22. NÀO NGỜ

Nhớ thời còn là chú điệu ở chùa quê, sau mỗi buổi công phu chiều, tôi gánh nước tưới hoa trong vườn chùa cho mãi đến xẩm tối, mới được vào nghỉ để chuẩn bị lên điện Phật đi thời tịnh độ.

Chùa ở đồng quê, những buổi chiều muôn chim về tổ, tiếng gọi nhau ríu rít trên cành cây cổ thụ trong sân chùa, dường như chúng reo hò mặt mừng chào nhau sau một ngày lặn lội khắp nơi tìm mồi. Cũng như những buổi sáng thức dậy, trước khi lìa cành bay đi khắp ngã tìm miếng ăn, chúng cũng đã một chập nhảy nhót líu lo rộn rả để tạm biệt. Ngày ngày nghe chim hót líu lo, lòng cảm thấy vơi nhẹ nỗi buồn lo nghĩ nhớ, an vui trong cảnh chùa tịch mịch nơi thôn dã.

Hằng ngày, cảnh họp tan sáng chiều của muôn chim, khiến cho tôi liên tưởng đến hiện tượng tụ tán vô thường của kiếp người, nhớ lời cổ đức đã thống thiết nhắn gởi người trần thế:

Cha mẹ ân sâu rồi cũng cách

Vợ chồng nghĩa nặng cũng chia lìa

Tình đời chẳng khác chim chung ngủ

Mỗi sáng đàn nào nấy tự bay.

Rồi có những buổi chiều, khi mặt trời khuất bóng sau rặng núi thẫm xanh, ánh sáng mỗi lúc mỗi yếu ớt dần, hoàng hôn phủ lên vạn vật lớp mỏng mờ sương, trên không trung hiện lên những bức tranh vân cẩu đủ màu hồng tía. Trước cảnh tượng đó, đã lắm lần tôi say mê ngắm nhìn những bức tranh vân cẩu linh hoạt tuyệt diệu ấy, mà lòng ngây ngất quên đi cảnh vật chung quanh, quên cả mình đang chấp tác công quả. Rồi nào ngờ có những hôm, thầy tôi bắt gặp, người mỉm cười với giọng nói hiền hòa:

“Chú Đăng! (Lúc đó ở trong chúng, tôi làm tri đăng) Con đang làm gì đó mà đứng trân trân bất động như tượng đá vậy?” Thật bất ngờ! Tôi giật mình, hơi sượng, lúng túng ấp úng:

‘Dạ mô Phật! Bạch thầy, không có chi!”. Rồi tôi lặng lẽ tiếp tục công tác gánh nước tưới cây mà lòng tiếc nuối bức tranh vân cẩu tuyệt vời đang treo lơ lửng ở phiá trời tây!

Thầy tôi đi thăm vườn cây hoa kiểng một lượt, cắt xén những cành héo hoa tàn, rồi người thản nhiên yên lặng trở về phương trượng.

Tôi nhìn lại bức tranh vân cẩu tuyệt vời ban nãy, thì giờ đây đã tan biến thành những mảnh mây vụn rã rời không ăn nhập vào đâu. Mỗi lần như vậy, hiện tượng vô thường huyễn ảo khắc sâu nơi lòng. Tôi nghĩ đến vạn vật và kiếp người vô thường, sao mà mong manh quá, chẳng khác nào bức tranh vân cẩu trên trời xanh, bèo trôi dòng nước, sương sớm đầu cành! Bất chợt, tôi nhớ đến lời thơ của thi nhân:

Mây tương cẩu trắng xanh xanh trắng

Trắng rồi xanh cuộc thế thể chiêm bao

Hoa hải đường tươi héo héo tươi

Tươi lại héo người đời như ngọn gió.

Tâm người biến đổi, thế cuộc vần xoay. Tình đời mỏng như trang giấy lộn. Mạng người như thể chỉ mành treo chuông. Thật vậy, có ngờ đâu ngày đi du học của tôi là ngày ra đi ngàn dặm xa khơi, đã hơn hai mươi năm trời mà ngày về quê hương đất mẹ vẫn còn xa xôi dịu vợi như thế này!

Tôi còn nhớ cái ngày ra đi ấy, ngày 22-9-1969, chiếc máy bay Cathay Pacific mang tôi rời khỏi phi trường Tân Sơn Nhất Sàigòn. Ngồi trên máy bay, tôi nhìn quê hương đất mẹ mỗi lúc một lùi xa, mờ dần trong sương mù mây khói. Lòng tôi nao nao xao xuyến ngổn ngang bao mối lo mừng. Lúc đó, niềm hy vọng trào dâng, mong sao hai năm du học thật mau kết thúc, để trở về phục vụ xứ sở đạo pháp, gần thầy gần bạn.

Nào ngờ! Con tàu mang tôi bay bỗng lên không trung, xa lìa xứ sở quê hương vượt trùng dương, để rồi cho đến ngày giờ này, lòng thương nhớ ước mơ năm xưa vẫn chưa có dịp để trở lại trực tiếp đem hết cõi lòng trang trải trên đất mẹ hiền lành.

Tội nghiệp đất mẹ hiền lành đã bao năm hằn sâu lắm vết đau thương, bởi do những đứa con vong nô, thân xác là người Việt mà tâm địa đã mất gốc truyền thống của ông cha, nên đã nghe theo ngoại nhân ban cho chút quyền lợi cặn bã, mà vội bội bạc tình nghĩa đồng bào ruột thịt, không biết thương tiếc giữ gìn đất mẹ!

Ngày được đi du học, tôi cố tránh tiệc tùng tiễn đưa rộn ràng, cũng như cố thúc liễm thân tâm, không muốn vận động hô hào để kiếm sự giúp đỡ rộng rãi của hàng Phật tử, vì lòng tự nghĩ: Mình sẽ làm được gì đây cho đạo pháp xứ sở, mà bây giờ thọ nhận của tín thí nan tiêu, chỉ thêm nặng nợ, không khéo thì thật nguy cho đạo hạnh bản thân, vốn dĩ phước mỏng nghiệp dày. Vô phước sanh ra trong một đất nước triền miên ngập đầy binh đao khói lửa, với tài hèn sức mọn, chỉ còn biết mong được góp phần với núi sông bằng cách cố gắng tu học.

Những bậc Thầy mà tôi được phước duyên gần gũi theo học hầu hạ như: Hòa thượng Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, Hòa thượng Thiện Hòa, Hòa thượng Trí Thủ, Hòa thượng Thiện Hoa, Hòa Thượng Trí Hữu, Hòa thượng Thiện Minh v.v…, lòng những mơ ước sau khi học xong trở lại quê hương, phụng sự đạo pháp, phục vụ xứ sở dưới sự chỉ giáo của các Ngài.

Nào ngờ! Nay quê hương vẫn còn bị những đứa con vong bản mù quáng đang tung hoành làm thêm rách nát, tổ chức của đạo pháp cũng theo đó tan hàng, các bậc thấy kính thương dường như chán chường nhân thế, đã vội giũ sạch trần duyên sang bên kia thế giới Niết Bàn! Cõi trần gian giờ đây vắng bóng các Ngài hành đạo hoằng dương chánh pháp. Tăng tín đồ khắp nơi mất đi những tàng cây đạo hạnh che mát, khô cạn những dòng pháp nhủ hương vị ngọt ngào. Đất mẹ cũng thiếu vắng đi những bàn tay cần mẫn đắp xây. Vườn hoa đạo hạnh cũng theo đó mất đi những đóa hoa tinh khiết. Mà ngày về quê mẹ của tôi lại vẫn còn xa xôi!

Nay đây chỉ còn biết đem tâm thành với hết năng lực của mình, nguyện tiếp nối sự nghiệp hành đạo, phụng sự chánh pháp của các Ngài, để hầu mong báo đáp thâm ân pháp nhủ.

Đời người đã không biết bao lần với chữ “ngờ”! Lục tổ Huệ Năng , sau khi bừng ngộ, đã thưa với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn: “Nào ngờ tự tánh vốn đã thanh tịnh. Nào ngờ tự tánh vốn không sanh diệt. Nào ngờ tự tánh vốn có đầy đủ …”. Đức Phật Thích Ca sau khi giác ngộ, đã nói: “Nào ngờ tất cả chúng sanh đều có Phật tánh sáng suốt”. Sau khi thái tử Tất Đạt Đa bỏ hoàng cung xuất gia, vua Tịnh Phạn đã than thở với quần thần: “Nào ngờ con ta xem vương vị quyền uy phú quý như rác trên mặt, như bụi trong mắt, tìm cách xa lánh, để chọn lấy đời sống tu hành thanh bần lạc dạo, nặng mang tâm hạnh vị tha, trải lòng thương bình đẳng đi khất thực hóa độ từng nhà!”

Hễ còn vần xoay trong kiếp vô thường thì còn thương nhớ vấn vương. Nhưng thương nhớ vấn vương mà không biết theo con đường chân chánh của Đức Phật, của các bậc Thầy đã vạch sẵn để đi, thì thương nhớ chẳng ích lợi gì. Y nương gần gũi mà không chánh tâm chuyên cần hành đạo để tạo cho mình một đời đạo hạnh, thì chẳng bằng thân tuy xa mà lòng vẫn kính nhớ phụng thờ, bằng cách chân thành noi theo tâm hạnh của các Ngài mà hành trì. Đức Phật nói: “Dù ta có ở đời hằng vạn triệu năm đi nữa, mà các đệ tử của ta không y giới pháp tu hành thì sự hiện diện ở đời của ta cũng chẳng lợi ích gì”.

Mặt trời hiện có trên không trung, nhưng người mù không thấy sáng. Kẻ phá giới, lợi dụng mặc áo giải thoát, sống trong nhà Như Lai tạo đủ chuyện phiền khổ cho người khác và gây rối Phật Pháp thì không xứng đáng là đệ tử Phật. Câu chuyện hai vị tỳ kheo đồng đến ra mắt Phật: Một vị nửa đường bị khát nước giữ giới mà mà chết. Còn vị kia được sống đến gặp Phật. Phật quở rằng: “Thầy tỳ kheo thà chết mà giữ trọn giới kia, nay tuy không thấy ta bằng thân thể này, nhưng đã gặp ta bằng tâm linh. Vị Ty kheo ấy đã an vui trong cảnh giới Niết Bàn. Còn ngươi phá giới, nay tuy gặp ta bằng xác thể này, nhưng đã cách xa ta nghìn muôn kiếp rồi”.

Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, phẩm Tà Chánh thứ chín Phật dạy rằng: “Sau khi ta nhập Niết Bàn, khoảng bảy trăm năm về sau, những ma vương và đồ đệ quyến thuộc của chúng muốn chánh pháp của ta sớm hoại diệt, nên chúng hóa hiện làm tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ, có những hành vi ô uế độc ác gian tà nhằm làm tổn thương hủy diệt chánh pháp của ta”.

Cứ như lời huyền ký của Phật, thì nơi nào không luận là chùa viện hay đạo tràng, có hạng tăng sĩ, cư sĩ bất lương bất hạnh, manh tâm thích được quyền danh lợi dưỡng, tự xưng là Phật là Thánh, hoặc làm điều quấy, thì nơi đó chính là hiện thân của ma vương. Chùa đó là chùa chứa ma, thờ ma. Hình thức phương cách hành hoạt của kẻ ma ngụy làm đệ tử Phật này, hoặc lộ liễu kín đáo, nhằm mục đích gây đổ vỡ hàng ngã tử chúng đệ tử Phật, làm mất thanh đanh đạo pháp đến chỗ suy tàn.

Thế nên kinh Đại Niết Bàn cũng như kinh Đại Tập, Đức Phật nói: “Nơi nào tôn trọng thọ trì giới pháp là còn chơn chánh đạo pháp. Những ai còn nghiêm chỉnh gìn giữ giới pháp, biết sống tri túc, mới chánh thật là đệ tử ta”.

Rất mong quý vị khởi đi từ những “nào ngờ” này và những nào ngờ của chính bản thân quý vị, lấy đó suy ngẫm kỹ để sớm hồi tâm phản tỉnh, hướng đời mình trên đường thánh thiện, để xây dựng hạnh phúc hiện tại và tương lai.