NGƯỜI THỌ GIỚI BỒ TÁT CẦN PHẢI LÀM GÌ?
(Thư Học Phật Số 44)
Bồ tát giới Bảo Đăng

Giải đáp phần hỏi của:

P.Tử THÂN-HỢP LÊ VĨNH HÒA San Diego – California.

HỎI:   

(trích một đoạn nguyên thư):

 ……“ Ðược biết cô BẢO-ÐĂNG và CHƠN-HOÀN đã thọ GIỚI BỒ-TÁT.

Theo luật giới, thì mỗi tháng phải tụng GIỚI 2 lần.

Không biết quí đạo hữu dùng kinh gì để tụng GIỚI?

Thông thường thì tụng kinh PHẠM-VÕNG (BỒ-TÁT giới…do Hòa-Thượng THÍCH TRÍ-TỊNH phiên dịch và Phật-Học Viện Quốc-Tế tái ấn-bản).

Khi tụng đến 48 điều KHINH-GIỚI sau đây:

– Giới KHINH thứ 1: “GIỚI KHÔNG KÍNH THẦY BẠN”.

– “Nếu là Phật tử lúc sắp lãnh ngôi vị QUỐC VƯƠNG, ngôi CHUYỂN LUÂN VƯƠNG, hay  sắp lãnh chức QUAN, trước nên thọ – (giới BỒ TÁT). Như thế thì tất cả quỷ thần sẽ cứu hộ thân VUA và thân các quan. Chư PHẬT đều hoan-hỷ.

Ðã “ĐẮC GIỚI” rồi, nếu thấy có bực chân tu Thượng-tọa, Hòa-Thượng, A-xà-lê, những bực Ðại-Ðức, đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước, lạy chào, hỏi thăm. Mỗi sự đều “ĐÚNG NHƯ PHÁP” mà cúng-dường, hoặc TỰ BÁN THÂN CHO ĐẾN QUỐC THÀNH, CON CÁI, CÙNG BẢY BÁU TRĂM VẬT để cung cấp (đến) các bực ấy. Nếu Phật tử (Bồ-Tát ấy) lại sanh lòng kiêu-mạn, sân-hận, ngu-si, không chịu tiếp rước, lạy chào, cho đến không chịu “Y THEO PHÁP” mà cúng-dường, Phật-tử nầy phạm phải “khinh cấu tội”.

– Giới KHINH thứ 6: “KHÔNG CÚNG DƯỜNG THÍNH PHÁP”.

(Không cúng-dường và chẳng muốn nghe “PHÁP”)

Nếu là Phật tử, (khi) thấy có vị “PHÁP-SƯ ÐẠI-THỪA”, hay những bực đồng học, đồng  đồng hạnh đại-thừa, từ trăm dặm, nghìn dặm đến nơi tăng phường, nhà cửa, thành ấp, thời liền đứng dậy rước vào, đưa đi, lễ-bái cúng dường. Mỗi ngày ba thời cúng dường TRĂM THỨC UỐNG ĂN, GIƯỜNG GHẾ, THUỐC MEN TẤT CẢ ĐỒ CẦN DÙNG GIÁ ĐÁNG BA LƯỢNG VÀNG đều phải cấp hộ cho PHÁP SƯ. Mỗi ngày : sáng, trưa và chiều, thường thỉnh PHÁP-SƯ thuyết pháp và đảnh lễ. Không hề có lòng sân hận buồn phiền, luôn thỉnh pháp không nhàm mỏi, chỉ trọng PHÁP chớ không kể thân. Nếu Phật tử không như thế thời phạm phải “Khinh cấu tội” .[1]      

* * *

(Khi) Tụng đến 2 “GIỚI” nầy, Tâm Tôi cảm thấy rất nhiều phiền-não. Nếu đúng như “GIỚI” số I, thì con cái chỉ là “một vật sở hữu”chớ không còn là “một chúng sanh” nữa, mà mình có thể đem BÁN để cúng-dường và không biết vị “THỌ” cúng dường ấy:

– Có được PHƯỚC gì không?

Và:

– Nếu khi biết rằng Phật tử đã phải bán con cái để cúng dường cho mình, thì HỌ có hoan-hỷ nhận hay không? 

Riêng về “GIỚI THỨ 6” thì (xem như) có vẻ mặc cả” quá, bởi vì phải đáng giá “đến ba lượng vàng”?

… Nếu hai đạo hữu cũng dùng quyển Kinh PHẠM-VÕNG kể trên để tụng “GIỚI”, thì xin quý đạo hữu vui lòng giúp Tôi giải-tỏa các“thắc mắc” và “phiền não” về hai phần (cúng, kính) của hai GIỚI kể trên.

Chơn thành cảm tạ                                                                                               

GIẢI ÐÁP:

Nam mô A-DI-ÐÀ PHẬT.

Kính gởi đạo hữu THÂN-HỢP,

a/- Quả thật vậy BẢO-ÐĂNG (cũng như Ưu-bà tắc BTG CHƠN-HOÀN và các Bồ-Tát giới tử huynh đệ khác trong dòng PHÁP của Hòa-Thượng THÍCH THIỀN-TÂM và TT.THÍCH HẢI-QUANG tại ngôi  PHÁP-HOA PHẬT-TỰ Mật-Tịnh Ðạo-Tràng ở Tucson, Arizona nầy, đều đã thọ xong “xuất gia Bồ-tát giới” (gồm có “10 GIỚI TRỌNG” và “48 GIỚI KHINH” hết cả rồi).

Vì thế cho nên đương nhiên là  :

Ðúng theo GIỚI LUẬT BỒ-TÁT (nói riêng) và các GIỚI khác (nói chung) – trong Bộ Luật “BA-LA ÐỀ MỘC-XOA GIỚI” thì :

– Một tháng bắt buộc phải có hai lần “BỐ-TÁT” (tức là đọc tụng lại các “GIỚI PHẨM” mà mình đã “THỌ” để cho TÂM luôn-luôn “NHỚ” đến hầu khỏi bị “PHẠM-GIỚI”).

Và:

b/- Trong khi đọc tụng “GIỚI BỒ-TÁT” nầy (Bố-tát) thì dĩ nhiên là phải tụng theo kinh “PHẠM VÕNG BỒ-TÁT GIỚI” (mà Hòa-Thượng THÍCH TRÍ-TỊNH đã y theo trong TẠNG-KINH phiên dịch ra) trước đây.

Hiện nay tất cả những Phật tử trong các chốn Thiền Môn thuộc về hệ thống BẮC-TÔNG (Ðại-Thừa) nếu như ai đã có THỌ, TRÌ, và ĐỌC, TỤNG “BỒ-TÁT GIỚI” thì (nhất định là) cũng (đều) phải lấy quyển KINH nầy làm căn bản để tu học theo hết cả.

c/-  Trong thơ đạo hữu có bày-tỏ lên các điều “thắc mắc” và  “phiền não”  về  “KHINH GIỚI” thứ I và thứ 6 của Bộ “BỒ-TÁT GIỚI” nầy và cầu xin được giải đáp.……… (xem lại phần thư hỏi đã được trích dẫn ở trên).

Vì thế nên BẢO-ÐĂNG (thừa theo ý PHẬT, BỒ-TÁT, TỔ-SƯ qua những phần giảng giải lại của Thượng-Tọa Bổn-sư THÍCH HẢI-QUANG trước đây (khi Ngài giảng-giải về BỒ-TÁT GIỚI nầy – (đặc biệt nhất là Giới khinh thứ I và thứ 6) – cho BẢO-ÐĂNG và chư Huynh đệ đồng GIỚI hiểu), xin có đôi lời HỒI ÐÁP cùng GIẢNG GIẢI gởi đến cho đạo hữu dưới đây :

 TRƯỚC HẾT LÀ GIẢNG GIẢI về “KHINH GIỚI” thứ 1:

1/- Câu:

– “Nếu (là) Phật tử, lúc sắp lãnh ngôi QUỐC VƯƠNG, ngôi CHUYỂN LUÂN VƯƠNG, hay sắp lãnh chức QUAN, trước (phải) nên thọ GIỚI BỒ-TÁT”.

Nói “THỌ GIỚI BỒ-TÁT” đây nghĩa là (gồm có các phần như sau) người PHẬT TỬ nào thọ Bồ Tát giới ấy phải có những HẠNH sau đây:

1- Phát tâm Ðại-Thừa,

2- Lập nguyện Bồ-Tát, (tức là hành xử những công việc Phật-sự và Pháp-sự đúng theo lời PHẬT dạy trong giáo pháp Ðại thừa, chớ không làm theo ý riêng tư, phàm tục…)

3- Siêng năng Thọ, trì, đọc, tụng – (cùng hiểu rõ và thực hành về) – BỒ-TÁT giới.

4- Hành xử (việc quốc sự (nếu làm Quốc Vương) hoặc những công việc cá nhân của mình), mỗi mỗi đều phải luôn luôn xứng hợp theo tâm hạnh Từ-bi, hỷ-xả… của một bậc “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT thánh giả.

Tại sao?

– Vì TÂM (giới) và ÐỨC HẠNH của BỒ-TÁT rộng lớn, bao la như hư không cho nên người “thọ Giới BỒ-TÁT” ÐÚNG THEO NGHĨA (Bồ-Tát) rồi, thì phải luôn-luôn hành xử các HẠNH “TỪ-BI, HỶ-XẢ” của Bồ Tát, cùng với các HẠNH “TỰ-LỢI, LỢI-THA” trước là đối với mình (TỰ thân) và sau nữa là đối với người (tha nhân), không lòng nhàm mỏi, ứng hợp với Hạnh Từ-bi (ban vui, cứu khổ) của BỒ-TÁT và của PHẬT.

Nghĩa là:

– Luôn luôn lấy Tâm Hạnh “TỪ-BI, HỶ-XẢ” và “LỢI THA” làm căn bản.

– Hằng vì chúng sanh mà chịu khổ (chí đến quên cả thân mình) ..v.v…..

Vì thế (hằng luôn HÀNH các HẠNH Bồ-Tát như trên vừa mới nói) cho nên :

Tất cả quỷ thần (thảy) đều cứu hộ thân VUA và thân các QUAN. Chư PHẬT (cũng) đều hoan hỷ”.

Tại sao Quỷ thần lại cứu hộ Vua, Quan và chư PHẬT đều hoan hỷ ?

a/- Bởi vị BỒ-TÁT (giới tử) nầy hằng luôn vì chúng sanh mà chịu khổ nhọc… suốt đời Thọ, trì, đọc, tụng và hành xử BỒ-TÁT HẠNH đúng theo giới Bồ-tát (mà vị ấy đã Thọ), cho nên các chư vị quỷ thần trong Long Thiên Bát Bộ thảy đều mến ĐỨC HẠNH và kính trọng… do đó nên HỌ phát tâm thường theo ủng hộ vị Vua, Quan (Bồ-Tát giới tử) ấy (để làm Thần hộ pháp).

b/- Vì đấy là một vị Vua, (hoặc) Quan có thọ trì và “hành xử” Bồ-Tát hạnh, đầy đủ được (ít nhiều) ĐỨC HẠNH của một vị có tâm BỒ-TÁT vậy.

2/- Câu:              

“ÐÃ ÐẮC GIỚI RỒI”……

Người chơn thật Phật tử tu học Phật pháp và (đã) có căn bản vững chắc về Phật lý, rất cần phải nên chú ý (và liễu đạt (hiểu rõ) phần chơn nghĩa) của “BỐN CHỮ” (trên) NẦY.

NHƯ THẾ NÀO ?

Vậy thì: – Sao được gọi là “ÐẮC GIỚI” (BỒ-TÁT)?

“ÐẮC” đây có nghĩa là đã được “CHỨNG NHẬP” được vào trong “GIỚI PHẨM” của Bồ Tát (chứng đạo) rồi.

Tức là:

– Ðã được “ÐẮC GIỚI” (đã thành tựu đạo quả Bồ-tát) rồi.

Mà nếu như:

– “GIỚI” (Bồ-Tát nầy) đã được “ÐẮC” rồi,

Thì đương nhiên là bậc Thượng (Thiện) nhơn ấy phải được :

 “ÐẮC ÐỊNH” (của Bồ-Tát).

Nếu “ÐỊNH” ấy đã “ÐẮC” rồi.

Thì đương nhiên là phải được:

– ÐẮC “HUỆ” (đắc được “Bồ Tát trí-huệ”).

Một Bậc mà đã tu ĐẮC được 3 phần  GIỚI, ÐỊNH, HUỆ  (của Bồ-tát)  như thế rồi, thì đương nhiên kẻ đó không còn là hàng “phàm phu bạt địa” sanh tử chúng sanh (như chúng ta đây) nữa, mà tất cả hàng NHƠN THIÊN trong 3 cõi DỤC, SẮC, VÔ SẮC  phải tôn kính xưng tặng lên quý Ngài ấy là bậc “THÁNH GIẢ BỒ TÁT” (hay còn được biết đến bằng một danh xưng khác nữa) là: BẬC “NHỤC THÂN BỒ TÁT”   (nơi cõi thế gian nầy vậy).

Sao gọi là “Nhục thân Bồ tát” ?

Nghĩa là :

a/- Vị ấy tuy vẫn còn mang xác thân Tứ Ðại (cũng giống như các hàng phàm nhơn khác),  nhưng THÂN ẤY không còn là thân “Phàm tục” nữa, mà Thân Tứ đại (và ngũ ấm) của Quý  NGÀI đã chuyển đổi ra thành “PHÁP THÂN”, tức là “THÂN” kết tụ bằng 3 môn Vô lậu “GIỚI, ÐỊNH,  HUỆ” tạo thành, (Thân nầy trong KINH gọi là “Tối hậu sắc thân” (nghĩa là sau khi vị ấy bỏ thân nầy xong (chết) thì chứng nhập được Vô-Dư Niết-bàn).

Một bậc mà đã “ÐẮC GIỚI” Bồ Tát (và thành THÁNH) như thế thì đương nhiên là quý NGÀI đã tiến được vào trong định cảnh (tức là đạt được đạo quả) của chư thánh nhơn rồi :

b/- Ðó là việc mà (quý NGÀI) đã “chứng nhập” và “dứt trừ” được 4 thứ phàm tướng trói buộc của chúng sanh là :

(Dứt được) NGÃ TƯỚNG,

(Dứt được) NHƠN TƯỚNG.

(Dứt được) CHÚNG SANH TƯỚNG.

– (Dứt được) THỌ GIẢ TƯỚNG.

A/- Sao gọi là : DỨT ĐƯỢC NGÃ TƯỚNG?

Ðó là việc mà quý NGÀI đã “BIẾT RÕ” và “CHỨNG NHẬP” (tức là thành-tựu) được điều rằng :

– THÂN nầy “không phải là “TA” và “CỦA TA”. (Xem phụ chú ở dưới) – (Mà NÓ (Thân ấy) chỉ là một sự thành hình của các thứ NGHIỆP (hoặc Thiện, hoặc Ác) mà Ta đã gây ra trong các kiếp đời quá khứ tích-tụ lại mà thôi.

Cho nên NÓ ;

– Không có NGÃ và NGÃ SỞ

(Phụ-chú:

Tại sao THÂN nầy không phải là TA và CỦA TA?

Bởi vì:

(Ta không thể nào cầm nắm, sai-sử, hay sắp-xếp NÓ (Thân ấy) hành-xử đúng theo “Ý muốn” của Ta được.

Như thế nào?

Ðó là các việc như :

– NÓ (Thân nầy) muốn GIÀ (như là da nhăn, tóc bạc, răng rụng, yếu đuối vv…) thì NÓ cứ (việc) GIÀ (theo ý của Nó).

NÓ muốn BỆNH thì NÓ cứ (việc) BỆNH (theo ý của Nó)

NÓ muốn CHẾT thì NÓ cứ (việc) CHẾT (theo ý của Nó).

 Chớ:            

– TA không thể nào bảo NÓ phải hành xử đúng y theo “Ý muốn” của TA được.

– (Chẳng hạn như bảo rằng : – nầy Thân ơi, mi không được già, bệnh, chết… mà phải trẻ, đẹp, mạnh khỏe hoài nghe…)

Vì vậy cho nên:

– NÓ không phải là TA (vô Ngã)

Và:

 – NÓ cũng chẳng phải là của TA (vô Ngã sỡ) nữa.

Bởi vì quý Ngài đã “BIẾT RÕ” và “CHỨNG NHẬP” được vào trong “ÐẾ LÝ” nầy rồi (cho nên quý NGÀI trở thành là một bậc“Thánh Giả”), vì thế mà quý Ngài :

Không còn thấy tham luyến và lệ thuộc vào nơi xác THÂN Tứ đại hôi nhơ…ấy nữa.

(Mà chỉ tạm dùng  (Thân ấy) làm một thứ “Phương tiện” để lưu-trụ lại nơi cõi đời, nầy trong một thời gian (ngắn, dài) nào đó, ngõ hầu tu tập cho thành-tựu được đạo quả giải-thoát thôi, chớ :

Chẳng còn vì giả Thân tạm bợ, nhơ-bẩn ấy mà gây tạo ra các thứ (ác) NGHIỆP nữa).

Các phần (vừa được luận ở trên), trong KINH gọi là đã: DỨT ÐƯỢC NGÃ TƯỚNG

Các Bậc “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT THÁNH-GIẢ nào đã “chứng đắc” được đến mức (VÔ NGàTƯỚNG) nầy rồi thì giả sử như nếu có một (kẻ nào đó), đối với NGÀI mà sanh khởi ác tâm) dùng gươm, đao, giáo, mác…đến chém chặt vào nơi thân-thể của quý NGÀI thì (kẻ đó) cũng như là chém chặt vào  trong “Hư không” mà thôi (vì quý NGÀI đã không còn thấy có Thân ấy nữa rồi, cho nên trong thâm TÂM chẳng còn run sợ, lo sầu, tiếc nuối…hoặc đau khổ chi hết cả).

 Còn riêng về phần “TỰ THÂN” thì (chính ngay trong lúc bị chém, chặt… ấy), quý NGÀI cũng:

– Không thấy gì là gươm, đao (tức là không thấy có gươm, đao).

– Không thấy đâu là THÂN của Mình nữa (tức là chẳng còn thấy Thân nầy là TA (NGÃ) và CỦA TA (NGÃ SỞ) nữa).

Vì vậy mà:

Quý NGÀI không sợ, không đau, không hối-hận, hoặc tiếc-nuối..vv.. chi hết.

Quý NGÀI chẳng bao giờ còn có TÂM dùng-dằn, do-dự (trong các việc bố-thí (xả bỏ) các “thân phần” trong cơ-thể của mình, hoặc chính đến việc xả bỏ toàn thân mình cho các kẻ đến XIN THÍ… nữa.

TẠI SAO?

(Nhắc lại) vì quý NGÀI đã chứng được Ðế-Lý “VÔ NGÔ (và “VÔ NGà SỞ”rồi vậy.

Ðến đây,

BẢO-ÐĂNG xin được tạm ngưng trong chốc lát, để kể ra một câu chuyện về việc  “VÔ NGÃ, VÔ NGà SỞ” (và chẳng còn sợ, đau, hối tiếc (chi hết)….của một BẬC THÁNH NHƠN đã được “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT, HÀNH HẠNH BỒ-TÁT”, cùng với việc đã chứng đạt được Lý  “VÔ NGÔ,  VÔ NGà SỞ….) như sau :

1/- Vào đời “Quá khứ, lâu xa về trước…

Lúc đó, tiền thân của PHẬT THÍCH-CA MÂU-NI thọ sanh xuống cõi thế gian nầy, làm một vị Quốc-Vương (Vua của một nước) tên là THI-TỲ.

Vua ấy đã “THỌ” và đã “ÐẮC ĐƯỢC BỒ-TÁT GIỚI” rồi, NGÀI hằng luôn tu Bồ-Tát hạnh và đã chứng nhập được môn :

Cứu hộ Ðà-ra-ni

Vì thế cho nên:

Vua có TÂM Ðại từ-bithương-xót đến tất cả sanh loại (của các loài hữu-tình chúng-sanh) dường như Mẹ thương con không khác.

Vua ấy tinh tiến Hành “hạnh Bồ-Tát” không thối chuyển…

Thời kỳ đó vốn không có PHẬT xuất hiện ra nơi đời.

Khi ấy:         

2/- Trên cõi Trời, THIÊN ÐẾ THÍCH (chúa của cõi Trời thứ hai là Ðạo-Lợi Thiên) sắp-sửa mệnh chung (tức là phước Trời gần hết). Trên mình 5 tướng suy hao [2]  hiện ra đầy-đủ..

3/- Khi ấy THIÊN-ÐẾ THÍCH mới nghĩ rằng :

– Chẳng biết xứ nào có PHẬTBồ-Tát…hay là bậc THÁNH-NHƠN chứng được “NHỨT THIẾT TRÍ” để cho Ta đến quy-mạng, cúng-dường, đảnh-lễ…cầu được gia tăng tuổi thọ cùng thu-hoạch được vô-lượng phước-báo về sau không?.

Thiên-Ðế ấy đi khắp các nơi thăm dò, han hỏi… nhưng không một ai biết được hết cả, bèn trở về nơi cung Trời lại, ngồi mà lo rầu (sợ vô thường tới).

4/- Khi ấy có một vị Thiên Thần tên là XẢO-KẾ HOA SƯ (tức là Thần TỲ-THỦY YẾT-MA) thấy Vua Trời có vẻ lo buồn, nên thưa hỏi rằng:

– Tâu Thiên Chúa, vì sao mà Hạ-Thần thấy trên gương mặt của NGÀI có vẻ rầu lo như vậy?

THIÊN ÐẾ-THÍCH (tức là Ngọc-Hoàng Thượng-Ðếđáp:

–  Vì TA đi tìm bậc NHẤT THIẾT TRÍ để quy mạng hầu giải-cứu “5 tướng suy-hao” cho Ta mà không được, vì thế nên TA lo buồn.

5/- Thiên Thần XẢO KẾ HOA SƯ ấy tâu rằng:

– Tôi biết có một bậc Ðại Thánh-giả đầy đủ được các Bồ-tát hạnh như là Bố-thí Ba-la mật, Trì-giới Ba-la mật, Nhẫn-nhục Ba-la mật, Tinh-tấn Ba-la mật, Thiền-Ðịnh Ba la mật, Trí-tuệ Ba-la mật.

Vị ấy không bao lâu nữa ắt sẽ được thành PHẬT.

6/- THIÊN ÐẾ THÍCH nghe nói như vậy nên đọc lên bài kệ đáp rằng:

BỒ-TÁT phát đại tâm,
Như bông xoài, trứng cá.
Việc ấy NHÂN thì nhiều,
Thành QUẢ thời rất ít.

(Phụ-chú:

(Ý của bài kệ nầy nói rằng :

Người phát tâm Bồ-tát, thọ giới Bồ-tát, Ðắc giới Bồ-tát và hành hạnh Bồ-Tát, thì rất là nhiều (cũng giống như bông của cây xoài, cây trứng cá vậy), nhưng mà thành-tựu được đạo quả Bồ-tát (tức là ÐẮC giới Bồ-Tát, chứng thành một bậc Bồ-Tát đắc ÐỊNH, đắc NHẪN) thì chẳng có bao nhiêu.

(Như cây xoài, cây trứng cá, tuy là trổ bông rất nhiều, phủ trắng-xóa hết cả cây, nhưng mà kết thành ra trái thì chẳng có được bao nhiêu hết) !

7/- Thiên Thần XẢO-KẾ HOA SƯ đáp rằng:

Có xứ ƯU-THI-NAQuốc-Vương tên là THI-TỲVUA nầy có tu các hạnh BA-LA MẬT của ÐẠI BỒ-TÁT như là Bố-thí, Trì-giới, Nhẫn-nhục, Tinh-tấn, Thiền-định, Trí huệ…Tâm của Vua đầy đủ các đức tánh TỪ-BI của Bồ-Tát như là Thương-xót…hỷ-xả. vv…Vua ấy không bao lâu quyết-định sẽ được thành PHẬT.

8/- THIÊN ÐẾ THÍCH nghe xong mới nói rằng:

– Nếu quả thật có bậc Ðại thánh-giả y như lời của khanh nói vậy, thì chúng ta nên đến thử xem Vua ấy có được “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT” và có “TƯỚNG BỒ-TÁT” hay không ? Bấy giờ Ta sẽ hóa làm con chim Ưng (Diều hâu), ngươi thì hóa ra con chim Cáp (Bồ-câu). Ta sẽ giả bay đuổi bắt ngươi ăn thịt, còn ngươi thì (làm bộ) sợ hải, bay vào lòng nhà Vua lánh nạn…

9/- Thiên Thần XẢO-KẾ HOA SƯ vội nói:

Vua ấy là một Bậc “NHỤC THÂN ÐẠI BỒ-TÁT”, làm sao chúng ta lại dám đến gây ra việc phiền-não làm kinh động đến NGÀI như vậy?           

10/- THIÊN ÐẾ-THÍCH liền nói KỆ đáp rằng:

Ta chẳng phải ác tâm,
Muốn đến làm não-hại.
Nếu Vua THI-TỲ kia,
Là NHỤC THÂN BỒ-TÁT.
ÐẮC ĐƯỢC BỒ-TÁT GIỚI
Tu các BA-LA MẬT,
Theo như lời NGƯƠI nói.
Thì là bậc THÁNH-NHƠN,
Quý báu hơn vàng ròng.
Diêm-Phù Na-Ðàn Kim,
Vậy nên mới phải thử,
Nếu vàng thật hề chi?
Ta cùng ngươi đến đó,
Bày phương-tiện thử xem,
TÂM Vua ấy thế nào,
Phải BỒ-TÁT thật không?

11/- Nói kệ xong, Vua trời Đế-Thích liền tự biến thân ra làm một con chim Ưng, dáng dấp oai-mảnh, còn thần tỳ thủ yết-ma thì biến ra thành một con chim Cáp (chim bồ-câu) chân đỏ, một mắt bay ở phía trước, chim Ưng bay đuổi gấp theo sau, giả bộ như quyết lòng bắt chim cáp ấy mà ăn thịt.

12/- Khi đó chim Cáp quýnh-quíu bay thẳng đến, nhào nép vào trong lòng Vua, run-rẩy, sợ hãi, mắt nháy, miệng cất tiếng kêu cứu ríu-rít. Vua liền lấy tay áo của mình mà che chở cho chim cáp.

13/- Khi ấy các quan văn-võ và đại chúng quanh Vua thấy cảnh tượng ấy, đồng nhau nói kệ rằng :

Ðức VUA đại nhân-từ,
Tất cả đều bảo-hộ.
Chim CÁP đáng thương nầy,
Ắt sẽ được bình-an.

14/- Khi ấy, con chim Ưng kia bay đến, đậu trên cành cây, cất tiếng người nói cùng với Vua Thi-Tỳ rằng:

– Trả con chim Cáp ấy cho Tôi, vì Nó là món ăn của Tôi.

15/- Vua Thi Tỳ bảo cùngvới chim Ưng rằng :

Con chim Cáp nhỏ nầy đến với Ta trước, nên bây giờ nó không phải là vật của nhà ngươi nữa. ngươi có biết chăng, Ta đã phát tâm cứu hộ tất cả chúng sanh rồi, – (đắc môn cứu-hộ Đà-ra- ni) thì con cáp nầy lẽ dĩ nhiên là ta phải cứu vớt cho nó, làm sao mà giao trả đến cho ngươi được ?

16/- Chim Ưng nói:

Vua muốn cứu-hộ tất cả chúng sanh, vậy thì Tôi đây cũng là chúng-sanh, cớ sao Tôi không có trong số – (chúng-sanh cần được cứu-hộ) – đó ?

Sao Vua không thương Tôi mà hôm nay lại nhẫn tâm cướp đoạt lấy món ăn của Tôi, khiến cho Tôi sẽ phải bị chết đói trong giây phút?

17/- Vua THI-TỲ nói:

Ta đã từng phát ra lời “thệ nguyện” là:

– Nếu có bất cứ loại chúng sanh đến cầu-cứu ở nơi ta, thì nhất định là đều được cứu-hộ hết cả.

Vậy nay ngươi muốn món ăn gì khác hơn, Ta sẽ cung-cấp cho.

18/- Chim Ưng nói:

Tôi muốn dùng thứ thịt tươi vừa mới giết, hãy còn máu nóng mới được.

19/- Vua tự suy nghĩ rằng:

Như thế thì chẳng thể nào được cả. Bởi vì đâu có lý nào mà lại “giết một (mạng nầy) để ban cho một  (mạng kia) !!.

Ðoạn VUA nói lời kệ rằng:

Thịt nơi thân Ta đây,
Vốn của già, bệnh, chết.
Chẳng lâu sẽ thúi, mục,
Nếu dùng Ta sẽ cho.

20/- Chim Ưng gật đầu chịu nhận.

21/- Vua liền gọi người đem dao bén đến.

22/- Chim ưng nói với Vua rằng :

– Đại-vương nếu muốn lấy thịt tự thân của mình dâng cho tôi để đổi mạng cáp kia, ắt phải làm theo đúng lý, đó là thịt của Vua phải bằng cân lượng với chim cáp, chớ không được nhẹ hơn.

23/- Vua bảo đem cân lại, rồi để chim cáp ở một đầu cân nầy, đoạn cắt thịt đùi của mình bỏ lên đầu cân kia. thì thấy chim cáp còn nặng hơn, mà thịt Vua vẫn nhẹ !

24/- Vua sai người cắt thịt 2 bắp vế bỏ lên để cân tiếp, thì thịt Vua cũng vẫn còn nhẹ, không đủ trọng lượng !!! Sau đó Vua lần lượt cắt thịt nơi hai gót chân, hai vú, cần cổ, sau lưng, và dần-dần cắt hết thịt toàn thân của mình đem lên cân, nhưng thân của chim cáp nặng hơn mà thịt vua vẫn còn thấy nhẹ !!!

25/- Khi ấy các Quan cận thần thấy Vua cắt hết thịt ở nơi thân, máu chảy ra đầy, té ngã trên đất, trong lòng thương cảm, thảm-thiết…không nở nhìn, nên lấy màn treo lên che lại, không cho người chung quanh trông thấy.

26/- VUA nói:

Chớ nên ngăn cản mọi người, hãy để cho Họ tự-do vào xem.

Liền nói Kệ rằng:

Trời, người, A-tu-la,
Tất cả đến xem Ta.
Phát tâm Vô-Thượng thí,
Quyết lòng cầu Phật đạo.
Nếu ai muốn thành Phật,
Phải nhẫn chịu khổ lớn.
Như Tâm chẳng bền vững,
Thời Phật đạo sao thành ?

27/- Bấy giờ Vua lấy huyết của mình bôi vào tay, (Cho khỏi bị trơn tuột) đoạn gương vịn vào nơi thành ghế, nhoài mình đứng lên, muốn đem toàn thân lên bàn cân mà cân với chim Cáp.

28/- Chim Ưng thấy vậy mới nói rằng:

Tâu Đại Vương,

Việc nầy e khó giải quyết lắm, thôi thì Ngài cứ đem con chim Cáp giao lại cho Tôi là xong, làm chi mà phải khổ sở tự thân như vậy ?

29/- VUA nói:

Chim Cáp ấy đã đến cầu-cứu ở nơi Ta, thì Ta quyết chẳng thể nào phụ lòng tin-tưởng của mà đem giao. cho ngươi (ăn thịt) được. Ngươi biết chăng, TA đã từng chết vô-lượng thân thể một cách vô-ích rồi. Nay Ta muốn đem Thân nầy để đổi lấy Phật đạo.

30/- Ðoạn cố-gắng đứng lên, nhưng vì thịt, gân đã bị cắt đứt hết cả, không thể chịu đựng được thân nổi nữa, cho nên té rơi lại xuống mặt đất. Khi đó Vua tự TÂM trách rằng :

– THI TỲ ơi, ngươi phải bền chí, vững tâm, chớ nên mê-muội (tức là “bất-tỉnh nhân sự”) hầu hết tất cả chúng-sanh đều rơi lăn vào trong biển khổ não lớn, chỉ có một mình ngươi là muốn lập nguyện độ tận chúng sanh thôi, cớ sao lười mỏi. Ngươi có biết chăng ? :

KHỔ ở nơi THÂN nầy rất nhỏ.

Còn:

KHỔ ở chốn ĐỊA-NGỤC không lường.

Ðem khổ nầy mà so với khổ nơi địa-ngục thì trong 16 phần không bằng được một.

Ngươi là một người có trí-huệ, tinh-tấn, thiền-định,…mà còn lo sợ đến KHỔ nầy, như vậy thì những người bị đọa trong địa-ngục kia, vốn không có được một chút Trí-huệ…nào cả, thì HỌ sẽ ra sao và chịu KHỔ đến thế nào ?

31 /- Bấy giờ Bồ-Tát quyết tâm muốn đem toàn thân của mình lên bàn cân, nhưng bởi vì yếu sức quá nên gọi những người đứng chung quanh đỡ đứng dậy giùm, TÂM tuyệt nhiên không có chút nào hối-hận.

32/- Tất cả chư Thiên, Thần, Long-Vương, A-Tu-la, chí đến mọi người chung quanh trông thấy cảnh trạng nầy thảy đều xướng lớn lên lời “Tán-thán” rằng :

– Vì một con chim CÁP nhỏ thôi mà Vua chịu Bố-thí thân mệnh của mình như vậy thật là một việc đại hy-hữu, trong đời khó thể nào có được…

33/- Khi ấy:

– Trời, đất sáu lần chấn động.

– Biển lớn nổi sóng dâng trào,

– Trời mưa xuống nước Cam-lộ.

– Cây khô sinh ra lá tươi và bông trái.

– Hoa trời rơi xuống khắp nơi để cúng-dường.

Trên không chư Thiên đồng ca lời rằng:

QUYẾT ÐỊNH SẼ ÐƯỢC THÀNH PHẬT.

34/- Bốn phương chư Thiên thần cùng tất cả các bậc Tiên-nhơn đắc pháp “ngũ thông”  trông thấy, cũng đều tán-thán lên lời rằng :

– Ðấy thật là một bậc chân Ðại Bồ-tát,

– Nhất quyết sẽ được thành PHẬT, không sai.

35/- Chim Ưng bảo với chim Cáp rằng :

– Chúng ta thử đến như thế mà VUAvẫn không hề có TÂM nuối tiếc thân mạng.

Ðó mới thật là một bậc “chân Ðại Bồ-tát” vậy.

Liền nói Kệ rằng:

Ðại-bi từ Tâm sanh,
Làm mầm nhất thiết-trí.
Chúng-ta phải cúng-dường,
Chớ nên làm ưu-não.

36/-  Thiên Thần XẢO-KẾ HOA-SƯ nói:

THIÊN-CHÚA có đầy đủ thần lực, xin hãy làm cho thân VUA bình-phục lại đi.

37/- THIÊN-ĐẾ đáp:

Không cần phải cầu đến nơi Ta, VUA tự phát ra lời thệ nguyện, dùng đại tâm hoan-hỷ, không hối-hận, chẳng mến tiếc thân mệnh, duy chỉ nhất tâm cầu thành đạt Phật đạo mà thôi, ắt-nhiên sẽ cảm phát tất cả Phật, Trời, Thần thánh đến chứng-minh, do đó mà thân mệnh của VUA sẽ tự bình-phục lại.

38/-  Ðoạn hỏi VUA rằng:

NGÀI cắt xả thân thể như vậy mà có cảm thấy đau khổ lắm chăng?

– Lòng NGÀI không buồn phiền, hối-hận chăng?

– Tâm NGÀI không bị mê-muội, loạn ý, chết ngất chăng?

39/-  VUA nói:

–  TÂM Ta vẫn hoàn-toàn thanh-tịnh, hoan-hỷ, không khổ, không phiền, không mê-loạn, không chết ngất… chi cả.

40/-   Chim ƯNG nói:

–   Ai tin được Tâm NGÀI không hối-hận?

41/- Khi ấy, BỒ-TÁT (Vua Thi-Tỳ) liền lập lên lời “thệ-nguyện” rằng:

–  TÔI nay dù cắt thịt nơi thân để cứu mạng chim CÁP, huyết lưu mãn địa như thế… Nhưng TÂM vẫn không hờn giận, không phiền-não, không hồi-hận, không mê-muội, không loạn-động… chi hết, TÔI chỉ chuyên-chú vào việc cầu thành Phật đạo mà thôi.

Nếu quả đúng y như lời vừa mới phát, thì xin khiến cho Thân TÔI bình-phục lại y như cũ.

Nói lời ấy xong, đất trời 6 phen chấn động.

Thân VUA tức thời bình-phục trở lại y như khi trước.

42/- Bấy giờ tất cả các hàng Trời, Người trông thấy thế đều xướng lớn lên lời tán-thán rằng :

– Quả thật là một bậc chân Ðại BỒ-TÁT.

– Quyết định sẽ thành PHẬT, không nghi (ngờ chi hết).

Vậy thì chúng ta phải nên tận tâm cúng-dường NGÀI.

– Nguyện sau nầy người thành được PHẬT quả, xin thương-nhớ mà độ cho chúng con thoát ra khỏi vòng luân-hồi, sanh-tử.

* * *

(Phụ-chú:

Như phần đầu của bức thư nầy đã có nói rằng :

Nếu vị “Bồ-tát giới tử” ấy đã được “đắc giới Bồ-Tát” rồi – (như trong “Khinh-giới” “không kính Thầy bạn”  thứ I nơi câu 2 có đoạn nói lời “giới ngôn” rằng:

“ÐÃ ÐẮC GIỚI RỒI”……

(Tức là đã chứng được đạo quả và đắc được “NHẪN” (Vô sanh nhẫn) được “ÐỊNH” của một bậc Bồ-Tát (giới) xong rồi. (Người tu học theo PHẬT-PHÁP phải nên hiểu đúng nghĩa như vậy)

Thì:

Vị “Ðắc giới Bồ-Tát” ấy tuy là còn mang thân người (tứ đại sắc thân) nhưng vẫn được xem là:

Một bậc NHỤC THÂN BỒ-TÁTchớ chẳng còn là thân Tứ-đại “phàm-phu cụ-phược bạt-địa sanh-tử chúng-sanh” (như chúng-ta đây) nữa.

Và cũng bởi vì đã “ÐƯỢC ÐẮC GIỚI” như vậy, nên BẬC “NHỤC THÂN BỒ-TÁT” ấy đương-nhiên là đã NHẬP (tức là chứng được đạo-quả) vào trong ÐẾ-LÝ :

VÔ NGÃ, VÔ NHÂN, VÔ CHÚNG-SANH, VÔ THỌ GIẢ (TƯỚNG) rồi.

Cho nên NGÀI:

  – Không còn chấp trụ vào nơi NGà(thân),

  Tức là:

 – Chẳng còn thấy THÂN nầy là “TA” và “CỦA TA” nữa.

Vì vậy mà bậc “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT” ấy – (Như Vua THI-TỲ đây là một) – cắt hết thịt, gân nơi thân mạng (Tứ-đại) của mình để Bố-thí (cho con chim Ưng kia) mà lòng NGÀI vẫn không cảm thấy sợ, không thấy đau-đớn, hoặc phiền-não, tiếc nuối hay hối-hận chi cả).

Ðây là phần Ðế-lý và sự chứng-nhập đầu tiên nơi việc “VÔ NGÃ TƯỚNG” của Bồ-Tát hạnh vậy.

Mà nếu đã VÔ-NGànhư thế rồi thì đương nhiên là phải đắc được phần Ðế-lý thứ hai kế-tiếp là VÔ NGà SỞ .

Tức là “thấy biết” và “chứng nhập” được vào trong ÐẾ   rằng:

Không có nhất một thứ vật loại gì ở trên cõi đời nầy (kể luôn cả Vợ (hoặc Chồng) con, cháu, của cải…là thuộc về CỦA TA hết cả.

Tại sao?

Bởi vì:

Ở trong, tức là tại nơi Thân mình (của Bậc “Ðắc giới Bồ-Tát” ấy) mà đã không phải là TA và CỦA TA rồi.

Thì với những thứ khác như :

Vợ, con, của cải..vv… là những thứ “Vật loại ngoài thân”, làm sao (chúng NÓ) lại là TA và CỦA TA cho được ?

ÐÂY GỌI LÀ “VÔ NGÃ SỞ” vậy)

Một bậc mà đã Chứng nhập được ÐẾ LÝ “VÔ NGÃ SỞ” (phải hiểu là đã được đắc thành Bồ-tát đạo) như thế rồi thì đương nhiên những việc khó làm khác nữa như là :

– Tự bán thân mình.                                      

Cho đến:

– Bán quốc thành, Vợ, Con (thê tử), cùng đem những thứ vật loại khác như là :

– Bảy báu, trăm vật vv…sở-hữu của mình…

Ðể dùng vào việc :

Cúng-dường đến cho các bậc chân tu Ðại-Ðức Ðồng học, đồng kiến, đồng hạnh (phải hiểu là các Vị nầy cũng cùng có một sự  thấy biết, chứng nhập và Ðắc Bồ-Tát Giới y như mình vậy), như là Thượng-TọaHòa-Thượng, A-xà-lê…là một chuyện quá ư là thông thường (đối với một bậc đã ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT nầy), chớ có gì lạ lùng đâu.

Tại-sao?

Bởi vì Ngài đã là một BẬC chứng đắc xong được hai phần : VÔ NGÃ và VÔ NGÃ SỞ của Bồ-tát hạnh rồi.

Như thế thì :

– Ðối với việc đem cầm, bán các thứ NGàvà NGà SỞ khó bỏ, khó xả – (đây là nói đến chúng sanh chúng-ta)…kia để dâng cúng-dường lên Quý NGÀI đã (đắc Bồ-tát giới) ấy là một việc xứng đáng vô cùng vậy.

HỎI:

Do đâu mà biết rằng các VỊ kia là những bậc xứng-đáng và ưng THỌ NHẬN được của cúng

dường (rất khó thể nào tiêu-hóa) ấy?

ÐÁP:

Há không thấy nơi “đoạn 2” trong KHINH GIỚI  I có lời dạy rằng:

a/- …..“Có bậc Thượng-Tọa, Hòa-Thượng, A-xà-lê (ông thầy dạy ĐẠO cho mình thì gọi là A-xà-lê), cùng với:

b/- Những bậc Ðại-Ðức đồng học, đồng kiến, đồng hạnh đến…

Vậy thì các chữ : “Ðồng học, đồng kiến, đồng hạnh” ấy…há không phải là các bậc:

Ðã đắc xong được “BỒ-TÁT GIỚI”  (tức là quý NGÀI ấy đã có được sự chứng-đắc rồi)

Với lại, đối với TÂM của một Bậc đã được “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT” rồi thì:

NGÀI quán-sát tất cả các loại “hữu-tình chúng-sanh” khác (dù là CHÚNG NÓ không có đắc giới, không đồng học, không đồng kiến, không đồng hạnh vv…ngang bằng với mình đi chăng nữa,) mà ngược lại CHÚNG NÓ tội nhiều, chướng nặng, phước ít, đức mỏng…cho đến thế mấy…

BỒ-TÁT cũng đều khởi TÂM thương-xót, bố-thí…mọi thứ cần dùng ngang bằng như nhau (bình-đẳng), chớ không có lòng phân-biệt đâu là thấp cao, hèn, kém, xứng-đáng hay chẳng xứng-đáng vv…chi hết cả.

Ðây gọi là TÂM “CHÚNG-SANH DUYÊN TỪ” của (Bậc Ðắc Giới) Bồ-tát vậy.

(Xem lại quyển “Ðại-Thừa Phật-Pháp Liễu-Nghĩa Truyền-Tâm Ấn Luận, thiên thứ 2, nói về TÂM :  CHÚNG-SANH DUYÊN TỪ  nầy (từ trang 161…đến 170, sẽ rõ hơn)                                             

Mà nếu như NGÃ TƯỚNG đã DỨT được rồi thì:

B/- Ðương-nhiên TƯỚNG THỨ 2 kế tiếp là:

NHƠN TƯỚNG (Tướng của NGƯỜI – tức là những chúng-sanh khác – Quý NGÀI (đương-nhiên) cũng DỨT ÐƯỢC luôn.

Tại sao?

Bởi vì:

HÂN của MÌNH đây – (tức là thân của Quý Ngài đã được “Ðắc Giới Bồ-Tát” ấy) – mà mình đã KHÔNG THẤY CÓ và chẳng còn ham muốn cùng quỵ-lụy ở nơi  rồi.

Thì làm sao mà  :

– Thấy  (hoặc còn ý-niệm, tư-tưởng…nào khác nữa, như là ham muốn và quỵ-lụy…) ở nơi THÂN của NGƯỜI KHÁC như Vợ, con…cho được – (Phải vậy không) -?

Thành thử ra quý NGÀI:

– KHÔNG CÒN “THẤY CÓ” Ở NƠI THÂN CỦA MỘT AI HẾT CẢ.

Việc nầy, trong KINH gọi là:

DỨT ÐƯỢC “NHƠN TƯỚNG”

(Phụ-chú  A:

(Một NGƯỜI (tức là Một Nhơn tướng) mà đã không thấy, không biết, không màng tưởng nghĩ… đến, thì dù cho có nhiều NGƯỜI chung-quanh (nhiều Nhơn Tướng) khác dẫy-đầy trên khắp cõi thế-gian nầy, quý NGÀI cũng thấy “Như không” (có) vậy mà thôi.

Trong Kinh gọi đây là:

VÔ “CHÚNG-SANH TƯỚNG”

Mà nếu như BẬC ÐẮC-GIỚI BỒ-TÁT ấy đã THẤY, HIỂU và CHỨNG-NHẬP vào được trong 3 ÐẾ-LÝ:

VÔ-NGẢ, VÔ NHƠN, VÔ CHÚNG-SANH TƯỚNG

như vậy rồi thì quý NGÀI:

–  Ðâu có còn thấy TA nữa,

–  Ðâu có còn thấy NGƯỜI (nào khác) nữa.

– Ðâu có còn thấy CHÚNG-SANH (nào khác) nữa.

Vậy thời:

– AI là NGƯỜI CHO ? (vì không có TA).

– AI là NGƯỜI NHẬN ? (vì không có NGƯỜI).

– AI là (những)  NGƯỜI NHẬN ? (vì không có CHÚNG-SANH).

Như thế thì:

– KHÔNG có NGƯỜI CHO (Bố-thí, cúng-dường) :

Mà lại cũng :

– KHÔNG có NGƯỜI NHẬN (luôn nữa).

Chứng nhập (tức là đắc-quả) được như thế rồi thì đương nhiên là Quý NGÀI thâm-chứng ngay vào trong ÐẾ-LÝ thứ tư là:

VÔ THỌ GIẢ TƯỚNG 

(tức là “không có ai là người đứng ra để  THỌ NHẬN” (của cúng-dường ấy hết)

Ðây là 4 TƯỚNG, bốn ÐẾ-LÝ mà một bậc ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT (tức là Bậc BỒ-TÁT đã được ÐẮC NHẪN, ÐẮC ÐỊNH tu-tập và thâm-nhập vào vậy.

(Phụ-chú  B:

Vì thế cho nên trong Kinh, PHẬT có ban hành ra lời dạy rằng :

Hễ bốn TƯỚNG (NGÃ, NHƠN, CHÚNG-SANH, THỌ-GIẢ) nầy CÒN thì (kẻ đó) chỉ là một người Phàm-phu sanh-tử.

Còn như :

Bốn TƯỚNG nầy mà DỨT hết rồi, thì người đó đích-thị là một bậc Bồ-Tát giải thoát thánh-nhơn).

Qua các lời mà BẢO-ÐĂNG vừa mới luận giảng trên đây chắc Ðạo-hữu đã rõ biết rồi.

Nếu (đã hiểu được như)  vậy thì:

Câu thứ 3 (trong Khinh-giới I) nói:  

“ÐÃ “ÐẮC-GIỚI” rồi, thì:

–  PHẬT TỬ (ấy) nên có lòng hiếu-thuận và cung-kính.

–  Nếu thấy có bậc chân tu THƯỢNG-TỌA, HÒA-THƯỢNG, A-XÀ-LÊ(cùng với) những bậc ÐẠI-ÐỨC “đồng học, đồng kiến, đồng hạnh” đến nhà, phải đứng dậy tiếp rước, lạy chào, thăm hỏi.

Mỗi sự (đều phải) đúng theo NHƯ PHÁP mà cúng-dường.

Hoặc:

 – Tự bán thân mình,

Cho đến:

– Bán (luôn đến cả) quốc thành, con cái, cùng dùng bảy báu (thất bảo)                          

– Trăm vật để cung cấp cho các BẬC (đắc giới Bồ-tát) ấy”…nào có gì là “lạ”, là “quá đáng” đâu ?

HỎI:

Tại sao lại phải “Hành sự cùng-dường” một cách cực-kỳ trân-trọng như thế ?

Có 3 lý do sau đâ :

1/- Bởi vì :

– Bậc ÐẮC-GIỚI BỒ-TÁT ấy muốn :

– HÀNH được những việc khó HÀNH.

– XẢ BỎ được những thứ khó XẢ BỎ.

 – DỨT TRỪ được những thứ TẬP-KHÍ dư-thừa (về tánh xan-tham, bỏn-xẻn)

của mình đã tích-tụ từ trong vô-lượng, vô-biên kiếp đời quá khứ cho đến nay, ngõ hầu:

THÀNH-TỰU ÐƯỢC BỒ-TÁT ÐẠI HẠNH “BỐ-THÍ BA-LA-MẬT” (của ngôi-vị “SƠ HOAN-HỶ ÐỊA” trong hàng THẬP-THÁNH BỒ-TÁT (Thập Ðịa) về sau vậy.

(Phụ-chú:

Cho nên trong Kinh, PHẬT dạy rằng :   – “Bố-Thí độ XAN-THAM”

Tức là:

-“Tu hạnh BỐ-THÍ để phá trừ Tâm XAN-THAM, KEO-BẨN” là như vậy.

Việc Bố-thí “ÐÚNG THEO NHƯ PHÁP” nầy, sở-dĩ thực hiện được là bởi v :

Bậc ÐẮC-GIỚI BỒ-TÁT ấy đâu có còn thấy “NGÔ và “NGÃ-SỞ” nữa, cho nên:

– Cũng chẳng thấy có thân “TA” (VÔ NGÃ) Mà lại còn thêm:

– Cũng chẳng thấy có nhứt một thứ gì là CỦA TA (VÔ NGÃ SỞ) hết.

Và như vậy thì:

– Ðâu còn thấy có AI (là người) cho (kẻ THÍ),

– Ðâu còn thấy có AI (là người) NHẬN (người THỌ THÍ).

Ðây là việc mà trong Kinh gọi rằng :

BỐ-THÍ, CÚNG-DƯỜNG mà không CHẤP TƯỚNG  vậy.

Hành được hạnh BỐ-THÍ KHÔNG CHẤP TƯỚNG  như thế ắt sẽ thu đạt được :

– Vô-lượng, vô-biên công-đức (Công-đức nầy lớn, rộng và đồng-đẳng với hư-không)

Như qua các lời vừa được luận trên thì ở nơi lời KHINH GIỚI thứ I dạy về việc :

“Bán thân, bán quốc thành, thê tử, bảy báu”… nói đó, đối với “sở hành” của một BẬC đã được “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT” rồi, thì chẳng có gì gọi là lạ, là khó làm cả (tức là Vô ngại)..

(Ðến đây BẢO-ÐĂNG xin được “nói thêm” điều quan trọng khác rằng:

Việc Ðại Bố-thí, cúng-dường ấy (như trên đã nói), Ðối với bậc “ÐẮC GIỚI BỒ-TÁT giải-thoát thánh nhơn” thì VÔ NGẠI.

Còn như:

Ðối với các hàng “PHÀM PHU SANH-TỬ CHÚNG-SANH” như chúng ta đây thì “RẤT Ư LÀ CÓ NGẠI” !!   

Tại sao?

Vì chúng ta còn có đầy đủ bốn tướng NGà(thấy có TA), NHƠN (thấy có NGƯỜI), CHÚNG SANH (thấy có các NGƯỜI KHÁC),THỌ GIẢ (thấy có người đến xin).

Vì như vậy đó cho nên việc Ðại Bố-thí theo như trong KHINH GIỚI thứ I đã dạy ấy, vốn thiệt chẳng phải là cảnh giới của hàng Phàm-phu sanh tử chúng-sanh chúng ta đâu, nên việc Ðại Bố-Thí ấy (đối với mình) đương nhiên là… thành ra CÓ NGẠI.

(Phụ-chú:

Nói CÓ NGẠI đây, tức là:

Chẳng những (hàng Phàm phu sanh-tử) như chúng ta đây chẳng bao giờ HÀNH được Ðại Bố-Thí, Cúng-dường…như thế (vì còn thấy có “NGÔ và “NGà SỞ”) không thôi đâu.

Mà mỗi khi chỉ (thuần) ĐỌC TỤNG đến GIỚI nầy trên môi miệng không thôi, cũng  đã cảm thấy :  “TÂM TÔI nói riêng (và luôn cả chúng ta (nói chung nữa) dâng lên rất nhiều phiền-não” rồi.

Thiệt là rất hổ thẹn cho thân phận chúng-sanh).

2/- Vì “hiểu biết” và “phân biệt được” rõ-ràng về THÂM NGHĨA của HẠNH Bố-thí Cúng dường.

Ðó là việc phân biệt được “14 thâm nghĩa” như sau:

(Xem lại “14 phần thâm nghĩa” về việc Bố-Thí nầy trong quyển :

“THƠ GỞI NGƯỜI HỌC PHẬT” (Thiên thứ II) mà BẢO-ÐĂNG đã giảng, nơi các  trang từ 423 đến 429 ắt sẽ nhớ lại và hiểu rõ hơn).

3/- Vì KHỞI SANH và Ý-TƯỞNG LÀNH khi hành Hạnh Bố-Thí, Cúng-dường.

Cùng với việc :

KHỞI SANH Ý-TƯỞNG : – BỐ-THÍ, CÚNG-DƯỜNG sẽ được đầy đủ LỤC ÐỘ BA-LA MẬT (về sau).

(Xem lại bức THƠ HỌC PHẬT số 21 trong quyển THƠ GỞI NGƯỜI HỌC PHẬT” (Thiên thứ I) nơi các trang từ 503 đến 525 mà BẢO-ÐĂNG đã giảng và được bổn-tự  PHÁP-HOA ấn-tống trước đây (vào năm 1999), ắt sẽ nhớ lại và hiểu rõ hơn.

HỎI:

Trong thời buổi MẠT PHÁP ngày nay, có bậc Tăng, Ni (hoặc Cư-sĩ) nào sau  khi THỌ GIỚI mà được ÐẮC GIỚI không?

ÐÁP:

Từ khi PHẬT nhập Niết-Bàn đến nay, thời gian trải qua đã hơn 2500 năm rồi, hiện tại chúng ta và Pháp vận đang ở trong thời buổi Mạt Pháp và Ðấu tranh kiên cố cho nên, nhân tâm ngày càng thêm bại hoại, đạo pháp ngày càng thêm suy đồi, vì thế mà :

– Ở trong ÐẠO số lượng người TU (xuất gia lẫn tại gia) THỌ GIỚI thì nhiều (như bông xoài, trứng cá)

Nhưng:

– Số người được ÐẮC GIỚI thì rất ít, có thể nói là gần như không có được một ai hết cả, đa phần chỉ THỌ GIỚI cho có LỆ mà thôi, chớ không một ai chịu ÐỌC GIỚI, TRÌ GIỚI và GIỮ GIỚI cả, nhất là ít ai có được cái TÂM BỒ TÁT và có HẠNH BỒ TÁT cả (Vì thế nên khỏi cần nói đến việc được ÐẮC GIỚI (tức là chứng đạo) làm chi.

 (Phụ-chú:

(Nói như vậy chẳng có nghĩa là BẢO-ÐĂNG hoàn-toàn phủ-nhận là không có bậc chân-tu TRÌ-GIỚI, ÐẮC GIỚI đâu !

(Cũng CÓ nhưng thật là TUYỆT ÍT như sao trên nền trời vào buổi sáng vậy, hầu hết các bậc chân-tu nào TRÌ-GIỚI và ÐƯỢC ÐẮC GIỚI…thì đa phần là quý NGÀI ấy đều ẩn-cư, nơi những miền núi rừng xa vắng, giữ đời sống thanh-tu, đạm-bạc…không màng đến việc danh, lợi, xa lánh những miền dân-cư, phố-thị rộn-ràng…hết cả. Còn như nếu ở ngoài xã hội, với bao sự rộn ràng, bon chen, đầy dẫy ác nhân, phiền não khắp cùng mà có được cái TÂM TỪ BI BÌNH ĐẲNG và thực hành được HẠNH BỒ TÁT thì lại càng khó kiếm hơn).

Vì thế cho nên Liên-Tông THẬP TAM TỔ ẤN-QUANG Ðại-Sư là một bậc cao-tăng đắc-đạo, trong bức thơ hồi đáp đến cho một Phật tử cư-sĩ tên là TẠ DUNG-THOÁT (cũng thỉnh hỏi đến NGÀI về vấn-đề THỌ GIỚI và ÐẮC GIỚI nầy) có nói lời rằng :

1/- “Người (xuất-gia) THỌ GIỚI thời xưa, là vì phát tâm muốn dứt sự sanh-tử, luân-hồi.

Trái lại, người xuất gia thọ giới đời nay phần nhiều đều chỉ muốn làm cho ra vẻ là “một vị đại Tăng” mà thôi, còn việc có “đắc giới hay không thì “chẳng cần nghĩ đến”. Vì thế, mấy Ông Tăng thiếu học (Giáo-pháp), thiếu tu, bên ngoài thảy đều là những người đã thọ qua 3 giới-đàn (Sa-di, Tỳ-kheo, Bồ-tát) cả.

Sở-dĩ có việc tệ hại nầy là do từ nơi Vua Thế-Tổ nhà THANH bỏ “độ-điệp”, bãi “lệ thí-tăng[3] mà ra cả.

Cho nên những kẻ xưng là Thầy người, song thật ra là chỉ lo cầu danh-lợi, tham quyến thuộc (tức là tham đệ-tử) cho đông nhiều (để được tiếng ta) là bậc cao-tăng có nhiều đệ-tử), cũng xuất phát ra từ nơi nguyên nhân nầy”…

2/- Do nơi những sự việc đáng buồn nầy, nên trong thư gởi cho một người Phật tử cư-sĩ khác ở miền VĨNH-GIA, ẤN-QUANG Ðại-sư cũng đã có dạy rằng:

      -“ Ví như có người phát tâm xuất gia, mà mình chưa chứng đạo, không thể nào quán-xét được căn-cơ của người xin xuất gia ấy như thế nào, mới cầu Phật từ-bi thầm gia-hộ và chỉ-thị xem có nên thâu nhận hay không ?

      Làm như thế để tránh mối tệ, đó là :

– Ðể phòng hạng Vô-lại trà trộn vào giả dạng làm Tăng, Ni phá rối đạo pháp vậy.

Người đời nay trong sự thu nhận đệ-tử chỉ muốn thâu vào cho thật nhiều. Ðôi khi biết rõ đó là kẻ hạ-lưu, họ cũng gấp-gấp dung nạp sợ bị mất đi (!) không nghĩ gì đến sự lựa chọn kẻ chân tu cả !

Cái TÂM “tham danh lợi, ưa quyến thuộcấy, khiến cho Phật pháp suy-tàn đến mức khó nổi chấn-hưng !

(Phụ-chú :

Các sự việc trên đây, ngày nay cũng đã xảy ra rồi (rất nhiều nữa là khác), vì thế nên trong hàng ngũ Tăng, Ni hiện thời rất nhiều các hạng Vô-lại, Vô-tài, Vô-đức…lẫn-lộn, và giả hình làm người xuất-gia…khiến cho Phật pháp ngày càng thêm suy yếu, Tam-bảo chẳng còn thiệt nghĩa, suy-tàn tồi-tệ, rất đáng đau lòng !

Các bậc chân tăng và những hàng thiện-tín hữu tâm trông thấy chỉ còn ngậm-ngùi sa nước mắt, không thốt nên lời.

(Muốn biết thêm chi-tiết, xin xem lại những lời huyền-ký của PHẬT về “sự việc nầy”, xin xem lại quyển : “Liên-Tông Thập-Tam-Tổ”nơi các trang từ 466 đến 470 ắt sẽ rõ hơn).

HI:

     Như mình cúng-dường đến các loại TĂNG (hoặc NI) mà HỌ nguyên là những người của ngoại đạo, tà-giáo trá hình, giả mang Tăng tướng – (như Tổ ẤN-QUANG đã dạy), trà trộn vào trong cửa ÐẠO, HỌ không có GIỚI, ÐỨC, TRÍ-HUỆ…vv..chi cả.

     Như vậy thì (qua việc cúng-dường đó) mình có hưởng được chút PHƯỚC (ÐỨC) chi chăng ?    

ÐÁP:

Không được PHƯỚC ÐỨC chi hết.

Mà việc cúng-dường đó lại còn làm cho mình bị tổn thêm PHƯỚC LỘC mà thôi.

TẠI SAO?

Bởi vì việc cúng-dường không đúng người – (những hạng “thầy giả dối” đó HỌ  KHÔNG PHẢI LÀ “PHƯỚC ÐIỀN” (ruộng Phước) chơn-chánh để cho mọi người gieo  hột giống PHƯỚC vào) –  không đúng nơi, chỗ, như thế chỉ giảm thêm phần Phước-lộc của mình mà thôi.

NHƯ THẾ NÀO?

Thí-dụ như:

– Phần Phước-lộc của mình có thể tồn tại để cho mình xử-dụng trong vòng 50 năm, nay vì trích ra một phần (hoặc hơn một phần để cúng thí cho các hạng tà-tăng ấy), nên Phước-lộc của mình phải bị hao hụt (và thời gian thọ hưởng bị rút ngắn) bớt đi.

Tại sao vậy?

Bởi HỌ (các loại giả tu đó) không có làm được nên một HẠNH gì để tạo PHƯỚC hoặc ÐỨC cả.

LỢI MÌNH cũng không có thì làm thế nào LỢI NGƯỜI cho được, vì thế nên Họ nào có phải là đám ruộng Phước (“Phước điền” của mình đâu).

Cho nên cúng-dường cho Họ là tương đồng với Nghĩa:

– Giảm bớt Phước lộc của mình vậy.

HỎI:

Còn nếu như cúng-dường, bố-thí đến cho các bậc Chơn Tăng, đầy-đủ đạo-đức, có GIỚI, có ÐỊNH, có HUỆ thì như thế nào?

ÐÁP:

Phước đức của mình sẽ được tăng thêm gấp bội phần (hoặc “nhãn tiền” trong hiện kiếp nầy

   (được hiện báo), hoặc ở những kiếp về sau (hậu-báo).

TẠI-SAO?

– Bởi vì những “Bậc chơn-chánh tu-hành” ấy thật sự là “PHƯỚC-ÐIỀN” cho ta vậy.

 (Việc nầy sẽ được luận-giảng thêm chi-tiết ở nơi những bức thơ HỌC PHẬT khác – (mà Phật-tử đã có thơ gởi hỏi đến rồi)…….

(Kỳ sau tiếp)

* * *

CHÚ THÍCH:

([1])- Khinh-cấu tội: là tội “không thanh-tịnh” (cấu là dơ) thuộc về loại NHẸ (khinh là tội nhẹ).

([2])- 5 tướng “SUY HAO” là:

1/- Nước tắm trong mát, thơm-tho…nơi ao hồ trước kia, nay bỗng biến thành ra mỡ, nhớt.

2/- Nơi hai nách bỗng nhiên chảy ra mồ hôi.

–   Tràng hoa trên đầu héo úa, y-phục trời (thiên y) đang mặc trên thân, thình-lình bị dính bụi dơ-bẩn.

–   TÂM Không còn cảm thấy ưa thích những món đồ mà mình vẫn thường thọ-dụng khi trước.

3/-    Thân thể bị nhiệt (nóng) thiêu đốt, cả mình khô héo.

4/-    Ðôi mắt đỏ ngầu như xích liên-hoa (bông sen đỏ).

5/-    Các món đồ trang nghiêm trên thân (dần-dần) biến mất.

([3])- Bỏ “Ðộ-điệp” : Tức là bỏ tục-lệ cấp giấy “Chứng nhận xuất-gia” cho chư Tăng.

– Bãi lệ thí Tăng ; là bỏ tục-lệ “bắt chư Tăng, Ni phải thi về đạo pháp”. Bởi vì từ trước đời nhà THANH, nếu như người nào muốn xuất gia làm Tăng, Ni thì kẻ ấy bắt buộc phải trải qua một kỳ thi khảo-hạch và viết bài luận về giáo-lý Phật-pháp – nấu được chấm đậu thì mới được phép xuất-gia. Ðến đời nhà THANH thì Vua xuống chiếu-chỉ phép bỏ luật nầy đi (thật là một điều đáng tiếc).