với tất cả pháp.

Lại có thuyết nói: Có thể khởi Thi la (giới) thiện, bất thiện, như nói: Thi la thiện, bất thiện, đều nhờ tâm mà khởi.

Lại có thuyết nói: Tâm khởi pháp ác, đọa vào đường ác. Tâm khởi pháp thiện, sinh lên cõi người, cõi trời.

Đức Thế tôn nói: Các Tỳ-kheo! Ma-nạp-bà Đô-đề-da-tử-thúc-ca, do sinh tâm ác đối với Như lai, nên khi chết, trong khoảng như ném hạt ngọc, đọa vào đường ác. Tỳ-kheo Ma-nạp-bà Đô-đề-dạ-tử-thúc-ca, do khởi tâm thiện đối với Như lai, nên khi qua đời trong thời gain như ném hạt ngọc đã được sinh vào đường lành.

Lại có thuyết nói: Tâm nầy làm chủ, phần nhiều gồm nhiếp, hiểu, như nói: Năm căn nầy, đều đi khắp cảnh giới, tâm có khả năng đi khắp các cảnh giới.

Lại có thuyết nói: Như tâm hoạt động đối với duyên thì số pháp đều theo. cũng như loài cá đực ở đâu thì cá cái đều theo.

Lại có thuyết nói: Tâm là nơi nương của số pháp.

Lại có thuyết nói: Chỗ thọ thân, chỗ nương của tâm, đều có tâm. Số pháp thì không như vậy, có tăng, có giảm.

Lại có thuyết nói: Nếu tâm không điều phục, không giữ gìn, tu bất tịnh thì số pháp cũng thế. Ngược lại, nếu tâm được điều phục, giữ gìn, tu tịnh thì số pháp cũng thế.

Lại có người nói: Nếu tâm không điều phục, số pháp cũng không điều phục. Vì không điều phục nên lưu hành sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu tâm điều phục thì số pháp cũng được điều phục. Vì chiết phục nên không chạy theo sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Như thùng lược nước, mở vòi trên thì nước tràn đầy, đóng vòi lại thì nước cạn khô. Tâm kia cũng giống như thế.

Lại có người nói: Trước đây, Đức Thế tôn có nói: Tâm hồi chuyển nhanh chóng, phải biết pháp có duyên khác cũng hồi chuyển nhanh chóng. Như kinh nói: Ta không thấy một pháp nào hồi chuyển nhanh hơn tâm, rất khó dùng thí dụ để nhận biết.

Hỏi: Như kinh khác nói: Dùng khỉ, vượn dụ cho tâm, nay vì sao lại nói khó dùng thí dụ để nhận biết?

Đáp: Hoặc có người nói: Với kinh nầy, khó dùng thí dụ để nhận biết, không nói không thể dùng thí dụ để nhận biết! Vì sao? Vì phàm phu không thể làm được, vì không dễ làm, làm không quá thì giờ, người không có trí tuệ thì không thể làm được.

Phàm phu chẳng thể làm, nghĩa là chỉ có Phật mới làm được.

Không dễ làm: Phải dùng công năng để làm. Không làm quá giờ giấc, nghĩa là phải mặt trời Phật xuất hiện ở thế gian, bấy giờ mới có thể làm.

Người không không có trí tuệ không thể làm được, nghĩa là người có tâm thô, ý loạn không thể làm.

Lại không là người phàm tạo ra, nghĩa là có thể biết tâm thiện khởi tướng trụ, diệt, cũng có thể biết sai lệch và biết phương tiện. Như Phật, Duyên giác và các đệ tử khéo biết tướng chung, tướng riêng.

Lại có người nói: Nói khó dùng thí dụ để nhận biết, nghĩa là thí dụ hoặc phải đồng, hoặc phải giống nhau. Đồng, như nói: Tâm hồi chuyển nhanh chóng, giống như thọ, đây là tâm pháp. Trước kia, kinh đã nói: Nếu chẳng phải tâm pháp thì thí dụ không giống nhau. Hơn nữa, khó dùng dụ để nhận biết, nghĩa là không thể dùng một chút công sức mà nhận biết được. Lại nữa, khó dùng thí dụ để nhận biết, nghĩa là như tâm nhanh chóng thì có thể có sở duyên, thí dụ kia cũng thế.

Không có pháp nào bằng tâm: Nghĩa là giống như vượn, khỉ chuyền từ cành nầy sang cành khác trong khoảng, tâm tưởng hồi huyển, có trăm ngàn sát-na.

Tôn giả Ba-xa nói: Đức Thế tôn vì hóa độ chúng sinh, nên lại dùng tâm dụ cho tâm. Vượn, khỉ kia chạy nhảy lăng xăng đều là do tâm làm.

Hỏi: Tâm kia có thể dùng một pháp để làm thí dụ nhất định được không?

Đáp: Hoặc có người nói: Ai có thể làm được? Chỉ có Phật mới làm được. Nhưng không ai có thể biết, nghĩa là Đức Phật biến hóa, tạo một sát-na để dụ cho tâm mà không nhận biết. Cho nên Tỳ-kheo phải khéo nhận biết về tâm, phải khéo nhận biết tâm hồi chuyển, cho đến nói rộng.

Hỏi: Khéo nhận biết tâm, khéo nhận biết tâm hồi chuyển, có gì khác nhau?

Đáp: Hoặc có người nói: Không có khác nhau. Vì nói khéo nhận

biết tâm, tức là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Lại có người nói: Có khác nhau. Vì nếu quán tướng chung của tâm, thì đó gọi là khéo nhận biết tâm, quán tướng riêng của tâm, đó gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Lại có người nói: Nếu quán tâm thì đó gọi là khéo nhận biết tâm. Nếu là số pháp thì đó gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Lại có người nói: Nếu quán tâm niệm xứ thì đó gọi là khéo nhận biết tâm, nếu quán pháp niệm xứ thì đó gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Lại có thuyết nói: Nếu quán thức ấm thì gọi là khéo nhận biết tâm, nếu quán ấm khác thì gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Lại có người nói: Nếu quán ý nhập thì gọi là khéo nhận biết tâm, nếu quán nhập khác thì gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Lại có thuyết nói: Nếu quán bảy thức giới thì đó gọi là khéo nhận biết tâm, nếu quán giới khác thì gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Lại có người nói: Nếu quán tự tướng của tâm thì gọi là khéo nhận biết về tâm, nếu quán sở duyên, hành, xứ của tâm thì đó gọi là khéo nhận biết sự hồi chuyển của tâm.

Lại có thuyết nói: Nếu quán thức thì đó gọi là khéo nhận biết tâm, nếu quán xứ thức trụ thì gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Tôn giả Ba-xa nói: Nếu biết tâm có dục thì đó gọi là khéo nhận biết tâm. Nếu biết tâm chuyển lìa dục thì đó gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Như tâm có dục, tâm chuyển biến lìa dục, tâm có giận, tâm chuyển biến lìa giận, tâm có si, tâm chuyển biến lìa si, tâm tán loạn, tâm gồm nhiếp, tâm lười biếng, tâm tinh tiến, tâm có trạo cử, tâm không trạo cử, tâm ít, tâm nhiều, tâm có nhiễm, tâm không nhiễm, tâm định, tâm bất định, tâm tu, tâm không tu, tâm giải thoát, tâm không giải thoát, tâm trói buộc, tâm không trói buộc, phải biết cũng giống như thế.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Đức Thế tôn nói: Khéo nhận biết sự hồi chuyển của tâm, tức là khéo nhận biết về tên khác của tâm mà nói. Như Kiền-độ Định chép: Trong các đệ tử của ta, Ma ha Bát-đặc-ca là người khéo nhận biết về tâm hồi chuyển, đó là nói tâm niệm xứ, gọi là khéo nhận biết tâm hồi chuyển.

Hỏi: Có khi nào trụ nơi khoảng một sát-na sẽ được pháp Thế đệ nhất, hay sẽ không được duyên của chỗ dựa? Được duyên của chỗ dựa mà không được pháp Thế đệ nhất? Hay vừa được pháp Thế đệ nhất vừa được duyên của chỗ dựa? Hay không được pháp Thế đệ nhất lẫn duyên của chỗ dựa?

Đáp: Có! Gồm bốn trường hợp:

1. Nếu dựa vào thiền vị lai, sẽ được chánh quyết định, trụ nơi nhẫn tăng thượng, trong khoảng một sát-na được pháp Thế đệ nhất mà không được duyên của chỗ dựa, nghĩa là trừ pháp Thế đệ nhất thuộc thiền Vị chí, hiện ở trước mặt và duyên của chỗ dựa, nghĩa là pháp Thế đệ nhất của các vị lai khác.

2. Được duyên của chỗ dựa, không được pháp Thế đệ nhất: Nghĩa là duyên của chỗ dựa của pháp Thế đệ nhất thuộc về Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền.

3. Được pháp Thế đệ nhất lẫn duyên của chỗ dựa: Nghĩa là pháp Thế đệ nhất thuộc về thiền vị lai, biểu hiện ở trước mặt và duyên của chỗ dựa.

4. Không được pháp Thế đệ nhất lẫn duyên của chỗ dựa: Nghĩa là pháp Thế đệ nhất thuộc về Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, các duyên của chỗ dựa còn lại.

Hỏi: Có khi nào trụ trong khoảng một sát-na, được pháp Thế đệ nhất mà duyên theo pháp hữu duyên? Hay duyên theo pháp vô duyên? Được duyên theo pháp hữu duyên, vô duyên? Hay sẽ không được duyên trong pháp hữu duyên, vô duyên?

Đáp: Có! Trụ nơi nhẫn tăng thượng, nên lập ra bốn trường hợp:

1. Trường hợp đầu, nghĩa là pháp Thế đệ nhất có thể duyên theo pháp tâm, tâm sở.

2. Trường hợp thứ hai, nghĩa là pháp Thế đệ nhất có thể duyên theo sắc, tâm bất tương ưng hành.

3. Trường hợp thứ ba, nghĩa là pháp Thế đệ nhất có thể duyên theo pháp tâm, tâm sở, sắc, tâm bất tương ưng hành.

4. Trường hợp thứ tư, trừ các việc.

Người soạn kinh kia nói pháp Thế đệ nhất, thường tạo ra bảy luận: Năm là căn bản, hai là nhân luận sinh luận.

Năm căn bản: Từ câu: Thế nào là pháp Thế đệ nhất, cho đến tương ưng với căn.

Hai nhân luan sinh luận: Phải nói là một tâm, phải nói là không thối lui. Người soạn Tỳ-bà-sa, do đây soạn luận, biểu hiện sự học rộng.

********

Thế nào là pháp Đảnh? Thế nào là sự thối lui của pháp Đảnh? Thế nào là pháp Noãn? Cho đến nói rộng.

Hỏi: Trong đây nếu nói ngược về pháp phàm phu chứng được, tức nói pháp Thế đệ nhất xong, vì sao kế không nói về Nhẫn?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì ý người soạn kinh kia muốn thế, cho đến nói rộng.

Lại có người nói: Nên nói: Thế nào là Nhẫn? Vì sao gọi là Nhẫn? Lệ thuộc ra sao? Cho đến nói rộng, nhưng không nói là có ý gì? Đáp: Đó là nghĩa giản lược vì là thuyết hữu dư.

Lại có người nói: Trước đã nói Nhẫn nhưng không làm sáng tỏ. Như trước đã nói: Nếu pháp tâm, tâm sở ở sau là hơn là trước, tức chẳng phải pháp Thế đệ nhất, vậy là pháp nào? Đáp: Là nhẫn tăng thượng. Đó là nói về nhẫn.

Lại có người nói: Nếu kinh Phật nói thì trong đây sẽ nói. Nếu kinh không nói thì trong đây không nói. Vì kinh Phật không nói về xứ nhẫn cho nên ở đây không nói.

Nói rằng: Như trong kinh tăng Nhất A-hàm có nói: Nếu không thành tựu sáu pháp thì không thể xa trần, lìa cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh. Sáu pháp đó là:

  1. Không thích nghe pháp.
  2. Dù nghe pháp, nhưng không lắng tai nghe.
  3. Không vì sự hiểu biết.
  4. Với pháp chưa được, không dùng phương tiện để siêng năng tìm cầu.
  5. Với pháp đã được, không khéo giữ gìn.
  6. Không thành tựu thuận nhẫn.

Nếu thành tựu sáu pháp thì xa lìa được trần cấu, đạt được pháp nhãn thanh tịnh, sáu pháp ấy là ưa thích nghe pháp, cho đến thành tựu thuận nhẫn.

Hỏi: Kinh kia dù nói thuận nhẫn, nhưng không nói là thuận đế nhẫn?

Đáp: Thuận nhẫn, thuận đế nhẫn đâu có gì khác nhau. Nhân luận sinh luận, vì sao nhẫn chỉ gọi là thuận đế nhẫn, còn Noãn, Đảnh thì không?

Hoặc có người nói: Như nói nhẫn là nói thuận đế, Noãn, Đảnh cũng nên nói, nhưng không nói thì phải biết đều là thuyết hữu dư (chưa trọn vẹn).

Lại có người nói: Thuận, là nói thuận theo. Nhẫn kia khéo thuận theo. Còn Noãn, Đảnh thì không như thế.

Lại có người nói: Pháp Noãn có thể ngăn phần ngu tăng thượng khi duyên đế. Đảnh ngăn phần ngu trung. Nhẫn ngăn phần ngu hạ. Vì ngăn phần ngu trong thân, nên sinh pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Pháp Noãn có thể sinh ra sự sáng suốt phẩm hạ của duyên đế. Đảnh sinh ra sự sáng suốt phẩm trung. Nhẫn sinh khởi sự sáng suốt phẩm thượng. Vì trong thân nầy có sự sáng suốt của duyên đế nên có thể sinh ra pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Pháp Noãn ưa thích ấm. Pháp Đảnh ưa thích đối với vật báu. Pháp Nhẫn ưa thích đối với đế. Vì quán Thánh đế được ưa thích trong thân nên có thể sinh ra pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Nhẫn đối với tất cả thời gian, tương tự với thấy đạo. Như tất cả thời gian của thấy đạo, chỉ có pháp niệm xứ hiện ở trước mặt. Nhẫn kia cũng thế. Noãn, Đảnh thì không như vậy. Vì sao? Vì trước tu pháp niệm xứ, sau ba niệm xứ tăng trưởng, xoay vần hiện ở trước, cho nên không tương tự. Nhẫn tu tập pháp niệm xứ, chỉ tăng trưởng pháp niệm xứ, do giống với thấy đạo, nên gọi là thuận đế nhẫn. Noãn, Đảnh thì không như vậy, nên không gọi là thuận đế.

Lại có người nói: Pháp Nhẫn nghiêng một bên, gần với thấy đạo.

Noãn, Đảnh thì không thế.

Lại có người nói: Pháp nhẫn cũng thường nối tiếp, cũng một sátna hiện ở trước. Noãn, Đảnh thì thường nối nhau hiện ở trước.

Lại có người nói: Pháp Nhẫn chỉ một định ý. Noãn, Đảnh thì không như thế.

Lại có người nói: Chỉ, quán của pháp Nhẫn không xen lẫn, Noãn, Đảnh thì có xen lẫn, đôi khi còn khởi căn thiện cõi Dục.

Lại có người nói: Chỉ, quán của pháp Nhẫn không nhiều, không rộng, có thể thuận theo hướng đến Niết-bàn. Chỉ, quán của Noãn, Đảnh vừa nhiều, vừa rộng, cũng có thể thuận theo hướng Niết-bàn. Ở đây, nên nói về dụ chuyển mua dụ báu ma-ni.

Vì các nhân duyên như thế, v.v…, nên Nhẫn được gọi là thuận đế, còn Noãn, Đảnh không được gọi là thuận đế.

Noãn, Đảnh nầy và nhẫn hạ trung hành mười sáu hành, duyên theo bốn chân đế. Nhẫn tăng thượng hành bốn hành, duyên theo khổ đế.

Lại có người nói: Nhẫn tăng thượng duyên theo đạo đế.

Hỏi: Nhẫn duyên với pháp nào mà được chánh quyết định?

Đáp: Hoặc có người nói: Duyên với đạo đế.

Hỏi: Nếu vậy sao không duyên với hành vi sai trái? Nếu duyên với hành vi sai trái, thì sao không được chánh quyết định, tạo ra trở ngại?

Đáp: Dù cho duyên với hành vi sai trái, thì đối với chánh quyết định cũng không có trở ngại. Vì sao? Vì đối với căn thiện ấy tu tập duyên theo hành, trước có con đường tắt, do đó khi nhập vào Thánh đạo, đối với duyên hành nầy, có thể thọ dụng tự tại. Như trong thấy đạo, trước khởi lên đạo nhẫn trí cõi Dục, kế sinh đạo nhẫn trí của Hữu Đảnh. Đạo nhẫn trí của Hữu Đảnh đó, về sau lại sinh đạo nhẫn trí cõi Dục, quán khổ hành, về sau lại sinh quán tập hành, cho đến nói rộng. Cũng thế đều gọi là duyên với hành vi sai trái, sai lầm, không do duyên hành vi sai trái mà là thấy đạo, tạo ra trở ngại. Vì sao? Vì đối với thấy đạo, tu tập duyên hành, trước có con đường tắt, nhẫn cũng giống như thế, đối với việc đạt được chánh quyết định, không tạo ra trở ngại. Những người nói lời nầy, đều cho nhẫn tăng thượng duyên theo đạo đế, về sau được chánh quyết định. Nhẫn tăng thượng kia có ba tâm lẽ ra đồng một duyên, một hành, đó là pháp Thế đệ nhất. Hai tâm khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí lẽ ra đồng một hành. Không đồng một duyên đó là hai tâm khổ tỷ nhẫn, khổ tỷ trí là đồng một duyên. Không đồng một hành là tập pháp nhẫn, tập pháp trí.

Lời bình: Nên nói rằng: Nhẫn tăng thượng nên duyên theo khổ đế, về sau được chánh quyết định. Thấy đạo kia là căn thiện mạnh mẽ, mặc dù duyên với hành vi sai trái, sai lầm, nhưng đối với chánh quyết định không có tạo ra trở ngại.

Nhẫn kia là căn thiện hữu lậu của thế tục, tánh nó rất yếu kém. Nếu duyên hành vi sai trái, sai lầm, sẽ tạo ra sự trở ngại cho thấy đạo.

Nghĩa như thật là nhẫn tăng thượng nên quán khổ, về sau sẽ được chánh quyết định, chứ chẳng phải trước nhẫn quán đạo nhẫn, về sau được chánh quyết định. Nhẫn tăng thượng hành khổ hành duyên khổ mà đạo phương tiện của nhẫn vận hành rộng mười sáu hành, duyên với bốn chân đế, hành giả kia chánh quán khổ cõi Dục, quán khổ cõi Sắc, Vô sắc, hành tập cõi Dục, hành tập cõi Sắc, Vô sắc, hành diệt cõi Dục, hành diệt cõi Sắc, Vô sắc. Hành đạo dứt trừ cõi Dục, hành đạo dứt trừ cõi Sắc, Vô sắc.

Ba mươi hai tâm như thế gọi là hạ nhẫn. Hành giả vào thời gian sau dần dần giảm bớt hành và duyên.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, khổ cõi Sắc, Vô sắc, cho đến quán hành đạo dứt cõi Dục, trừ quán hành đạo dứt cõi Sắc, Vô sắc. Từ đó gọi là trung nhẫn.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, quán khổ cõi Sắc, Vô sắc, cho đến quán hành diệt cõi Sắc, Vô sắc, trừ giảm tất cả đạo.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, khổ cõi Sắc, Vô sắc, cho đến quán hành diệt cõi Dục, trừ hành diệt cõi Sắc, Vô sắc.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, cho đến quán hành tập cõi Sắc, Vô sắc, trừ tất cả diệt.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, cho đến quán hành tập cõi Dục, trừ hành tập cõi Sắc, Vô sắc.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, khổ cõi Sắc, Vô sắc, trừ tất cả tập.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, trừ khổ cõi Sắc, Vô sắc.

Lại nữa, chánh quán khổ cõi Dục, thường nối tiếp nhau không dứt, không xa lìa.

Lúc quán như thế, rất sinh nhàm chán lỗi lầm.

Lại, sẽ giảm bớt, chỉ tạo hai tâm, quán ở một hành, như tợ khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí.

Chánh quán như thế, gọi là trung nhẫn.

Người kia lại dùng một tâm quán khổ cõi Dục, đó gọi là thượng nhẫn. Tiếp sau là sinh pháp Thế đệ nhất. Sau pháp Thế đệ nhất kế là sinh khổ pháp nhẫn. Thí như có người muốn từ nước mình đi đến nước khác, có nhiều của báu và các vật dụng nghề nghiệp nuôi sống không thể mang theo, nên đem của cải vật dụng nầy đổi ra tiền đồng, cũng còn e là nhiều không thể đem đi, lại đổi tiền đồng ra vàng, cũng còn ngại là nhiều không thể mang theo, nên lại đem vàng đổi thành châu báu có giá trị, rồi đem số châu báu nầy đi theo để được an toàn đến nước khác kia.

Người tu hành cũng thế, cho đến bỏ dần, nối tiếp nhau không lìa, sinh ra thượng nhẫn, sau nhẫn, kế là sinh khởi pháp Thế đệ nhất. Sau pháp Thế đệ nhất, kế là sinh khởi khổ pháp nhẫn.

Luận nói sau khi duyên khổ nhẫn, được chánh quyết định, bốn tâm kia phải đồng một hành, một duyên, đó là pháp Thế đệ nhất của nhẫn tăng thượng. Hai tâm khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí đồng một hành. Không đồng một duyên đó là hai tâm khổ tỷ nhẫn, khổ tỷ trí đồng một duyên. Không đồng một hành đó là tập pháp nhẫn, tập pháp trí. Cho nên, nói như vậy là tốt.

Hỏi: Pháp Thế đệ nhất có phẩm thượng, trung, hạ hay không?

Đáp: Không có! Vì không thể có trong tâm một người, trong tâm nhiều người mới có. Như Tôn giả Xá-lợi-phất là thượng, Mục-liên là trung, ngoài ra, các Thanh văn khác là hạ. Về phần tánh cũng có thượng, trung, hạ. Đức Phật là thượng, Duyên giác là trung, Thanh văn là hạ.

Sao gọi là Đảnh? Vì sao gọi là Đảnh?

Tôn giả Cù-sa nói: Có hai thứ căn thiện đạt phần:

  1. Ở cõi Dục, là Noãn, Đảnh.
  2. Ở cõi Sắc, là Nhẫn và pháp Thế đệ nhất.

Trong cõi Dục phần hạ gọi là Noãn, phần thượng gọi là Đảnh.

Phần hạ trong cõi Sắc gọi là Nhẫn, phần thượng gọi là pháp Thế đệ nhất.

Lời bình: Người kia không nên nói như thế. Do đây đều là pháp cõi Sắc, pháp tu nầy là pháp trụ địa định, có thể thực hành pháp Thánh hạnh. Nói như thế thì tốt.

Hỏi: Vì sao nói là pháp Đảnh?

Đáp: Căn thiện cõi Sắc, có động, có không động, có trụ, không trụ, có nạn, không nạn, có dứt bỏ, không dứt, có thối lui, không thối lui, những thứ động kia, những thứ không trụ, có nạn, có dứt bỏ, có thối lui có hai: Hạ là Noãn. Thượng là Đảnh.

Những thứ không động, trụ, không nạn, không dứt, không thối lui ấy có hai: Hạ là Nhẫn, thượng là pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Nên nói hạ là Đảnh. Vì sao? Vì pháp Noãn ở dưới Đảnh.

Lại có người nói: Giống như đỉnh núi, nên gọi là Đảnh. Như đường đi tên đỉnh núi, con người không ở lâu, nếu không có các nạn, tất nhiên con người sẽ đi qua ngọn núi nầy để đến núi kia. Nếu gặp phải các tai nạn thì liền trở lại. Người tu hành cũng giống như thế, trụ Đảnh thì không lâu. Nếu không có các nạn, tất nhiên sẽ đến với Nhẫn. Nếu có các nạn thì sẽ lui trở lại Noãn. Vì giống như đỉnh núi, nên gọi là Đảnh.

Lại có người nói: Vì hơn pháp Noãn, nên gọi là Đảnh.

Thế nào là Đảnh? Là hoan hỷ đối với Phật, Pháp, tăng, sinh ra niềm tin nhỏ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao nói đức tin nầy là thấp nhỏ?

Đáp: Như Tôn giả Cù-sa nói: Hai căn thiện đạt phần là Noãn, Đảnh nầy, vì là pháp cõi Dục, nên nói là nhỏ, thấp.

Lại có người nói: Vì dừng trụ không lâu, nên gọi là nhỏ, thấp.

Lại có người nói: Niềm tin nầy phải nói là niềm tin khác lạ. Vì sao? Vì khác với việc hành pháp Noãn của Thánh hạnh ở tu địa thuộc địa định cõi Sắc, nên gọi là khác lạ. Đối với Phật, tăng, sinh ra niềm tin nhỏ, thấp, là duyên với niềm tin đạo đế. Đối với Pháp, sinh ra niềm tin nhỏ, thấp là duyên với niềm tin diệt đế.

Hỏi: Như Đảnh, có thể duyên với bốn đế. Vì sao trong đây chỉ nói duyên với niềm tin hai đế, không nói duyên với niềm tin khổ, tập?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì trong đây nói pháp hơn hết về danh nghĩa nên đối với bốn đế nầy, đế nào là hơn? Đó là diệt đế, đạo đế. Vì sao? Vì hai đế nầy thanh tịnh, không có lỗi.

Lại có người nói: Hai đế nầy là diệu, là ly.

Lại có người nói: Hai đế nầy có thể sinh ra chỗ tin.

Lại có người nói: Hai đế nầy có hai nghĩa:

  1. Đáng tin.
  2. Đáng cầu.

Lại có người nói: Vì chúng sinh được hóa độ nên tâm tin ưa, nếu Đức Thế tôn nói khổ, tập là đáng kính tin, thì không có người được hóa độ! Vì sao? Vì người được hóa độ sẽ nghĩ rằng: Đây là phiền não, hành vi ác, tà kiến, điên đảo, đâu đáng kính tin. Chúng ta thường bị khổ nầy bức bách. Nếu Đức Thế tôn giảng nói về diệt, đạo, thì đấy mới là điều đáng kính,tin, người được hóa độ kia sẽ cảm thấy hân hoan, ưa thích.

Cho nên, diệt, đạo rất thù thắng, đáng tin.

Lại có người nói: Diệt, đạo nầy có hai việc đáng kính, tin:

  1. Ưa quán ở trước.
  2. Không có tâm lìa bỏ.

Lại có người nói: Tin Phật, tin tăng, là nói duyên với đức tin của đạo. Tin Pháp là nói duyên với niềm tin ba đế. Nếu như thế, thì nói đều duyên với đức tin bốn đế. Như nói: Ma-nạp-bà Ba-la-diên v.v… có thể sinh ra niềm tin thấp nhỏ, đối với Phật, Pháp, tăng. Đó gọi là pháp Đảnh.

Người soạn kinh (luận) kia, dẫn kinh làm chứng.

Hỏi: Như lúc trụ nơi Đảnh, cũng tin ấm, cũng tin Tam bảo, cũng tin đế. Vì sao Đức Thế tôn vì Ma-nạp-bà v.v… chỉ nói tin Tam bảo mà không nói tin ấm, đế?

Đáp: Hoặc có người nói: Ma-nạp-bà v.v… kia chẳng phải không tin khổ đế, tập đế, chỉ vì không tin Tam bảo. Do không tin Tam bảo, nên Phật đã vì họ mà giảng nói.

Lại có người nói: Ma-nạp-bà, v.v… kia bị khổ giày vò, muốn cầu được lìa khổ nên đến chỗ Phật, như kệ nói:

Các chúng sinh bị khổ ép ngặt
Không biết lìa khổ, đến chỗ Phật
Xin chỉ dạy pháp yếu, trừ khổ
Giống như lúc nóng xuống ao mát.

Nếu thật có thể lìa khổ thì chỉ có diệt, đạo. Người kia có hai nghĩa đáng tin:

  1. Thường ưa thích quán.
  2. Thường vui mừng, mong cầu.

Lại có người nói: Tin Phật là nói duyên với niềm tin hai đế. Tin tăng là nói duyên với niềm tin đạo đế. Tin Pháp là nói duyên với niềm tin diệt đế.

Lại có người nói: Tin Phật là nói duyên với đức tin bốn đế. Tin tăng là nói duyên với niềm tin đạo đế. Tin Pháp là nói duyên với đức tin ba đế.

Lại có người nói: Tam bảo là nơi sinh đức kính, tin, vì cho nên nói.

Lại có người nói: Tùy người tu hành, vì ý ưa thích nên nói. Nếu ở ấm, sinh ra ưa thích thì đó gọi là Noãn. Đối với Tam bảo sinh khởi ưa thích thì gọi là Đảnh. Sinh khởi ưa thích đối với đế thì gọi là Nhẫn.

Hỏi: Như thể tánh của Đảnh là năm ấm. Vì sao Đức Thế tôn đối với Ba-la-diên v.v… dùng đức tin để nói, đối với các Tỳ-kheo mới học dùng tuệ để nói?

Đáp: Hoặc có người nói: Chỉ Đức Phật, Thế tôn mới quyết định nói rõ pháp tướng, cũng biết rõ việc nào nên làm, người khác không có thể sánh bằng, nên vì chúng sinh giảng nói pháp nào thì liền nói pháp đó.

Lại có người nói: Do Ba-la-diên v.v… chưa trụ ở địa tạo tác, chưa nhập vào pháp Phật, chưa được Xá-ma-tha, chưa xoay vần được nghe các vị trời khác nói để sinh niềm tin, nên đến chỗ Phật. Bấy giờ, Đức Thế tôn nhân nơi căn thiện của ông ta, muốn cho được tăng trưởng, nên đã dùng đức tin để nói, các Tỳ-kheo mới tu học kia, trái với ở trên nên dùng tuệ để nói.

Lại có người nói: Đức Phật tùy theo sự thiếu thốn của người khác mà đem lại lợi ích cho họ, như Ba-la-diên v.v… vì thiếu thốn đức tin, Tỳ-kheo mang dòng họ Thích thì thiếu thốn về tuệ. Cho nên với Bala-diên v.v… nói về đức tin để làm lợi ích cho họ, đối với các Tỳ-kheo dòng họ Thích, Đức Phật nói về tuệ, nhằm đem lại lợi ích cho họ.

Lại có người nói: Vì để ngăn ý ngu si, dua nịnh, tà vạy, nên đối với Ba-la-diên v.v…, mặc dù rất thông minh, nhưng vì thiếu thốn về đức tin. Tuệ mà không có đức tin, có thể làm tăng trưởng tính dua nịnh tà vạy, nên Phật đã vì Ba-la-diên v.v… giảng nói về đức tin để ngăn sự dua nịnh tà vạy. Các Tỳ-kheo họ Thích mới xuất gia tu học, tuy đã có một chút niềm tin, nhưng thiếu về tuệ. Niềm tin không có tuệ, tất nhiên sẽ tăng trưởng tâm ngu. Cho nên, Phật đã vì các Tỳ-kheo mới học nói về tuệ để ngăn tâm ngu của họ.

Lại có người nói: Đức Thế tôn giảng nói pháp, người được hóa độ có hai hạng: Căn cơ nhạy bén và căn cơ chậm lụt. Vì người căn cơ nhạy bén nói về đức tin. Vì người căn cơ chậm lụt nói về tuệ. Vì Ba-la-diên, v.v… với căn cơ nhạy bén nên nói về đức tin. Vì các Tỳ-kheo mới học với căn cơ chậm lụt nên nói về tuệ.

Như căn cơ nhạy bén, căn cơ chậm lụt, sức của nhân bên trong, sức của duyên bên ngoài, sức phần bên trong, sức phần bên ngoài, nội chánh quán tư duy tăng ích, ngoại từ người khác nghe pháp, nội được tăng ích, không ngu, không tham, tu, không tu, tổn giảm nhóm xứ của thân kiến, không tổn giảm nhóm xứ của thân kiến, phải biết cũng giống như thế.

Thế nào là sự thối lui của pháp Đảnh, cho đến nói rộng?

Hỏi: Vì sao nói Đảnh có thối lui mà không nói Noãn có thối lui?

Đáp: Hoặc có người nói: Như nói Đảnh thối lui, lẽ ra cũng phải nói Noãn thối lui, nhưng không nói, phải biết đều là sự nói chưa trọn vẹn.

Lại có người nói: Hành giả khi ở nơi Đảnh có nhiều thứ trở ngại. Có ba thời gian, các nghiệp phiền não gây ra nhiều trở ngại. Như từ Đảnh đến Nhẫn, bấy giờ các nghiệp phiền não ở đường ác đã tạo ra nhiều trở ngại. Vì sao? Vì các phiền não kia nghĩ rằng: Nếu người tu hành ấy đã tiến đến Nhẫn thì ta sẽ sinh quả báo ở trong thân ai?

Khi lìa dục cõi Dục, các nghiệp phiền não cõi Dục kia, đa số tạo ra trở ngại. Vì sao? Vì các nghiệp phiền não nghĩ rằng: Nếu hành giả kia đã ra khỏi cõi Dục, thì ta sẽ còn ở trong thân ai để sinh ra quả báo?

Lúc đã lìa dục của Phi tưởng Phi phi tưởng xứ, nhận lấy các nghiệp phiền não của Hữu (thân) vị lai, phần nhiều tạo ra trở ngại. Vì sao? Vì các nghiệp phiền não nghĩ rằng: Nếu người tu hành kia lìa dục rồi, người ấy lại không còn theo thân, thì ta ở trong thân ai để sinh ra quả báo?

Trong ba thời gian nầy, hành giả có nhiều trở ngại, cho nên nói Đảnh có thối lui mà không nói Noãn có thối lui.

Lại có người nói: Bấy giờ, hành giả cảm thấy rất lo âu, buồn phiền, giống như có người thấy kho châu báu, thấy rồi vui mừng nghĩ thế nầy: Nay ta vĩnh viễn dứt trừ gốc rễ của sự nghèo cùng.

Về sau, khi người kia có ý định nhặt lấy vật báu, bỗng nhiên kho báu biến mất. Lúc ấy, người nầy rất buồn sầu đối với kho báu ấy.

Cũng như thế, lúc hành giả trụ nơi pháp Đảnh, tự nghĩ không bao lâu mình sẽ chứng được Nhẫn, dứt hẳn đường ác, tâm rất vui mừng. Về sau, lại thối lui, tâm rất lo buồn!

Lại có người nói: Nếu nói Đảnh có thối lui, phải biết là cũng nói Noãn có thối lui.

Lại có người nói: Vì pháp Đảnh trụ không lâu, nên có thối lui.

Lại có người nói: Khi sắp được Nhẫn, đã được nhiều lợi lớn, cũng như bậc Thánh không rơi vào đường ác, lúc đạt được Nhẫn cũng giống như thế. Như Sa-môn trải qua hai mươi ức chín mươi mốt kiếp không rơi vào đường ác, trái với trên gọi là mất lợi lớn.

Hỏi: Thế nào là Đảnh thối lui?

Đáp: Giống như có người gần thiện tri thức, theo người ấy nghe pháp, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trước kia, dù đã nói về thể tướng của Đảnh, nhưng chưa nói thế nào là được Đảnh, thế nào là mất Đảnh? nay muốn nói về điều đó nên soạn luận nầy.

Giống như có người gần thiện tri thức, là nói gần bạn lành. Theo bạn nghe pháp, nghĩa là nghe pháp thuận theo vào phương tiện.

Nội chánh quán tư duy, nghĩa là tự thân tu hành chánh hạnh, tin Bồ-đề của Phật, tin khéo nói pháp, tin công đức thanh tịnh của tăng, đó là nói tin Tam bảo. Nói sắc vô thường, cho đến nói thức vô thường, đó là nói tin ấm. Biết có khổ, tập, diệt, đạo, là nói tin đế.

Vào lúc khác, người kia không gần thiện tri thức mà gần bạn xấu, không từ người khác nghe pháp, nghĩa là không nghe pháp thuận theo nơi phương tiện. Không chánh quán tư duy, nghĩa là tự thân hành tà hạnh, làm mất pháp tin nầy, đó gọi là Đảnh thối lui.

Hỏi: Thể tướng của Đảnh thối lui là gì?

Đáp: Là tánh không thành tựu, vô ký không ẩn mất, tâm bất tương ưng hành, thuộc về hành ấm.

Lại có người nói: Là thể tánh không tin. Vì sao? Vì có tin thì được, không tin thì mất.

Lại có người nói: Do sử nào ràng buộc mà thối lui pháp Đảnh? Tức là tánh buộc ràng của sử kia. Nói như thế cũng là tánh nhiễm ô.

Lại có người nói: Nếu pháp thuận theo pháp thối lui, tức là tánh của pháp thối lui đó. Nếu vậy thì tất cả các pháp đều là tánh thối lui. Vì sao? Vì tất cả các pháp đều duyên oai thế với.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Tánh Vô sở hữu là tánh thối lui. Sinh khởi sự phân biệt mạnh mẽ, không có tương đối, căn thiện kia hợp tập gọi là Đảnh, căn thiện lìa tan gọi là thối, đâu có tánh gì? Cũng như có người, nhiều của cải vật dụng bị kẻ khác cướp đi hết, sau đó trở thành kẻ nghèo cùng. Có người hỏi: Nay ông nghèo là vì tánh gì? Ông ta đáp: Tôi vốn có của cải bị người khác cướp đi, nay chỉ là kẻ nghèo cùng, đâu có tánh gì!

Lại như có kẻ mặc áo rách, người khác hỏi: Nay ông mặc áo rách là có tánh gì? Người ấy đáp: Áo tôi trước đây vốn lành, nay bị rách chớ có tánh gì!

Lại như có người, thân vốn mặc y phục, vì bị người ta đoạt mất, có người hỏi: Nay ông khỏa thân không có y phục, là tánh gì? Người ấy đáp: Trước tôi vẫn mặc y phục, vì bị người ta đoạt mất, nay tôi phải chịu lõa lồ không có y phục, đâu có tánh gì!

Cũng thế, căn thiện của người tu hành, lúc hợp tập thì gọi là Đảnh, về sau, nếu lìa tán thì gọi là thối, đâu có tánh gì? Cho nên, tánh không thật có là tánh thối lui.

Lời bình: Không nên nói lời nầy, như ở trước nói là tốt: Đảnh thối lui là tánh không thành tựu, vô ký không ẩn mất, tâm bất tương ưng hành, thuộc về hành ấm.

Hỏi: Như nói tin Bồ-đề của Phật, đó gọi là tin Phật, cho đến nói rộng. Vì sao Đức Thế tôn hoặc nói tin Tam bảo, hoặc nói tin ấm, hoặc nói tin đế?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Phật đối với pháp rõ ràng, cho đến nói rộng.

Lại có người nói: Tùy chỗ ngu của chúng sinh, nghĩa là Đức Phật

tùy theo chỗ ngu tối của chúng sinh mà giải thích.

Lại có người nói: Người được Phật hóa độ có ba hạng:

  1. Hạng người tâm thường nghi ngờ.
  2. Đắm nhiễm ngã.
  3. Bị kiến chấp che lấp.

Vì người nghi, nên nói về Tam bảo. Vì kẻ đắm nhiễm ngã, nên nói ấm, vì người bị kiến chấp che lấp, nên nói về đế.

Hỏi: Thế nào là pháp Noãn, cho đến nói rộng? Vì sao gọi là Noãn?

Đáp: Hoặc có người nói: Trí duyên với cảnh giới, có thể sinh ra Noãn, đốt cháy củi phiền não, giống như dùi lửa trên dưới nương nhau, lửa sinh ra đốt củi.

Lại có người nói: Vì có trí nhận biết có khả năng sinh ra trí Noãn, làm cho hữu bị khô héo. Giống như vào mùa hè, gôm hoa thành đống, hoa sanh hơi ấm lại tự làm héo hoa.

Lại có người nói: Trí sinh dựa vào ấm, lửa trí ở nơi ấm, lại thiêu đốt ấm. Cũng như ta dùng hai thanh tre, cọ xát vào nhau sinh ra lửa, lửa đó trở lại đốt cả rừng tre.

Tôn giả Cù-sa nói: Cầu lửa trí giải thoát, quan trọng nhất là ở ban đầu. Như lửa lấy khói ở ban đầu làm tướng. Lửa trí vô lậu cũng dùng pháp Noãn trước tiên làm tướng. Như tướng sự sáng suốt của mặt trời ở ban đầu làm tướng. Mặt trời trí vô lậu cũng dùng Noãn ở ban đầu làm tướng. Cho nên gọi là Noãn.

Thế nào là Noãn? Trong chánh pháp Tỳ-ni sinh niềm tin ái kính, cho đến nói rộng.

Hỏi: Nếu vậy sinh niềm tin ái kính trong chánh pháp Tỳ-ni đều được gọi là Noãn chăng?

Đáp: Không phải. Vì sao? Vì Noãn chính là pháp của địa định địa tu ở cõi Sắc, có thể thực hành, thuộc về Thánh hạnh, là người sinh niềm tin ái kính đối với chánh pháp Tỳ-ni.

Chánh pháp kia là nói duyên với niềm tin đạo đế. Tỳ-ni là nói duyên với niềm tin diệt đế.

Hỏi: Noãn có thể duyên với bốn đế. Vì sao chỉ nói duyên với niềm tin diệt đế, đạo đế?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì diệt, đạo là hơn trong các Đế, đã trả lời rộng trong phần Đảnh ở trước.

Lại có người nói: Diệt, đạo là nơi có thể quy y, vì cho nên nói.

Lại có người nói: Chánh pháp là nói duyên với niềm tin ba đế.

Tỳ-ni là nói duyên theo niềm tin diệt đế, thì cũng gọi là Noãn, có thể duyên theo bốn đế.

Người soạn kinh kia đã dẫn kinh làm chứng. Như nói: Phật bảo Tỳkheo Mã Sư, Mãn Túc: Ta có bốn cú pháp, sẽ vì các ông mà giảng nói. Vì muốn biết chẳng phải ý riêng của hai ông. Hai người thưa: Chúng con hiện nay thật sự chẳng phải pháp khí đâu cần biết làm gì, cho đến nói rộng.

Hỏi: Đức Phật đã biết rất rõ người kia không có khả năng thọ pháp, vì sao lại bảo: Nên tùy ý ông?

Đáp: Hoặc có người nói: Người, nghĩa là người kia không có người giáo hóa, là lý do tạo ra mọi điều xấu ác để tự hủy hoại. Vì thế, nên Đức Như lai đưa tay lên và nói: Những gì cần phải làm, nay ta đã làm xong, nhưng ông đã tự hành hạnh tà để tự hủy hoại, chẳng phải lỗi ta không giáo hóa.

Lại có người nói: Vì nhằm ngăn ngoại đạo chê bai, nên Đức Như lai mới bảo: nên tùy ýông. Nếu Như lai không bảo Tỳ-kheo kia, thì các ngoại đạo sẽ chê bai: Vì sao là đấng Đại Bi, nhưng đối với chúng đệ tử, có ngươi thuận theo thì nói pháp giáo hóa, còn không có người thuận theo thì không nói pháp giáo hóa? Nếu chính Như lai đã bảo Tỳ-kheo kia thì các ngoại đạo sẽ không sinh chê bai.

Lại có người nói: Vì nhằm ngăn các vị trong họ Thích có tâm không tin. Nếu chính Đức Như lai không bảo người kia, thì bấy giờ các vị trong họ Thích sẽ sinh tâm không tin: Vì sao Tất đạt không vì các thân tộc nói pháp, giáo hóa? Rồi ôm lòng ganh ghét, lo nghĩ người kia cùng giống với mình. Nếu Đức Như lai bảo người kia, thì các Thích tử, lúc ấy sẽ không sinh tâm không tin.

Lại có người nói: Người kia tự hành hạnh tà, Đức Như lai đã vì người kia, làm nhân chứng, bảo họ rằng: Ông xưa tại gia nay đã xuất gia tự hành hạnh tà, chẳng phải lỗi ở ta.

Bấy giờ, Đức Như lai liền dùng lời mềm mỏng, quở trách trước mặt hai người kia, cho nên mới bảo: nên tùy ý.

Lại có người nói: Vì muốn cho người kia sinh căn thiện ở vị lai, nên Phật đã biết rõ về họ, mà nay dù không thể nhận lấy sự giáo hóa, nhưng ở vị lai, sẽ sinh căn thiện hối tiếc. Vì sao? Vì người kia sẽ nghĩ: Đấng Đại bi đã thuận theo tự ý của ta, nhưng ta không thọ nhận, thì chẳng phải lỗi Như lai, tức có thể sinh ra căn thiện hối tiếc như thế.

Vì duyên nầy, nên chắc chắn sẽ ra khỏi đường ác.

Lại có người nói: Phật biết hai người kia, sau khi qua đời ở cõi

nầy, sẽ sinh trong loài rồng, thọ chịu đau khổ lớn nghĩ rằng: Ta vốn từ đâu sinh đến chốn nầy? Tự biết vốn là người xuất gia trong pháp Phật. Kế lại nghĩ: Đức Phật đã không giáo hóa ta, nay ta phải đến chỗ Phật, để gây ra những việc không lợi ích: Phá hoại tháp Phật và các Tinh xá, sát hại các Tỳ-kheo.

Ngay lúc đó, do thần lực Phật, nên có tượng Như lai lập tức hiện ra đứng sừng trước mặt người đó và bảo: Mã Sư, Mãn Túc! Ta có bốn cú pháp, các ông có muốn biết không? Khổ hiện giờ là lỗi của các ông, chẳng phải lỗi của ta. Những điều ta nên làm, đều đã làm xong. Hôm nay, ông tự làm những hạnh tà.

Vì muốn dứt trừ triền giận dữ của rồng kia, khiến pháp Phật được bảo vệ, cho nên Đức Như lai bèn bảo: nên tùy ý ông.

Hỏi: Sao gọi là bốn cú pháp?

Đáp: Hoặc có người nói: Là pháp bốn đế. Vì sao? Vì hai người kia do không thấy đế nên đã gây ra hành vi ác ấy.

Lại có người nói: Là bốn niệm xứ. Vì sao? Vì hai người kia do điên đảo nên đã gây ra hành vi ác ấy.

Lại có người nói: Là bốn chánh cần. Vì sao? Vì hai người kia do lười biếng nhiều nên đã tạo ra hành vi ác ấy.

Lại có người nói: Là bốn như ý túc. Vì sao? Vì hai người kia đã không thể chứa nhóm các việc thiện, nên đã gây ra hành vi ác nầy.

Lại có người nói: Là bốn Thánh chủng. Vì sao? Vì hai vị kia đắm lợi dưỡng, nên đã gây ra hành vi ác nầy.

Lại có người nói: Là bốn quả Sa-môn. Vì sao? Vì hai vị kia thật sự không được quả Sa-môn mà tự nói là: Ta đã chứng được bốn quả Samôn, nên đã gây ra hành vi ác nầy.

Lại có người nói: Là bốn thiện.

  1. Khéo nhận biết về giới.
  2. Khéo nhận biết về nhập.
  3. Khéo nhận biết về duyên khởi.
  4. Khéo nhận biết về xứ, phi xứ.

Vì sao? Vì hai người kia ngu tối về nhân quả, nên đã gây ra hành vi ác nầy.

Lại có người nói: Như trong kinh Tạp A-hàm có nói kệ:

Trong pháp Hiền Thánh, thiện là hơn
Hai thường nói ái, xa bất ái
Ba thường nói thật, lìa nói dối
Bốn thường nói pháp, xa phi pháp.

Đó gọi là bốn.

Lại có người nói: Như trong kinh tăng Nhất A-hàm nói: Không tham, không giận, chánh niệm, chánh định, đó gọi là bốn.

Người kia nói rằng: Nay tôi đâu cần biết pháp nầy làm gì, vì Đức Thế tôn đã bảo tôi: Ông là người ngu si, xa lìa pháp của ta, cho đến không có chút pháp Noãn.

Hỏi: Vì sao hai người kia lại nói rằng: Nay tôi đâu cần biết pháp nầy làm gì?

Đáp: Hoặc có người nói: Người kia tự biết mình chẳng phải pháp khí, hướng tới đường lành cũng chẳng phải pháp khí, huống chi là hướng về Niết-bàn, mà sẽ là pháp khí.

Lại có người nói: Các hành tà ác hiện có trong thân người kia thường phạm giới cấm, tự biết thân nầy chẳng phải pháp khí, ngói đá còn có thể nẩy mầm, nhưng nay thân nầy của tôi, không bao giờ sinh phần pháp giải thoát.

Lại có người nói: Vì người kia đã gây ra nghiệp quyết định.

Lại có người nói: Vì người kia đã gần với pháp quả báo, nên tướng báo ở đường ác của người ấy đã hiện ở trước mặt, cho đến mười ngón tay đều phát ra nước.

Lại có người nói: Đức Phật thọ ký cho người ấy sẽ thành tựu Bồđề của Bích-chi Phật, người suy nghĩ rằng: Đâu dám phiền Như lai vì ta nói pháp. Ở đời hiện tại, ta chung quy không thể nhập được chánh quyết định. Do các nhân duyên ấy, nên người kia đã nói: Nay tôi đâu cần biết pháp nầy làm gì! Đức Thế tôn bảo: Xa lìa pháp của ta là người ngu si. Ở trong chánh pháp Tỳ-ni của ta, cho đến không có chút pháp Noãn.

Hỏi: Có nhiều thứ Tỳ-ni: Có thời Tỳ-ni, có phương Tỳ-ni, có chủng tánh Tỳ-ni, có gia pháp Tỳ-ni, có phạt tội Tỳ-ni, có phạm Tỳ-ni, có minh Tỳ-ni, có Thánh Tỳ-ni, có dục sân si Tỳ-ni. Vậy trong đây là nói Tỳ-ni nào?

Đáp: Hoặc có người nói: Trong đây nói là Thánh Tỳ-ni.

Lại có người nói: Trong đây là nói dục sân si Tỳ-ni.

Hỏi: Có phải tất cả những ai không được pháp Noãn, đều đồng với Mã Sư, Mãn Túc hay không?

Đáp: Không phải tất cả, vì chúng sinh gồm có ba hạng:

  1. Có tâm trông mong.
  2. Dứt tâm trông mong.
  3. Cắt đứt tâm trông mong

Hạng người có tâm trông mong: Là người giữ giới thanh tịnh.

Hạng người dứt tâm trông mong: Là việc phải làm đã làm xong, là A-la-hán.

Hạng người cắt đứt tâm trông mong: Là kẻ phạm giới.

Do người kia không có tâm trông mong, không có đứt tâm trông mong, chỉ có cắt đứt tâm trông mong, cho nên Đức Thế tôn mới quở trách. Ngoài ra, hạng người nào trong chúng sinh mà cắt đứt tâm trông mong cũng đồng với hai người kia. Như nói: Cho đến không có chút pháp Noãn.

Hỏi: Căn thiện Noãn nầy là tối thắng, vi diệu, trụ ở địa vắng lặng. Nay vì sao lại nói một chút?

Đáp: Do ở trong căn thiện đạt phần là hết sức nhỏ nên nói là một chút.

Lại có người nói: Vì là căn thiện của nhóm kiến và vì sinh ở biên sau, nên nói chừng một chút. (Căn thiện của nhóm kiến nghĩa là an ban, quán bất tịnh, bốn niệm xứ)

Bốn thứ căn thiện nầy, gọi là pháp Noãn, pháp Đảnh, pháp Nhẫn và pháp Thế đệ nhất, gọi là đạt phần, cũng gọi là quán đế, cũng gọi là tu trị, cũng gọi là căn thiện.

Nói đạt phần: Nghĩa là Thánh đạo vô lậu, là thấu đạt căn thiện, là thuận theo pháp kia, giúp cho pháp kia, là phần tánh của pháp kia, nên nói là đạt phần.

Quán đế: Nghĩa là dùng các hành như vô thường v.v… để quán sát đế, nên gọi là quán đế.

Tu trị: Vì mong cầu Thánh đạo và tu trị quả, nên thân nầy trừ bỏ mọi cấu uế, xấu ác, muốn thành pháp khí. Giống như nông phu, vì mong cầu được hạt lúa chắc, nên phải chăm lo tô điểm ruộng nương, nhổ bỏ cỏ dại. Người tu hành kia cũng giống như thế, nên gọi là tu trị.

Nói căn thiện: Nghĩa là Thánh đạo gọi là thiện, Niết-bàn gọi là quả. Các pháp nầy là gốc sơ cơ mới lập của người tu hành kia, nên gọi là căn thiện.

Hỏi: Căn thiện và Noãn v.v… nầy có gì khác nhau?

Đáp: Pháp Noãn có thể ngăn ngu tăng thượng của duyên đế, cho đến có thể ngăn ngu trong thân, nên sinh pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Pháp Noãn có thể sinh ra sự sáng suốt duyên đế, cho đến trong thân có sự sáng suốt duyên đế, nên sinh ra pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, pháp Noãn có thể sinh niềm tin bậc hạ duyên đế. Pháp Đảnh sinh niềm tin bậc trung. Pháp Nhẫn sinh niềm tin bậc thượng. Do trong thân có các niềm tin nầy, nên có thể sinh ra pháp Thế đệ nhất.

Lại nữa, pháp Noãn ưa thích đối với ấm, cho đến ưa thích trong thân, nên sinh pháp Thế đệ nhất.

Lại có người nói: Noãn là chỗ ở nhập của niệm xứ. Đảnh là chỗ ở của pháp Noãn. Nhẫn là chỗ ở của pháp Đảnh. Pháp Thế đệ nhất là chỗ nhập của Nhẫn.

Cứ như vậy, theo thứ lớp không gián dứt cũng như thế.

Tôn giả Cù-sa nói: Cả hai căn thiện nầy là cõi Dục, đó là Noãn, Đảnh. Hai căn thiện thuộc cõi Sắc, đó là Nhẫn, pháp Thế đệ nhất.

Lời bình: Không nên nói như thế. Đây là địa tu, địa định cõi Sắc, có thể hành pháp thuộc về Thánh hạnh, nói như thế là tốt.

Hỏi: Pháp Noãn có bao nhiêu thứ? Cho đến pháp Thế đệ nhất có bao nhiêu thứ?

Đáp: Hoặc có người nói: Pháp Noãn có ba thứ: Hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Pháp Đảnh có ba thứ: Trung hạ, trung trung, trung thượng. Pháp Nhẫn có hai thứ là: Thượng hạ, thượng trung. Pháp Thế đệ nhất có một thứ là: Thượng thượng.

Bốn căn thiện nầy, dùng ba câu để nói: Noãn là hạ, Đảnh là trung, Nhẫn và pháp Thế đệ nhất là thượng.

Lại có người nói: Noãn có hai thứ: Hạ hạ, hạ trung. Đảnh có ba thứ là: Hạ thượng, trung hạ, trung trung. Pháp Nhẫn có ba thứ: Trung thượng, thượng hạ, thượng trung. Pháp Thế đệ nhất có một thứ: Thượng thượng.

Căn thiện nầy dùng ba câu để nói: Noãn là hạ, Đảnh là hạ trung, Nhẫn là trung thượng, pháp Thế đệ nhất là thượng.

Tôn giả Cù-sa nói: Noãn có ba thứ: Hạ hạ, hạ trung, hạ thượng. Đảnh có sáu thứ: Hạ hạ cho đến trung thượng. Nhẫn có tám thứ: Hạ hạ cho đến thượng trung. Pháp Thế đệ nhất có một thứ là: Thượng thượng.

Nếu dùng ba câu để nói, thì pháp Noãn có một thứ là hạ. Đảnh có hai thứ là hạ, trung. Nhẫn có ba thứ: Hạ, trung, thượng. Pháp Thế đệ nhất có một thứ là thượng.

Được pháp Noãn rồi cũng xả, xả có hai thứ: Lúc lìa giới địa và lúc thối lui. Xả lúc thối lui, nghĩa là gây ra nghiệp Vô gián, có thể dứt căn thiện, cũng đọa vào đường ác, đâu còn có lợi ích nào. Đã vì Niết-bàn tạo ra nhân quyết định, như cách câu cá nuốt mồi.

Được pháp Đảnh cũng xả, xả có hai thứ: Lúc lìa giới địa và lúc thối lui. Xả lúc thối lui, nghĩa là gây ra nghiệp Vô gián, cũng đọa vào đường ác, lại đâu có lợi ích gì, lại không dứt căn thiện.

Nếu vậy thì Đề-bà-đạt-đa không được pháp Đảnh? Như kệ nói:

Không đức, nhận cúng dường
Đó gọi là phàm, tiểu
Có thiện đều quên mất
Đó gọi là Đảnh thối.

Kệ nầy phải hiểu thế nào?

Đáp: Kệ nầy nói về bị thối lui.

Lại có người nói: Đức Thế tôn như Đảnh. Người kia đã tâm ác đối với Phật, sẽ bị đọa vào đường ác, nên nói là Đảnh đọa.

Được Nhẫn cũng xả. Xả có một thứ là khi lìa giới địa xả căn thiện kia không có thối lui, không gây ra nghiệp Vô gián, không dứt căn thiện, lại có lợi ích nào. Không đọa vào đường ác.

Được pháp Thế đệ nhất cũng xả, xả có một thứ là túc lìa giới địa, xả không thối lui. Vì sao? Vì tánh của căn thiện nầy là không thối lui, không gây ra nghiệp Vô gián, không dứt căn thiện, không rơi vào đường ác, lại có lợi ích nào! Người kia theo thứ lớp được chánh quyết định.

Lại có người nói: Được pháp Noãn cũng xả. Xả có hai thứ: Khi lìa địa giới và lúc thối lui.

Xả khi thối lui nghĩa là gây ra nghiệp Vô gián, cũng sẽ đọa vào đường ác, lại có lợi ích nào, chỉ không dứt căn thiện.

Nếu vậy thì Đề-bà-đạt-đa không được pháp Noãn. Vì sao? Vì ông ta đã dứt căn thiện.

Được pháp Đảnh cũng xả. Xả có hai thứ: Khi lìa địa giới và lúc thối lui. Xả khi thối lui nghĩa là đọa nơi đường ác, lại có lợi ích nào! Không gây ra nghiệp Vô gián, không cắt đứt căn thiện.

Được Nhẫn cũng xả. Xả có một thứ là khi lìa giới địa, căn thiện kia không có thối lui, không gây ra nghiệp Vô gián, không cắt đứt căn thiện, không rơi vào đường ác, lại có lợi ích nào! Không đắm nhiễm vào ngã.

Hỏi: Nếu vậy thì Thi-lợi-quật-đa, An-cừu-lợi, Ma-la-tát-già, Nikiền-tử là không được Nhẫn. Vì sao? Vì mê đắm nơi ngã?

Đáp: Những người kia không đắm nhiễm nơi ngã. Vì biện luận về nghĩa nên nói có ngã đó thôi.

Hỏi: Những người ấy cùng Như lai tranh luận về ngã, sao lại nói không đắm nhiễm nơi ngã?

Đáp: Vì họ không dứt ngã kiến, tạm thời hiện ở trước, nên chẳng phải đắm nhiễm nơi ngã.

Pháp Thế đệ nhất được cũng xả: Xả khi lìa giới địa, ngoài ra như trước nói.

Người phương Tây tạo ra biện luận nầy, nói căn thiện Noãn có ý nghĩa sâu xa gì? Vì chỗ nương nào? Có nhân duyên gì? Pháp gì? Quả gì? Có nương vào đâu? Có báo nào? Có lợi ích nào? Vì hành bao nhiêu hành? Vì duyên theo danh mà sinh hay vì duyên theo nghĩa khởi? Vì là văn tuệ, là tư tuệ, hay là tu tuệ? Vì thuộc về cõi Dục, hay thuộc cõi Sắc, Vô sắc? Vì có giác, có quán; không giác, có quán; hay là không giác, không quán? Vì tương ưng với lạc căn , hay vì tương ưng với hỷ căn, xả căn? Vì một tâm hay vì nhiều tâm? Vì thối lui hay không thối? Cho đến pháp Thế đệ nhất cũng giống như thế.

Hỏi: Noãn có ý nghĩa thú?

Đáp: Có bố thí, trì giới, cho đến căn thiện Nhẫn thượng, đều hồi hướng về giải thoát đó là ý thú là chỗ nương nào? Nghĩa là dựa vào định cõi Sắc mà khởi.

Có nhân duyên gì? Nghĩa là căn thiện đời trước ở địa mình, là nhân tương tợ.

Duyên nơi pháp nào? Nghĩa là duyên với bốn chân đế.

Có quả nào? Đó là Đảnh gần với Noãn, là quả công dụng.

Có nương nào? Nghĩa là tương tự với địa mình, về sau sinh pháp thiện, là nương vào quả.

Có báo nào? Đó là năm ấm cõi Sắc.

Có lợi ích nào? Có người nói: Là nhân quyết định Niết-bàn.

Lại có người nói: Không cắt đứt căn thiện.

Vì hành bao nhiêu hành? Nghĩa là hành mười sáu hành.

Vì duyên theo danh sinh hay vì duyên theo nghĩa sinh? Phải nói là duyên theo nghĩa sinh.

Vì văn, tư, tu tuệ? Phải nói là tu tuệ.

Vì thuộc về cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc? Nên nói là thuộc về cõi Sắc.

Vì có giác, có quán ; không giác, có quán; không giác, không quán? Nên nói là có cả ba hành.

Vì tương ưng với căn nào? Phải nói là ba, tùy chỗ tương ưng mà nói.

Vì một tâm hay nhiều tâm? Phải nói là nhiều tâm.

Vì thối lui hay không thối lui? Nên nói là thối lui. Nhẫn gần với Đảnh, đó là quả công dụng.

Đảnh có lợi ích nào? Có người nói: Không dứt căn thiện.

Hoặc có ngươi nói: Không gây ra nghiệp Vô gián. Ngoài ra, như nói về Noãn.

Pháp Thế đệ nhất gần với Nhẫn là quả công dụng

Nhẫn có lợi ích nào? Có lợi ích là không rơi vào đường ác.

Lại có người nói: Không đắm nhiễm ngã, cũng không thối lui. Ngoài ra, như Đảnh.

Pháp Thế đệ nhất duyên khổ, khổ pháp nhẫn, đó là quả công dụng.

Pháp Thế đệ nhất có lợi ích nào? Theo thứ lớp được chánh quyết định, hành bốn hành, phải nói là nhất tâm không thối, ngoài ra, như khi Nhẫn sinh pháp Noãn, nếu khổ, tập, đạo đế, hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai tu bốn niệm xứ. Hiện tại hành một hành, thì vị lai sẽ tu bốn hành, nhận lấy tánh đồng kia, chẳng phải tánh không đồng.

Nếu duyên vào diệt đế, với một pháp niệm xứ ở hiện tại, vị lai tu một pháp niệm xứ. Hiện tại một hành, vị lai bốn hành. tăng trưởng pháp Noãn là khi dùng hạ tăng trưởng trung, dùng trung tăng trưởng thượng.

Nếu duyên theo khổ, tập, đạo đế, hiện tại bốn niệm xứ xoay vần hiện ở trước, vị lai cũng bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Nếu duyên diệt đế, thì pháp niệm xứ hiện tại, vị lai là bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Hỏi: Vì sao lúc đầu sinh pháp Noãn, đồng tánh với vị lai, tu chẳng phải bất đồng tánh. Lúc tăng trưởng Noãn, đồng tánh với vị lai, tu bất đồng tánh?

Đáp: Lúc đầu sinh, do hành quán đế, không hề được hạt giống Noãn kia mà được. Lúc Noãn tăng trưởng, do hành quán đế, đã từng được hạt giống Noãn kia mà được vì cho nên tu đủ.

Lúc đầu tiên sinh Đảnh, duyên với khổ, tập, diệt, đạo, hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu. Lúc tăng trưởng Đảnh, hạ tăng trưởng trung, trung tăng trưởng thượng. Nếu duyên theo khổ, tập, đạo đế, bốn niệm xứ xoay vần hiện ở trước, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Nếu duyên theo diệt đế, thì hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Đầu tiên sinh Nhẫn và lúc tăng trưởng, hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Tôn giả Cù-sa nói: Lúc Nhẫn đầu tiên, nếu duyên với khổ, tập, đạo đế, thì hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai bốn, tu đồng tánh, không khác tánh. Nếu duyên diệt đế, hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai cũng một pháp niệm xứ, hiện tại một hành, vị lai bốn, tu đồng tánh, không khác tánh. Nếu lúc tăng trưởng, duyên khổ, tập, đạo đế, bốn niệm xứ xoay vần hiện ở trước, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu. Nếu duyên theo diệt đế, thì hiện tại một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai mười sáu.

Lời bình: Người kia không nên nói thế. Nói như thuyết trước là tốt.

Hỏi: Vì sao Nhẫn với tất cả thời gian, pháp niệm xứ đều hiện ở trước?

Đáp: Như đạo kiến đế, tất cả thời gian, pháp niệm xứ đều hiện ở trước. Nhẫn cũng tương tự.

Hỏi: Lúc tăng trưởng Nhẫn, đều tu mười sáu hành phải chăng?

Đáp: Không phải. Như bỏ dần sở duyên, hành cũng giống như thế. Nếu duyên bốn đế, có mười sáu hành. Nếu duyên ba đế thì có mười hai hành. Nếu duyên hai đế thì có tám hành. Nếu duyên một đế thì có bốn hành. Chung với thế lực sinh của một nhẫn thì có mười sáu.

Hỏi: Vì sao khi tăng trưởng Nhẫn, hoặc có mười sáu, hoặc mười hai, hoặc tám, hoặc bốn hành tu?

Đáp: Dứt dần sở duyên, bỏ dần việc thực hành, chuyển biến gần được chánh quyết định, vì đó, nên đôi khi tu mười sáu hành, cho đến bốn hành, lúc sinh pháp Thế đệ nhất, hiện tại, có một pháp niệm xứ, vị lai bốn, hiện tại một hành, vị lai bốn.

Hỏi: Như pháp Thế đệ nhất từng được chủng tánh kia là do hành quán đế. Vì sao tu đồng tánh hành, tu tánh khác?

Đáp: Vì tùy ở pháp người kia được, tức theo pháp nầy tu, như người lõa hình, không có y phục để bị cướp đoạt, pháp kia cũng như thế.

Lại có người nói: Pháp Thế đệ nhất rất gần với thấy đạo. Như trong thấy đạo không tu hành khác, chỉ tu đồng tánh, nên pháp Thế đệ nhất cũng giống như thế?

Hỏi: Nếu lúc sinh Noãn cho đến Nhẫn, là thường nối tiếp nhau hay không nối tiếp nhau?

Đáp: Hoặc có người nói: Nói thường nối tiếp nhau duyên với bốn đế, như mười lăm tâm trong thấy đạo, thường tiếp nối nhau hiện ở trước. Lúc pháp Noãn kia sinh, thường nối tiếp nhau duyên với bốn chân đế.

Lại có người nói: Về nghĩa nầy không nhất định: Hoặc nối tiếp nhau, hoặc không nối tiếp nhau, hoặc có Noãn duyên với khổ rồi ngưng, hoặc duyên với tập, diệt, đạo rồi dừng lại.

Hỏi: Vì chánh quán tư duy, pháp nào kế có thể sinh Noãn?

Đáp: Là cõi Sắc tu tâm địa, địa định, có chán lìa, có xấu xa, có khát khao, ngưỡng mộ, có thế lực không thuận theo sinh, không ưa thích. Có lúc chánh tư duy như thế, kế có thể sinh Noãn, kế Noãn sinh Đảnh, kế Đảnh sinh Nhẫn, kế Nhẫn sinh pháp Thế đệ nhất kế pháp Thế đệ nhất được chánh quyết định.

Hỏi: Nếu người lìa dục thì có thể như thế, người không lìa dục thì sao?

Đáp: Người không lìa dục, cũng có thể như thế. Có tư tuệ cõi Dục, chánh quán tư duy duyên khổ hạnh, nếu hành thứ lớp sinh pháp Noãn. Ngoài ra, như trên đã nói.

Hỏi: Các thân trước đã sinh pháp Noãn, chưa sinh pháp Đảnh, người ấy bèn qua đời. Trong đời nầy, muốn sinh pháp Đảnh thì liền sinh pháp Đảnh, hay là lại khởi pháp Noãn?

Đáp: Hoặc có người nói: Nếu theo thầy, thuận với thứ lớp nghe pháp Đảnh, tức từ Đảnh đi, nếu thầy không giảng nói thì phải trở lại khởi từ căn bản.

Hỏi: Nếu vậy vì sao nói: Kế Noãn sinh Đảnh, kế Đảnh sinh Nhẫn, kế Nhẫn sinh pháp Thế đệ nhất?

Đáp: Nói như thế nghĩa là trong một thân thứ lớp sinh: Nếu trong thân trước đã từng được pháp Noãn, thì đó là người từ căn bản khởi.

Hỏi: Nếu thân trước kia đã từng được pháp Noãn, ở đời nầy muốn sinh pháp Đảnh, phải khởi chánh quán, tư duy nào?

Đáp: Như Noãn, chánh quán tư duy Đảnh cũng giống như thế, như sinh Đảnh, sinh Nhẫn cũng thế.

Hỏi: Nếu sinh pháp Noãn có phải vì lìa dục không?

Đáp: Hoặc có người nói: Không vì lìa dục. Vì sao? Vì người tu hành kia yêu thích, thà sinh pháp Đảnh, chớ không khởi Nhẫn trong Hữu Đảnh.

Lại có người nói: Nếu người tu hành kia, tự biết mình có năng lực, có thể sinh ra Đảnh, tức liền sinh Đảnh, tự biết không có năng lực, không thể sinh Đảnh mà muốn được lìa dục. Vì sao? Vì nếu được lìa dục, thì nơi sinh của ta sẽ trở nên vượt hơn.

Hỏi: Nếu dựa vào địa căn bản, sinh căn thiện đạt phần thì có thối lui hay không?

Đáp: Hoặc có người nói: Noãn, Đảnh có thối lui. Nhẫn thì không thối. Vì sao? Vì căn thiện nầy là pháp không thối lui.

Lời bình: Người kia không nên nói như thế. Vì sao? Vì nếu dựa

vào địa căn bản, sinh căn thiện đạt phần, thì ngay nơi hiện thân được chánh quyết định. Vì sao? Vì các căn thiện nầy đều sinh Thánh đạo. Nếu dựa vào địa Vị chí thì không nhất định.

Hỏi: Nếu dựa vào thiền Vị chí, sinh ra pháp Noãn, thì cũng sinh Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất, được chánh quyết định chăng? Đáp: Hoặc có người nói: Nếu dựa vào thiền Vị chí, sinh pháp Noãn, cho đến sinh pháp Thế đệ nhất được chánh quyết định, Sơ thiền cho đến đệ Tứ thiền cũng giống như thế.

Lại có người nói: Nếu dựa vào thiền Vị chí, sinh pháp Noãn, kế sinh Sơ thiền, Noãn, Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất, được chánh quyết định, thì thiền trung gian, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng giống như thế.

Lại có người nói: Nếu dựa vào thiền Vị chí, sinh ra Noãn, Đảnh, kế sinh Sơ thiền, Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất được chánh quyết định, thì thiền trung gian, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền cũng giống như thế.

Lại có người nói: Nếu dựa vào thiền Vị chí, sinh Noãn, Đảnh, Nhẫn, kế sinh Sơ thiền, nhẫn, sinh pháp Thế đệ nhất, được chánh quyết định, cho đến thiền thứ tư cũng giống như thế, đây là nói pháp thứ lớp của Thanh văn.

Hỏi: Bồ-tát thì thế nào?

Đáp: Bồ-tát dựa vào thiền thứ tư, sinh pháp Noãn, cho đến sinh pháp Thế đệ nhất, được chánh quyết định.

Lại có người nói: Bồ-tát dựa vào Sơ thiền, sinh pháp Noãn, pháp Đảnh, pháp Nhẫn, Nhị thiền, Tam thiền cũng giống như thế. Trong đệ Tứ thiền, sinh Noãn, Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất, được chánh quyết định.

Hỏi: Như trong căn thiện đạt phần, kế không nên sinh phẩm hạ, thượng, kế không nên sinh phẩm trung, hạ, làm sao Bồ-tát có thể sinh?

Đáp: Địa mình không thể, địa người khác thì có thể.

Lại có người nói: Muốn lìa lỗi như thế, phải nói lời nầy: Nếu dựa vào Sơ thiền, sinh pháp Noãn, cho đến thiền thứ tư. Nếu dựa vào Sơ thiền sinh pháp Đảnh, cho đến thiền thứ tư. Nếu dựa vào Sơ thiền, sinh pháp Nhẫn, cho đến thiền thứ tư. Kế, sinh pháp Thế đệ nhất được chánh quyết định.

Lời bình: Không nên nói như thế, như nói trước là tốt. Vì sao? Vì tất cả Bồ-tát đều dựa vào thiền thứ tư, sinh pháp Noãn, cho đến sinh Pháp Thế Đệ nhất, được chánh quyết định.

Hỏi: Còn Bích-chi Phật thì thế nào?

Đáp: Bích-chi Phật ra đời một mình, phải biết như Phật. Nếu số người xuất thế nhiều, thì vị Bích-chi Phật nầy không nhất định, đồng với Thanh văn. Như loài thú Khát-già chỉ mọc một sừng. Vị Bích-chi Phật kia cũng giống như thế, một mình xuất thế, phải biết như Phật.

Hỏi: Tiền thân của Bồ-tát là đã từng sinh căn thiện đạt phần phải không?

Đáp: Hoặc có người nói: Từng sinh vì để ngăn đường ác, nên suốt chín mươi mốt kiếp, Bồ-tát không đọa vào đường ác, đó là sức của căn thiện đạt phần. Đó là căn thiện đạt phần, của tánh người khác, chẳng phải tánh mình.

Lời bình: Không nên nói như thế, nên nói rằng: Bồ-tát không hề sinh căn thiện đạt phần. Vì sao? Vì tất cả căn thiện mà Bồ-tát đã có được, không trải qua nhiều đời ngồi kiết già dưới cội Bồ-đề, sinh quán bất tịnh, cho đến tận trí.

Hỏi: Bồ-tát đã chín mươi mốt kiếp, không đọa vào đường ác, việc nầy há chẳng phải sức của Nhẫn hay sao?

Đáp: Không hẳn là do căn thiện đạt phần Bồ-tát mới có thể ngăn đường ác, mà có thể dùng năng lực của bố thí, năng lực giữ giới, hoặc dùng quán bất tịnh, an ban (quán sổ tức), hoặc dùng văn tuệ, tư tuệ, hoặc dùng Noãn, Đảnh, sau mới dùng Nhẫn.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Ngăn chận đường ác, chẳng phải không nhờ biết pháp duyên khởi. Nghĩa ấy thế nào? Người kia nói rằng: Nhận biết pháp duyên khởi, tức là đạo vô lậu, nếu chẳng phải diệu lực của đạo vô lậu, tất nhiên không thể ngăn đường ác.

Lời bình: Không nên nói như thế! Như trước đã nói là tốt. Vì sao? Vì nếu Bồ-tát thực hành bố thí, thì cũng dùng giới, dùng tuệ. Nếu khi thực hành giữ giới, dĩ nhiên cũng dùng bố thí, dùng tuệ. Nếu lúc thực hành tuệ, thì cũng dùng thi, dùng giới. Do nhân duyên nầy, có thể che lấp na-do-tha đường ác, huống là đường ác của mười xứ. Tất cả Noãn, Đảnh của Thanh văn, Bích-chi Phật thì Bồ-tát đều có thể khởi để ngăn che đường ác, chỉ không khởi Nhẫn. Vì sao? Vì Nhẫn cùng với đường ác trở ngại nhau. Bồ-tát đã ở trong sinh tử, suốt ba A-tăng-kỳ kiếp, do nguyện lực nên sinh trong đường ác (Ở đây, nên nói dụ về nhân duyên con cá).

Lại có người nói: Khởi Nhẫn của Thanh văn, của Bích-chi Phật là để ngăn che đường ác, không khởi Nhẫn của Bồ-tát. Vì sao? Vì đối với thân đắc đạo là rất lớn, là sâu xa, nên người cầu Bích-chi Phật, sinh Nhẫn của Bích-chi Phật, không thể sinh Nhẫn của Phật chủng. Vì gần với đạo của Bích-chi Phật.

Lại có người nói: Người cầu Bích-chi Phật, có thể khởi Nhẫn của Phật chủng.

Lời bình: Không nên nói như vậy, nên nói rằng: Người cầu Bíchchi Phật, không thể khởi Nhẫn của Phật chủng.

Hỏi: Phàm phu chứng đắc Nhẫn, lúc qua đời có phải xả nhẫn không? Nếu xả, thì sao không đọa vào đường ác? Nếu xả, thì vì sao phàm phu bỏ, bậc Thánh không bỏ? Nếu không xả, thì trong phần Kiềnđộ Hành, Kiền-độ Bốn Đại vì sao không nói? Như nói: Nếu thành tựu thân, thì người kia cũng thành tựu thân nghiệp, cho đến nói rộng?

Đáp: Hoặc có người nói: Xả bỏ.

Hỏi: Nếu xả, thì tại sao không đọa vào đường ác?

Đáp: Hoặc có người nói: Với thế lực của căn thiện của người kia nên có thể như thế, dù xả nhưng không bị đọa vào đường ác. Tự có căn thiện, dù thành tựu nhưng không ngăn che đường ác, huống chi không thành tựu. Đó gọi là chỗ sinh được thiện. Tự có căn thiện, dù không thành tựu, nhưng có thể ngăn che đường ác, huống chi là lại thành tựu, đó là Nhẫn. Cho nên, với thế lực của căn thiện kia, có thể ngăn che đường ác.

Lại có người nói: Thế lực căn thiện của người kia, nếu nghiệp phiền não có thể khiến thân bị đọa vào đường ác, thì ở trong thân đó, nó làm cho hoàn toàn xa lìa, lại không còn hiện hành nữa. Nếu nghiệp phiền não kia không hiện hành thì do đâu bị đọa vào đường ác? Như vào mùa thu, người kia uống thuốc, thuốc cũng có thể không đọng lại trong thân họ, đôi khi cùng thoát ra với bệnh, hoặc tự nó tiêu hóa ngay trong thân mà trừ được bệnh hoạn, khiến cho không bao giờ khởi. thế lực căn thiện của kia như thế, với, có thể làm cho các nghiệp phiền não bị đọa vào đường ác, không bao giờ khởi lại nữa.

Lại có người nói: Căn thiện nầy đã từng ở trong thân người kia, như chỗ ở của sư tử, nó tồn tại trong thân người kia, dù không thành tựu, nhưng sức huân tập gắn bó, có thể làm cho các nghiệp phiền não đường ác kia sẽ không còn hiện hành nữa, huống gì là đọa vào đường ác. Cũng như chỗ ở của sư tử, nếu sư tử đi vắng thì các loài thú nhỏ khác đều không dám tìm đến, huống chi là lúc sư tử còn ở.

Lại có người nói: Căn thiện kia ở trong thân nầy, cũng như chủ đã ở lâu. Các nghiệp phiền não đường ác ở trong thân nầy cũng giống như khách. Sức của chủ đã ở lâu rất mạnh mẽ, khách thì không bằng.

Lại có người nói: Người tu hành có hai thứ tâm trông mong:

  1. Tâm trông mong xa lìa các điều ác.
  2. Tâm trông mong gắn bó sâu vào pháp thiện.

Do có hai tâm trông mong nầy, nên không đọa vào đường ác. Vì thế, nên Tôn giả Cù-sa nói: Người tu hành kia có tâm trông mong như thế, có mong muốn như thế, Nhẫn như thế, khả năng như thế, ý như thế, kính như thế, ái như thế, và ưa thích như thế.

Lại có người nói: Đường ác kia đã được phi số duyên diệt. Các pháp cũng đã được phi số duyên diệt, nên cuối cùng không hiện ở trước.

Lại có người nói: Người tu hành kia rơi vào mưa pháp, trôi chảy nhanh trong sông, không chấp nhận gây ra nghiệp đường ác. Vì cho nên không bị đọa vào đường ác.

Lại có người nói: Vì nương Thánh đạo, người tu hành kia do nương vào Thánh đạo, đã làm cho nghiệp phiền não đường ác trong thân nầy không hiện ra ở trước, huống chi là bị đọa vào đường ác. Giống như có người, vì sợ kẻ thù nên dựa vào vua, khiến kẻ thù kia còn không dám nhìn thẳng vào mặt, huống chi là làm hại!

Lại có người nói: Người tu hành kia, dùng căn thiện nầy ở trong tự thân nhằm gìn giữ chỗ ở của Thánh đạo. Cũng như người của vua, trước hết gìn giữ địa điểm cư trú của vua, tất cả người dân không dám đến ở.

Lại có người nói: Căn thiện kia đã quyết định tạo ra nơi chốn của người, trời. Nếu đã gây ra nghiệp xứ quyết định, thì sẽ sinh vào xứ đó. Giống như vị trí của tòa ngồi cao sang đã được định, thì không nên ngồi vào chỗ ngồi khác. Cũng thế, chỗ ở của căn thiện kia đã nhất định cũng giống như thế.

Lại có người nói: Người tu hành kia đã dùng phương tiện chính đáng làm cho các nghiệp phiền não đường ác kia sẽ không còn hiện hành nữa, huống chi là đọa vào đường ác.

Lại có người nói: Người tu hành kia đã nhận thấy lỗi lầm của hành vi ác, thấy được lợi ích của hành vi tốt. Cho nên, không tạo ra hành vi ác để phải bị đọa vào trong đường ác.

Lại có người nói: Có tâm trông mong tốt, ở trong thân nầy, sẽ không gây ra hành vi ác để phải bị đọa trong đường ác nữa.

Lại có thuyết nói: Vì dùng tâm nhu hòa thuận theo thú hướng Niết-bàn vì tín căn rất vững chắc, nên đã không gây ra hành vi ác để bị đọa vào đường ác.

Hỏi: Nếu xả, thì vì sao phàm phu bỏ, bậc Thánh không xả?

Đáp: Vì phàm phu kia không có sức đối trị của Thánh đạo để tự mình gìn giữ, chế ngự. Dù có đạo đối trị để tự gìn giữ, chế ngự, nhưng vì đạo nầy yếu kém, không bền lâu, nên khi qua đời thì xả. Trong thân bậc Thánh, có đạo đối trị vô lậu để tự gìn giữ, chế ngự, do sức của định vô lậu vững chắc bền lâu, nên bậc Thánh kia khi qua đời không xả. (Ở đây, lẽ ra nói kết hợp các biện dụ).

Lại có người nói: Không xả.

Hỏi: Nếu không xả, thì Kiền-độ Nghiệp, Kiền-độ Bốn Đại vì sao không nói?

Đáp: Hoặc có người nói: Trong Kiền-độ Nghiệp kia, lẽ ra phải nói mà không nói, phải biết là nghĩa nầy là lời chưa trọn vẹn.

Lại có người nói: Trong Kiền-độ Nghiệp kia cũng nói trong trường hợp thứ ba, là nói trường hợp bậc Thánh ở trong thai. bậc Thánh có hai hạng:

  1. Bậc Thánh danh số.
  2. Bậc Thánh thật nghĩa.

Người được căn thiện đạt phần gọi là bậc Thánh danh số, người được chánh quyết định là bậc Thánh thật nghĩa. Vì thế, nên trong Kiềnđộ Nghiệp kia cũng có nói.

Nếu có người nhất tâm xuất gia, cũng được gọi là đệ tử của Thánh, huống chi là người được căn thiện đạt phần.

Lại có người nói: Hoặc có người xả, có người không xả. Ai không xả? Đối với căn thiện nầy thường dùng phương tiện, tạo ra phương tiện trong tất cả thời gian, tạo ra phương tiện nên người khéo thọ trì, khéo tu tập thì không xả, trái với trên là xả. Như trước đây đã nghe nói: Nếu đối với căn thiện thường ân cần dùng phương tiện, cho đến người nào khéo tu tập, cho dù trải qua sinh tử, nhưng thường không xả. Như Di-đa-la-đạt tử, lúc mới sinh đã nói rằng: Kiết có hai thứ, cho đến nói rộng.

Như trước đã nghe, nếu đối với căn thiện, người nào không ân cần dùng phương tiện, cho đến không khéo tu tập, thì ở trong thân nầy sẽ có thể xả nhanh. Cũng thế, nên biết là có xả, không xả.

Lời bình: Nghĩa như thật tức là: Người phàm phu dựa vào địa kia, sinh căn thiện đạt phần, cũng có người xả, huống chi là sinh vào địa khác.

Hỏi: Căn thiện đạt phần nói là được báo, đó là năm ấm cõi Sắc, có phải tạo ra nghiệp đầu tiên của thân kia không?

Đáp: Hoặc có người nói: Không tạo ra nghiệp đầu tiên. Vì sao? Vì thân cõi Sắc kia giống với đạo vô lậu, vì chán ghét sự thọ sinh nên nghiệp khác tạo ra nghiệp đầu tiên. Căn thiện đạt phần kia chỉ tạo ra nghiệp mãn, sau đó mới chịu quả báo.

Lại có người nói: Cũng tạo ra nghiệp đầu tiên, được thân báo tốt đẹp, thuận theo hành đạo.

Các căn thiện như Noãn, v.v… nầy có bảy mươi ba thứ, việc ấy thế nào? Cõi Dục có mười thứ: Một là phàm phu còn đầy đủ ràng buộc. Hai là trừ một phẩm kiết, cho đến hết chín phẩm kiết. Sơ thiền có chín, hoặc có trừ một phẩm kiết, cho đến chín phẩm.

Sơ thiền không có người còn ràng buộc đầy đủ, tức nói về cõi Dục. Cũng thế, cho đến Vô sở hữu xứ có chín thứ. Đảnh, Nhẫn, pháp Thế đệ nhất cũng giống như thế.

Hỏi: Phàm phu còn ràng buộc đầy đủ, đã được pháp Noãn, trừ một phẩm kiết, cho đến chín phẩm, là một loại chăng?

Đáp: Không phải! Phàm phu còn ràng buộc đầy đủ khác, trừ một phẩm kiết khác, cho đến chín phẩm khác.

Hỏi: Nếu thối lui pháp Noãn, lại sinh pháp Noãn, có phải là vốn được mà được không?

Đáp: Không phải! Vì sao? Vì người kia không thường dụng công mà được, do trước sau không giống nhau. Như xả giới Ba-la-đề-mộcxoa rồi, về sau thọ lại, thì chẳng phải vốn được mà được. Người kia cũng thế, như Noãn, Đảnh cũng thế.

Hỏi: Lúc Noãn tăng trưởng, tăng trưởng Noãn rồi, có khởi lại từ đầu hay không?

Đáp: Không! Vì sao? Vì đã được căn thiện thắng tiến, căn thiện đã được trước kia không đáng ưa chuộng. Đảnh, Nhẫn cũng giống như thế.

Hỏi: Ở chỗ nào sinh căn thiện nầy?

Đáp: Trong loài người ở cõi Dục, nghĩa là ba thiên hạ, chẳng phải châu Uất-Đơn-Việt.

Hỏi: Sáu tầng trời cõi Dục không thể sinh căn thiện chăng?

Đáp: Không thể. Vì người mới sinh đã từng sinh, đều có thể khởi hiện ở trước. Vì sao? Vì nếu có thân tốt đẹp, cũng có người thuận theo nhàm chán tai họa, chánh quán xứ kia, thì có thể sinh Noãn. Trong ba thiện hạ nầy có đủ hai thứ ấy.

Hỏi: Nếu có thân tốt đẹp, thì chư thiên vượt hơn con người. Nếu nhận lấy chánh quán, thuận theo nhàm chán tai họa, thì đường ác vượt hơn.

Đáp: Như trước đã nói đều cùng có, nghĩa là có thể cõi trời và đường ác không đi chung cho nên không thể.

Hỏi: Pháp Noãn vừa dựa vào thân nam, vừa dựa vào thân nữ. Nếu dựa vào thân nữ đạt được pháp Noãn, lại được pháp Noãn, sở y của người nam trong tự thân chăng?

Đáp: Được! Cũng thế phải biết Đảnh, Nhẫn cũng vậy.

Hỏi: Nếu dựa vào thân nam đạt được pháp Noãn thì lại được pháp Noãn, sở y của cô gái trong tự thân chăng?

Đáp: Không được. Đảnh, Nhẫn cũng giống như thế. Huỳnh môn, Ban trá, không hình, hai hình, không thể sinh bốn pháp phương tiện thiện như Noãn v.v…

Tuệ có ba thứ: Văn tuệ, Tư tuệ, tu tuệ?

Đáp: Hoặc có Sư lược nói mười tám giới, mười hai nhập năm ấm. Lại có người khéo đọc tụng Tu-đa-la, Tỳ-ni, A-tỳ-đàm, rồi sinh tâm nhàm chán, nói rằng: Chỗ trọng yếu mà ba Tạng đã nói, chỉ là mười tám giới, mười hai nhập năm ấm. Họ liền quán sát giới. Quán sát giới rồi, lại tạo ra ba thứ, đó là: Danh, Thể tánh, Tướng chung. Danh là nhãn giới, cho đến pháp giới. Thể tánh là tướng riêng. Tướng chung là vô thường, khổ, không, vô ngã. Lúc quán như thế, tu tập trí nầy, chuyển biến được định ý, sinh tưởng chán ngán đối với cõi nầy.

Lại lược quán mười hai nhập: Nhãn giới tức là nhãn nhập, cho đến xúc giới tức là xúc nhập, bảy thức giới tức là ý nhập, pháp giới tức là pháp nhập.

Lại lược Nhập quán ấm. Sư kia quán mười sắc nhập và tạo sắc trong pháp nhập, tức là sắc ấm, ý nhập tức là thức ấm, pháp nhập tức là ba ấm.

Lại lược nói về ấm, tức là bốn niệm xứ. Sắc ấm tức là thân niệm xứ, thọ ấm tức là thọ niệm xứ. Thức ấm tức là tâm niệm xứ. Tưởng ấm, hành ấm tức là pháp niệm xứ.

Lại lược về Ấm quán đế: Các quả của năm ấm là khổ đế, các nhân của năm ấm là tập đế, năm ấm diệt là diệt đế, pháp Học, Vô học là đạo đế.

Đế kia lại được tạo ra ba thứ: Danh, thể tánh, tướng chung. Danh nghĩa là khổ đế cho đến đạo đế. Thể tánh nghĩa là tướng riêng. Tướng riêng nghĩa hành bức bách là nghĩa khổ, cho đến nghĩa xuất ly, nghĩa hành là nghĩa đạo. Về tướng chung: Khổ có bốn hành: Vô thường, khổ, không, vô ngã. Tập có bốn hành: Nhân, tập, hữu, duyên. Diệt có bốn hành: Diệt, chỉ, diệu và ly. Đạo có bốn hành: Đạo, như, tích, thừa.

Người tu hành kia tu tập trí nầy, khi chuyển biến được định ý, như

lúc thấy đế ấy thì người kia cũng theo thứ lớp quán riêng, về khổ cõi Dục, tạo ra tướng riêng khác. Quán khổ cõi Sắc, Vô sắc, cho đến dứt riêng lẻ, hành đạo cõi Dục cũng riêng lẻ, cho đến hành đạo cõi Sắc, Vô sắc, ngay bấy giờ quán đế, giống như xem tấm thảm lông là vật bên ngoại. Lúc quán như thế, gọi là văn tuệ đầy đủ.

Tu tập xoay vần như vậy, kế là sinh tư tuệ, chuyển biến tinh tiến tu tập, kế là sinh tu tuệ, có thể thực hành Thánh hạnh.

Khi quán như thế được gọi là pháp Noãn. Lần lượt tăng trưởng như thế, kế là sinh Đảnh, kế Đảnh là sinh Nhẫn, kế Nhẫn là sinh pháp Thế đệ nhất. Kế là sinh khổ pháp nhẫn, dứt mười sử do thấy khổ dứt, thứ lớp sinh khổ pháp trí, theo thứ lớp như thế sinh đạo tỷ trí, được quả Tu-đà-hoàn, theo thứ lớp, cho đến tận trí, đó gọi là các pháp sinh căn thiện, sinh theo thứ lớp.

Căn thiện có ba thứ:

  1. Căn thiện của phần phước.
  2. Căn thiện của phần giải thoát.
  3. Căn thiện của đạt phần.

Căn thiện của phần phước: Có thể tạo ra hạt giống sinh lên cõi trời. Nếu ở trong cõi người, sẽ được sinh vào nhà giàu sang, có oai thế lớn, nhiều của báu, quyến thuộc thành tựu, dung mạo đoan chánh, có thể tạo ra hạt giống của Chuyển luân Thánh vương, Đế-thích, Ma vương, Phạm vương.

Căn thiện của phần giải thoát: Nghĩa là có thể tạo ra hạt giống giải thoát, làm nhân quyết định không thối lui, sẽ tiến đến Niết-bàn.

Căn thiện đạt phần: Đó là pháp Noãn cho đến pháp Thế đệ nhất.

Hỏi: Căn thiện của phần giải thoát được gieo trồng ở chỗ nào?

Đáp: Ở trong cõi Dục, chẳng phải cõi Sắc, là đường người trong cõi Dục, chẳng phải đường khác, trong đường người thì ba thiên hạ, chẳng phải châu Uất-đơn-việt, thời Phật xuất thế, chẳng phải thời không có Phật.

Lại có người nói: Nếu ở vào thời không có Phật, gặp Bích-chi Phật, cũng gieo trồng căn thiện của phần giải thoát, thì thể tánh là gì?

Đáp: Hoặc là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.

Hỏi: Song ý nghiệp nghiêng nhiều, là năm thức thân hay là ý địa?

Đáp: Là ý địa, chẳng phải năm thức thân.

Hỏi: Là thiện phương tiện hay thiện sinh đắc?

Đáp: Vừa là thiện phương tiện, vừa là thiện sinh đắc.

Hỏi: Là văn tuệ, tư tuệ, hay tu tuệ?

Đáp: Là văn tuệ, tư tuệ, chẳng phải tu tuệ.

Hỏi: Lấy việc gì để gieo trồng căn thiện nầy?

Đáp: Lấy bố thí, hoặc trì giới, hoặc dùng sự học rộng, không nhất định. Vì sao? Vì có người chỉ bố thí một nắm thức ăn, đã có thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Còn nếu tự có năng lực tạo ra trường trai Ban-già Vu-Sắt (Hội thí lớn, năm năm một lần) mà vẫn không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Hoặc chỉ giữ một ngày trai đã có thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Có tự có suốt đời giữ giới mà không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Hoặc chỉ trì tụng một bài kệ đã có thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Có khi tự khéo hiểu văn nghĩa của ba tạng mà không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát, cho nên, không nhất định. Vì sao? Vì có sự gieo trồng, hoặc không có sự gieo trồng, nếu đem việc nầy hồi hướng về giải thoát, Niết-bàn, thì người muốn thoát ly hẳn sinh tử, có tâm mạnh mẽ như thế, tức là có thể gieo trồng căn thiện. Nếu không hồi hướng về giải thoát, Niết-bàn, để lìa hẳn sinh tử, thì cho dù bố thí nhiều, hay trọn đời giữ giới, học rộng, nghe nhiều, nhưng vẫn không thể gieo trồng căn thiện của phần giải thoát. Có gần, có xa. Gần, nghĩa là gieo trồng căn thiện trong thân trước. Thân nầy thành thục, thân sau giải thoát. Xa, nghĩa là đã từng gieo trồng căn thiện của phần giải thoát, trải qua na-do-tha đời thọ thân mà không thể phát sinh căn thiện đạt phần. Căn thiện của phần giải thoát mà Thanh văn đạt được, có thể hồi hướng về Bích-chi Phật. Căn thiện của phần giải thoát mà Bích-chi Phật đạt được, cũng có thể hồi hướng đến Phật. Căn thiện của phần giải thoát mà Phật đã gieo trồng thì không thể hồi chuyển.

Hỏi: Quán có sinh diệt, người tu hành kia lấy gì làm phương tiện?

Đáp: Người tu hành kia, vào mùa xuân, thấy cỏ cây màu sắc xanh tươi, trong trẻo như ngọc lưu ly, ngắm nhìn dòng sông chảy xiết, bọt nước nổi trôi, tấp vào ven bờ. Nhìn cảnh tượng ấy mà tự nghĩ: Các pháp bên ngoài nầy nay lại sinh.

Nếu đi vào thành ấp, xóm làng, thấy các nam nữ ca múa, cười giỡn nô đùa, rồi hỏi chúng: Vì sao vui mừng như thế? Chúng đáp: Trong xóm nầy vừa sinh bé trai, bé gái. Người tu hành kia lại nghĩ: Như vậy là pháp bên trong nầy nay lại sinh!

Người tu hành kia, đến mùa thu sau, nhìn thấy các cây cỏ phơi mình dưới ánh mặt trời mùa thu, bị gió lạnh thổi, sương mù bao phủ, cành lá rơi rụng, nước sông khô cạn, lại nghĩ: Pháp bên ngoài nầy nay đã lại diệt!

Nếu vào thành ấp, thôn xóm, thấy các nam, nữ đầu bù tóc rối, múa tay, quơ chân, khóc than, kể lể, bèn hỏi vì sao? Trả lời: Trong xóm nầy có nam, nữ vừa mất. Người tu hành kia lại nghĩ: Pháp bên trong nay lại diệt!

Người tu hành kia nhận thấy sâu xa về các trạng thái như thế rồi, trở lại trú xứ, tự quán sát thân mình cũng có trạng thái vô thường của tuổi trẻ, tráng niên già yếu, theo thứ lớp quán về năm, tháng, ngày, giờ, ngày đêm nối tiếp nhau, đó gọi là phương tiện. Các thời gian nầy lần lượt bị trừ giảm, cho đến quán ấm hai sát-na một sinh, một diệt, đó gọi là quán sinh diệt đầy đủ.

Hỏi: Quán sinh diệt nầy là quán tưởng giả hay là quán thật? Nếu là quán tưởng giả thì làm sao hiểu kệ nầy? Như nói:

Nếu có tri kiến dứt được lậu
Nếu không tri kiến, làm sao dứt?
Nếu người năng quán ấm sinh, diệt
Thì tâm sẽ giải thoát phiền não.

Chẳng phải dùng quán tưởng luống dối mà dứt được phiền não. Nếu chẳng thể quán thật, thì lẽ ra sẽ không thấy các hành có tướng đến, đi, mà các hành thật không có đến, đi.

Hoặc người soạn luận nói là quán tưởng luống dối.

Hỏi: Nếu vậy làm sao hiểu kệ nầy?

Đáp: Vì có nhân chuyển chuyển, nên nói chuyển chuyển kia sinh nhau, giống như pháp con cháu, việc ấy thế nào? Quán tưởng luống dối có thể sinh quán tưởng thật. Quán tưởng thật có công năng dứt phiền não, cho nên nói nhân chuyển chuyển, như pháp con cháu.

Lại có người nói: Là quán tưởng thật.

Hỏi: Nếu vậy thì các hành sẽ không có đến, đi. Nhưng người tu kia lại thấy có đến, đi?

Đáp: Nếu quán sinh diệt, khi chưa đầy đủ, thì sẽ thấy các hành có tướng đến, đi. Nếu quán kia đầy đủ, sẽ thấy các hành không có tướng đến, đi. Giống như trẻ con ưa vui đùa một mình bằng cách quay vòng tròn. Hễ quay nhanh thì thấy mình như dừng lại. Nếu quay chậm thì thấy có đến, đi. Thí dụ về bánh xe quay của thợ gốm cũng giống như thế.

Hỏi: Dùng một tâm thấy sinh diệt, hay là hai tâm, với một thấy sinh, một thấy diệt? Nếu dùng một tâm thấy sinh diệt, thì sao một tâm mà có đến hai sự lo toan? Nếu có hai sự lo toan để phá nghĩa một tâm thì làm sao thấy? Cho là thấy sinh? Lúc sinh lại thấy diệt? Cho là thấy diệt thì lúc diệt lại thấy sinh chăng? Nếu thấy sinh lúc sinh, chỉ thấy người sinh thì đó là chánh. Nếu thấy sinh, lúc sinh lại thấy diệt thì đó là tà. Nếu khi thấy diệt, lúc diệt chỉ thấy người diệt thì đó là chánh. Nếu thấy diệt, lúc diệt lại thấy sinh thì đó là tà. Nếu phải một tâm thấy sinh, một tâm thấy diệt thì sẽ không có quán sinh diệt?

Đáp: Nên nói rằng: Một tâm thấy sinh, một tâm thấy diệt.

Hỏi: Nếu vậy thì sẽ không có quán sinh diệt?

Đáp: Thuyết nầy giải thích quán sinh diệt, nối tiếp nhau trong một sự sinh, chẳng phải nói một sát-na.

*******

 

Trong hai mươi thứ thân kiến nầy, có bao nhiêu thứ là ngã kiến, bao nhiêu thứ là ngã sở kiến, cho đến nói rộng?

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Trong kinh, Đức Thế tôn qua nhiều chỗ đã nói về hai mươi thứ thân kiến nhưng không phân biệt rộng, chỉ Tôn giả Xá-lợi-phất có phân biệt một chỗ trong kinh. Mặc dù Tôn giả có phân biệt, nhưng không nói là hai mươi thứ thân kiến nầy, có bao nhiêu thứ là ngã kiến, bao nhiêu thứ là ngã sở kiến?

Vì các kinh kia không phân biệt, nay vì muốn phân biệt nên soạn luận nầy.

Lại nữa, Tỳ-bà Xà-bà-đề nói rằng: Thân kiến không có sở duyên, như thân kiến duyên ngã, trong nghĩa thật không có ngã! Sở duyên của ngã kiến là gì? Như người thấy sợi dây cho là con rắn, thoáng thấy gốc cây trụi cho là người.

Vì muốn ngăn ý nghĩ như thế của người kia, cũng muốn nói lên thân kiến có sở duyên, thân kiến duyên năm ấm, chỉ là việc được thấy có khác, chứ chẳng phải không có sở duyên. Như thí dụ người kia thấy sợi dây cho là rắn, xa trông gốc cây trụi cho là người. Ở đây, những việc được thấy có khác chứ chẳng phải không có sở duyên. Cho nên, vì nhằm ngăn ý của người khác, muốn biểu thị rõ nghĩa của mình, đồng thời cũng muốn chỉ bày pháp tướng quyết định nên soạn luận nầy.

Hỏi: Trong hai mươi thứ thân kiến ấy, có bao nhiêu thứ là ngã kiến, bao nhiêu thứ là ngã sở kiến?

Đáp: Năm thứ là ngã kiến, mười lăm thứ là ngã sở kiến.

Hỏi: Nếu ngã kiến có năm, ngã sở kiến lẽ ra cũng có năm, sao lại

nói là mười lăm ngã sở kiến?

Đáp: Vì duyên theo hành nên nói năm ngã kiến. Vì nêu đủ nên nói mười lăm ngã sở kiến. Vì sao? Vì mười lăm ngã sở kiến nầy, do đủ nên sinh. Nên nói một ngã kiến, đó là ngã kiến trong năm kiến lẽ ra nói có hai, như ngã kiến Ngã sở kiến lẽ ra nói là ba, tức ngã kiến nơi cõi Dục, cõi Sắc, Vô sắc. Nên nói là có sáu, như trong cõi Dục có ngã kiến và ngã sở kiến. Cõi Sắc, Vô sắc cũng thế. Nên nói có chín, như ngã kiến của địa cõi Dục, cho đến ngã kiến của địa Phi tưởng Phi phi tưởng. Nên nói có mười tám, như ngã kiến, ngã sở kiến của địa cõi Dục, cho đến ngã kiến, ngã sở kiến của địa Phi tưởng Phi phi tưởng. Nếu như phân biệt hành duyên ấm, thì lẽ ra nói hai mươi, không phân biệt nơi sanh khởi. Thấy sắc là ngã, sắc khác với ngã, sắc thuộc về ngã, ngã ở trong sắc. Như sắc có bốn thứ thì thọ, tưởng, hành thức cũng giống như thế.

Như vậy, năm lần bốn thì có hai mươi. Dùng hành duyên phân biệt mười hai nhập, tức có bốn mươi tám, không phân biệt chỗ sanh khởi. Như thấy nhãn nhập là ngã, nhãn nhập khác ngã, nhãn nhập thuộc về ngã, ngã ở trong nhãn nhập. Như nhãn nhập có bốn, cho đến pháp nhập cũng có bốn, như thế, mười hai lần bốn có bốn mươi tám. Dùng hành duyên phân biệt giới thì có bảy mươi hai, không phân biệt nơi sanh khởi. Như nhãn giới là ngã, nhãn giới khác với ngã, nhãn giới thuộc về ngã, ngã ở trong nhãn giới. Như nhãn giới có bốn, cho đến pháp giới cũng có bốn, như thế mười tám lần bốn tức có bảy mươi hai. Nếu phân biệt duyên ấm, phân biệt chỗ sanh khởi thì có sáu mươi lăm. Như nói sắc là ngã, thọ là chuỗi ngọc của ngã, thọ là tôi tớ của ngã, thọ là đồ đựng của ngã. Như thọ có ba thì tưởng, hành, thức cũng có ba. Cũng thế, bốn lần ba có mười hai, cùng với sắc là mười ba. Cũng thế, năm lần mười ba có sáu mươi lăm. Nếu phân biệt duyên nhập, phân biệt chỗ sanh khởi thì có bốn trăm lẻ tám. Nhãn nhập là ngã, sắc nhập là chuỗi ngọc của ngã, là tôi tớ của ngã, là đồ đựng của ngã. Như nhãn nhập có ba mươi bốn, cho đến pháp nhập cũng có ba mươi bốn, mười hai lần ba bốn là bốn trăm lẻ tám. Nếu phân biệt duyên giới, phân biệt chỗ sanh khởi thì sẽ có chín trăm ba mươi sáu. Nhãn giới là ngã, sắc giới là chuỗi ngọc của ngã, là tôi tớ của ngã, là đồ đựng của ngã. Như nhãn giới có năm mươi hai, cho đến pháp giới cũng có năm mươi hai, mười tám lần năm mươi hai là có chín trăm ba mươi sáu.

Các thứ thân như thế, các sát-na nối tiếp nhau, thì có vô lượng ngã kiến, ngã sở kiến. Xứ ấy phân biệt hành duyên ấm, không phân biệt chỗ sanh khởi thì có hai mươi.

Hỏi: Vì sao thân kiến nầy được nói là chủng loại?

Đáp: Vì hai mươi thứ thân kiến nầy đều có sự khác nhau, nên nói là chủng loại.

Hỏi: Vì sao nhân nơi ấm nói hai mươi ngã kiến, chẳng phải nhân nơi giới, nhập?

Đáp: Hoặc có thuyết nói: Vì người soạn kinh có ý nghĩ như thế, muốn như thế có thể thuận theo như thế. Ý của người soạn kinh kia không trái với pháp tướng.

Lại có người nói: Vì hiện khởi ban đầu nên phương tiện đầu tiên là nhập pháp. Như nhân nơi ấm nói kiến, nhân nơi giới, nhập, cũng nên nói như thế, mà không nói thì phải biết nghĩa nầy là lời chưa trọn vẹn.

Lại có người nói: Ấm nầy nói là kiến, nghĩa là chính kinh Phật đã nói, kinh Phật đã nhân ấm nói hai mươi thứ ngã kiến. Người soạn kinh kia cũng dựa vào kinh Phật để soạn luận nói hai mươi thứ ngã kiến.

Hỏi: Gác qua việc của người soạn kinh. Vì sao Đức Thế tôn nhân nơi ấm nói hai mươi thứ ngã kiến?

Đáp: Vì hóa độ chúng sinh, nên Đức Phật nhân nơi ấm nói hai mươi thứ ngã kiến. Nếu người được hóa độ, lẽ ra nghe giới, nhập mà được độ, thì Đức Thế tôn cũng sẽ nhân nơi giới, nhập, nói về ngã kiến, nhưng vì chúng sinh không chịu nghe, nên Phật không nói.

Lại có người nói: Lúc các kiến sinh khởi, đa số đều dựa vào ấm, ít nương giới, nhập. Cho nên, Đức Thế tôn nhân ấm nói kiến, không nhân giới, nhập.

Sắc là ngã. Thế nào là các sở hữu của sắc? Sắc đều là bốn đại, sở tạo của bốn đại, nhất định các sở hữu, có hai thứ: Các sở hữu có tận và các sở hữu bất tận. Nói bất tận, như cầu một chút vật như trấu cám v.v… cũng gọi là các sở hữu.

Nói tận, như cầu tất cả vật và trấu cám v.v… cũng là các sở hữu, trong đây chỉ nói tận là các sắc sở hữu.

Hỏi: Như ngã kiến là duyên theo giới của chính mình, chẳng phải duyên theo giới của người, sao người lại có thể thấy tất cả sắc là ngã?

Đáp: Vì các sắc là đối tượng hoạt động của người kia, là cảnh giới của họ, họ chấp đó là ngã, chứ chẳng phải tất cả sắc. Sắc khác với ngã. Thế nào là sắc khác với ngã? Đối với bốn ấm đó, xoay vần chấp là khác với ngã. Người kia nghĩ rằng: Sắc nầy là ngã. Ví như người có của cải, gọi là có của cải. Sắc lệ thuộc ngã: Thế nào là sắc lệ thuộc ngã? Đối với bốn ấm nầy lần lượt chấp là lệ thuộc ngã. Ví như người có tôi tớ, nói tôi tớ lệ thuộc nơi ngã

Ngã ở trong sắc. Ngã ở trong sắc là sao? Đối với bốn ấm nầy xoay vần chấp là ngã trong sắc. Người kia nghĩ rằng: Sắc là đồ đựng ngã, như dầu ở trong cây gai, chất béo trong sự đọng lại, như bơ ở trong lạc, như con dao ở trong bao da, con rắn ở trong cái tráp nhỏ, như máu ở trong thân…

Hỏi: Như thọ là ngã, sắc là vật dụng có thể như thế. Vì sắc thô, thọ tế. Như nói sắc là ngã, thọ là vật dụng, làm sao thấy sắc thô vào trong thọ tế được?

Tôn giả Ba-xa nói: Không nên trách người mù ngã xuống hầm hố!

Cũng không nên hỏi tại sao vô minh là ngu

Lại có người nói: Người kia thấy sắc là ngã, thọ là vật dụng, nghĩa là người kia thấy thọ thô, sắc tế, vì cho nên thấy sắc trụ trong thọ.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Trong thân bốn đại nầy đều có thể biết về xúc, có chỗ sở xúc, có thể sinh thọ. Vì thọ sinh ở mọi nơi, nên nói sắc ở trong thọ.

Tôn giả Phật-đà-đề-bà nói: Người kia thấy thọ ở khắp trong thân, từ chân đến đầu, không có chỗ nào không có thọ, nhưng chấp sắc là ngã thì không khắp thân, cho nên người kia thấy sắc trụ trong thọ.

Hỏi: Vì sao nói ngã kiến có hai mươi thứ? Các kiến khác lại không nói?

Đáp: Hoặc có người nói: Vì đó là ý của người tạo kinh muốn thế, cho đến nói rộng.

Lại có người nói: Đây là mới khởi phương tiện đầu tiên, mới nhập pháp ở hiện tại. Như nói: Thân kiến có hai mươi thứ, giới thủ lẽ ra có bốn mươi thứ. Tà kiến, kiến thủ, mỗi thứ lẽ ra có tám mươi thứ, nên nói mà không nói, nghĩa nầy chưa nói hết là lời chưa trọn vẹn.

Lại có người nói: Vì đối trị ngã kiến, nên Phật nói mười thứ Không, mười thứ Không là: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, hữu vi không, vô vi không, đệ nhất nghĩa không, vô sở hành không, vô thủy không, tánh không và không không.

Hỏi: Mười thứ không nầy đối lại với pháp nào?

Đáp: Đối lại với ngã kiến, vì không đối với ngã kiến nên có hai mươi thứ ngã kiến, các kiến khác thì không như vậy, cho nên không nói.

Hỏi: Có khi nào đối với một ấm khởi ngã kiến, ngã sở kiến hay không?

Đáp: Khởi, như nhãn nhập khởi ngã kiến, các sắc khác thì khởi ngã sở kiến, bốn ấm còn lại cũng giống như thế.

Hỏi: Có khi nào vừa có ngã kiến, cùng lúc đối với năm ấm đều chấp ngã hay không? Nếu có, làm sao hiểu sách Sóc-ca nói: Chỉ có một ngã kiến, không có năm ngã kiến.

Không có năm ngã kiến, nghĩa là không chấp năm ấm là ngã. Vì sao? Vì chấp ngã kiến chỉ chấp một pháp, còn năm ấm là pháp khác. Người chấp ngã kiến nói một ngã, một nhân, không phân, không hoại, không biến đổi là thường.

Nếu không thì làm sao hiểu kinh Tát-già Ni-Kiền-Tử nói: Sa-môn Cù-đàm! Sắc là ngã, thọ, tưởng, hành, thức là ngã?

Đáp: Không có cùng lúc chấp năm ấm là ngã.

Hỏi: Nếu vậy kinh Tát-già -Ni-Kiền-Tử làm sao hiểu?

Đáp: Vì người kia tâm tự đại, rất nặng nên nói như thế.

Lại có người nói: Người kia không tin Phật, bên trong có tri kiến, muốn thử Như lai. Người kia vì không biết nên đã nói lời không thuận lý. Kế là thấy Như lai có các tướng được luận bàn: Hàm như hàm sư tử, răng kết bén, nhọn, miệng có bốn mươi chiếc răng, phát ra tiếng Phạm âm. Người kia nghe nói vậy, ôm lòng kinh sợ, nên lời không thuận lý.

Lại có người nói: Người kia nhận thấy oai đức của Như lai vượt hơn Phạm Vương, Đế-thích, khó gần khó thân, đối với bậc có oai đức như cho nên người kia nói lời không thuận lý.

Lại có người nói: Vì oai lực bức bách của thiên thần đã khiến cho người kia nói lời không thuận lý.

Lại có thiên thần tin Phật, nghĩ rằng: Người xấu ác kia vì sao đã gây buồn phiền cho Như lai? Nên đã dùng oai lực bức bách, khiến cho người kia nói lời không thuận lý.

Lại có người nói: Hoặc có cùng lúc, chấp năm ấm là ngã.

Hỏi: Nếu vậy thì lời của sách Sóc-ca, nói làm sao hiểu?

Đáp: Người kia dốc sức tạo ra một nhóm tướng gồm đủ năm ấm nầy.

Hỏi: Nếu vậy thì lấy gì làm đủ?

Đáp: Nếu chấp nội nhập là ngã, thì sẽ lấy ngoại nhập làm đủ, nếu chấp ngoại nhập là ngã thì sẽ dùng nội nhập làm đủ.

Hỏi: có kiến vi trần chấp là ngã hay không? Nếu có, thì là không có ngã kiến, chẳng phải ngã kiến. Nếu không có thì sách Sóc-ca làm sao hiểu? Như nói: Năm đại vi trần dù mỗi đại đều là tướng khác, là ngã, là thường. Nếu nói vô thường thì vô lý.

Hỏi: Sách kia giải thích ngã kiến, kiến vi trần thế nào?

Đáp: Sách nầy nói biên kiến duyên vi trần, nghĩa ấy đã lập.

Hỏi: Phải biết ngã kiến duyên vi trần, nghĩa ấy cũng lập chăng?

Đáp: Không có kiến Vi trần chấp là ngã.

Hỏi: Nếu vậy thì sách Sóc-ca làm sao hiểu?

Đáp: Lời Sách nầy nói không thuận với chánh lý.

Lại có người nói: Có kiến vi trần, chấp cho là ngã, có người suy lý, thấy nghĩa không thật nên thấy nghĩa lúc sinh.

Lời bình: Không nên nói lời như thế, nói trước là tốt.

Hỏi: Ngoài năm ấm, có người khởi ngã kiến hay không? Nếu có thì làm sao hiểu kinh nầy nói? Như nói: Nếu có Sa-môn, Bà-la-môn khởi lên ngã kiến, đều chấp năm thọ ấm. Nếu không thì nói ngã kiến thứ sáu làm sao có?

Đáp: Không có trường hợp khởi ngã kiến ngoài năm ấm.

Hỏi: Nếu vậy thì ngã kiến thứ sáu làm sao có?

Đáp: Tư là hành ấm đối với tư khởi ngã kiến, hành ấm khác khởi ngã sở kiến, tức là ngã kiến thứ sáu. Kinh Phật nói thân kiến là căn bản của sáu mươi hai kiến. Kinh khác lại nói: Nếu có Sa-môn Bà-la-môn khởi lên các kiến, thì đều dựa vào hai biên: Hoặc dứt, hoặc thường.

Hỏi: Hai kinh nầy có gì khác nhau?

Đáp: Vì có thể sinh ra các kiến, nên nói thân kiến là căn bản. Vì các kiến được bảo vệ, nuôi lớn nên nói là biên kiến.

Lại có người nói: Có thể sinh các kiến, là nói thân kiến là căn bản, khiến cho các kiến chuyển hành, đó là nói biên kiến.

Lại có kinh nói: Nếu nhập định “Địa Nhất thiết xứ” người tu hành nghĩ rằng: Địa tức là ngã, ngã tức là địa, không lìa, không khác. Tất cả xứ còn lại cũng giống như thế.

Hỏi: Những người được định Nhất thiết xứ, tất đều lìa dục của đệ Tam thiền. Nếu người kia chấp địa là ngã, phải biết thân kiến của địa thiền thứ tư, chấp địa trong đệ Tứ thiền là ngã, pháp của định Nhất thiết xứ duyên cõi Dục. Sao người kia không trái?

Đáp: Trong đây không nhất định nói định, như chẳng phải Sa-môn nói là Sa-môn.

Lại có người nói: Vì vốn đã có tên như vậy. Ví như vua đã mất ngôi, vẫn gọi là vua, hành giả vốn từng được định nầy, về sau, dù mất vẫn gọi là được định.

Lại có người nói: Vì hành giả ở định nhanh chóng, nên mất, nơi định kia khởi thân kiến cõi Dục, bỏ thân kiến lại được định ấy. Như Đề-bà-đạt-đa, nhanh chóng ở định, dùng sức thần túc, tự hóa thân mình thành hình dáng Thái tử, lên ôm vua A-xà-thế quay vòng đùa cợt, lại hiện ra tướng mạo để cho vua A-xà-thế biết là Tôn giả Đề-bà-đạt-đa. Ngay khi làm hình dáng thái tử, vua A-xà-thế ôm lấy đùa cợt rồi nhổ nước dãi vào miệng Đề-bà-đạt-đa. Do tham lợi dưỡng nên Đề-bà-đạtđa bèn nuốt nước dãi! Vì vậy nên Đức Thế tôn nói với Đề-bà-đạt-đa: Ông là thây chết, ăn đàm dãi của người. Khi nuốt đàm dãi, Đề-bà-đạtđa chẳng thể lìa dục. Khi giả làm Thái tử, được vua A-xà-thế ôm lấy, đùa cợt, bấy giờ là lìa dục.

Lại có người nói: Thân kiến chấp địa trong đệ Tứ thiền là ngã, định Nhất thiết xứ cũng duyên địa trong đệ Tứ thiền.

Hỏi: Nếu vậy định Nhất thiết xứ không duyên cõi Dục hay sao?

Đáp: Định Nhất thiết xứ vừa duyên cõi Dục, vừa duyên địa trong đệ Tứ thiền.

Hỏi: Như chư thiên cõi Sắc, tất cả đều trắng, làm sao họ nhận thấy sự khác nhau giữa các màu: Xanh, vàng, đỏ v.v…

Đáp: Vì số chúng sinh đó, sắc của họ đều trắng, chẳng phải số chúng sinh có sắc xanh, vàng, đỏ v.v…

Lời bình: Không nên nói như thế. Vì sao? Vì nếu ngã kiến và định Nhất thiết xứ là pháp tương ưng, cộng hữu, thì lẽ ra có lỗi nầy! Thế nào là tất cả pháp tương ưng, cộng hữu? Duyên một chút cõi Dục, duyên một chút cõi Sắc, thân kiến và định Nhất thiết xứ, dù chẳng phải pháp tương ưng, cộng hữu, nhưng một người thì cũng có thể có hai tên. Vì chấp ngã, nên gọi là thân kiến, vì được định, nên gọi là người đắc định. Thân kiến duyên với địa trong đệ Tứ thiền, định Nhất thiết xứ duyên với cõi Dục không cùng lúc, cho nên, luận nầy đã khéo hiểu.

Vô thường chấp là thường, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Các tà kiến ấy đã tạo cho chúng sinh ở trong sinh tử những ràng buộc lớn, nhiều tai hại suy vi, nhiều sự che giấu lớn. Giống như thế gian ràng buộc, gây tai hại suy vi, che giấu con người. Nếu không thấy rõ tà kiến thì sẽ không thể tránh xa. Nếu lúc nào thấy rõ thì có thể tránh xa các tà kiến đó, cho đến nói rộng cũng giống như thế.

Ở đây, nên dùng hai việc để tìm kiếm tà kiến:

  1. Dùng thể tánh.
  2. Dùng đối trị.

Như Kiền-độ Trí, Kiền-độ Kiến, như luận tăng Ích Trí, trong đó cũng dùng hai việc để tìm kiếm tà kiến:

  1. Thể tánh.
  2. Đối trị.

Như trong luận tăng Ích Trí nói: Sa-môn Cù-đàm! Ông là huyễn hóa.

Đạo của Đức Thế tôn đã vượt qua huyễn hóa. Tà kiến nầy chê bai đạo là thể tánh của huyễn, thấy đạo dứt là đối trị tà kiến đó.

Lại nói rằng: Đây là A-la-hán, vì sao ông lại tỏ ra keo kiệt đối với danh hiệu A-la-hán.

Đạo của Đức Thế tôn đã vượt qua sự keo kiệt, tà kiến nầy chê bai đạo là thể tánh của sự keo kiệt đó. Thấy đạo dứt là đối trị với tà kiến ấy. Như Luận Kệ Vấn, như Kinh Phạm Võng nói: Nên dùng xứ dấy khởi để tìm kiếm tà kiến, đó tức có ba việc, đó gọi là xứ dấy khởi, thể tánh và đối trị.

Lại có người nói: Không nên tìm kiếm ba sự của tà kiến là xứ dấy khởi, thể tánh và đối trị. Nếu tìm kiếm tà kiến thì cũng như trách cứ vô minh: Vì sao ông ngu tối?

Lại có người nói: Nên dùng ba việc để tìm kiếm tà kiến, đó là xứ dấy khởi, thể tánh và đối trị. Nếu có thể dùng ba việc để tìm kiếm tà kiến, thì dù là phàm phu còn ràng buộc đầy đủ, nhưng những lỗi lầm của tà kiến không hiện ở trước, giống như bậc Thánh đã dùng đạo vô lậu dứt các tà kiến, không bao giờ khởi lại. Như Pháp sư Đà-bà, xưa ở Kế-tân, cùng với nhiều Tỳ-kheo tu hành, hội họp chung một chỗ, luận nói về các kiến: Có người nói rằng: Các Đại đức! bậc Thánh có thể dứt trừ nhiều lỗi lầm, mọi hành vi ác tà kiến không bao giờ hiện ra ở trước, thật là ítcó!

Bấy giờ, Pháp sư Đà-bà ở trong hội nầy nói rằng: Bậc Thánh dùng đạo vô lậu dứt trừ các tà kiến, không bao giờ cho chúng hiện tiền, thì đâu có gì là chuyện lạ. Như hiện nay tôi đang ở địa phàm phu, dùng hai việc nầy để tìm kiếm tà kiến, nếu còn ở lâu trong sinh tử thì không có việc nầy.

Dù ở lâu trong sinh tử, nhưng lại không hiện tiền. Vì duyên nầy nên dùng ba việc để tìm kiếm tà kiến.

Vô thường, chấp hữu thường:

Hỏi: Thế nào là vô thường?

Đáp: Tất cả pháp hữu vi.

Hỏi: Các ngoại đạo kia, gọi việc gì là thường?

Đáp: Họ thấy sắc tương tự nối tiếp nhau. Các tâm pháp, nhớ lại công việc xưa đã làm, có khả năng tụng trì Kinh, luận…

Thấy sắc tương tự nối tiếp nhau là sao? Như sắc họ đã thấy ở ngày hôm qua, hôm nay tương tợ. Người kia nghĩ rằng: Sắc thấy lúc nhỏ, tức là sắc của thấy lúc già. Làm sao tâm pháp lại có thể nhớ những việc xưa kia mình đã làm. Như việc mình đã làm vừa qua, hôm nay cố nhớ lại.

Cũng thế, các việc mình đã làm trước đây, sau nầy đều nhớ. Như có thể trì tụng kinh, luận, là như lúc còn trẻ đã đọc tụng, đến lúc già vẫn có thể tụng thuộc lòng. Người kia nghĩ: Ngày nay, tâm tụng chính là tâm đã đọc tụng ở ngày hôm qua. Họ lấy cớ nầy để chấp là thường, đó là biên kiến. Biên kiến có hai thứ: Có dứt và có thường. Là nói thể tánh của biên kiến, do thấy khổ mà dứt, là đối trị của biên kiến đó. Vì kiến duyên khổ mà sinh, nên do thấy khổ mà dứt, ví như hạt sương đọng lại trên ngọn cỏ, sẽ tan ngay khi ánh nắng mặt trời rọi đến. Biên kiến kia cũng giống như thế: Nếu khi thấy khổ thì biên kiến nọ sẽ được dứt trừ ngay.

Lại có người nói: Khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí, là đối trị của biên kiến kia. Lúc khổ pháp nhẫn, khổ pháp trí sinh, sẽ dứt trừ dứt kiến hiểm ác điên đảo, phân biệt luống dối nầy.

Hỏi: Như trong pháp nói về thiện, cũng nói các pháp có tự thể, tánh tướng, thường trụ mà không phải tà kiến. Tại sao trong pháp nói về ác, nếu nói tướng nầy, tức là tà kiến?

Đáp: Hoặc có người nói: Nói pháp thiện, dù nói có tự thể, tánh tướng, thường trụ, nhưng không có chỗ tạo tác. Còn nói pháp ác, thì bất cứ lúc nào cùng thường có sự tạo tác.

Lại có người nói: Trong pháp nói về thiện, nói pháp tánh không thường làm, trong pháp nói về ác, nói pháp tánh thì thường làm.

Lại có người nói: Trong pháp nói về thiện, nói về pháp tánh, là do sinh sinh ra, bị già làm cho già, bị vô thường làm hoại. Trong pháp nói về ác thì không do sinh sinh ra cho đến nói rộng.

Lại có người nói: Trong pháp nói về thiện, nói pháp tánh thuộc về các nhân duyên. Pháp đã nói kia không thuộc về nhân duyên.

Lại có người nói: Khéo nói pháp, pháp đã nói tương ưng với sinh diệt. Pháp nói về ác thì không như thế.

Lại có người nói: Trong pháp nói về thiện, nói pháp tức từ nhân sinh, có thể có chỗ tạo tác, thuộc về các duyên do các nhân duyên nầy, nên nói là nói pháp. Mặc dù nói thể tánh thường trú, nhưng không rơi vào tà kiến. Pháp nói về ác ấy là rơi vào tà kiến.

Hỏi: Biên kiến nghĩa là gì?

Đáp: Chấp ở bên đoạn, chấp ở bên thường, là nghĩa biên kiến. Như kinh nói: Phật bảo Tôn giả Ca-chiên-diên: Nếu dùng chánh trí quán thế gian là tập, nói đời Vô sở hữu, tức lại là chẳng hành. Vô sở hữu tức là dứt kiến. Thấy đời nầy có diệt, thân vị lai sinh, bèn nghĩ rằng: Chúng sinh ấy chết ở đời nầy, sẽ sinh ở nơi khác, chẳng phải dứt. Lại nữa, nầy Ca-chiên-diên! Nếu dùng chánh trí quán thế gian là diệt, nói thế gian có sở hữu, tức lại là không hành. Nói thế gian có sở hữu, tức là thường kiến. Biết ấm, giới, các nhập nầy, xoay vần nối tiếp nhau, người kia nghĩ rằng: Các pháp nầy có sinh, có diệt, chẳng phải thường.

Lại nữa, người khởi ngã kiến vẫn là bên hẹp, thấp kém, bị thế gian quở trách, huống chi là đối với ngã chấp có dứt, thường?

Lại có người nói: Kiến nầy là xứ hành, biên, nên có hai thứ nghĩa, gọi là xứ hành biên:

  1. Hành thường biên.
  2. Hành dứt biên.

Do các nghĩa nầy nên gọi là biên kiến.

Hỏi: Nghĩa thật của thường là Niết-bàn Diệt tận. Vì sao vô thường chấp thường không gọi là tà kiến?

Đáp: Những lời nói Vô sở hữu, gọi là tà kiến. Ở đây không nói Vô sở hữu, lại tăng ích sở hữu, cho nên chẳng phải tà kiến.

Thường chấp vô thường:

Hỏi: Thế nào là thường?

Đáp: Niết-bàn Diệt tận.

Hỏi: Các ngoại đạo kia dựa vào đâu để nói Niết-bàn vô thường?

Đáp: Ngoại đạo kia lấy bốn định vô sắc làm Niết-bàn giải thoát:

  1. Vô thân.
  2. Ý vô biên.
  3. Nhóm tịnh.
  4. Tháp thế gian.

Không thân: Là định Không xứ. Ý vô biên là định Thức xứ. Tụ tịnh là định Vô sở hữu xứ. Tháp thế gian là định Phi tưởng Phi phi tưởng xứ.

Ngoại đạo kia nói như thế: Như Niết-bàn nầy dù lâu nhưng sẽ trở lại. Phải biết, Niết-bàn họ Thích đã nói cũng sẽ trở lại. Vì cho nên nói Niết-bàn vô thường.

Thường kia chấp là vô thường: đó là tà kiến, là tự tánh của nó, do thấy diệt mà đoạn, là đối trị tà kiến đó. Vì đây là kiến chấp nhân diệt sinh ra, nên do thấy diệt mà đoạn, như sương đọng trên đầu ngọn cỏ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì có tà kiến có thể quán là hành vô thường không? Nếu có, làm sao thông suốt nơi kinh Ba-già-la-na? Như nói: Thế nào là sử tà kiến sai khiến?

Đáp: Mọi hủy báng không có nhân, không có tạo tác, đó gọi là sử tà kiến.

Hỏi: Vì sao trong đây không nói? Nếu không nói thì làm sao hiểu được nơi văn nầy? Như nói: Thường chấp vô thường, đây là tà kiến, do thấy diệt mà đoạn?

Đáp: Có tà kiến nầy: Thường chấp vô thường.

Hỏi: Nếu vậy thì vì sao Kinh Ba-già-la-na không nói?

Đáp: Vì kinh kia nói về hành tướng của tà kiến không tận, tự có hành tướng của các kiết, trong đó không nói hết.

Lại có người nói: Dù có kiến nầy, nhưng đều nhập trong thuyết đã nói kia. Như chê bai không có nhân, phải biết là chê bai tập. Như chê bai không có tạo tác, phải biết là chê bai đối với ba đế.

Lại có người nói: Nói chê bai không có nhân, là chê bai về ba đế, nói chê bai không có tạo tác, là chê bai về diệt đế.

Lại có người nói: Tà kiến về không, có, có thể chê bai thường nói là vô thường.

Hỏi: Nếu vậy thì văn nầy làm sao hiểu?

Đáp: Niết-bàn có tướng thường. Nếu nói không có Niết-bàn thì cũng là chê bai tướng thường. Như có người chê bai con người không có ngón tay, cũng là chê bai sắc, hương, vị, xúc, chỗ nương của ngón tay. Niết-bàn kia cũng giống như thế.

Lại có người nói: Ngoại đạo kia nói năm ấm là thường. Họ Thích nói: Niết-bàn là thường, chứ chẳng phải ấm. Người ngoại đạo kia nói như thế: Ngoại trừ ấm, lại không có thường. Vì nghĩa nầy, há chẳng phải hủy báng Niết-bàn chăng?

Khổ tạo ra kiến chấp vui, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là khổ là?

Đáp: Năm thọ ấm là khổ thật.

Hỏi: Các ngoại đạo kia, vì sao nói khổ là vui?

Đáp: Vì có được ít lúc vui, nên nói là vui. Như người hết giờ làm việc, được nghỉ ngơi là vui. Lúc đang nóng nực, được gió mát cảm thấy vui. Khi đang lạnh, gặp ấm là vui. Trong lúc đang đói khát, được uống ăn là cảm thấy vui. Vì việc nầy nên nói ấm là niềm vui.

Như nói dùng pháp phẩm hạ làm tối thượng, gọi là kiến thủ, tự tánh của kiến thủ đó do thấy khổ mà dứt, là đối trị của kiến thủ.

Hỏi: Khổ có kiến chấp vui, gọi là kiến thủ. Vì sao vô thường thấy thường, không gọi là kiến thủ?

Đáp: Vô thường thấy thường kia, nghĩa là pháp vượt hơn, không vượt hơn, đều đồng một thể. Tự có pháp, dù nói thường, vẫn không vượt hơn. Như chấp hư không phi số duyên diệt. Khổ có kiến chấp là vui, dùng pháp phẩm hạ làm tối thượng, gọi là kiến thủ. Vô thường thấy thường không gọi là kiến thủ.

Lại có người nói: Vì trong ấm có khổ lớn, nên lấy khổ nhỏ làm niềm vui. Vì cho niềm vui nhỏ nầy đồng với Niết-bàn, nên gọi là kiến thủ.

Vô thường thấy thường: Trong ấm không có một chút thường đồng với thường. Vì sao? Vì trong khoảng một sát-na, lại không có dừng trụ, là pháp tán diệt. Như nói: Thế nào là pháp lúc diệt? Đáp: Pháp hiện tại. Vì việc nầy nên vô thường thấy thường, đó gọi là biên kiến, không gọi là kiến thủ.

Vui tạo ra kiến chấp khổ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là nghĩa thật của vui?

Đáp: Vui, nghĩa là Niết-bàn Diệt tận.

Hỏi: Vì sao ngoại đạo kia cho Niết-bàn là khổ?

Đáp: Như con người khi hư hoại một căn, bèn cho là khổ. Người kia cảm nghĩ thế nầy: Nếu hư hoại một căn đã cho là khổ, huống chi là nhiều căn. Do việc nầy, nên cho pháp vui là khổ.

Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Nếu một căn tồn tại cũng là nhân khổ, huống chi là nhiều căn tồn tại sao không làm nhân của khổ. Nếu các căn diệt thì sẽ được giải thoát. Vui của Niết-bàn có kiến chấp khổ, đó gọi là tà kiến, là thể tánh của tà kiến, do thấy diệt mà đoạn, là đối trị với tà kiến kia. Kiến nầy dựa vào diệt sinh, trở lại do thấy diệt mà đoạn, như hạt sương đọng lại trên ngọn cỏ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao kiến chấp Niết-bàn là khổ, gọi là tà kiến, chẳng phải thấy đạo đế? Như nói đạo đế cũng là niềm vui, vì có thể tiến đến an vui?

Đáp: Đạo có hai phần: Phần khổ, phần vui. Vì đạo có thể dẫn đến chốn an vui, nên gọi là phần vui. Vì vô thường nên khổ, gọi là phần khổ. Niết-bàn không có hai phần, chỉ thuần là vui. Người chê bai, tức là tà kiến. Đạo đế thì không như vậy.

Lại có người nói: Như nơi Kiền-độ Kiến đã nói: Có hai thứ vui:

  1. Niềm vui của danh số.
  2. Niềm vui của nghĩa thật.

Trên đã nói có thể tiến đến chốn an vui, đó gọi là niềm vui của danh số, chẳng phải niềm vui của nghĩa thật.

Lại nữa, vì niềm vui Niết-bàn, nên đạo được gọi là vui.

Hỏi: Vì có tà kiến có thể duyên theo Niết-bàn là khổ chăng? Nếu có thì làm sao hiểu Kinh Ba-già-la-na? Như nói: Thế nào là sử tà kiến sai khiến?

Đáp: Mọi thứ chê bai không có nhân, không có tạo tác, cho đến nói rộng. Nên như đã nói trong trường hợp thường chấp vô thường ở trên.

Bất tịnh chấp là tịnh:

Hỏi: Thế nào là bất tịnh?

Đáp: Tất cả pháp hữu lậu vì có hai việc, nên bất tịnh:

  1. Do phiền não.
  2. Do cảnh giới.

Các ngoại đạo kia, vì sao mà bất tịnh chấp là tịnh?

Đáp: Vì ngu tối đối với việc mình đã làm. Vì có một chút thời gian được tịnh, như cắt móng tay, đánh răng, chải tóc, xoa bóp thân, tắm gội v.v… Do những việc nầy, nên người kia cho là tịnh. Nếu trong pháp nầy có một chút tánh tịnh, thì lối chấp của ngoại đạo kia chẳng phải tà kiến. Vì tưởng điên đảo, nên đã chấp tiểu tiện, đại tiện, ruột, bao tử v.v… là tịnh, nên gọi là kiến thủ.

Lại nên dùng hai việc để nhận biết hành hữu lậu là pháp bất tịnh:

  1. Từ phiền não sinh.
  2. Từ dâm dục sinh.

Như nói: Dùng pháp phẩm hạ làm pháp tối cao, đấy gọi là kiến thủ, là tự tánh của kiến thủ, do thấy khổ mà dứt, là đối trị kiến thủ đó, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thấy nước tiểu, đại tiện, mũi dãi chảy ra trước mắt, sao ngoại đạo kia lại cho là tịnh?

Đáp: Ngoại đạo kia nói rằng: Chất chảy ra dù là bất tịnh, nhưng chỗ chảy ra là tịnh. Cũng như hoa của cây Khẩn-thủ-ca, màu sắc của nó trông giống hệt miếng thịt. Khi hoa nở rộ, loài dã can thấy bèn nghĩ thầm: Hôm nay ta nhất định sẽ được ăn thịt. Nó đứng chờ thật lâu bên cội cây, khi có hoa rụng xuống đất, nó vội chạy đến ngửi mới biết chẳng phải thịt. Nó lại nghĩ: Hoa rụng chẳng phải thịt, nhưng những đóa hoa khác còn ở trên cành cây, chắc chắn phải là thịt.

Các ngoại đạo kia cũng giống như thế. Các chất từ thân chảy ra, dù chẳng phải tịnh, nhưng chỗ chảy ra tất phải là tịnh.

Hỏi: Như trong pháp giảng nói thiện, cũng nói về hành thiện hữu lậu là tịnh, mà chẳng phải tà kiến, còn thuyết của ngoại đạo kia là tà kiến?

Đáp: Có một chút tướng tịnh, bèn chấp là ít tịnh.

Hỏi: Những gì là tướng tịnh?

Đáp: Phiền não không xen lẫn, lại trái với phiền não, cho nên chẳng phải tà kiến. Trong pháp giảng nói ác kia, cho pháp bất tịnh đồng với nghĩa thật của pháp thanh tịnh, đó gọi là tà kiến.

Lại có người nói: Như trong pháp giảng nói thiện, vì cho hành thiện là tịnh, nên chẳng phải tà kiến. Ngoại đạo kia vì cho hành thiện, bất thiện, căn bất thiện, phiền não, tà kiến điên đảo là tịnh, nên gọi là tà kiến.

Hỏi: Như pháp hữu lậu, phiền não xen lẫn, nên biết là bất tịnh, sao lại nói là ba tịnh?

Đáp: Nghĩa như thật: Tất cả pháp hữu lậu đều là bất tịnh, vì giả danh nên nói tịnh. Giả danh là sao? Từ căn thiện không tham, không giận, không si sinh ra, cũng có thể đối trị pháp tham dục v.v…, nên gọi là giả danh.

Tịnh chấp bất tịnh, kiến chấp nầy có hai thứ, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là tịnh?

Đáp: Đạo và quả của đạo.

Hỏi: Các ngoại đạo kia, lấy việc gì để nói diệt, đạo là bất tịnh?

Đáp: Ngoại đạo kia nói như thế nầy: Như thật nghĩa nơi các phiền não là pháp bất tịnh, đạo có thể dứt trừ bất tịnh đó. Vì đạo có thể dứt trừ các phiền não, nên đạo cũng bất tịnh. Do Niết-bàn từ đạo bất tịnh sinh, nên cũng là bất tịnh. Giống như dùng dao để cắt vật bất tịnh, thì dao cũng là bất tịnh. Do dao bất tịnh lại cắt vật khác, nên có thể làm cho vật khác bất tịnh.

Lại như đem nước rửa vật bất tịnh, thì nước bất tịnh. Nếu dùng nước bất tịnh nầy lại rửa vật khác, dĩ nhiên vật khác cũng bất tịnh.

Cũng như thế, dùng đạo dứt các phiền não, tức là đạo bất tịnh. Nếu dùng đạo nầy để sinh vào Niết-bàn, thì Niết-bàn cũng là bất tịnh.

Nói đạo là bất tịnh, kiến chấp nầy gọi là tà kiến, là tự tánh của tà kiến đó, do thấy đạo dứt, là đối trị tà kiến ấy.

Nếu nói diệt là bất tịnh, thì kiến chấp nầy gọi là tà kiến, là tự tánh của tà kiến, do thấy diệt mà đoạn là đối trị tà kiến đó. Thấy đạo dứt tà kiến, duyên theo đạo sinh. Nếu lúc đạo trí đạo nhẫn sinh dứt thấy diệt, dứt tà kiến cũng giống như thế.

Vô ngã, chấp ngã, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là vô ngã?

Đáp: Tất cả pháp là vô ngã.

Hỏi: Các ngoại đạo kia đã lấy việc gì để chấp ngã?

Đáp: Vì ngu tối đối với pháp oai nghi đến đi, nên ngoại đạo kia đã nói lời thế nầy: Nếu không có ngã, thì ai đến, ai đi? Ai đứng, ai ngồi? Ai co vào, ai duỗi ra? Vì có ngã, nên mới có thể đến, đi, đứng, ngồi, co, duỗi. Hơn nữa, nếu không có ngã, thì sẽ không có những sự thấy, nghe, ngửi mùi hương, biết vị, cảm xúc xúc chạm và nhớ nghĩ. Vì những việc nầy, tất biết là có ngã.

Ngoại đạo kia không có ngã chấp có ngã, đấy gọi là thân kiến, là tự tánh của thân kiến do thấy khổ mà dứt, là đối trị thân kiến kia.

Kiến nầy duyên theo khổ sinh, cho đến nói rộng. Ngã có hai thứ:

  1. Ngã giả danh.
  2. Ngã chấp nhân.

Nếu chấp ngã giả danh, thì chẳng phải tà kiến. Nếu là ngã chấp nhân, thì đó là tà kiến.

Hỏi: Trong đây chỉ nói ngã kiến, vì sao không nói ngã sở kiến?

Đáp: Vì ngã kiến là tánh điên đảo, ngã sở kiến chẳng phải tánh điên đảo.

Lại có người nói: Ngã kiến là căn bản, nếu nói ngã kiến phải biết là cũng đã nói ngã sở kiến.

Lại có người nói: Do có ngã kiến, nên có ngã sở kiến. Nếu nói ngã kiến, phải biết là cũng đã nói ngã sở kiến. Kiến chấp của mình thì đối tượng được kiến chấp của mình cũng giống như thế.

Hỏi: Vì sao không nói ngã kiến là vô ngã mà gọi là tà kiến?

Đáp: Vì không có ngã.

Lại có người nói: Nếu ngã kiến không có ngã, tức là chánh kiến, không gọi là tà kiến.

Chẳng phải nhân chấp là nhân, cho đến nói rộng.

Hỏi: Ngoại đạo kia vì sao chẳng phải nhân mà chấp là nhân?

Đáp: Vì chấp lầm nhân. Ví như nhà nông gieo trồng vào mùa thu, sẽ thu hoạch lúa chắc hạt. Ngoại đạo kia nói rằng: Đấy đều là sự ban ân của trời Thi Lợi Dạ, trời Tư Đà Dạ, và trời Xá Ma Dạ. Nếu sinh con trai, con gái, ngoại đạo kia nói rằng: Đây đều là sự ban cho của trời Nan Đà, trời Nan Đà-bà La. Nếu là người giàu sang, sinh con trai, con gái, ngoại đạo kia nói rằng: Kết quả nầy đều là do trời Tỳ Nữu, trời Ma Hê Thủ La đã ban cho.

Ngoại đạo kia đã tạo ra kiến chấp sai lầm như thế đối với nhân, chẳng phải nhân chấp là nhân. Đó gọi là giới thủ, là tự tánh của giới thủ, do thấy khổ mà dứt, là đối trị giới thủ đó. Giới thủ nầy, vì duyên với khổ sinh, nên lại do thấy khổ mà dứt bỏ.

Hỏi: Không có nhân chấp là nhân, cũng gọi là chê bai nhân, sao chẳng phải tà kiến?

Đáp: Tôn giả Hòa-tu-mật nói: Nếu chê bai không có nhân thì gọi là tà kiến. Ngoại đạo kia không nói là không nhân, chỉ chẳng phải nhân mà chấp là nhân, nên chẳng phải tà kiến.

Có nhân chấp không nhân, cho đến nói rộng.

Hỏi: Các ngoại đạo kia, vì lấy việc gì để nói là không nhân?

Đáp: Vì thấy các vật trong ngoài hiện có, có đủ các thứ tướng, ngoại đạo kia mới nói rằng: Ai đào sông? Ai đắp núi? Ai đan thêu? Ai họa hình cầm thú? Nên nói kệ:

Ai hay làm thêu dệt
Họa hình các cầm thú?
Đấy đều không nhân, tạo
Đời không có tự tại!

Có nhân, chấp không nhân, đó gọi là tà kiến, là tự tánh của tà kiến, do thấy tập dứt, là đối trị của tà kiến. Kiến nầy duyên với tập sinh, trở lại do thấy tập dứt, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao trong đây nói tà kiến chê bai nhân, do thấy tập dứt, còn trong Kiền-độ Kiến, nói tà kiến chê bai nhân, phải nói là do thấy tập, thấy đạo dứt?

Đáp: Hoặc có người nói: Đây là ý của người soạn kinh muốn thế, cho đến nói rộng.

Lại có người nói: Trong đây không nói nghĩa của tất cả nhân. Còn phần luận kia thì nói nghĩa của tất cả nhân.

Lại có người nói: Trong đây chỉ chê bai nhân sinh quả, còn trong phần luận kia nói chê bai cả nhân sinh ra quả và nhân không sinh ra quả.

Nếu nói Niết-bàn không có nhân, thì đấy há chẳng phải chánh kiến.

Lại có người nói: Trong đây, nói chê bai về nhân của khổ, còn trong phần luận kia nói chê bai nhân của khổ và nhân của không khổ.

Lại có người nói: Trong đây không có chê bai nghĩa nhân của đạo, cho nên không nói là tà kiến chê bai đạo, chỉ có chê bai nghĩa nhân của tập, vì cho nên nói là tà kiến chê bai tập.

Có, tạo kiến chấp không, cho đến nói rộng.

Hỏi: Thế nào là có?

Đáp: Là bốn đế.

Hỏi: Các ngoại đạo kia do việc gì mà nói không có đế?

Đáp: Vì có ngã kiến, nên nói không có đế. Ngoại đạo kia nói rằng:

ngã không có khổ, tức là chê bai khổ. Ngã không có nhân, tức là chê bai tập. Nếu ngã không có diệt, tức là chê bai diệt, vì nếu không có diệt thì không có đối trị. Như trong pháp thiện, nói rằng: Ấm nầy là khổ, không ngã, sinh niềm tin. Tâm khổ nói là có khổ đế, khổ nầy có nhân, sinh niềm tin. Tâm tập nói có tập đế. Nếu khổ có diệt, sinh niềm tin. Tâm diệt nói có diệt đế. Nếu khổ có đối trị thì sinh niềm tin. Tâm đạo nói có đạo đế. Ngoại đạo kia tạo ra vô kiến thì đó gọi là tà kiến, là tự tánh của tà kiến kia, do thấy khổ tập diệt đạo dứt, là đối trị tà kiến kia. Kiến nầy duyên với bốn đế sinh, trở lại do kiến bốn đế dứt, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao tà kiến không duyên với hư không, phi số duyên diệt?

Đáp: Hoặc có người nói: Nếu pháp là ấm, là nhân của ấm, là diệt của ấm, là đối trị của ấm, thì tà kiến tức duyên theo hư không phi số duyên diệt. Vì chẳng phải nhân của ấm, diệt của ấm, đối trị ấm, cho nên tà kiến không duyên.

Lại có người nói: Nếu pháp là khổ, là nhân của khổ, là diệt của khổ, là đối trị của khổ, tức tà kiến duyên theo hư không phi số duyên diệt. Vì trái với trên, cho nên tà kiến không duyên.

Lại có người nói: Nếu pháp là phiền não, là xuất ly, tức tà kiến duyên theo hư không phi số duyên diệt, do trái với trên cho nên tà kiến không duyên.

Lại có người nói: Nếu pháp là sở duyên của chánh kiến vô lậu, cũng là sở duyên của tà kiến, thì tà kiến duyên theo hư không phi số duyên diệt. Vì không là sở duyên của chánh kiến, nên tà kiến không duyên. Như tà kiến – chánh kiến, sáng suốt – chẳng sáng suốt, trí – chẳng phải trí, quyết định – nghi ngờ, tin tưởng – chê bai, nên biết cũng giống như thế.

Hỏi: Nếu nói không hư không phi số duyên diệt, thì tâm nầy là sở duyên nào?

Đáp: Tức duyên theo danh hư không phi số duyên diệt. Vì sao? Vì ở đây không có tâm sâu nặng, như phiền não hủy báng pháp xuất ly.

Hỏi: Vì là trí nào?

Đáp: Đây là trí vô ký không ẩn mất, do tư duy dứt.

Có, tạo kiến chấp không. Về có, có ba thứ:

  1. Có đối đãi nhau.
  2. Có xứ sở.
  3. Có thật.

Có đối đãi nhau, nghĩa là vì nhân có nên có, không, vì nhân không nên có, có.

Có xứ sở, nghĩa là chỗ nầy có, chỗ kia không có.

Có thật, nghĩa là: Đây là có thật, đây là không có thật. (Như khổ là có thật. Ngã là không có thật)

Lại có người nói: Về có, có hai thứ:

  1. Có vật thể.
  2. Có nêu đặt.

Có vật thể, nghĩa là năm ấm.

Có nêu đặt, nghĩa là nam, nữ v.v…

Chê bai khổ có hai thứ:

  1. Chê bai vật thể.
  2. Chê bai quả.

Nếu chê bai tập là chê bai vật thể, chê bai nhân.

Nếu chê bai diệt là chê bai vật thể, không chê bai quả.

Nếu chê bai đạo là chê bai vật thể, không chê bai nhân.

Hoặc có người nói: Cũng chê bai nhân.

Không mà tạo kiến chấp có, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao soạn luận nầy?

Đáp: Hoặc có người nói: Nên lập ra thuyết như vầy: Nếu không mà tạo kiến chấp có, phải nói là thân kiến, do thấy khổ mà dứt.

Lại có người nói: Nên nói như thế: Không mà cho là có là tuệ. Vì sao? Vì đấy chẳng phải tánh của kiến.

Lại có người nói: Nên lập ra thuyết như vầy: Đây chẳng phải kiến. Vì sao? Vì nơi năm kiến không nói đến, mà không nói thì người kia có ý gì?

Đáp: Vì ý muốn lập ra sự hỏi đáp. Như nói: Không mà tạo ra kiến chấp có, đó là kiến gì? Như vậy gọi là hỏi. Đó chẳng phải kiến. Đó gọi là đáp.

Tự có, dù không có việc nầy mà vẫn có hỏi, đáp. Như trong phẩm Mười môn nói về vị tri dục tri căn, tri căn, tri dĩ căn, pháp vô lậu, vô vi, cũng là hỏi. Có bao nhiêu sử sai khiến, đấy cũng là hỏi.

Đáp: Không bị sử sai khiến, đấy cũng là đáp. Như người kia dù không có việc nầy mà vẫn có hỏi, đáp. Đây cũng giống như thế, không có việc nầy màvẫn lập ra hỏi đáp.

Hỏi: Không mà tạo kiến chấp có, đây là kiến gì?

Đáp: Đây chẳng phải kiến, mà là tà trí.

Hỏi: Tà trí là sao?

Đáp: Hoặc có người nói: Là pháp vô ký không ẩn mất do tư duy dứt. Ví như đang đi trên đường chánh mà khởi tưởng là đi trên đường lầm lạc. Như đang đi trên đường lầm lạc, mà khởi tưởng là đường chánh. Như người nam, khởi tưởng là nữ. Cô gái khởi tưởng là nam. Có những tưởng như thế v.v… gọi là tà trí.

Lại có người nói: Trí nầy cũng là vô ký có ẩn mất, đó là tương ưng với mạn. Như Phạm thiên kia đã nói rằng: Ta là Đại Phạm, tôn quý trong các Phạm thiên. Ta có thể tạo tác biến hóa… Đó là tà trí. Vì sao? Vì không có trụ nơi kiến đế, tâm đã dứt, lại có thể nói lên lời ấy.

Nên nói lời nầy: Như thuyết trước là tốt: Là pháp vô ký không ẩn một, do tư duy dứt.

Hỏi: Nếu vậy thì trái với phần Kiền-độ Trí đã nói. Như nói: Thế nào là tà trí? Đó là tuệ nhiễm ô?

Đáp: Không trái với phần Kiền-độ Trí kia. Vì sao? Vì vô tri có hai thứ: Đó là thật nghĩa và giả danh. Thật nghĩa là tương ưng với sử vô minh, các A-la-hán đã dứt sạch. Giả danh nghĩa là như thoáng thấy gốc cây trụi cho là con người v.v…, các bậc A-la-hán, Bích-chi Phật cũng có. Chỉ có Như lai Đẳng chánh giác dứt trừ hết hai thứ nầy.

Có bốn điên đảo, đó là thường, lạc, tịnh, ngã. Vì bị pháp tương tự che lấp, nên không biết vô thường. Vì bị pháp oai nghi vừa ý che lấp, nên không biết là khổ. Vì bị da thịt che lấp, nên không biết bất tịnh. Và vì bị che lấp do việc mình đã làm, nên không biết vô ngã.

Hỏi: Tánh của bốn điên đảo nầy là gì?

Đáp: Là tánh của tuệ.

Hỏi: Nếu là tuệ thì trong năm kiến nầy, có bao nhiêu là điên đảo, bao nhiêu là không điên đảo?

Đáp: Có hai kiến rưỡi là điên đảo, hai kiến rưỡi chẳng phải điên đảo.

Hai kiến rưỡi là điên đảo, đó là thân kiến, kiến thủ và thường kiến thuộc về biên kiến. Hai kiến rưỡi chẳng phải điên đảo, đó là tà kiến, giới thủ và dứt kiến thuộc về biên kiến.

Hỏi: Vì sao hai kiến rưỡi là điên đảo, còn hai kiến rưỡi thì chẳng phải điên đảo?

Đáp: Vì ba việc, nên gọi là điên đảo:

  1. Chuyển hành.
  2. tăng ích.
  3. Tánh điên đảo.

Tà kiến, dứt kiến dù là chuyển hành, tánh điên đảo, nhưng chẳng phải tăng ích. Vì sao? Vì là tánh của vật thể hư hoại. Giới thủ tuy là chuyển hành, dù là tánh tăng ích, nhưng chẳng phải điên đảo. Vì sao? Vì có một chút pháp tương tự, cũng nói là có đạo cõi Sắc, có thể lìa dục cõi Dục, có đạo cõi Vô sắc, có thể lìa dục cõi Sắc. Đó là tự thể của điên đảo, là ngã, là vật thể, là tướng, là phần, là tánh.

Đã nói về tự thể, nay sẽ nói về lý do.

Hỏi: Vì nguyên do gì gọi là điên đảo?

Đáp: Vì điên đảo có đối tượng tăng nên gọi là điên đảo. Bốn điên đảo nầy chỉ do thấy khổ mà dứt. Vì sao? Vì chúng duyên theo khổ sinh, rồi trở lại do thấy khổ mà dứt.

Hơn nữa, điên đảo nầy duyên theo quả sinh, trở lại dùng tuệ của kiến quả dứt.

Lại nữa, thân kiến do thấy khổ mà dứt, tánh là điên đảo. Nếu thân kiến đã dứt thì khổ cũng dứt.

Lại nữa, khổ thô, nếu có kẻ ngộ nhận về khổ thô thì sẽ bị các Hiền Thánh quở trách. Ví như người nơi ban ngày có mặt trời mà đi lạc sẽ bị nhiều người quở trách. Ba đế thì vi tế, nếu có người ngộ nhận về khổ vi tế, thì sẽ không bị quở trách nặng. Ví như có kẻ lỡ đi lạc giữa ban đêm, thì người đời sẽ không quở trách nặng.

Hơn nữa, hành giả đã thấy khổ, không bao giờ có tâm điên đảo. Nếu đúng hành giả thấy khổ rồi mà không thấy tập, thì không có việc đó! Vì để phân biệt, nên giả thiết thấy khổ rồi, lại không kiến những đế còn lại. Nếu có kẻ hỏi người kia: Ấm nầy là thường hay là vô thường? Người kia nhất định đáp: Là vô thường, cho đến không có một sát-na dừng lại. Nếu hỏi: Là khổ hay là vui? Người kia nhất định đáp: Là khổ, cũng như hòn sắt nóng. Nếu hỏi: Là tịnh hay là bất tịnh? Người kia nhất định đáp: Là bất tịnh, như đống phân. Nếu hỏi: Có ngã hay không có ngã? Người kia nhất định đáp: Không có ngã, vì không người tạo tác. Không có người tạo tác nên không có kẻ thọ nhận, như cỏ, cây, chổi quét, phân v.v…