Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Giảng Lục

V/ Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Cứu Bảy Nạn

  1. Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Giải Thoát Nạn Lửa

Chánh văn:

Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức oai thần của Bồ tát này vậy.

Giải:

Ðoạn này là đáp ứng riêng cứu bảy nạn. Bảy nạn là nước, lửa, hắc phong, dao gậy, La Sát, gông cùm, oán giặc hết thảy bảy thứ. Thế gian tai nạn lắm nhiều nhưng không ngoài bảy thứ này. Nếu gặp phải bảy thứ tai nạn này, hay niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, tức thì được giải thoát. Ðấy là cơ cảm động của khẩu nghiệp. Ðể cầu nam nữ nên cung kính lễ bái là cơ cảm động của thân nghiệp. Xuống dưới nữa mới nói trừ ba độc là cơ cảm động của ý nghiệp.

Trước tiên giảng nạn lửa thứ nhất. Chánh báo chúng ta là thân thể, y báo là nhà cửa vật kiện… Nếu chẳng để tâm một chút gì thì thường bị nó đốt cháy. Nên nói: Lửa chừng một đốm khả dĩ đốt khắp xóm làng. Lửa có: Lửa quỷ, lửa La Sát, lửa sấm sét và lửa cây gỗ… Khi nào gặp các nạn lửa này, chỉ nên nhất tâm xưng danh, tức được giải cứu. Kẻ có căn lành, khi lâm nạn thời có thể chẳng mê loạn. Mà người nghiệp nặng khi gặp nạn vì phiền não nên tâm mờ ý loạn, chẳng chịu xưng niệm bèn khó tránh khỏi hỏa tai.

Trì là thọ trì, tức niệm vậy. Trì niệm có sự trì và lý trì, bất luận hiểu lý hay chẳng hiểu, chỉ cần biết Ðức Quán Thế Âm Bồ tát thật hay cứu khổ và chánh tín đến Ngài mà chẳng nên nghi. Chẳng quản 21 ngày, cứ chánh trực mà niệm đi, già dặn mà trì niệm là liền được cảm ứng. Ðấy gọi là sự trì. Nếu khi trì niệm, có thể hiểu biết danh Quán Thế Âm Thánh hiệu là sở niệm, tâm ta là tâm năng niệm. Biết tâm năng niệm của ta tức Danh sở niệm. Lìa tâm, riêng không có danh sở niệm, cũng như lìa danh riêng không có tâm năng niệm. Cho nên niệm Quán Thế Âm tức niệm tự tánh. Ngoài Sở không Năng, ngoài Năng không Sở, duy là nhất tâm. Ðấy gọi là lý trì. Sự chẳng rời lý, lý nhờ sự hiểu. Bất luận là sự trì hay lý trì. Tóm lại là cần phải già dặn mà trì niệm mới có thể cảm ứng đạo giao được. Nếu ai có thể già dặn nhất tâm trì niệm dù cho vào trong lửa dữ chịu các nạn lửa thời lửa chẳng hay đốt cháy. Chẳng bị lửa làm hại là toàn nhờ sức oai đức thần thông của Quán Thế Âm vậy. Bởi vì Ðức Quán Thế Âm đã nhiều kiếp tu trì, cho nên có 32 ứng thân, 14 món vô úy. Có oai nên khiếp sợ, có đức nên tôn kính. Nếu gặp phải những chúng sanh cương cường khó giáo hóa, bèn dùng lối dương oai để khiến nó khiếp sợ. Ðấy là chiết phục pháp môn, nên tỏ oai lực. Nếu là chúng sanh chân thành thủ phận, bèn đem đức đến cảm hóa và gia hộ cho nó. Ðấy là nhiếp thọ pháp môn, nên tỏ từ bi. Quán Thế Âm đã có đủ oai và đức. Lại còn có vô lượng diệu lực thần thông biến hóa nữa, cho nên mới có thể khiến những người trì danh được khỏi hỏa nạn. Ví như nghìn sông có nước nghìn sông trăng. Hữu cầu tất ứng, vô cảm bất thông. Từ xưa đến nay đã được nhờ sự cảm ứng của Bồ tát Quán Thế Âm rất nhiều.

Như trong thời đại nhà Dao Tần, có Ngài Pháp Trí Hòa thượng. Một hôm có việc cần Ngài phải đi xa. Khi đi qua giữa đường truông hoang vắng mênh mang có nhiều những lùm cây lau lách, lắm cỏ rậm rạp, lại là nhằm mùa nắng khô. Lúc đó vừa có người đốt cỏ, lửa cháy mạnh. Chẳng may lại gặp trận cuồng phong dữ dội, lửa càng cháy lan khắp nơi. Pháp Trí không còn nơi nào tránh né được nữa. Ngài liền ngồi xuống, xếp bằng lại và chí thành khẩn thiết cung kính nhất tâm xưng niệm: Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát. Giây lát lửa cháy đến gần sát bên Ngài. Thì Ngài cảm giác nơi thân phát ra nóng, nhân đấy nên Ngài ngất xỉu, giây lâu mới tỉnh dậy. Ngài xem thấy những lùm cây lau lách cách khỏi Ngài chừng ngoài ba thước đều bị cháy rụi hóa thành tro bụi, mà trong ba thước thời chưa hề cháy tới. Nhờ đấy Ngài khỏi được nạn chết thui. Ðấy chính là nhờ oai đức thần thông đại lực của Quán Thế Âm Bồ tát mới khiến được vậy. Nếu chẳng biết xưng niệm là quyết định bị chết thui xong rồi.

Khi niệm cốt yếu là tâm được nhất. Ngoài vong cả thế giới lục trần, trong vong cả sanh mạng, thân thể. Năng Sở đều vong, thời Quán Âm trong tự tâm tự nhiên hiển hiện liền được cứu nạn. Kinh Lăng Nghiêm nói: Xoay tri kiến trở lại, dù cho vào trong lửa dữ, lửa chẳng thể đốt được. Nhãn căn thuộc về tâm, tâm thuộc hỏa. Nhân có quả trong tự tâm, cho nên mới cảm chịu lửa quả báo ở bên ngoài. Nay đã nhất tâm xưng niệm Quán Âm thu thập lửa trong tự tâm lại, khiến nó tắt đi, thời lửa quả báo ở bên ngoài tự nhiên chẳng sanh được. Lửa có ba thứ:

  1. Một là lửa quả báo.

Thông suốt đến cõi trời Sơ Thiền. Y báo chánh báo của người đời hiện nay đều bị lửa đốt, tức bởi lửa quả báo của nghiệp báo đời trước cảm đến. Và như đến thời hạn đại tam tai phát khởi: Ðại kiếp lần thứ nhất là hỏa tai. Cho nên nói: Kiếp hỏa cháy suốt trời đất đều tiêu hoại. Thiên địa nhật nguyệt, thế giới sơn hà không còn một món gì chẳng bị cháy rụi. Thời kỳ sơ kiếp hỏa, là thái dương biến thành bảy, tức bảy mặt trời. Một thái dương mà nhiệt độ còn hại dữ dội như thế huống là bảy cái đồng thời xuất hiện, cứ suy nghĩ thì biết. Khi đó chốn đại địa này đều biến thành bãi lửa. Lục dục chư thiên đều cũng bị cháy, cháy đến cõi trời Sơ thiền mới tắt. Trời Sơ thiền tại sao cũng bị cháy? Nhân vì người cõi trời này còn có tâm giác quán, tâm này thuộc về hỏa nên vẫn bị cháy.

  1. Hai là lửa ác nghiệp.

Thông cả ba cõi đều có. Kinh nói: Ba cõi không an in như nhà lửa. Cho nên trên từ thiên đường, dưới đến địa ngục đều bị lửa tam giới hữu lậu ác nghiệp đốt cháy sạch. Có thế mà chẳng thấy, vì chẳng qua chúng ta còn mê muội đó thôi. Một ngày từ mai đến chiều đều ở trong bãi lửa hữu lậu nghiệp mà lo sanh hoạt. Kinh gọi lửa ngũ trược, lửa bát khổ. Ngũ trược là mạng trược, kiếp trược, kiến trược, chúng sanh trược và phiền não trược đều là lửa ác nghiệp.

  1. Ba là lửa phiền não.

Thông suốt cả chín pháp giới đều có. Lửa vô minh là lửa sân. Lửa sân nó phực một chút có thể đốt cháy sạch rừng công đức. Sân tâm chính là lửa phiền não. Lửa sân một khi phát, với huệ mạng có tổn hại ngay. Tham sắc dục là lửa dục. Lửa dữ sắc dục nó phát khởi như người chạm phải điện chắc chắn là cháy thân. Tóm lại mà giảng: Phàm phu có lửa kiến tư phiền não, La Hán có lửa trần sa phiền não, Bồ tát có lửa vô minh phiền não.

Phật tánh chơn không hỏa tánh. Hỏa tánh chơn không thanh tịnh, bản nhiên khắp cả pháp giới. Thứ lửa này chẳng những chẳng tổn hại người mà lại còn có thể đem làm Phật sự độ chúng sanh nữa là khác. Hiện nay giảng xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm chẳng những diệt lửa quả báo mà còn năng trừ lửa ác nghiệp và lửa phiền não nữa, tức là nhờ sức oai thần của Bồ tát vậy.

Ngày trước có người tên Trúc Trường Thư. Một hôm nhà láng giềng phát hỏa, nhà ông ở dưới gió, cực kỳ nguy hiểm, ông không còn cách nào hơn để cứu nguy cho gia tài. Ông liền nhất tâm xưng niệm danh hiệu Quán Thế Âm. Nhà láng giềng bốn phía đều bị cháy, duy nhà ông tồn tại y nguyên. Mọi người cho là lạ lùng. Lúc ấy có vài ác thiếu niên hoang nghịch, chúng cố ý khi ban đêm đến đốt nhà ông lần nữa, nhưng vẫn không cháy được. Ðấy chính là chơn thật niệm Quán Âm mà có cảm ứng đạo giao.

Lại có họ Vương, người xứ Côn Sơn, ông một lòng muốn đi đến chiêm bái núi Phổ Ðà, với mục đích là lễ báo Ðức Quán Thế Âm Bồ tát. Trước khi đi, ông thọ chay trường ba năm. Mãn kỳ nguyện ông mới khởi hành. Thuyền ông sắp mở neo, bỗng nhiên nhà láng giềng phát hỏa. Người nhà chạy theo gấp báo cho ông hay. Ông khiến người nhà trở về và bảo nó rằng: Ta đã ăn chay trường ba năm. Nay ta nhất tâm đi Nam Hải cho được để chiêm ngưỡng và chiêm bái Ðức Quán Thế Âm Bồ tát cho mãn nguyện. Còn nhà cửa, nếu chẳng may bị cháy mặc cho nó đi thôi, ta chẳng cần trở lại. Rồi ông một lòng xưng danh. Sau khi ông đi hành hương xong trở về, thấy nhà bốn phía láng giềng đều bị cháy cả mà nhà ông khỏi bị gì hết. Cho biết rằng niệm Quán Âm có cảm ứng thật bất khả tư nghì vậy. Niệm Quán Âm chẳng những khỏi được những lửa quả báo, lửa ác nghiệp và lửa phiền não, mà lại niệm đến chơn đế nhất tâm bất loạn, năng dứt lửa kiến tư phiền não, chứng tự tánh chơn không Quán Thế Âm, được ra khỏi nhà lửa đồng cư tam giới nữa vậy. Niệm đến tục đế nhất tâm bất loạn, năng dứt được lửa trần sa phiền não chứng được diệu hữu Quán Thế Âm, được ra khỏi nhà lửa phương tiện tam giới vậy. Niệm đến Trung đạo lý nhất tâm bất loạn, năng dứt được lửa căn bổn vô minh phiền não, thấy Trung đạo Quán Thế Âm, được ra khỏi nhà lửa thật báo tam giới là bèn thành Phật quả trọn vẹn vậy.

 

  1. Xưng Danh Hiệu Bồ tát Được Cứu Khổ Thủy Nạn

Chánh văn:

Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ tát này liền đặng chỗ cạn.

Giải:

Đấy là cứu khổ thủy nạn thứ hai. Nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh bị nước lớn làm ngập, hoặc sông hồ tràn nhẩy, ao hào đắm chìm trăm họ, vật kiện đều bị trôi mất. Hoặc giả qua biển, rủi rơi xuống nước trôi nổi. Nhiều thứ thủy tai ác nạn. Chính lúc nguy hiểm ấy, xưng danh hiệu Quán Âm liền được đến chỗ cạn. Nước trôi là ác nghiệp, xưng danh là thiện nghiệp; vì hai nghiệp thiện ác này mà nhất tâm xưng danh, giải thoát là cảm liền được chỗ cạn, gặp hung hóa kiết, chẳng bị chết chìm là ứng. Nước là thứ gì? Nhĩ căn thông với thân, thân thuộc thủy. Có nước trong tự tâm nên mới cảm thủy tai bên ngoài. Khi bị thủy nạn, xưng niệm Quán Âm đem nhĩ căn nghe trở lại để hàng phục nước nơi tâm, thời thủy nạn ngoài tâm cũng trừ được khỏi xong. Kinh Lăng Nghiêm nói: Xoay xem nghe trở lại, khiến các chúng sanh nước lớn làm trôi, nước chẳng hay làm chìm được. Tức là nghĩa này vậy. Như vậy thời biết nước phiền não, nước ác nghiệp cũng không còn gốc rễ chỗ nào đâu mà bám vào đứng vững được nữa. Nhưng mà khi niệm cần phải nhất tâm cung kính. Nếu chẳng nhất tâm cung kính chí thành khẩn thiết e rằng khó được linh ứng. Cho nên đã có câu nữa rằng:

Miệng niệm Quán Âm tâm tán loạn,

Hả mồm cựa cổ vậy luống công.

Xưa có người con nhà họ Lưu. Chàng phi thường tín ngưỡng Đức Quán Thế Âm. Anh phát tâm đi triều bái núi Phổ Đà. Thuyền anh đi đến giữa giòng Liên Hoa Dương Hải. Anh tự thấy có ba đóa Hoa sen vượt lên trên khỏi mặt nước biển, lớn bằng bánh xe. Một đóa có Thiện Tài đứng trên, một đóa có Long Nữ đứng trên, mà riêng một đóa Hoa sen lớn đặc biệt thời Đức Quán Thế Âm ngự tọa thanh tịnh phi thường, trang nghiêm diệu tướng, thịnh đức tôn nghiêm. Nhân đấy chàng họ Lưu nhất tâm phát hiện liền cung kính lễ bái Đức Quán Âm. Tức thì một trận cuồng phong nổi lên dữ dội, thuyền bị úp chìm. Mọi người trong thuyền đều bị chết chìm cả. Duy có anh chàng họ Lưu cảm giác được trước mắt anh mơ màng in tuồng có một người cõng đem anh chạy đi, đến một chỗ nào đó liền thả anh xuống. Khi anh mở mắt vẫn thấy là trước cửa nhà anh. Núi Phổ Đà xa nhà anh có đến hơn hai ngàn dặm đường. Mà nay chỉ trong tức khắc liền đến. Khi mẫu thân anh mở cửa, anh chạy vào nhà và thuật việc mới xảy ra cho mẹ anh nghe. Hai mẹ con rất đỗi vui mừng, nhờ sức oai thần của Bồ tát gia hộ nên mới được tái sanh một lần này nữa.

Lại có một gia đình đang lo việc song hỷ cưới rước tân phụ. Trong ngoài nhà rộn ràng đông đảo, kẻ ra người vào náo nhiệt phi thường. Thủy tai bỗng nhiên bộc phát, nước lớn tràn mạnh đến, bao nhiêu thân hữu gia đình đều bị cuốn trôi đi hết. Tức toàn thôn xóm cũng đều bị chìm ngập. Tang điền tức khắc biến thành thương hải. Người chết kể cả ngàn vạn. Mà duy còn chị tân phụ ngồi bình yên trên một chiếc ghế chẳng chìm chẳng úp, xuôi giòng trôi đi. Phúc nàng may mắn gặp người cứu sống. Họ nhà chồng cho là quái lạ, hỏi nàng vì sao chẳng bị chìm chết? Nàng thưa nhà má tôi tín ngưỡng Đức Quán Thế Âm Bồ tát. Khi tôi thấy nước tràn đến, tôi ngồi yên trên ghế, nhắm hai mắt, nhất tâm xưng danh hiệu Bồ tát, cho nên nhờ Ngài cứu sống.

Cho biết Phật pháp là bất khả tư nghì chứ chẳng phải mê tín đâu đấy? Dưới đôi mắt nhìn sơ ai cũng nhận thấy thế giới ngày nay là thời đại thế loạn nhân phi. Chính là ngũ trược ác thế tai nạn diễn ra thường xuyên. Hơn nữa, sự rắc rối của chúng sanh đang ở trong hậm hực thù hiềm chẳng biết nó bộc phát ngày nào thời chốn đại địa này không còn vài thước đất yên ổn để cho cái thân dưới hai thước này núp cho sống sót, đừng mong gì hơn! Duy còn một phương pháp độc nhất là chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, mà nhất tâm xưng danh hiệu là chắc chắn được giải thoát mà thôi. Trên đời cho nên có sự tác loạn, tuy do một vài cá nhân làm đầu sỏ, nhưng kỳ thật cũng là do đồng nghiệp chúng ta chiêu cảm. Mấy năm gần đây các nơi đều bị thủy tai mà độc nhất là Nam Thông này khỏi bị. Đây cũng là nguyên nhân nhờ nhân tâm xứ này hướng thiện lắm nhiều vậy. Quả báo thủy tai chẳng những nhân gian mà đến thời kỳ đệ nhị đại thủy tai kiếp, chốn đại địa này không chỗ nào chẳng phải là biển nước; lục dục, sơ thiền đều là nước và nước, cho đến ngập nhẩy suốt nhị thiền thiên. Vì người ở nhị thiền thiên còn có tâm hoan hỷ, tâm này nhất đông tức thì làm nhân cho thủy tai hoành hành.

Ác nghiệp thủy thông suốt ba cõi! Cõi Dục khổ khổ, cõi Sắc hoại khổ và cõi Vô sắc hành khổ. Cho nên gọi là bể khổ mênh mang. Phiền não thủy thông suốt cả chín pháp giới. Tham dục cũng là nước. Cho nên nói rằng: Sóng khổ hải ái hà, cao vút ngàn vạn trượng. Thế nhân mê muội trọn ngày suốt tháng trồi lặn nơi bể khổ mêng mang này. Nếu ai sực tỉnh hồi đầu nhất tâm xưng danh niệm hiệu thì gọi là hồi đầu tức thi bỉ ngạn là nghĩa liền đến bờ bên kia. Phiền não thủy thông suốt chín cõi. Cho nên chúng sanh chín cõi đều ở trong bể khổ phiền não. Duy có Phật thấy thủy hỏa này là Chơn thủy Chơn hỏa, thứ nào cũng trong sạch mát mẻ, bản nhiên châu biến pháp giới đều là Như Lai tạng tánh, không một món nào chẳng phải là Diệu Pháp. Giống như một anh mù, con trai của một phú ông Trưởng giả giàu có nào là vàng bạc ngọc báu, nào là của cải thập vật đầy nhà, nào là bàn ghế bằng gỗ quý kê để nghênh ngang. Vì mù mỗi khi chạy đụng đầu u trán, vấp chân sưng giò. Chàng ta tức giận oán ghét những thứ ấy là đồ chướng ngại vật, vì làm trở ngại cho việc chạy đi. Cũng như chúng sanh mê muội bản tánh, thời bị nước lửa làm tai hại mà sanh phiền não. Nếu như quả báo nó trả lại nhãn quang cho cậu mù, thời những thứ nguyên bửu đầy nhà chật đất này cậu tha hồ thọ dụng. Thì cũng như tâm chúng ta nhờ trì niệm Quán Âmmà được quang minh rực rỡ, cho nên những lửa, những nước không thứ nào chẳng phải là Diệu Pháp. Rồi nhân đấy mà đem giáo hóa chúng sanh, làm các Phật sự vậy.

  1. Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Cứu Nạn Hắc Phong La Sát Quỷ

Chánh văn:

Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vi tìm vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, chơn châu các thứ báu, nên vào trong biển lớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước Quỷ La Sát, trong đó nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát thời các người đó đều thoát khỏi nạn Quỷ La Sát. Do nhân duyên đó mà tên Quán Thế Âm.

Giải:

Đây là nạn thứ ba hắc phong La Sát Quỷ, nếu có trăm ngàn vạn ức chúng sanh vì muốn cầu tìm các thứ ngọc nơi biển. Trong chánh văn kể có bảy thứ: Kim là cống kim, ngân là bạch ngân, lưu ly là ngọc sắc xanh, xa cừ là ngọc sắc trắng, mã não là ngọc sắc hồng, ngọc san hô hình giống nhánh cây, ngọc hổ phách là giống cây tòng hương sống lâu ngàn năm biến thành, ngọc trân châu là thứ bảo châu từng hột từng hột nho nhỏ.

Hắc phong là quái phong. La sát Quỷ thường ở những hòn đảo bìa biển, nó chuyên bắt những người ở bìa biển ăn thịt. Thứ Quỷ này miệng đỏ như chậu máu, mắt như cái đồng linh, tay như cái chỉa ba bằng sắt, mắt xanh, răng nhọn. Rất nên Kinh sợ. Quỷ này mỗi khi đi khoái trá lắm; lại có tên Tốc Tật Quỷ là Quỷ đi nhanh. Các người tìm ngọc kia, nếu chẳng may gặp gió hắc phong thổi tới đem thuyền trôi xa vào trong nước Quỷ La Sát thời tánh mạng những người ấy khó mà bảo tồn được. Nhưng nếu trong bọn có một người vì tánh mạng cả đại chúng sắp nguy khốn, nhân đấy mà phát tâm niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm thời cả một bọn người đều nhờ đấy đồng thời thoát được đại nạn.

Tại sao được thế? Bởi vì một người niệm Quán Âm đám người kia đều nghe đến, trong tâm bọn họ đều có danh hiệu Đức Quán Thế Âm cho nên vô hình trung đều được lợi ích thoát nạn. Cho nên nếu chúng ta cùng trên xe lửa, trên ghe thuyền, chẳng sợ khó vì tính tự ái, nhất tâm niệm Quán Thế Âm khiến những người đồng thuyền đồng xe đều được trồng giống căn lành. Rồi không chóng thì chầy có thể khỏi đại nạn, được lợi ích vô cùng.

Thuở xưa có một khách thương đi lấy ngọc. Ông ta lãnh đạo một số đồng bọn là năm trăm người đi vào biển lấy ngọc. Bỗng gặp phải cơn hắc phong thổi đến dữ dội, thuyền bị trôi bay vào hải phận của nước Quỷ La Sát. Trong bọn có một người liền xưng niệm danh hiệu Đức Quán Thế Âm tiếp theo cả bọn đều xưng niệm. Lúc ấy Quỷ La Sát chẳng thấy người nào cả. Tội nghiệp thay trong bọn năm trăm người chỉ có một người chẳng tin Quán Thế Âm Bồ tát cứu khổ cứu nạn. Người ấy cho là đại nạn đến nơi mà còn niệm Quán Âm làm gì nữa. Cuối cùng người này bị Quỷ bắt đem đi mất. Nhân vụ này, nên cần phải cấp bách nhất tâm niệm Quán Âm mới được đồng thoát nạn. Cho nên đó nên mỗi khi gặp nạn chẳn nên có vọng tưởng tạp niệm nghĩa là chẳng nên nghĩ bậy nói bạ. Chẳng tin tai hại sẽ chắc đến thân.

Ngày xưa có Ngài Hòa thượng ở trong chùa mỗi ngày đi Phổ môn một lần. Ban mai, một hôm có quan Thừa tướng mỗ đến chùa lễ Phật. Lễ xong đứng tránh một bên nghe Kinh. Hòa thương tụng đến câu hắc phong thổi ghe thuyền bị trôi vào nước Quỷ La Sát, Thừa tướng chận ngang đấy hỏi Ngài rằng: Câu này giải quyết cách nào? Vì sao trôi vào trong nước Quỷ La Sát? Hòa thượng phát nộ nói: Chính khi ta tụng Kinh tâm định, sao lại hỏi làm ta rối loạn, thật là đáng xung ghét. Cụ lớn cho là Thầy tu dám cả gan coi thường khinh rẽ mình, tức thì nổi sân giận dữ, liền cho lệnh những kẻ tùy tòng bắt ngay ông Hòa thượng dẫn về dinh. – Rồi mắng nhiếc đánh đập. Khi mà chúng đang hành hung thì Ngài bèn cả cười mà nói rằng: Chính đây là bị hắc phong thổi ghe thuyền trôi vào trong cõi nước Quỷ La Sát chớ gì? Tiếp Nghĩa là cụ lớn hiểu không nổi, nên bèn động vô minh hòa tức là hắc phong; Cụ lớn người động sát hại tâm tức là La Sát Quỷ. Và chẳng may cho lão Tăng này gặp phải gió dữ đen tối ấy nó thổi quá mạnh nên lão mới bị trôi bạt vào trong nước Quỷ La Sát đây!? Ta giải nghĩa như thế có dễ hiểu cho cụ lớn không? Thừa tướng hết mờ tỉnh ngộ ngay. Nguyên lai là như thế đấy. Liền cho xe đưa Ngài về chùa.

Quỷ là ám hại. Dụ cho những người bất quang minh chính đại là Quỷ vậy. Ai có tâm sát hại là Quỷ La Sát. Ác niệm là hắc phong. Nếu quả thực là người quang minh chánh đại là Quỷ chẳng dám đến gần. Vô minh hắc phong có thể đem thuyền trí huệ cho trôi vào trong biển sanh tử khổ hải một cách dễ dàng.

Ngày trước có Ngài Động Sơn Hòa thượng là vị chủ chùa. Một hôm Ngài đi xuống bếp thấy Sư Phạn Đầu tức vị sư chuyên nấu ăn, đem cơm rau bỏ vào ghè nước mã hôi thối là phung phí của thiên vật. Ngài mới động khởi tâm mà răn nhắc Sư Phạn Đầu đôi lời. Khi đó vị Thần Già Lam bỗng xuất hiện nguyên hình sụp lạy Hòa Thượng mà nói rằng: Tôi lâu nay có lòng mến mộ Đại danh, hôm nay mới có dịp yến kiết Ngài! Thường tình người ta cho rằng được Quỷ thần đến lễ bái là hiện tượng tốt, điềm lành, nhưng trường hợp này trái lại. Bởi vì một khi khởi tâm động niệm là bị Quỷ dòm thấy, thời bao nhiêu công phu bị tan mất hết.

Do đó nên chúng ta tu tập đến khi nào nhất niệm bất sanh, thời chẳng những Quỷ chẳng đến được gần được mà thiên nhãn thấy cũng chẳng đến tức là vô thường Quỷ nó chẳng do đâu đến bắt ta vậy. Được như thế tức liễu sanh tử và tương lai sẽ thành Phật xong. Ngươi xem đấy, Phật pháp có mầu nhiệm như thế đó. Trăm ngàn vạn ức chúng sanh trong tâm đều có Quỷ. Quỷ rình làm hại là hắc phong. Cho nên gặp phải hắc phong bèn trôi vào trong nước Quỷ La Sát. Quỷ có ba thứ: Một là Quỷ quả báo, cõi dục đều có. Hai là Quỷ ác nghiệp, cả ba cõi đều có. Ba là Quỷ phiền não, thông suốt cả chín cõi đều có. Nhất tâm xưng danh đều có thể giải thoát được tất cả Quỷ nạn. Nhất tâm bất loạn, tâm thủy thanh tịnh thời Quán Thế Âm nơi tự tánh hiện tiền, duy thuần là đại quang minh tạng, nào đâu còn có ám tướng tồn tại trong đó được nữa ư?

  1. Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Cứu Nạn Đao Binh Gia Hại

Chánh văn:

Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát thời dao gậy của người kia cầm liền gãy từng khúc mà đặng thoát khỏi.

Giải:

Chữ Lại là lời thừa tiếp văn trên. Chúng sanh gây nghiệp có thiên sai vạn biệt, rồi bị tai nạn nghiệp báo nên cũng chẳng đồng. Nếu lại có người chính lúc đang bị phải đao binh gia hại, hoặc phạm quốc pháp phải bị tội đứt đầu, hoặc bị đánh đập. Hoặc ở trong chiến khu; hoặc bị giặc cưỡng bức phải tai hại thương tích. Chính bởi đã trót gây ác nghiệp đời trước, nên nay bị phải người làm hại lại. Lúc đó là lúc mà tánh mạng đang bị nguy hiểm nhất đời. Bỗng nhiên sanh khởi niệm đầu mạnh mẽ, hồi tâm hướng thiện: Nhất tâm xưng niệm hồng danh Quán Âm để cầu cứu độ. Đương làm bị hại là ác cơ, năng xưng danh hiệu là thiện cơ. Dùng thiện ác hai nghiệp làm động cơ năng cảm.

Dao là bén nhọn. Gậy là gậy gộc. Chính khi tâm xưng danh, kẻ kia đang cầm dao gậy gia hại liền bẻ gãy từng đoạn từng đoạn một, nên khỏi bị nó sát hại tức được giải thoát.

Thời nhà Tấn ông Nam Cung Tử Ngao, bị đày đi đến tỉnh Vân Nam, vừa gặp lúc Trường Lạc Công làm loạn. Thành bị vây. Nam Cung biết mình chẳng còn tránh được, bèn nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm. Khi loạn quân đến chém Nam Cung mấy dao, lưỡi dao cong gãy, chém chẳng được nữa. Sau lại Trường Lạc Công tự cầm dao đến chém. Nhưng chém cách nào, Nam Cung chẳng bị tổn hại mảy lông gì cả. Trường Lạc Công lấy làm lạ và hỏi: Người có bản lãnh gì mà được như thế? Nam Cung bèn thuật việc mình niệm Quán Thế Âm Bồ tát cho Lạc Công nghe rồi ông phóng thích. Nam Cung Tử Ngao được thoát chết mà lại được tự do nữa là khác.

Lại một vụ nữa: Có một người, trong búi tóc trên đầu thường bao để một tượng Đức Quán Âm bằng vàng chừng cỡ bằng ngón tay. Về sau bị người ta vu khống là trộm cắp. Tội bị đến tử hình. Khi đem ông ra pháp trường để hành quyết. Đến khi lâm sự họ chém ông ta ba dao liên tiếp chẳng những da cổ chẳng trầy mà lại phát ra tiếng kêu leng keng của chất vàng nữa. Quan pháp trường cho là điềm lạ, giải ông trở về nhà lao mới xổ búi tóc ông ra thấy có tượng Quán Âm Trên cổ của tượng có ba lần dao rất rõ ràng!

Thuở trước có một phụ nhân, từ nhỏ đến giờ rất tin Đức Quán Âm Chồng bà thường đi xa để buôn bán sanh nhai. O⮧ ta thường khi cùng bạn đồng sự hay tán mỹ người vợ trước mặt họ: Nào là nhà tôi có đức hạnh, nhà tôi nó rất giỏi mọi việc và nhất là nhà tôi nó thật trinh tiết với tôi. Nhân có một bạn đồng sự nghĩ muốn giỡn chọc anh chàng hay tán vợ này chơi. Một hôm anh lén về vào nhà bạn. Người vợ thấy kẻ khách trượng phu là bạn đồng sự với chồng mình, nên mới niềm nở ưu đãi rất lễ độ chớ chẳng dám coi thường. Đang lúc bà ta loay hoay pha trà chế nước, cung tay vái mời thì mụt nút ruồi trên cánh tay lộ ra vì áo tay rộng, tức thì bị ông khách quý lén nhòm thấy được. Thế là khách ta bọc lưng cái “lén thấy” về, để sau này làm đề tài chọc tức chơi. Một hôm hai người gặp nhau như thường lệ. Anh chàng ngộ nghĩnh ấy nói: Bữa nọ tôi có đến nhà anh chơi, anh thường khoe vợ anh trinh tiết. Nhưng tôi đã biết trên cánh tay chị có một nút ruồi. Vậy thì vợ anh trinh tiết ở điểm nào? Cứ thế mà suy thì biết vợ anh là… Anh chồng hiểu lầm cho là sự thật. Tức thì anh nổi đỏ mày cay mắt giận dữ tiếng trống tai thúc dục đùng đùng. Nên nửa đêm ngày đó vác dao về nhà định chém vợ. Khi anh về đến nhà kêu, có người nhà ra mở cửa, anh chém một dao vào người ấy, anh định chắc nó bị chết rồi vì nhà chỉ có hai vợ chồng. Rồi anh liền bỏ chạy xa mất. Nhưng vẫn biết vợ mình vốn là người trinh lương, phen này bị người ta chơi gạt làm mờ trí khôn nên anh rất đỗi tự ăn năn hối trách. Đang lúc âm thầm lóng nghe tin tức, sau vài ngày, hung tin vẫn điềm nhiên. Anh mới mò về nhà. Về lúc ban đêm, nên anh thấy vợ vẫn ở trên Phật đường niệm Quán Âm. Rồi anh hỏi đêm đó có người nào ra mở cửa không? Vợ đáp: Đêm ấy không ai ra mở cửa cả, chính lúc đó tôi đang ở trên Phật đường niệm Quán Âm. Anh chồng mới dám thuật lại đầu đuôi sự việc vừa xảy ra bởi mình và cho là rất quái lạ. Bèn thấy trên đầu vị tượng Quán Âm có một lằn dao mới biết là Đức Quán Thế Âm đi mở cửa cứu nạn vậy. Từ đây mà đi đôi vợ chồng lại cung kính lễ tụng Quán Thế Âm Bồ tát gấp bội thường.

Phải biết ngoài bị dao gậy làm hại, bởi trong tâm có sát ý gây nên. Bởi vì dao gậy là sáu căn của tự mình vịn lấy sáu trần mới gây nên ác nghiệp, rồi cảm hiện vậy. Nếu nhất tâm niệm Quán Âm sáu căn đều thu nhiếp. Pháp tức tâm, tâm tức Pháp. Tâm Pháp chẳng hai, như dao chém nước, như dao chém ánh sáng, đâu có cách đoạn được nào. Tâm với cảnh dung thông. Y báo với chánh báo chẳng hai, dao với gậy đâu có làm gì gia hại được. Ngày xưa Đức Lục Tổ Đại Sư, được Đức Ngũ Tổ Hoàng Mai truyền cho áo bát, có kẻ đệ tử của Thần Tú Thượng tọa, nhân Đức Ngũ Tổ đem áo bát truyền Lục Tổ, tâm y bất bình. Rồi y giấu kín một con dao nhọn trong người mục đích mưu sát hại Lục Tổ. Lục Tổ được biết trước, liền an tọa trong thiền thất để chờ y đến. Quả thật, đêm đó có người cầm dao xông vào, chém luôn ba dao, như dao chém nước, chém ánh sáng, chẳng hề tổn hại mảy lông. Đấy tức là soi thấy năm uẩn đều không, độ tất cả khổ ách. Cho nên ngoại tà chẳng thể xâm hại được. Dao có dao quả báo, thông cả các cõi trời địa cư. Dao ác nghiệp thông cả ba cõi. Dao phiền não thông cả chín cõi đều có. Dao phiền não ở tự tâm chút động là Pháp thân huệ mạng bị hại ngay. Chúng sanh sáu cõi phàm có dao kiến tư phiền não. Thanh văn, Duyên giác có dao trần sa phiền não. Bồ tát có dao vô minh phiền não. Duy Phật mới rốt ráo tự giải thoát.

  1. Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Cứu Nạn Quỷ Dạ Xoa Và La Sát

Chánh văn:

Nếu Quỷ Dạ Xoa cùng La Sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên xuống đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ tát thời các Quỷ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.

Giải:

Đấy là nạn Quỷ Dạ Xoa và La Sát thứ năm. Như trên vừa giảng nạn hắc phong La Sát, vì nạn hắc phong là nặng nề. Chính nay lại giảng nạn Quỷ: Nói Quỷ Dạ Xoa, La Sát đầy nhẫy cõi tam thiên đại thiên thế giới là lấy nhiều so ít.

Tam thiên đại thiên quốc độ thế giới là một cõi nước của một Đức Phật giáo hoá, như thế giới ta bà của ta đây cũng là tam thiên đại thiên thế giới. Mỗi một tòa núi Tu di, bốn mặt đều có bốn đại bộ châu: phía Đông gọi đông thắng thần châu, hoặc gọi Phất đề bà; phía Nam chính là địa cầu chúng ta ở đây gọi Nam thiệm bộ châu, hoặc gọi Diêm phù đề; phía Tây gọi tây ngưu hóa châu, hoặc gọi Cù da ni; phía Bắc gọi Bắc câu lô châu, hoặc gọi Uất đơn việt. Lại có một mặt Nhật, một mặt Nguyệt đi vòng quanh trên lưng núi Tu Di nên mới có ngày đêm sáng tối. Bên ngoài núi Tu di có biển Hương Thủy. Lại ngoài nữa có Bảy lớp núi Kim Sơn. Mỗi khoảng giữa một núi Kim Sơn cách một đường biển Hương Thủy. Tòa nùi Tu Di là do bốn món bửu bối làm thành. Trên lưng núi Tu Di có bốn cung trời Thiên Vương. Trên đỉnh có cung trời Đao Lợi. Đều là những cung trời còn ở trên đất. Lên trên nữa là bốn cung trời: Dạ ma, Đẩu suất, Hóa lạc và Tha hóa. Như vậy một tòa núi Tu di, một mặt Nhật, một mặt Nguyệt, bốn châu, sáu cung trời, cõi dục là một tiểu giới. Một ngàn cái tiểu giới như vậy gọi là tiểu thiên giới. Là được cung trời Sơ thiền ở cõi Sắc che trùm xuống. Lại nữa, một ngàn cái tiểu thiên thế giới gọi là trung thiên thế giới. Là được cung trời Sơ thiền ở cõi Sắc che phủ xuống. Lại một ngàn cái trung thiên thế giới, bên trên có cung trời Tam thiền cũng ở cõi Sắc trùm phủ xuống, gọi là đại thiên thế giới. Vì có ba ngàn lần cái Tiểu – Trung – Đại, cho nên gọi là tam thiên đại thiên thế giới, tức là một cõi nước của một Đức Phật giáo hóa vậy.

Quỷ Dạ Xoa năng bay đi. Có thứ đi mặt đất, thứ đi trên không khác nhau. Lại có tên Quỷ Tật Thiệp. La Sát tên là Khả úy Quỷ. Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ tát rằng: Nếu trong tam thiên đại thiên quốc độ, giả sử có Quỷ Dạ Xoa cùng La Sát ở đầy nhẫy, biến chọn thành một thế giới Quỷ. Lực lượng của Quỷ rất dữ tợn. Những thứ Quỷ này khi muốn đến làm hại phá rối người thời khó mà chống cự nó được. Chỉ cần nhất tâm xưng danh hiệu Đức Quán Âm là Quỷ ấy trọn chẳng dùng ác nhãn xem người, huống nữa là lại đến làm hại người ư? Tính của Quỷ là ưa ở chỗ tối tăm, mà chỗ sáng láng trọn không có Quỷ quái gì hết. Trong tự tâm chúng ta có ác niệm khởi lên mê mờ vọng tưởng. Mưu kế của Quỷ thì đa đoan, tối tăm chẳng sáng suốt. Cho nên mới có ác Quỷ bên ngoài nó làm tai làm nạn. Nếu như trì danh được nhất tâm bất loạn, hết nghiệp chướng, trống mê tình, một niệm cũng chẳng sanh thời tâm quang sáng rực rỡ ở tự tánh tư nhiên hiển lộ sáng suốt tuyệt vời. Đến bấy giờ chẳng những Quỷ ở ngoài chẳng thể đến làm hại được người mà nó muốn thấy người bằng cánh nào đi nữa vẫn chẳng thể đến được.

Thuở xưa có một quốc gia ở gần bên nước Quỷ La Sát. Đương nhiên đôi bên phải có tình bang giao. Nhưng Quỷ La Sát thường đến bắt người ăn thịt. Quốc Vương không còn biện pháp nào hơn là phải thương thuyết với Quỷ La Sát và hứa mỗi ngày phải tống một mạng dân ra đến đồng nội gọi là cung cấp lương thực. Từ nay trở sau, cứ mỗi gia đình phải nạp một mạng đứa nít mỗi ngày theo một phương pháp nhất định là chu nhi phục thủy, chẳng một gia đình nào tránh khỏi. Một hôm đến lượt gia đình chỉ có một đứa con. Gia chủ nghĩ rằng nhà mình hiếm hoi mà nay công binh thi hành theo ác lệ này chắc là phải tuyệt tự. Nghĩ vậy rồi lén chạy đến Quốc vương để điều đình may ra nhờ ơn Thánh lượng hải hà chăng? Quốc vương cho là: Nhân dân ai chẳng tham sống sợ chết, đâu nên thiên vị một ai. Gia chủ vạn bất đắc dĩ, nát gan đứt ruột, dắt “viên ngọc quý” mà đem tống ra ngoài gò xa, vào lúc ban đêm. Nhà ông này vốn bình nhật rất tin Quán Thế Âm Bồ tát nên chính khi dắt con đi ông bảo rằng: Con gắng xưng niệm danh hiệu Nam mô Quán Thế Âm Bồ tát cho nhiều cho thật nhiều, may ra phúc nhà mình chưa đến nỗi, thời nhờ Ngài cứu thoát được nạn Quỷ này! Tuy nhỏ mà cậu biết nghe, nên cậu làm theo lời cha dạy. Sau khi vứt viên ngọc minh châu ra gò rồi, về nhà ông ta tụng Phổ môn, niệm Bồ tát suốt đêm ấy. Nhờ đấy nên Quỷ chẳng làm hại cậu được. Sáng sớm ông mò ra thám thính thăm dò tin tức, thời Phật Tổ tái sanh một lần nữa, cậu con bình yên vô sự. Cha con dắt nhau vừa mừng quýnh vừa chạy nhanh, và chạy thẳng đến chỗ Quốc vương. Sau khi Quốc vương nghe cha con ông đại phúc thuật lại đầu đuôi vụ thoát nạn thời nhà vua truyền lệnh cho toàn quốc nhất luật trì niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát và Kinh Phổ môn. Từ đấy về sau được thoát nạn Quỷ La Sát. Chung niên thái bình vô ưu sự, là nhờ vậy đấy.

  1. Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Cứu Nạn Lao Ngục

Chánh văn:

Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.

Giải:

Đoạn văn này là nói khỏi nạn gông cùm xiềng xích và tai nạn lao ngục. Nếu có phạm quốc pháp nên mới có tội lỗi, hoặc không tội mà bị người khác vu khống oan uổng. Khi trót gặp bị gông cùm xiềng xích là hình phạt trói buộc thân thể. Nếu năng trì niệm danh Quán Âm cũng có thể khỏi tai nạn này được. Có tội là do ác nghiệp đời trước hoặc đời này mà cảm đến. Mà bị oan ức, tuy hiện nay chẳng có ác nghiệp nhưng cũng bởi ác nhân đời trước mà ra, thế cũng chẳng nên oán trời trách người. Phàm bị xiềng tay, gông cổ, dây sắt dắt đi, đến lao ngục cùm chân, đều là do ác nghiệp chiêu cảm, tức là ác cơ. Năng xưng thánh hiệu là thiện cơ. Hai động cơ thiện ác là năng cảm. Thảy đều đứt gãy liền được giải thoát là sở cảm.

Thuở trước có đôi vợ chồng đã có quy y Tam bảo, nhà có thờ phụng Đức Quán Âm. Chồng bị người ta vu khống là ăn trộm. Khi nghe có tiếng động, anh chồng lanh chơn tránh thoát. Chị vợ bị lính nhà quan bắt hạ ngục, gông cùm đủ thứ vào thân và bị đánh đập tra tấn tàn nhẫn. Một hôm nhà ngục bị phát hỏa, họ di chuyển phạm nhân ra đường lộ để tránh hỏa hoạn. Vừa may gặp một vị tăng đi ngang qua, bà ta nhìn thấy van lạy cầu cứu. Vị tăng nhìn thấy người đàn bà ấy chính là đệ tử đã quy y với mình ngày trước. Ngài nói: Không có phương pháp nào khác cứu cho nhau được, nay con nên thâm tín Đức Quán Âm chỉ cần nhất tâm trì niệm Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát sẽ chắc có cảm ứng bất khả tư nghì. Bà ta tuân lời dạy của Thầy, niệm suốt đến ba ngày đêm, xiềng cùm bỗng nhiên đứt rời. Nhưng người canh giữ còn tại đấy nên bà ta không dám tẩu thoát. Bỗng nhiên trên không trung có tiếng người kêu: Ngươi mau chạy thoát đi! Bà nghe và mở mạnh đôi mắt, dòm ngay ra thấy cửa mở trống. Bà tức tốc nhanh chân từ trong ngục phóng ra và chạy bán sống bán chết. Chạy đến hai ba mươi dặm đường mới gặp được một người chính là người chồng. Hú vía hoàn hồn. Hai người gặp nhau mừng rỡ khôn xiết. Thế là họ đã được đoàn tụ. Đấy là nhờ xưng niệm Quán Âm mới được sự thật linh ứng giải thoát nạn gông cùm lao ngục vậy.

Lại ngày xưa, khi Hoàng Sào gây phản loạn, đời gọi là giặc chít khăn vàng. Tại Hàng Châu có hơn mười người bị bắt, gán là Hoàng Sào dư đảng. Khi bắt xong, nhân vì trời vừa tối, nên chưa kịp giải về Nha, bèn cho tạm trú tại một ngôi chùa. Họ đem phạm nhân nhốt tù trong một cái lồng rất chặt kín. Trong bọn có một người bị oan uổng. Trong chùa ấy có một vị Hòa Thượng, đêm trăng mát mẻ, Ngài rảo bước tản bộ dưới bóng nguyệt tà, khẩu niệm Quán Âm. Người bị oan uổng ấy, tuy ở trong lồng kín, nhưng thoáng thấy Hòa Thượng liền chìa mồng ra cầu cứu với Ngài, Hòa Thượng dạy: Các ngươi nên nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, tức có thể giải thoát được. Khi nghe, bọn chúng đa số là ác tâm nên họ bảo: Anh em ta hè nhau phá quách cái lồng gỗ này đi, có hơn không? Chứ niệm Quán Âm là thứ gì mà được khỏi? Chỉ có người bị oan tin theo lời Hòa Thượng. Nhân đấy chăm lòng thành kính mà xưng niệm. Sáng ngày trao xiềng gông cho mọi người thì thiếu mất một bộ, vô hình chung người niệm Quán Âm được khỏi khổ xiềng gông ở tay và cổ. Khi dẫn về Nha thẩm vấn xong, Pháp quan biết người ấy bị oan uổng bèn phóng thích cho về nhà.

Lại xiềng cùm, bởi bị oan, hoặc phạm pháp nên bị trói buộc nơi thân thể lại là thứ hữu hình. Còn có thứ xiềng cùm vô hình nữa là khác. Quý vị hiện nay tuy đều là những người lương thiện, nhưng lại phải phiền lụy về gia thất, về tình con cái gái trai ràng buộc chẳng rời, giống như chim ở tại lồng, chẳng hay bay nhảy tự do xa rộng được. Muốn làm sao thoát khỏi gia đình là lao ngục vô hình; muốn giải thoát xiềng cùm thê tử lợi danh, thì cũng chỉ có nhất tâm xưng niệm hồng danh Đức Quán Thế Âm may ra được mãn nguyện phần nào. Nhưng cũng chẳng cần phải xuất gia, hoặc phải ly khai gia đình mới là thoát tục. Mà chỉ nên tâm thường nêu duyên nơi Phật đạo vẫn quý lắm rồi. Cho nên có câu: Chẳng lìa trần lao mà làm Phật sự. Hay Hoa sen trong lửa. Đấy mới thật là xuất gia chơn chính. Nếu hiện nay tuy là tướng Tỳ kheo mà trong tâm phiền não, hoặc nghiệp y nhiên chẳng mòn bớt chút nào, trần lao tệ chướng buộc ràng chặt chẽ, thời với thứ xiềng cùm vô hình này vẫn chưa thoát được, đâu có lợi ích gì cho lắm ru! Quý vị đến đây nghe giảng Kinh. Từ đây trở đi nhất tâm biện đạo, thân tuy còn tại tục, nhưng đã sùng tín Phật pháp, quy y Tam bảo, đạm bạc với cuộc sống hàng ngày, bèn là tâm đã xuất gia rồi vậy. Đấy là thuộc về những việc phi thường chừ chẳng phải dễ được đâu! Cứ một mức thẳng mà thi hành đi. Cực lạc thế giới vốn là gia hương của ta đấy, một phen cất bước tức thì tới ngay. Chính là:

Thân tuy chưa đến ao Liên Hoa

Tâm này đã về quê Cực Lạc,

Nguyên văn:

Thân tuy vị đáo Liên Hoa trì

Thử tâm dĩ tống Cực lạc hương.

  1. Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Cứu Nạn Oán Tặc

Chánh văn:

Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: “Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông nên phải một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ tát, vị Bồ tát đó hay đem pháp Vô úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này”. Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: “Nam Mô Quán Thế Âm Bồ tát!”, vì xưng danh hiệu Bồ tát nên liền đặng thoát khỏi.

Giải:

Đấy là nạn thứ bảy gọi là nạn oán tặc. Những nạn ở cõi chúng sanh nhiều kể không xiết, đâu những là bảy nạn. Mà phẩm Kinh này ước chia có bảy nạn là chẳng qua bởi bảy nạn này nó hay xảy ra. Chúng ta thường thấy nghe. Cho nên nó có thể bao quát hết tất cả mọi tai nạn khác vậy. Tam thiên đại thiên quốc độ, văn trước đã giải xong: Trăm ức núi Tu Di, trăm ức tứ đại bộ châu, làm một tam thiên đại thiên quốc độ, quanh tròn rộng lớn. Trong đó đấy nhẫy hàng bao nhiêu oán tặc chứ chẳng phải là một số ít. Hại mạng là oán, đoạt của là tặc. Đã giết nhân mạng mà lại đoạt của người, gọi là oán tặc; nếu chỉ hại mạng mà chẳng đoạt của là oán chẳng phải tặc; hoặc đoạt của mà chẳng hại mạng là tặc chẳng phải oán. Thứ oán tặc này ở đầy nhẫy trọn trong tam thiên đại thiên thế giới làm thành đầy nhẫy một thế giới oán tặc.

Có một thương chủ tức là người lãnh tụ của các bạn thương nhân, của cải phong phú, lão luyện nghề buôn, tục xưng Lão cầm, lãnh đem hướng dẫn số đông các bạn thương nhân. Trong đãy hành lý chứa đựng bao nhiêu của cải báu quý, đem đi và giữ gìn. Những của cải quí báu ấy giá trị đáng ngàn vạn bạc vàng là những loại thất bảo. Đi vượt qua bao dặm lộ trình là đã gặp phải bao nhiêu oán tặc rất đỗi nguy hiểm. Cả bọn thương nhân ai ai cũng đều sanh lòng Kinh sợ cho sanh mạng khó bề bảo đảm. Trong đó có chừng một người, bình nhật có lòng thâm tín Tam bảo, cung kính Phật pháp. Ở vào lúc nguy hiểm ấy, y đối trước mặt đồng bọn mà cao giọng xướng lên rằng: “Bà con ơi! Bà con chúng ta đều là những người đem của vốn cho phóng ra để mà cầu thu lấy của lãi lợi tức vào, chính là khuôn thước công minh của nghề thương mãi doanh nghiệp. Vậy chúng ta đều là Thiện nam tử. Trên con đường này, tuy nhiều nguy hiểm thật đấy, nhưng có thể là chúng ta không nên Kinh hãi, bất cần run sợ, chẳng hề e ngại gì cả. Mà các bạn cần nên, này nhất tâm xưng niệm danh hiệu của Đức Quán Thế Âm Bồ tát, nhân vì Bồ tát năng làm chỗ cho chúng ta nương tựa. Cho nên Quán Thế Âm Bồ tát tự nhiên ban cấp cho chúng ta một sự Vô úy và một sự bảo hựu rất cực trọng vĩ đại vững vàng. Và Ngài đã năng đem oai đức Vô úy mà Bố thí cho chúng ta vậy”. Quán Thế Âm Bồ tát, năng dùng oai đức Vô úy thí cho chúng sanh. Cho nên lại có hiệu là Thí Vô úy giả nữa. Bố thí có ba thứ: Tài thí, Pháp thí và Vô úy thí.

1) Tài thí:

Tài có nội tài và ngoại tài. Tiền vật, áo mặc, cơm ăn, khí cụ cần dùng, cho đến vợ con, thành nước là những tài vật ngoài thân, đem Bố thí cho người, gọi là ngoại tài Bố thí. Nếu Bố thí cái đầu, tròng mắt, tay chân như những việc đốt ngón tay, cánh tay để làm hương cúng, khoét thân thể, múc tròng con mắt, thời gọi là nội tài Bố thí. Các đệ tử Phật bất cứ tại gia hay xuất gia đều có thể tu hành Bố thí như thế được cả. Lục độ Vạn hạnh của Bồ tát tu, đứng đầu là Bố thí. Không luận Bố thí nội tài hay ngoại tài đều là đối trị được lòng xan tham. Bố thí nội tài cố nhiên là cao siêu hơn ngoại tài. Nhưng Bố thí ngoại tài vẫn cũng chẳng phải là việc dễ đâu. Cái thói quen keo rít của người đời nó sâu sắc bền chắc lắm, một sợi lông chân vẫn chẳng chịu nhổ, lòng tham như biển cả. Chấp đắm rất bền chắc, xả nó chẳng rời, phóng nó chẳng xuống. Cho nên đấy chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay bị sanh tử luân hồi không ngày mãn nhiệm.

Bố thí ngoại tài đã chẳng dễ dàng tu được, cho nên Bố thí nội tài lại là khó khăn biết bao! Bởi vậy cho nên trước hết dẫn dụ phải đạm bạc với tình đời, dần dần coi nhẹ của cải, để phá dần chấp tâm tham đắm, mới phát đại nguyện khẳng khái mà tu Bố thí ngoại tài trước đã.

Tiến lên một bước nữa, chẳng những Bố thí của cải ngoài thân mà nếu cần, tứ chi ngũ quan chính tại thân thể cũng Bố thí luôn. Bố thí như thế cho lâu, tức những vọng tưởng phiền não nơi nội tâm cũng cần Bố thí bỏ luôn đi. Như thế mới dần dần uốn dẹp và cắt đứt nó đi được. Kinh nói: “Nhất xả nhất thiết xả. Nhất Bố thí nhất thiết Bố thí.” Bố thí cho đến được một sợi tơ chẳng vướng; luôn cả một sợi tơ chẳng vướng đó cũng thí xả cho sạch hết, mới đòi lại được cái bộ mặt thật của chúng ta bị mai một từ hồi nào tới giờ.

2) Pháp thí:

Bố thí của cải chỉ cứu thân xác thịt. Mà bố thì đạo Pháp mới có thể dứt phiền não. Tất cả Bố thí cúng dường lấy Pháp cúng dường rất là đệ nhất. Như hiện nay tuyên giảng phẩm Phổ môn; Cư sĩ Lâm thỉnh tạng Kinh, ấn tống những sách lành mạnh. Và quý vị đến đây nghe giảng, khi về cũng chuyển bảo lại cho kẻ khác, không điều nào chẳng phải là Pháp thí vậy. Bố thí đạo Pháp có thể dứt được phiền não của chúng sanh: Phá ngu si, khai trí huệ và minh tâm địa cho nó. Cho nên công đức Pháp Bố thí rất là vĩ đại.

3) Vô úy thí:

Tức lực Bố thí. Đại phàm những vị quan trưởng, thân hào nhân sĩ là những người giàu có, có thế lực. Với tất cả các công việc công ích của địa phương mình, quí vị ấy đều nhiệt tâm tán trợ, để khiến cho bao nhiêu người trực tiếp đứng ra phụ trách công việc họ sanh lòng hào hứng thú vị mạnh dạn làm lên không chút e dè lui trụt gì cả. Đấy tức là Vô úy Bố thí vậy. Lại như sáng lập các Pháp hội, ai năn xuất lực bảo hộ, khiến cho quần chúng an tâm biện Đạo. Nếu chẳng may gặp phải các tai nạn thủy họa, chịu xuất lực tài ra cứu giúp. Hoặc gặp giặc cướp chịu xuất lực ra cán ngự khiến cho mọi người không còn lo sợ, đều là Vô úy Bố thí vậy. Có của cải đem của Bố thí, biết Phật pháp đem Pháp Bố thí. Nếu cả hai đều không có, thời có thể đem sức mạnh Bố thí. Công đức này thật bất khả tư nghì. Vì đem sức mà Bố thí thì rất giản tiện. Như tự mình có thân thể khỏe, thấy người qua sông, qua cầu mà qua chẳng nổi được, ta liền thay thế họ dắt đỡ hoặc cõng vác thay họ mà chẳng lấy món thù lao, tức là lực Bố thí.

Lại nữa, như dọn bỏ những hòn gạch đá giữa đường, chẳng làm trở ngại và khổ chân những hành nhân. Hoặc đem bát nước giải khát cho người. Và nhỏ mọn như cái nhọc của dơ tay lên cũng đều là lực Bố thí đấy vậy.

Thuở quá khứ xa xưa có Ngài Trì Địa Bồ tát thường ở bên đường gánh gánh thay người. Tức là chứng minh lực Bố thí. Phạm vi Bố thí rất rộng rãi, đều tùy theo sức lực mình có thể làm được thì làm, chẳng luận nhiều ít. Chỉ nên đem thành thật tâm, chơn thật tâm làm chủ là được.

Ngày xưa có đứa gái nghèo, đi ăn xin mà sống qua ngày. Dành dụm được ít tiền, mua một bình dầu mè, đem cúng dường chùa Thầy. Thầy Tăng ta khai đại môn trung ương để nghinh rước, vì cô ta đem tâm chân thật. So sánh với người giàu, tùy lực mà cúng thí thời vượt cao hơn vạn vạn bội lần.

Lại như Đức Phật khi còn tại thế, có một người nghèo cùng làm nghề gánh nước, người đem một chén nước cúng dường vị La Hán. La Hán nói: Đời sau ngươi sẽ được phước báo rất lớn, hẳn không còn nghèo cùng nữa.

Bố thí khả dĩ cầu phước, được quả báo giàu sang. Thử xem những người giàu sang hiện nay đâu chẳng phải đời trước không Bố thí mà có. Ngược lại, đời trước bủn xiểm tức là đời nay bị quả báo nghèo khổ.

Nhân sanh vốn là không, tiền của là vật ngoài thân, lại thuộc về huyễn hóa: Khi đến với tay không, khi lui hai tay buông thả, chẳng đem gì theo được! Cho nên những ai có tiền của nên vui tu Bố thí để rộng kết đại duyên với mọi người. Người nào hiểu được Phật pháp nên tận tâm giảng giải cho mọi người nghe. Người nghe tuy lãnh hội được một câu hay nửa bài kệ, vẫn có thể khiến họ được tâm khai ý giải, dần đến đoạn phiền não, chứng chơn thường. Cho nên những vị đem đạo Pháp Bố thí, tương lai chắc có đầy đủ trí huệ học vấn, giáo hóa cho quần chúng, khắp làm lợi ích cho người trời.

Còn những người đem Vô úy Bố thí cho kẻ khác, đời sau chắc được là người oai mãnh hơn mọi người, buông ra một lời nói, được cả thiên hạ phục tùng theo răm rắp. Cho nên chúng ta là người học Phật, nên cần tu Bố thí. Như Ngài Vô Tận Ý Bồ tát trong Phẩm này, đem chuỗi Anh lạc cúng dường qua Đức Quán Âm. Ngài Quán Thế Âm lại đem cúng dường lên Phật THÍCH CA và Phật ĐA BẢO, tức là Tài thí. Như Thuyết pháp để trừ dứt ba món độc cho người, tức là Pháp thí. Cứu khổ bảy nạn, khiến người chẳng sanh lòng sợ hãi, tức là Vô úy thí. Quán Thế Âm Bồ tát đầy đủ ba món thứ này, cho nên Ngài năng cứu khổ cứu nạn cho mọi loài chúng sanh. Mà với sức Vô úy thí lại càng vĩ đại năng khiến chúng sanh xa lìa sợ hãi. Cho nên chúng ta khi phải trải qua những dặm đường dù cho có bao nhiêu oán tặc nguy hiểm khó khăn, nên nhất tâm xưng niệm Thánh hiệu thời chắc chắn là không xảy ra việc gì đáng tiếc.

Lúc bấy giờ ông chủ buôn và bao nhiêu các bạn đồng nghiệp chính đang lâm vào cảnh cực kỳ nguy hiểm lo âu tài bảo và tánh mạng chẳng có chút gì bảo đảm cả, nên lòng dạ Kinh hãi lo sợ hoảng hốt đến mức. Khi chợt nghe một lời đề xướng của bạn, thời cả bọn nhất tề đồng thanh xưng niệm: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ tát. Tức thì Quán Âm đem sức oai thần, khiến chiếc thương thuyền này giải thoát được cơn nguy khốn hiểm nạn trên đường hải lộ, và giải trừ luôn nỗi lo sợ trong tâm của bọn chúng nữa. Nam mô tức Na mô là tiếng Phạn. Tàu dịch là quy y hay quy mạng nghĩa là đem thân thể và tánh mạng nương gởi đầu quy về nơi Bồ tát nên gọi là Na mô.

Năm Dân quốc thứ mười bảy, nơi đại lộ Thiên đồng ở Thượng Hải có tiệm chuyên bán gương, chủ tiệm tên Thái Nhân Sơ nhà rất giàu có, nên bọn lưu manh đạo phỉ chúng dòm ngó thèm nhểu nước mồm đã từ lâu rồi. Một hôm nọ, Thái Nhân Sơ tự lái chiếc xe hơi vừa ra khỏi cổng cũng vừa gặp tụi chúng bốn thằng, chận xe trèo lên và bắt buộc uy hiếp ông ta phải lái chạy theo hướng mà chúng muốn dẫn đến. Chính lúc nguy hiểm Kinh hoảng, ông Thái liền nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ tát. Chiếc xe hơi do ông lái vừa chạy đến chỗ có đông đảo thời bánh xe trước sau đều nổ vỡ, xe hết chạy được. Nhưng bọn chúng buộc ông đi bộ. Ông trù trừ bước chậm rãi. Chúng nó e rằng ông ta sẽ hô hoán lên là nguy cho chúng, nên chúng bắt đầu hành hung với ba phát súng lục bắn vào ông liên tiếp. Ba phát súng chúng bắn ra liền khi thì chân ông nhảy vọt lên khỏi mặt đất cũng liền lúc, nên chẳng trúng ông phát nào. Nhưng ông Thái tự mình hoàn toàn chẳng biết vì sao mà nhảy vọt bổng lên ba vọt như thế? Phải chăng vì nhờ sức oai thần Quán Thế Âm Bồ tát khiến như vậy ư? Ông Thái Nhân Sơ hiện nay vẫn còn khỏe mạnh, ai muốn tìm hiểu, khi nào đi đến đấy mà hỏi biết. Vụ này cũng đã chép vào trong tập Quán Âm linh cảm lục.

Hiện nay quý vị được nghe giảng Kinh, chắc có trực tiếp hoặc gián tiếp thọ ơn cảm ứng của Đức Quán Âm. Cho nên ngày nào cũng như ngày nấy hơn vài trăm người đến nghe. Nên phải biết, chúng ta chẳng may gặp các thứ tai nạn đều bởi quả báo ác nghiệp đời trước cảm đến, mảy may chẳng sai mất: Ai đã gây oán thù giết hại mắc nợ mạng đền mạng, ai đã vay mượn tiền của mắc nợ của phải hoàn trả. Nay gặp nạn oán tặc cũng là quả báo tiền khiên oan trái. Vậy nên phải bình tâm suy xét cho rõ ràng những thứ nhân quả ấy, mới có thể chẳng oán trời, chẳng trách người được. Tuy nhiên, nếu năng nhất tâm niệm Phật, niệm Quán Âm thời ác nghiệp này tức nhờ công đức niệm Phật, niệm Quán Âm cũng vẫn có thể vãn hồi ngay. Nếu được nhất tâm bất loạn, tâm thủy lóng trong, tai nạn tự nhiên tiêu diệt. Thuật vụ đã xảy ra cơ tương quan với Đạo lý vừa kể trên, nên lưu ý.

Thuở trước có một Cư sĩ ở Dương Châu, gia nhân có mười bảy người tất cả. Đương khi tặc phỉ làm loạn, cả gia đình đều nhất tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ tát, Cư sĩ đêm mộng thấy Đức Quán Âm đứng trước mặt nói rằng: “Các ngươi nên thành tâm trì niệm. Mười sáu người kia khá khỏi nạn giặc này. Chỉ một mình ngươi vì định nghiệp đời trước nay đã đến thời, ác báo khó tránh khỏi, chẳng phải dễ dàng gì mà cứu vãn. Sáng ngày mai giặc sẽ đến, trong bọn chúng có một người tên Vương Ma Tử, đời trước nó đã từng bị ngươi giết mười sáu lát dao. Hiện nay nhân duyên đã hội hợp, ngày mai sẽ gặp nhau, ngươi chắc phải bị Vương Ma Tử giết mười sáu dao lại mà chết. Nhưng may chăng là do ngươi chân thành cảm cách, hoặc có thể cứu nhau được”.

Sáng ngày lại, Cư sĩ liền khiến cả gia nhân đi tránh ở các gian nhà chung quanh, chỉ một mình Cư sĩ ngồi chính giữa nhà chính để chờ, và ông có chuẩn bị sẵn một bàn cơm chay rất tử tế. Quả nhiên đúng giờ ngọ bè lũ của Vương Ma Tử kéo đến. Tức thì Cư sĩ hỏi Vương Ma Tử trước rằng: Anh có phải là Vương Ma Tử không? Đời trước tôi có mắc nợ anh 16 lát dao, ngày nay tôi chắc phải chết vì bàn tay anh! Tử ngạc nhiên hỏi: Tại sao anh lại biết tên họ tôi? Cư sĩ liền đem việc Quán Âm trong mộng mà thuật lại tường tận. Ma Tử nghe xong và nói: Đời trước đã có quả báo với nhau như thế thì đời sau, oan oan tương báo trọn không khi nào rồi xong được. Mà oan nghiệt thời nghi giải bất nghi kiết. Nghĩa là nên cởi mở rời nhau, chẳng nên buộc gút dính đùm lại nhau. Ma Tử bèn lấy con dao trở sống dao bằm vào thân Cư sĩ 16 dao để làm phép gọi là đòi lại 16 dao nợ mà y đã mắc của mình đời trước mà thôi, chứ chẳng giết chết y làm chi! Sau khi việc giải oan xong mới đến bàn cơm chay, vui vẻ mát mẻ và giải thoát.

Thế nên biết rằng oán tặc là bởi ác nghiệp từ đời trước theo dõi đòi hỏi đến đời này. Lại nhờ nhất tâm xưng niệm nên định nghiệp ấy mới có thể cứu vãn được giải thoát. Chúng ta từ vô thủy đến nay oan gia đối đầu nhiều lắm lắm nhiều, cần phổ biến phương pháp siêu độ cho họ. Làm được thế thời tất cả oan gia từ vô thủy đến nay đều có thể chuyển kẻ thù thành là ân nhân. Oan nghiệt đã được mở gút buông thả thời tự có thể chẳng còn gặp chịu tai nạn theo đòi món nợ hoàn báo nữa.

Đoạn Kinh này, nếu ước về tâm pháp từng cá nhân mà nói mỗi một người có tám Thức. Trong thế giới tam thiên đại thiên, trên trời dưới đất, ngang khắp mười phương, dụ cho Thức thứ tám. Đứng cùng ngang khắp, kẻ oán tặc đầy nhẫy trong toàn thế giới, dụ cho trong Thức thứ tám bao chứa tất cả những hạt giống thiện ác. Oán tặc cướp của cải, hại sanh mạng rất là nguy hiểm, dụ như chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay, làm người sống một đời tức có một đời phiền não. Bởi đó mà gây ra bao nhiêu ác nghiệp, trồng xuống biết bao nhiêu hạt giống ác. Một ngày mai nào đó khi mà nhân duyên hội ngộ gặp gỡ nhau, bị sức mạnh của ác nghiệp dắt dẫn, sa vào trong tam đồ. Thế là tan mất pháp thân, dứt xong huệ mạng. Mãi chịu sanh tử luân hồi không ngày giải thoát. Rất đáng ghê sợ hơn hết.

Trong tám Thức chúng ta, Thức A lại Da thứ tám dụ như một vị Lão ông đông gia đại thương chủ trong một hiệu buôn, tức là người quản lý bao quát toàn sở hiệu. Nếu không có Lão ông đại thương chủ thời không do đâu mà thành lập và khai trương cửa hiệu buôn được. Nếu không có thức thứ tám, trọn không có gì tất cả; cũng như không có tam thiên đại thiên thế giới và gọi là thương chủ cùng là oán tặc nữa. Có vị thương chủ tức là người lãnh tụ của các bạn thương nhân, dụ cho đệ lục ý thức như người làm chủ tể trong một gia đình, cũng như Kinh lý trong một hiệu buôn tổng lý tất cả sự vu. Nhãn, nhĩ, tĩ, thật, thân, năm thức này dụ như năm vị điếm viên, gọi là ngũ cá môn tiền tác mãi mại, nghĩa là năm cái cửa trước làm việc mua vào bán ra. Mà Thức thứ bảy là truyền tống thức tức là truyền rước vào, hay dọn tống ra, thời giống như trong một hiệu buôn có một nhân viên xuất nộp, hay một người quản hóa xuất nhập vậy. Trong văn Kinh nói các người buôn dụ như các thiện tâm sở dưới quyền sáu Thức Tâm Vương. Đem của báu, dụ cho nghe Kinh, tu quán, lạy Phật, niệm Phật, trì chú cho đến tu trì các pháp môn tam thừa. Đường hiểm, dụ cho nhà lửa ba cõi và hiểm đạo sanh tử phiền não. Một người bảo nhiều người niệm Quán Âm dụ cho huệ tâm sở trong ngôi thiện tâm sở biết bảo niệm Phật, niệm danh hiệu Quán Âm có thể liễu được sanh tử. Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xướng rằng: Nam Mô Quan Thế Âm Bồ tát tức là dụ cho tâm vương tâm sở cả đại gia đình hợp tác, nhất tâm nhất đức niệm danh hiệu Quán Âm. Do đấy mới phá được phiền não oán tặc là hột giống ác nghiệp tức có thể ra khỏi đường hiểm sanh tử luân hồi trong ba cõi mà đoạn được hoặc, chứng chơn vậy.

Kết Luận: Niệm Quán Thế Âm Bồ tát Để Được Cứu Khổ Bảy Nạn

Chánh văn:

Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ tát sức oai thần cao lớn như thế.

Giải:

Đoạn này là tổng kết văn bảy nạn trước. Bảy nạn chính có thể phối với lục đại: Thủy nạn phối với thủy đại, hỏa nạn phối với hỏa đại, hắc phong nạn phối với phong đại, đao trượng già tỏa nạn phối với địa đại, La Sát oán tặc nạn phối với thức đại, tam thiên đại thiên thế giới phối với không đại. Nay đã tổng kết để khiến Ngài Vô Tận Ý lưu ý. Cho nên Đức Phật lại gọi Vô Tận Ý Bồ tát nói một lần nữa. Chúng sanh bị chịu khổ bảy nạn, nhất tâm xưng danh liền được giải thoát, tức là nhờ Quán Âm có sức oai thần bất khả tư nghì vậy.

Đại tức đại tâm. Quán Thế Âm Bồ tát đã xả kỷ lợi tha, đủ đại đạo tâm, đại hành môn, 32 ứng hóa thân, 14 Vô úy thí. Cho nên: Nghìn xứ khẩn cầu nghìn xứ ứng. Rộng lớn vô ngại, chẳng đồng với bình thường phàm phu, cho nên gọi là Đại Tâm Bồ tát. Quán Âm Bồ tát cứu bảy nạn là đem cho cảm ứng tự nhiên như trăng trời ánh nước mà thành trăng dưới nước. Nước chưa hề bay lên, trăng chưa hề giáng xuống, thế mà có cảm ứng tự nhiên. Trăm ngàn vạn ức chúng sanh niệm Quán Âm Bồ tát tức được trăm ngàn vạn ức cảm ứng. Quán Âm chưa đến chúng sanh, mà chúng sanh cũng chưa đến Quán Âm Có cầu tất ứng là duyên cơ oai lực bất khả tư nghì vậy. Như vô tuyến điện, đây phát kia nghe, mà máy điện chưa từng đi đâu hết, nó vẫn nằm yên duỗi chân trong một sở nhà. Cao lớn, là sức công đức Quán Âm vượt khỏi sáu phàm, tam thừa, chín giới gọi là Cao. Danh rạng ba cõi là đồng cư, phương tiện, và thật báo gọi là Lớn. Từ trước đến đây đã giải thích xong bảy nạn.