Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Giảng Lục

IV/ Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Giải Thoát

Chánh văn:

Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ tát: “Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát”.

Giải:

Đã có lời thưa hỏi của Vô Tận Ý Bồ tát như trên. Cho nên Đức Phật mới có lời đáp này. Đoạn này là Tổng đáp. Dưới đây lại đáp riêng cứu bảy nạn, giải ba độc, ứng hay cầu thảy. Lời của kẻ trên nói xuống gọi là Bảo. Phật nhân lời hỏi của Bồ tát mới đáp lại bảo cho biết, nên gọi là Phật Bảo Vô Tận Ý Bồ tát. Ba chữ Thiện nam tử là Đức Phật gọi Vô Tận Ý. Thiện là ý nghĩa tốt đẹp. Các vị nam Cư sĩ gọi là Thiện nam tử, nữ Cư sĩ là Thiện nữ nhân. Thiện có quá khứ hiện tại hai thứ. Quả báo đời trước là quá khứ; vun vén hiện thời là hiện tại. Thân người khó được nay đã được, Phật pháp khó nghe nay được nghe. Quý vị đến đây nghe giảng Kinh đều đã có thiện căn, cần phải nắm lấy thời cơ nghe Pháp, rồi về vun đắp căn lành của mỗi cá nhân cho thêm tăng trưởng. Sao gọi Nam tử? Là có chí khí đại trượng phu, quả quyết thẳng thắn, khi đau khổ, khi an vui, không có tâm chênh lệch, quanh co. Bạn nữ nhân năng bình thản nghe giảng Kinh chẳng áy náy, ủy mỵ tuy là nữ mà cũng là nam, cho nên cũng có thể xưng là Thiện nam tử được vậy. Thiện là điều nhu, Nam là chất trực. Cả hai đức tánh ấy đầy đủ mới gọi là Thiện Nam Tử.

Nay giải thích nguyên do tại sao mà gọi là Quán Thế Âm Bồ tát vậy. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh, đang khi chịu các khổ não, nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, liền khi đó Bồ tát quán sát tiếng tăm ấy đều được giải thoát. Nhân vì Quán Thế Âm Bồ tát, Thần thông quảng đại mà chúng sanh lại là chúng sanh trong tâm Bồ tát vậy. Chúng sanh trên thế giới thọ khổ não nhiều vô số lượng. Mà thân thể của nó đều do bốn Đại, năm Uẩn hòa hiệp lại mà thành. Năm Uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức, hoặc gọi là năm Ấm. Uẩn là nhóm hợp. Ấm là che khuất.

– Sắc, tức là đất nước gió lửa, bốn món này làm thành thân thể, và năm căn, năm trần.

– Thọ, là năm căn lãnh thọ các điều khổ vui năm tiền trần cảnh giới. Đấy chỉ cho thọ tâm sở, cũng có thể chỉ cho tiền ngũ thức.

– Tưởng, là tâm niệm tư tưởng, thường thường chuyển khởi lên niệm đầu là tốt là xấu. Đấy chỉ cho tưởng tâm sở, cũng có thể chỉ cho ý thức thứ sáu.

– Hành, là niệm trước đã qua, niệm sau nối sanh, một niệm rồi một niệm nối luôn, sanh diệt chẳng dứt gọi là Hành. Đây cũng có thể chỉ cho thức thứ bảy.

– Thức, là Phật biệt rõ ràng nhận biết thứ này tốt, cái kia xấu. Đây chỉ chung cho tám Thức Tâm Vương, cũng có thể chỉ riêng thức thứ tám. Ban đầu chúng ta thọ sanh (tức là bắt đầu đi nhận lấy một đời sống) là nghiệp thức tức là thức thứ tám tên A Lại Da thức. Khi sanh nó đến trước, khi chết nó đi sau. Cứ như thế từ vô lượng kiếp đến nay sanh sanh tử tử chưa hề ngừng nghỉ một khắc. Chúng ta bởi năm Uẩn này hòa hiệp mà sanh cho nên gọi là chúng sanh.

Ngàn vạn là một ức. Gọi trăm ngàn vạn ức chúng sanh là nói chúng sanh nhiều đến vô lượng vô biên. Trung Quốc có trăm ngàn vạn ức chúng sanh của Trung Quốc; ngoại quốc trăm ngàn vạn ức chúng sanh của ngoại quốc. Bốn đại bộ châu, Tam thiên đại thiên thế giới, cho đến Súc sanh đạo là loại chim bay thú chạy, cá, ốc, rùa, trạnh, Ngạ quỷ, Địa ngục… đều có vô lượng vô biên trăm ngàn vạn ức chúng sanh. Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh là chúng sanh ba ác đạo, gọi đó là ác ngũ ấm chúng sanh. Thiên đạo, Nhân đạo và A tu la đạo, ba đạo này gọi là thiện ngũ ấm chúng sanh. Cho nên trên đến thiên đường, dưới đến Địa ngục đều có trăm ngàn vạn ức hữu lậu ngũ ấm chúng sanh. Suy cho rộng ra: Nhị thừa là vô lậu ngũ ấm chúng sanh. Bồ tát là nhị biên ngũ ấm chúng sanh; cũng đều có trăm ngàn vạn ức nhiều vô lượng vô biên.

Bị trói buộc ngoài thân là khổ; bị bức ngặt trong tâm là não. Địa ngục Ngạ quỷ và Súc sanh ba ác đạo này, ngày ngày chịu bao nhiêu nhiều vô lượng khổ não. Chúng sanh trong đạo Địa ngục có giảng nói bao nhiêu, đến bao giờ cũng chẳng xong cái khổ não vạn tử vạn sanh trong một ngày đêm. Mà khổ não của chúng sanh trong đạo Súc sanh là trăm ngàn vạn năm chẳng nghe được tên của nước uống: thấy thức ăn như than lửa, thấy nước uống như lửa hừng. Chúng sanh trong đạo Súc sanh có vô lượng khổ não là lớn nuốt nhỏ, mạnh lấn yếu. Đấy là những khổ não của chúng sanh trong ba ác đạo phải chịu lấy vậy. Nhãn quang chúng sanh cạn, tâm lượng nhỏ, nên sự thấy biết chỉ loài người và Súc sanh được một phần ít thôi. Kỳ dư thiên đường Địa ngục chưa từng thấy đến.

Chúng ta chẳng nên có quan niệm hẹp hòi rằng cái gì trong tròng con mắt chưa từng thấy đến cho là mê tín. Thí dụ như các nước Anh, Pháp, Đức, Nga chúng ta đều chưa đi đến, chẳng thấy, chẳng nên nói là chẳng có được. Lại như trước khi ông Kha Luân Bố tìm ra Tân Đại Lục, thời các nước Tây Ban Nha, Anh Cát Lợi đều chẳng biết có Tân Đại Lục. Mà Tân Đại Lục chưa từng chẳng có, Lại nữa, chẳng phải khi Kha Luân Bố tìm ra nó do hư không mà thành Mỹ Châu. Do đó đủ chứng minh rằng những lối lập luận mắt chưa thấy tới là không có, chẳng có thể đứng vững được. Nhân loại chúng ta có bao thiên tai, nhân họa, dân sanh chẳng sống được: Kinh tế sụp đổ, nông thôn phá sản, tà đảng rối loạn; thủy tai, nắng hạn, đao binh chết chóc, sâu bọ ăn hại mùa màng, tiếng than thở oán sầu đầy nhẩy nơi đồng nội. Các việc khổ não ấy, đưa mắt ra là thấy chỗ nào cũng có nhan nhản nhẩy đầy trong một xứ. Nhưng những khổ này đây có kia không, hoặc kia có đây không mà chẳng phổ biến. Khổ não của chúng nhiều vô lượng vô biên ai ai cũng đều chung có đầy đủ ước lại có tám thứ khổ:

  1. Sanh khổ: Đang khi nằm trong bụng mẹ chỗ nơi chật hẹp, hơi thở rất ngột ngạt; lại bị sanh tạng và thục tạng ép lại, tức là nằm trong thai ngục. Khi mẹ ăn những thức ăn nóng, thời Thai như nằm trên núi lửa, tức là Địa ngục hỏa sơn than hoạch (chảo nước sôi). Mà khi mẹ ăn thức ăn lạnh, thời Thai như nằm bên núi băng sơn, tức là Địa ngục hàn băng (núi lạnh). Khi mẹ cúi lưng xuống như núi đè xuống, tức là Địa ngục yểm sơn (núi ép). Khi mẹ vòng hai tay, thời Thai như treo giữa hư không, tức là Địa ngục đảo huyền (treo ngược). Đến khi sắp sanh sản, thời thai lại giống như từ hai quả núi mà dùi thủng chui ra, lại là hà Địa ngục núi ép một lần nữa. Sau khi ra khỏi thai Địa ngục, sa xuống đất, thân thể bị khí lạnh như dao đâm vào tim. Cho nên con nít mới ra khỏi lòng mẹ, nhất định là la khóc oa oa là bởi duyên cớ này vậy. Cái thứ đau khổ này nói đây là nói chứ chẳng hết được, vì chúng ta tự nhớ lại chẳng đầy đủ được vậy. Đấy là Sanh Khổ.
  2. Lão khổ: Cảnh luống tuổi già: mắt hoa tai điếc, răng rụng, tóc bạc, thở suyễn, huyết suy, ăn nuốt chẳng xuống, đi chẳng đến đâu, sợ lạnh, lo nóng, tức ngực, đau lưng; trời trở trở theo thời. Còn nhiều thứ khổ khác nữa. Đấy là Lão khổ.
  3. Bệnh khổ: Thân thể chúng ta do bốn Đại hợp lại mà thành. Một món Đại chẳng điều hòa thời sanh ra trăm bệnh. Một ngày nào đó, một Đại nào kia thất điều, bệnh khổ liền sanh: ôn dịch truyền nhiễm chóng lẹ, ác tật đeo mãi nơi thân, mủ máu nhớp cả thân thể. Khi muốn ngủ ngủ nó chẳng đến, khi đói muốn ăn mà nuốt chẳng xong. Đấy là bệnh khổ.
  4. Tử khổ: Món khổ này là khổ đặc biệt hơn hết. Khi sắp sửa giải tán cuộc sống, là thần trí mờ mịt, cả thân đau nhức, bốn chi mỏi mệt mềm nhừ, trăm khổ thay nhau nhận việc kịp thời. Đau khổ như trâu bị lột da, đao nhọn đâm vào thân. Mà những thứ khổ này khốn nỗi buông nó chẳng nới, vứt nó chẳng rơi. Thật chẳng có thể bút mực lời lẽ nào mà diễn tả hình dung cho hết được. Đấy là Tử khổ. Bốn món khổ trên đây, bất cứ nghèo, giàu, sang, hèn, trí, ngu, hiền, bất tiếu đều chẳng hay tránh khỏi được. Dầu cho hiếu tử hiền tôn đủ có hy vọng trân kỳ cho gia thế, nhưng chẳng may bất hạnh cho phúc nhà thời chẳng ai thay thế tí nào được cả. Sanh khổ thời ta chẳng nhớ được, tử khổ thời chưa hiểu tới. Mà hai khổ Lão, Bệnh thời mọi người đều đã nếm đến ít nhiều rồi cả.
  5. Ái biệt khổ: Dù là cha mẹ anh em, vợ chồng con cái, ruộng đất nhà cửa mọi thứ quí cần, tất cả là vật sở ái của tâm thường được ta gìn giữ chu đáo. Nhưng hoặc vì mưu sanh mà phải đi xa, cho nên chẳng thể sớm chiều đoàn tụ để gần người gần của; hoặc vì thọ số đến thời, phủi tay mà đi lặng lẽ. Hoặc bởi đao binh thủy hỏa các tai, các nạn, rồi kẻ đông người tây, mạnh ai nấy tìm đường mà chạy chẳng ai dìu dắt được ai. Đấy là Ái ly biệt khổ.
  6. Oán tắng hội khổ: Chúng tôi cùng quí vị từ hồi nào đến giờ oan gia đối đầu chẳng biết bao nhiêu mà tính. Chẳng muốn gặp mặt, mà vẫn lệch xệch đụng đầu. Chẳng những cùng thuyền cùng hội, mà còn đồng chiếu đồng bàn nữa là khác. Do đó mà sanh ra cho nhau biết bao nhiêu là phiền não khổ sở. Đấy là Oán tắng hội khổ.
  7. Cầu bất đắc khổ: chính là muốn điều này chẳng được điều này, muốn việc kia chẳng được việc kia. Cầu danh lợi chẳng được danh lợi. Cầu cơm áo chẳng được cơm áo. Cầu con cái chẳng được con cái và cầu giàu sang, sống lâu cũng đều chẳng được gì cả. Đấy là cầu chẳng được rất nhiều, rất nhiều.
  8. Ngũ ấm xí thịnh khổ: Ngũ ấm trước đã giảng qua rồi. Ấm là nghĩa che khuất. Năm ấm này che khuất trọn vẹn bản lai diện mục tức chơn tâm chơn tánh vậy. Rồi nó khiến người mê hoặc điên đảo. Mê cảnh chạy theo trần lao mà sanh khởi tham sân si ba độc, gây thành bao nhiêu tội ác, giống như cây khô gặp lửa, chắc chắn cháy rụi thành tro. Những tám món khổ não trên đây cố nhiên đâu những nhân loại mới có mà trên đến Tứ thiên, Đao lợi, sáu cung trời ở cõi Dục vẫn còn bị phải năm món khổ não suy tướng hiển hiện. Năm suy là: Một là hoa trang điểm trên đầu bị héo, hai là áo quần nhớp vì bụi, ba là nách chảy mồ hôi, bốn là thân thể hôi uế, năm là chẳng vui muốn ngồi chỗ thường ngồi. Những người trời ở cõi Sắc cũng còn bị khổ não ba tai: nước, lửa, gió. Cho nên người ta chẳng muốn sanh làm người trời để hưởng phước báo. Một khi phước báo ấy hết vẫn phải bị đọa lạc như xưa. Mà nên tu niệm Phật, vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới mới có thể khỏi bị các khổ não kia vậy.
  9. Chữ Các là nhiều. Là nói các khổ não lắm nhiều. Cũng là chính chỉ rõ cho chúng ta biết từ nhỏ đến già đã chịu lấy biết bao nhiêu khổ não. Một người chịu một khổ, một người chịu nhiều khổ là nói về biệt nghiệp riêng của mỗi người như các khổ sanh bệnh vậy. Hoặc là nhiều người chịu nhiều khổ là nói về cộng nghiệp chung cho mọi người như cùng gặp các tai nạn giặc giã, đói kém. Nay nói trăm ngàn vạn ức vô lượng chúng sanh chịu các khổ não, tức là nhiều khổ chúng sanh chịu biệt nghiệp, cộng nghiệp vô lượng khổ não. Lúc thiếu thời chúng ta phải chịu sự ràng buộc của gia đình, là khổ gia đình ngục. Khi trưởng thành lại bị danh cương lợi tỏa, là khổ danh lợi ngục. Thứ mà trói buộc chúng ta chặt chẽ hơn hết là vợ với con, khổ này lắm hơn lao ngục thế gian. Thế gian lao ngục còn có ngày phóng thích, chứ thê tử lao ngục không có một ngày giải thoát. Trừ phi chẳng cưới vợ sanh con, hoặc là vợ chết con biệt lập, may ra có thể thoát khỏi được khổ này mà thôi. Chúng ta đã có những bao khổ não khó tránh như thế, vậy mà chẳng những chẳng nhìn nhận, trái lại đem khổ ấy cho là vui, thật đáng buồn cười hết chỗ nói! Như có một hạng người nào đó lao tâm khổ lực khó nhọc trọn ngày, đem mồ hôi nước mắt đổi lấy kim tiền. Khi được rồi đem dùng uống rượu, đánh bạc những việc không mấy ích. Nên có câu:

Tân khổ tầm tiền khoái lạc dụng.

Nghĩa: Khó nhọc kiếm tiền dùng khoái lạc.

Chẳng biết đem tiền của cúng dường Tam bảo, hay dùng Phóng sanh chẩn tế.

Tiếp: Nhiên nhi ngật tửu dung tị tý.

Là: Nhưng mà uống rượu say dễ dàng.

Rồi nhân đấy sanh sự bậy bạ lôi thôi. Ai cũng biết cái hại đánh bạc, một bại mất ngàn vàng, ngồi nhìn của đi khó trở về lại. Thật là khổ não thật. Càng suy nghĩ càng đau đớn, ai chẳng rởn gáy giật mình.

Từ trước đến đây đã nói trăm ngàn vạn ức lục đạo hữu lậu chúng sanh, cái khổ não của nó tóm lại là: Cõi Đồng cư lục đạo hữu lậu ngũ ấm chúng sanh có những khổ não là phân đoạn sanh tử khổ, kiến tư phiền não khổ. Thanh văn Duyên giác Nhị thừa đã xong được phân đoạn sanh tử là vô lậu ngũ ấm chúng sanh, nhưng vẫn giữ thái độ tiêu cực, chẳng chịu độ sanh. Cho nên tuy là vô lậu chúng sanh mà cứ uống rượu tam muội là thiền định, sa vào trong hố vô vi, và ở trong cõi phương tiện, vẫn còn chịu hai khổ là phương tiện biến dịch sanh tử khổ và trần sa phiền não khổ. Bồ tát là nhị biên ngũ ấm chúng sanh: một bên độ người lại một bên tự tu chẳng thể viên dung được, nên còn ở trong cõi thật báo chịu hai khổ là vi tế biến dịch sanh tử khổ và căn bổn vô minh phiền não khổ. Bởi vì chúng sanh Tam Thừa là niệm niệm sanh diệt, nhân dời quả đổi, lưu trú quá ư vi tế, cho nên gọi là sanh tử, tức là tâm niệm sanh diệt mà cho là sanh tử. Cõi phương tiện, cõi Thật báo Tam Thừa chúng sanh cũng có nhiều vô lượng trăm ngàn vạn ức, cho nên phạm vi trăm ngàn vạn ức quá ư rộng rãi, Bồ tát, La Hán đều bao gồm trong đó cả. Quán Thế Âm Bồ tát không khổ nào chẳng cứu, không chúng sanh nào chẳng độ; tức là thứ khổ của Bồ tát, La Hán Ngài cũng cứu độ. Cho nên đấy nên Bồ tát, Duyên giác, La Hán đều cần niệm Quán Thế Âm, không một hạng nào chẳng nhờ quảng đại linh cảm của Bồ tát. Quán Thế Âm Bồ tát cứu khổ cứu nạn cho chúng sanh chín cõi pháp giới, cho nên xưng là Đại từ Đại bi Cứu khổ Cứu nạn Quảng đại Linh cảm Quán Thế Âm Bồ tát.

Từ trước có người buôn gạo ở xứ Thượng Ngu, tỉnh Chiết Giang. Trong nhà phụng thờ Đức Quán Thế Âm rất thành kính. Nhà chỉ có hai vợ chồng mà thôi. Một đêm chủ nhà nằm mộng thấy Quán Thế Âm Bồ tát đến mách rằng: Ngươi sắp bị đại nạn, nên Ta đến đây để cứu ngươi. Sau đó liền nói bài kệ bốn câu và dặn dò người chủ nhà phải cần nhớ cho đầy đủ, rõ ràng, chắc chắn từng chữ, từng câu một. Bài kệ bốn câu:

Gặp cầu đừng đậu ghe.

Gặp dầu lấy xoa đầu.

Đấu lúa ba thưng gạo.

Lẳng xanh bu đầu bút.

Nguyên văn:

Phùng kiều mạc đình châu.

Ngộ du tức mạc đầu.

Đẩu cốc tam thăng mễ.

Thương thằng bổng bút đầu.

Sau khi tỉnh giấc, ông ta nhớ được rất rõ ràng và đầy đủ bốn câu cộng tất cả 20 chữ và cho là quái lạ! Bởi thế nên nhớ rất chắc chắn chẳng quên tí nào. Qua ngày sau, nhân ông mướn ghe để đi chở lúa gạo, ghe đi giữa đường chẳng may gặp phải gió mưa dữ dội. Người bạn ghe có ý muốn đậu ghe dưới mạn cầu để tạm tránh mưa gió. Người chủ ghe liền sực nhớ lại việc trong mộng, nhớ câu “Gặp cầu đừng đậu ghe”. Ông liền đốc suất bạn ghe cho ghe lướt nhanh tới đừng nên đậu. Lúc chiếc ghe vừa lướt qua khỏi cầu thì cầu liền sập ngay, đè sát mặt nước. Hú vía thoát chết một lần. Nhân đấy ông ta cảm nghiệm được sự linh ứng của Bồ tát Quán Thế Âm Và từ đấy trở đi càng tụng niệm, càng lễ bái nhiều hơn nữa.

Lại một đêm hôm, đang lúc ông quỳ tụng chưa đứng dậy, bỗng nhiên chiếc đèn huyền đăng treo trước bàn Phật từ trên rơi xuống, dầu trong đèn đổ ra lai láng. Do câu đầu của kệ đã có ứng nghiệm, mà giờ đây lại gặp dầu đổ và câu thứ hai trong kệ chính là nói chuyện dầu, cho nên ông liền tay hốt dầu dưới đất mà thoa lên đầu. Xong ông bái Phật, đứng dậy thản nhiên đi ngủ. Ngủ quá nửa đêm ông thức dậy nghe có mùi máu tanh tanh, ông liền lấy đèn soi thấy người vợ bị đứt cổ họng chết ngay. Chẳng biết ai giết. Ông ta tức tốc chạy băng báo cáo cho nhạc gia biết liền lúc đó. Khi ông bà nhạc đến gạn hỏi cớ sự thời ông rễ không trả lời được ai là kẻ giết vợ mình. Cuối cùng nhạc gia nghi, vì là nguyên nhân này: Nhà này vốn có tin Phật, thờ Phật mà con mình là vợ nó chẳng tin, chắc do đó nên đã có xảy ra việc gì xích mích bất thường, đến nỗi chồng mưu giết vợ, đích vậy đó rồi. Bởi không tìm đâu ra dấu vết gì là kẻ nào khác giết người. Tội cho ông rể hiền lành này chẳng biết tìm cách nào mà minh oan cho mình được. Thảm trạng vợ chồng mưu sát lẫn nhau đã có từ xưa chứ chẳng phải là không. Nhưng trường hợp hiện nay đây không thể có xảy ra được trong nhà có thắp nhang này. Vậy thì cái án mạng bị giết nằm đó do ai? Cũng chỉ trở lại nghi vấn là do bất đồng tín ngưỡng. Cho nên nhạc gia phát đơn tố lên Huyện quan để nhờ phán quyết.

Hai tên lính huyện, từ cửa huyệt xuất phát với bộ dạng hăm hở vúc vắc: một tên nắm chiếc hỏa bài có đề hai chữ Hỏa Tốc, một tên nữa cầm chiếc roi, cả hai mặt mày hằm hằm tiến thằng đến nhà người buôn gạo và dựng tấm hỏa bài ngang tại cửa giữa trong nhà. Một trong hai tên, tay chỉ vào trong tấm hỏa bài và bảo: Đây, anh coi đây phải biết! Lịnh của Quan lớn huyện nhà; anh là người hiểu biết, phải tuân hành tức tốc, đừng để mất thì giờ chúng tôi, về bị quở! Ông buôn gạo, thời ông chuẩn bị khăn áo và bao hành lý vừa xong. Vừa trông thấy dạng hai bác lính Thập, ông liền cung kính bước qua trước bàn Phật, sau khi cắm ba cây nhang lên lư bát rồi lanh lẹ lạy lấy lạy để ba lạy và vái lia vái lịa mấy vái xong. Ba người đồng bước ra khỏi nhà: trước tấm hỏa bài, giữa đương sự, sau chiếc roi vừa đi vừa vúc vắc. Và họ lên giọng hơi hám của uy quyền: Tại sao anh lại đi giết vợ anh? Ác chi mà ác quá vậy? Nghĩa vợ, chồng, nó có dại điều gì thì ta làm hùm làm hổ năm đá ba cú cho nó biết sợ mà thôi chứ ai đời nhẫn tâm chém chết vợ? Anh không học câu Thánh Hiền đã dạy sao? Tào khang chi thê bất khả hạ đồ mà anh chém con người ta chết, thật anh là thằng quá ác – có phải không? Chuyến này Quan lớn sẽ phạt tội cho ở tù đến mục gông mới đáng kiếp! Cứ thế, hai ông lính thay phiên nhau mà mắng rủa nhất là họ cứ đọc đi đọc lại câu Thánh Hiền đã dạy. Họ nói gì thì mặc, ông buôn gạo vẫn lặng thinh mà đi, tâm tâm niệm niệm cứ niệm Phật, niệm Quán Thế Âm Bồ tát để cầu cứu mà thôi.

Mấy giờ qua là đã đến cửa Nha. Hai lính dẫn đương sự nạp lên Quan. Quan lớn bắt đầu mần việc: Đương sự đứng thẳng lưng dưới bực thềm, Quan huyện ngồi trên, hai bên có Lục sự, Thẩm phán, ấn son, bút giấy đầy đủ một phiên tòa Đại hình. Sau một hồi lâu thẩm vấn khẩu cung của đương sự xong, Quan lớn mới xả hơi bằng một xe thuốc bình và chén trà dũ di, rồi Ngài ngắm nhìn kỹ lên trên gương mặt đương sự và thầm xét: Tướng dạng thằng này chẳng chút gì giống những đứa sát nhân mà mình đã từng gặp. Vả lại căn cứ theo lời cung khai của nó thời của cải trong nhà nó, đêm đó chẳng mất mác chút nào. Và cũng không xảy ra việc trộm cướp gì hết. Mà cửa ngõ trong nhà vẫn kín đáo y nguyên, vách không bị đục thủng, tất cả không có dấu vết gì khả nghi. Vậy thì hung thủ tức chẳng phải những kẻ trộm cướp chắc chắn rồi vậy. Nhưng Quan Ngài còn ngờ nên hỏi thêm: Bình nhật gia đình mày đối với láng giềng xung quanh có gây gỗ điều gì không? Và có hòa vui tốt lành không? Đương sự bẩm: Cả gia đình tôi, từ xưa đến nay đối với lân lý đều hòa thuận tốt đẹp chứ không có oán thù gì hết. Bẩm lạy Quan lớn soi xét!

Sau hai lần thẩm vấn và nhận xét thời sự trạng đã rõ ràng nên đã đến lúc Tòa bắt đầu tuyên án: Căn cứ theo hai lần thẩm vấn của Tòa. Căn cứ theo lời cung khai của đương sự, thì sự việc đã rõ ràng như sau: Hung thủ đã chẳng phải kẻ trộm cướp, chẳng phải kẻ oán thù. Hơn nữa, sự việc xảy ra vào lúc quá nửa đêm, cửa lớn cửa nhỏ trong nhà vẫn đóng chặt y nguyên. Trong nhà chỉ có hai người là mày và vợ mày. Mà vợ mày bị đứt họng chết chẳng phải mày chém nó là ai? Đó là những nguyên nhân tạo thành án. Tòa tiếp: Cứ sự trạng như trên, Tòa chiếu theo Luật kia Lệ nọ, chiếu theo Sắc lệnh nghị định ngày nọ tháng kia. Vậy nay Tòa tuyên tội: Quả là phạm tội cố sát sát nhân. Mạng phải đền mạng. Bản án này làm tại chỗ, vào ngày giờ tháng năm. Nhân chứng có Thẩm phán mỗ, Lục sự mỗ ngồi hai ghế hai bên tả hữu chứng kiến.

Quan Chánh án sắp cầm bút phê xuống bản án, bỗng nhiên một bầy lằng xanh từ đâu bay tới bu vào đầu bút. Quan Chánh án ngạc nhiên cho là quái lạ. Lúc đó ông buôn gạo đứng bên xem thấy lằng xanh rõ ràng – chính hiệp với câu kệ thứ tư mà mình đã mộng thấy Bồ tát nói cho khi trước. Nhân đấy ông liền tự thốt lên rằng: Lạ thay quái lạ thay. “Thương thằng bổng bút đầu.” Thật là ứng nghiệm rõ ràng. Quan án lòng càng ngạc nhiên hơn, tay thì xua đuổi những con lằng mà nó vẫn nhào vào bu nơi đầu bút, mà miệng thời hỏi: Chứ mày cái thằng nói gì lảm nhảm vậy mày? Và hai mắt ông ngó tròng trọc vào ông buôn gạo. Thì đương sự mới thuật đầu đuội câu chuyện mà mình đã mộng thấy và việc ứng nghiệm cho Quan huyện kiêm Chánh án nghe. Quan nghe xong mà rằng: Ta định phê năm ba phết và mày ký vào bản án cho xong đặng mày còn về. Mà giờ đây sự việc lại đổi qua chiều hướng khác, e ta phải nghiên cứu mấy câu kệ câu tụng gì đây coi đã. Rắc rối thật. Rồi quan cho mời các Thầy Nha lại đây để làm cái việc thần bí này. Khi Thầy trò xúm lại xong mới bảo ông buôn gạo đọc đủ bốn câu kệ và biên vào giấy cho rõ ràng và nhận dạng từng chữ từng nét cho đúng xác rồi mới bắt đầu nghiên cứu.

Thời thứ nhất, thứ nhì và thứ tư, ba câu đã rõ ràng sự việc. Chỉ còn nghiên cứu câu thứ ba là. “Đầu cốc tam thăng mễ” là ý muốn nói nghĩa gì đây? Thầy trò nhà Huyện ta nghiền ngẫm mãi mất thì giờ rất nhiều mới hiểu được rằng: À các Thầy ạ! Phải thêm một chữ nữa trên đầu câu mới cắt nghĩa được:

Nhất đẩu cốc tam thăng mễ.

Nghĩa là: Một đấu lúa ba thưng gạo.

Nghĩa ẩn một đấu là mười thưng, trừ ba còn bảy tức là được ba thưng gạo và bảy thưng trấu. Bảy trấu là chữ Thất và chữ Khang. Thất là bảy, Khang là trấu. Quan huyện mới bảo quả quyết rằng: Hung phạm nếu chẳng phải tên Khang Thất thời là tên Thất Khang nhất định tên này rồi. Rồi liền phái Nha lại đi mật thám. Quả thật có người tên Khang Thất. Thế là tên ấy tức tốc bị bắt và tống giam. Khi ra thẩm vấn y nhìn nhận lúc hành động như sau: Tôi có gian díu với bà bán gạo từ trước. Đến đêm đó, tôi lẻn vào nhà tình nhân nấp chờ đêm đến khuya, định giết ông bán gạo. Bởi trong lúc tối tăm tôi mò gặp phải cái đầu có dầu tôi tưởng là đầu đàn bà, liền bỏ đi chỗ khác giết đầu không dầu. Không ngờ đã giết lầm. Rồi sau đó tên Khang Thất bị ra Tòa nhận lãnh tội trạng. Đương nhiên ông buôn gạo được phóng thích ngay.

Quan huyện và cả Nha lại nhân vụ này mới biết thêm sự cảm ứng và linh nghiệm của Bồ tát Quan Thế Âm và càng tin Phật giáo hơn nữa. Ông buôn gạo cũng nhân tai nạn khủng khiếp này mà cảm giác nỗi thống khổ của kiếp nhân sanh, nên cũng phát tâm mạng mẽ xuất gia tu Đạo cầu mong có ngày trọn thành Đạo quả. Nhà buôn gạo được sự cảm ứng giải trừ tai nạn khủng khiếp có một không hai của một đời người này, là nhờ bình nhât ông ta hay nhất tâm xưng danh, đến khi cấp nạn xảy tại thân, thời Quán Thế Âm trong tự tánh chúng sanh hiện ra cứu chúng sanh trong tâm Quán Thế Âm tức thì được giải thoát. Nếu thường ngày chẳng niệm tụng gì hết, đến khi đại nạn lâm đầu, tâm trí Kinh hãi bối rối, tinh thần mờ ám tức khó nỗi khởi lên xứng niệm Phật, Bồ tát. Cho nên thường ngày chúng ta niệm Đức Quán Thế Âm Bồ tát phải quan trọng và cấp bách như trạng thái chúng ta xắp chết, hay giống như tai nạn nước, lửa la cứu người ta đến cứu cấp cho mình vậy mới có hiệu quả.

Mỗi khi niệm phải như thế này: Sáu căn đều thu nhiếp, nhất tâm yên lặng, tâm niệm khẩu xưng; khẩu xưng cho rõ ràng, tai nghe cho chính xác thông suốt, ý nghĩ nhớ từng chữ từng câu cho rành rẽ phân minh. Được vậy tức là tâm khẩu tương ưng. Đấy là bí quyết cần thiết cho những người trì danh niệm Phật, niệm Bồ tát vậy. Trái lại thời tâm ý của ta nó như con khỉ, con ngựa chuyền chạy lung tung khó mà đến được chỗ lợi ích lớn lao vậy.

Nhất tâm trì danh, có sự nhất tâm và lý nhất tâm. Trước khi ta nghe giảng Kinh trở về trước là ta chưa lãnh hội chơn nghĩa Phật pháp, chỉ là đơn xưng danh hiệu, cứ thẳng tiến mà niệm đi. Niệm đến khi nào nhất tâm bất loạn gọi là sự nhất tâm. Khi niệm được rõ biết tâm là tâm năng niệm. Quán Âm là danh hiệu sở niệm. Ly khai tâm năng niệm, riêng biệt không có danh sở niệm; ngược lại ly khai danh sở niệm riêng biệt khôn có tâm năng niệm. Năng Sở chẳng hai, dung hội nhất như gọi là lý nhất tâm. Nhân vì Đức Quán Thế Âm Bồ tát Thần thông quảng đại, oai đức tuyệt vời. Với chúng ta, chỉ đem thân tâm quy y nơi Ngài, bỏ niệm phân biệt tư lường, chân thành già giặn mà niệm đi. Niệm đến khi nào nhất tâm bất loạn, chỉ còn có một Thánh hiệu mà thôi. Thậm chí xem mà chẳng thấy, ngóng cũng chẳng nghe, đi chẳng biết là đi, ngồi chẳng biết là ngồi. Không còn vọng tưởng, phân biệt. Chừng ấy mới gọi là nhất tâm xưng danh.

Hai chữ tức thời là nói chính lúc xưng danh, tức khi nhờ cảm ứng chứ chẳng phải trước đó một tý hay sau đó một lát. Giống như cái đài bá âm vô tuyến điện, tiếng nó một khi truyền là đây phát kia thu, bất cứ xa gần, không có hoặc trước hoặc sau, cảm ứng đồng thời, nên gọi là tức thời.

Những người tay chân bị trói buộc, chẳng được tự do là chẳng được giải thoát. Một khi mở trói trả lại tự do như xưa, gọi người giải thoát. Bị khổ não, ràng buộc giống như quấn trói. Quấn trói này là bởi mọi người tự làm lấy, như mùa Xuân con tằm tự làm kén, mùa Thu con Nga tự nhào lửa. Hai loại này nguy hiểm đến chết thân mà chẳng hề giác ngộ! Chúng ta có thể nhất tâm xưng danh chẳng khởi tưởng quấy niệm xằng. Vong năng sở, quên thân tâm, thời phiền não tự tiêu diệt, tức là được giải thoát mọi sự thống khổ.