23. PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

Kính thưa quý vị,

Hôm nay tôi trình bày về pháp môn tu Tịnh Độ. Rất không ít người xem thường pháp môn này. Nay quý vị cùng tôi tìm hiểu xem.

Đức Phật ra đời với tâm nguyện độ sanh. Chúng sanh căn tánh vô lượng bất đồng, nên Đức Phật cũng tùy theo đó mà mở bày vô lượng pháp môn tu để cho thích hợp với căn tánh của chúng sanh. Trong tất cả pháp tu chỉ có pháp môn Tịnh Độ là thích hợp nhất, dễ tu nhất, dễ chứng nhất, viên mãn nhất và cũng khó tin nhất. Nên kinh A Di Đà, Đức Phật nói: “Nan tín chi pháp” nghĩa là pháp khó tin.

Dễ tu là bởi pháp môn Tịnh Độ có đặc tánh phổ cập, ai tu cũng được, đi đứng nằm ngồi trong mọi thời, mọi lúc, khắp mọi hoàn cảnh đều có thể tu trì danh niệm Phật, nhất tâm nhiếp niệm.

Dễ chứng là bởi hành giả đem tâm nương theo danh hiệu Phật, niệm Phật, tưởng nhớ Phật, thừa nương Phật lực gia hộ độ trì. Chuyên tâm nhiếp niệm tưởng nhớ Phật. Phật và tâm đồng nhất thể. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Tâm, Phật, và chúng sanh cả ba không khác. Mê là chúng sanh, ngộ là Phật. Tâm loạn động là tâm mê, là tâm chúng sanh. Tâm chuyên nhứt niệm là tâm thanh tịnh, tâm giác, tâm Phật. Giờ nào chuyên tâm nhiếp niệm trì danh hiệu Phật là giờ đó gần Phật, tâm ta thể nhập tâm Phật, sống trong đại thể của tâm Phật.

Dễ viên mãn là bởi hiện đời tin theo lời Phật nói, nương theo lời Phật dạy, chuyên cần gắng sức tu tâm hành thiện, chuyên trì danh hiệu “Nam Mô A Di Đà Phật” không rời niệm, để đến chỗ nhiếp niệm. Bên trong tự lực tâm nhiếp niệm, bên ngoài tha lực Phật hộ trì, tự tha viên mãn. Khi lâm chung, do nhờ lúc sống ngày ngày trì danh hiệu Phật, quán tưởng hình tượng Phật mà được huân tập chủng tử danh hiệu Phật, hình ảnh Phật, tâm thức bám vào chặt chẽ hình ảnh trang nghiêm của Phật, với lòng tin thâm sâu nơi oai thần năng lực Phật, nên tâm thần không rối loạn hoảng hốt. Tâm không rối loạn hoảng hốt, một lòng nhớ Phật, tức thì cảm ứng đến Phật và thánh chúng hiện tiền tiếp độ. Kinh A Di Đà, Đức Phật nói:”Nhất tâm bất loạn, kỳ nhơn lâm mạng chung thời, A Di Đà Phật dữ chư Thánh chúng, hiện tại kỳ tiền, thị nhơn lâm mạng chung thời, tâm bất điên đảo, tức đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc Quốc Độ”. Nghĩa là người sắp lâm chung mà biết nhất tâm niệm Phật tâm không tán loạn, thì được thấy Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện tiền, như thế tinh thần người lâm chung không điên đảo, liền đó được vãng sanh về cảnh giới Tây phương Cực Lạc cõi nước Đức Phật A Di Đà.

Hơn nữa trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca có thuật lại lời thệ nguyện của Đức Phật A Di Đà rằng: “Nếu có chúng sanh nào muốn sanh về cõi nước của ta, mà vui thích chí thành tin niệm danh hiệu ta mười niệm, ta không tiếp dẫn chúng sanh đó về cõi nước Cực Lạc thì ta thề không thành Phật”. (Nhược hữu chúng sanh, dục sanh ngã quốc, chí tâm tín nhạo, nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ chánh giác).

Như thế, hành giả ở cõi Ta Bà tu đã được viên mãn tâm nguyện vãng sanh. Sau khi được Phật tiếp độ vãng sanh về cảnh giới Tây Phương Cực Lạc, thấy Phật nghe Phật, chứng bất thối chuyển, tiến tu đến quả vị Vô Thượng Bồ Đề, không còn luân hồi thối đọa nữa, đó là viên mãn quả vị cảnh giới Tịnh Độ.

Thế nào gọi là Tịnh Độ? Tịnh là thanh tịnh, trong sạch. Độ là cõi nước, là thế giới. Vậy Tịnh Độ là cõi nước trong sạch, là thế giới thanh tịnh. Nghĩa là thế giới không có chiến tranh ly loạn, không có hiện tượng sanh già bệnh chết, không có bát nạn khổ (1), ba đường ác (2). Người ở cảnh giới Tịnh Độ là người hành thiện, với ý chí hướng thiện tinh tiến tu lên quả vị bất thối chuyển Vô Thượng Bồ Đề.

Cảnh giới Tịnh Độ không có hiện tượng chen lấn tranh giành. Người ở cảnh giới Tịnh Độ không phải bận tâm về vật dụng ăn ở. Mà chúng sanh nơi đó, khi khởi tâm ước muốn điều gì thì những thứ ngon lành mỹ diệu liền hiện tiền như ý. Điều này có được là do khi còn là phàm phu chuyên tâm tu hành gieo trồng căn lành, mà được sanh về Tịnh Độ, hưởng phước báo đặc thù, không phiền não lo âu, đất nhà cây cảnh hoa lá đều do ngọc ngà châu báu tạo thành. Không có hiện tượng sanh già bệnh chết. Không có trạng huống vô thường thành trụ hoại không. Ở đó các vị Bồ Tát Thanh Văn là bạn của hành giả tu tịnh nghiệp. Ở cõi Cực Lặc tuyệt đối không có kẻ tâm phàm tâm ác ý, không có hiện tượng suy tàn biến đổi. Do công đức của Phật A Di Đà và Thánh chúng trang nghiêm tạo thành thế giới tuyệt vời thanh tịnh, nên gọi là thế giới Cực Lạc.

Làm thế nào để được về cảnh giới Cực Lạc? Người muốn được sanh về thế giới Cực Lạc thì phải dốc lòng quyết chí nhứt tâm trì danh hiệu Phật, nghiêm chỉnh chấp trì ba điều quan trọng là tín, nguyện và hạnh. Đây là ba điều tiên quyết để được vãng sanh. Thế nào là tín, nguyện, hạnh?

Tín: Tín ở đây là lòng tin thâm sâu như mũi dùi khoan sâu vào gỗ, như đinh đóng chặt vào cột. Lòng tin chuyên ròng trong sạch, như ánh trăng rằm, như nước hồ thu, như pha lê trong suốt, không ngờ vực, cũng không nay tin ông này, mai tin bà kia. Đem lòng tin thanh tịnh trong suốt thâm sâu như vậy để trọn tin lời Đức Phật Thích Ca dạy có thật cảnh giới Cực Lạc ở phương Tây, nơi đó Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ và hiện nay đang ngày đêm thuyết pháp. Tin đức Phật A Di Đà có 48 lời nguyện độ sanh, nguyện nào nguyện nấy cũng tha thiết  đặc biệt hướng về chúng sanh ở thế giới Ta Bà để tiếp độ, như ánh sáng mặt trời lúc nào cũng hướng về vạn vật trên quả địa cầu này.

Chí thành chí thiết tin lời dạy của Đức Phật Thích Ca là, cảnh giới Cực lạc thanh tịnh an lành tuyệt đối, tâm nguyện từ bi, năng lực độ sanh của Đức Phật A Di Đà vô biên, như mẹ hiền đối với con dại. Lại tin chính ta có khả năng thành Phật, như Đức Phật Thích Ca đã tuyên bố: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh” – “Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Khi ta tin chắc lời dạy của Đức Bổn Sư Thích Ca, thấu hiểu tâm nguyện và năng lực của Phật A Di Đà, tin tưởng mãnh liệt ở khả năng Phật tánh của chính ta, ta phát nguyện chuyên tâm tu trì trong niềm tin tự lực và tha lực viên mãn, thì ta nguyện ta nhất định thành. Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là mẹ sanh các công đức. Lòng tin hay trưởng dưỡng các pháp lành. Lòng tin đưa người siêu thoát ba đường khổ địa ngục, ngạ qủy, súc sanh. Lòng tin có năng lực đưa người đến quả vị giác ngộ giải thoát”. Sau khi tin chắc rồi, nên phát nguyện.

Nguyện: Sau khi đã tin có cảnh giới Cực Lạc, có Đức Phật A Di Đà từ bi tiếp độ, tin chính mình có khả năng Phật tánh rồi, thì nên phát nguyện vãng sanh về cảnh giới Cực lạc để được cùng sống với Đức A Di Đà và Thánh chúng ở đó. Đem trọn lòng mà phát nguyện một cách chân thành chí thiết, nhứt tâm thiết tha duy nhất vào một việc vãng sanh. Phát nguyện chân thành chí thiết như dòng nước chảy xiết ngày đêm không ngừng một giây phút nào. Tâm nguyên, hơi thở, giờ giờ khắc khắc nhớ nghĩ ước mong được vãng sanh thấy Phật A Di Đà. Để cho nguyện viên thành thì phải lập hạnh.

Hạnh: Sau khi đã tin thâm sâu, nguyện tha thiết, tiến đến là thực hành. Chính sự thực hành này là yếu kiện quyết định cho sự thành tựu của tín và nguyện. Nếu chỉ tin và ước nguyện suông thôi, không chuyên cần thực hành thì không thể nào đạt thành nguyện vọng. Cũng ví như người tin chắc nước Hoa Kỳ là xứ tự do no ấm, rất ước mong được đến Hoa Kỳ sinh sống. Có tin có ước nguyện, nhưng lại không chịu khó chạy lo tạo điều kiện kiếm tiền đóng thuyền, hoặc lo giấy thông hành để đi thì nhất định không bao giờ đến được Hoa Kỳ. Người tu tịnh nghiệp cầu sanh về Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà cũng giống như thế. Chỉ tin và nguyện suông thôi, không chịu chuyên tâm thực hành thì không cách nào vãng sanh về nước Cực lạc được. Thế thì thực hành bằng cách nào?

Muốn được sanh về nước Cực Lạc, ngoài việc tin sâu, nguyện chí thiết ra, hành giả còn phải ngày đêm trong lúc đi đứng nằm ngồi phải luôn luôn niệm danh hiệu Phật, tưởng nhớ đến Phật. Câu Nam Mô A Di Đà Phật không ngớt trên miệng, hình bóng Đức Phật A Di Đà không dứt trong tâm. Đồng thời phải đặt định thời khóa để lạy sám hối, tụng kinh, niệm Phật. Phải cố gắng sửa tâm tánh, bỏ các tật xấu cố hữu. Dứt trừ chuyện thị phi. Xả bỏ ân tình ái dục. Cổ đức dạy: “Ái bất trọng bất sanh Ta Bà. Niệm bất nhứt bất sanh Tịnh Độ”. Nghĩa là do lòng ái dục mà ta phải sanh ra trong cõi Ta bà khổ lụy này. Niệm Phật không nhất tâm thì không thể nào sanh về Tịnh Độ được.

Không phải chỉ niệm Phật tụng kinh sám hối suông thôi là đủ. Hành giả tu tịnh nghiệp, trong tâm phải luôn luôn nhớ Phật, sửa tâm tánh để được thanh tịnh. Ngoài thân phải đem hết khả năng tụng kinh bái sám, niệm Phật, làm những việc lành. Như bố thí, trì giới, nhẫn nhục v.v… Chớ nên lầm tưởng ăn chay, niệm Phật và tụng kinh với hình thức bên ngoài mà trong lòng còn đầy tham sân si, mạn nghi, ái dục, ích kỷ là được vãng sanh đâu! Kinh A Di Đà, Đức Phật nói: “Không thể dùng chút ít thiện căn phước đức nhơn duyên mà cầu vãng sanh về cõi nước Cực Lạc kia. (Bất khả dĩ thiểu thiện căn phước đức nhơn duyên đắc sanh bỉ quốc). Cổ đức khuyên:

Xem ra niệm Phật dễ mà không.
Ý khẩu buông lung niệm chẳng đồng.
Miệng niệm Di Đà tâm tán loạn.
Dù cho bể cổ vẫn là không.

Vậy, tín nguyện hạnh  là ba yếu kiện tiên quyết, là tư tưởng chánh để hành giả được vãng sanh về cảnh giới Cực lạc.

Có ai niệm Phật được vãng sanh chưa?

Có vô số người niệm Phật được vãng sanh Cực Lạc. Xin quý vị tìm đọc ở các sách Hương Quê Cực Lạc, Đường Về Cực Lạc, Pháp Môn Tịnh Độ, Niệm Phật Thập Yếu, Lá Thư Tịnh Độ v.v… Các sách nói về pháp môn Tịnh Độ có ghi rõ. Nay đây xin lược nêu những hành giả tu pháp môn Tịnh Độ có hiệu quả biết trước ngày giờ lâm chung, được vãng sanh, như ở Việt Nam, Huế có Ngài Tường Vân, Ngài Nhất Định v.v…  Ở Bắc Việt có Ngài Tế Xuyên, ông Phó Kinh v.v… Ở Nam Việt có ông chủ Thời, cô Lưu Thi Yến pháp danh Như Xuân Huyền, ông Xã Tòng v.v… và gần đây nhất có Ngài hành Trụ. Trước ngày viên tịch, Ngài đi thăm từ giả các Thầy, các chùa và an nhiên tạ thế.

Ở Trung Hoa hành giả tu Tịnh Độ nhiều vô số kể. Các Ngài tu đều kết quả, nối tiếp nhau đã hệ thống hóa thành dòng Tịnh Độ Tổ Sư. Quý vị nếu đọc các sách Tịnh Độ Thánh Hiền Lục, Niệm Phật Thập Yếu, Quê Hương Cực Lạc, Đường Về Cực lạc, Lá Thư Tịnh Độ, Pháp Môn Tịnh Độ v.v… thì qúy vị sẽ thấy vô số người tu pháp môn trì danh niêm Phật được kết quả ngay trong hiện đời.

Đến như Nhật Bản, Đại Hàn, Tân Gia Ba, Mã Lai Á v.v… Các nước theo hệ phái Đại thừa Phật giáo thì mười người hết bảy tám người tu pháp môn niệm Phật.

Các Ngài nêu trên, đều biết trước ngày giờ khi lâm chung. Các Ngài an nhiên tự tại khi xả phàm thân để chứng pháp thân. An nhiên tự tại giống như người có chí xuất gia bỏ nhà cửa, y phục, những thứ dục lạc của trần gian tục lụy để sống đời đạo hạnh thanh đạm an lạc giải thoát của tăng sĩ,

Đặc biệt các Tổ sư Tịnh Độ phần độ trước đó vốn là những Thiền sư danh tiếng, nhưng sau chuyển hướng tu Tịnh Độ mà được đắc quả. Như sách Tịnh Độ Chỉ Qui của Phổ Hạnh khi nói về “pháp môn niệm Phật tổng trì vạn pháp thông lợi ba căn” và sách lý Bát Nhã Tịnh Độ của cư sĩ Bổn Nguyên cũng xác định rằng: “Thiền tông tự xưng là trực chỉ chơn tâm, minh tâm kiến tánh hay là giáo ngoại biệt truyền mà mười một vị Tổ tông có đến sáu vị nguyên trước vốn là Thiền sư chánh truyền. Như Tổ thứ ba là Thừa Viễn Thiền sư, Tổ thứ sáu là Vĩnh Minh Thiền sư, Tổ thứ tám là Phật Huệ Thiền sư, Tổ thứ chín là Ngẩu Ích Thiền sư, Tổ thứ mười là Tĩnh Am còn gọi là Thực Hiền Thiền sư, Tổ thứ mười một là Triệt Ngộ còn gọi là Tế Tĩnh Thiền sư. Các vị này trước tu thiền cũng đã nổi danh, nhưng sau chuyển tu Tịnh Độ và cực lực hoằng truyền pháp môn niệm Phật”. Đặc biệt là Ngài Nhất Biến thượng nhơn (1239-1289) vốn là một Thiền sư nổi tiếng, sau chuyển tu Tịnh Độ sáng lập phái Thời Tông Tịnh Đô, rộng truyền pháp môn niệm Phật.

Không những các Thiền sư danh tiếng trước tu thiền về sau chuyển tu Tịnh Độ cầu sanh Cực Lạc, mà đến như các vị đại Bồ Tát cũng phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Như Bồ Tát Phổ Hiền trong kinh Hoa Nghiêm đã phát nguyện: “Nguyện ngã lâm dục mạng chung thời, tận trừ nhất thiết chư chướng ngại, diện kiến bỉ Phật A Di Đà, tức đắc vãng sanh an lạc quốc”. Nghĩa là: “Con nguyện khi sắp qua đời, tất cả nghiệp chướng đều dứt trừ, được thấy Phật A Di Đà, ngay khi đó sanh về Cực lạc”. Bồ Tát Phổ Hiền còn nguyện, Ngài ở trong đời giáo hóa chúng sanh cũng dùng phương pháp Tịnh Độ để cho chúng sanh dễ tu hành được sanh về cảnh giới Cực lạc. Như kinh Hoa Nghiêm phẩm Phổ Hiền, Ngài nói: “Năng ư phiền não đại khổ hải trung, bạt tế chúng sanh linh kỳ xuất ly, giai đắc vãng sanh A Di Đà Phật Cực Lạc thế giới”. Nghĩa là Phổ Hiền Bồ Tát thường hay ở trong biển khổ phiền não của cõi đời cứu vớt chúng sanh, khiến cho chúng sanh được giải thoát, vãng về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà.

Mười đại nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát trọng tâm là xiển dương pháp môn Tịnh Độ. Ngài Văn Thù Bồ Tát, nguyện sau khi tu hành mãn, xa lìa cõi Ta Bà sanh về cảnh giới Cực Lạc, như kinh Văn Thù phát nguyện nói rằng: “Nguyện ngã mạng chung thời, diệt trừ chư chướng ngại, diện kiến A Di Đà, vãng sanh Cực Lạc quốc. Sanh bỉ Phật quốc dĩ, thành mãn chư đại nguyện, A Di Đà Như Lai, hiện tiền thọ ký ngã, cứu cánh Bồ Tát hạnh”. Nghĩa là: “Ngài Văn Thù Bồ Tát nguyện khi mạng chung, diệt trừ hết chướng ngại, được thấy Phật A Di Đà, vãng sanh về nước Cực Lạc. Được sanh về cõi nước ấy rồi, tròn đầy các đại nguyện, Đức A Di Đà Như Lai, hiện tiền thọ ký cho tôi, cứu cánh hạnh Bồ Tát.

Kinh Quán Tam Muội, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát dạy rằng: “Trong tất cả các pháp môn tu hành, không có pháp môn nào vượt qua pháp môn niệm Phật. Pháp môn niệm Phật là vua trong tất cả pháp môn”. Trong kinh Đại Tập Đức Phật xác quyết rằng: ‘Vào thời mạt thế, ức ức người tu hành, không có lấy được một người đắc đạo giải thoát, chỉ còn có cách là nương theo pháp môn niệm Phật mới ra khỏi vòng luân hồi sanh tử”.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí trình bày với Đức Thích Ca Mâu Ni về chỗ sở đắc của mình rằng: “Ức Phật, niệm Phật, hiện tiền, đương lai kiến Phật”. Nghĩa là: “Con nhờ nghĩ đến Phật, niệm Phật, đời này hoặc đời sau được thấy Phật. Bồ Tát Đại Thế Chí do nhờ nhớ Phật, niệm Phật, mà thấy được Phật, vãng sanh về Tịnh Độ, chứng vô sanh pháp nhẫn, hiện ở đó cùng với Bồ Tát Quán Thế Âm trợ giúp Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn người tu niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh Độ. Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bồ Tát Đại Thế Chí trình bày với Đức Phật về pháp môn tu hành thành đạt đạo quả của mình rằng: “Con nhớ hằng sa số kiếp trước, Đức Phật Siêu Nhựt Nguyệt Quang dạy con tu pháp môn niệm Phật tam muội. Vậy chỗ nhơn địa tu hành của con là do niệm Phật mà ngộ vô sanh nhẫn, nguyện ở cõi này để nhiếp hóa người phát tâm niệm Phật vãng sanh Tịnh Độ. Nay Phật hỏi chỗ viên thông, con vốn không chọn lựa, chuyên thâu nhiếp sáu căn, khiến cho tịnh niệm nối tiếp luôn, được vào tam ma địa, ấy là thứ nhất”. (Ngã bổn nhơn địa, dĩ nhiệm Phật tâm, nhập vô sanh nhẫn, kim ư thử giới, nhiếp niệm Phật nhơn, qui ư Tịnh Độ. – Kinh Thủ Lăng Nghiêm, chương Đại Thế Chí Viễn Thông).

Trong hầu hết những kinh điển Đại thừa Phật giáo, cho thấy các vị Bồ Tát đều cầu vãng sanh về Tịnh Độ. Như kinh Pháp Hoa nói: “Nếu người tâm tán loạn, bước vào nơi chùa tháp, nhứt niệm nam mô Phật, thì đều được thành Phật”. (Nhược nhơn tán loạn tâm, nhập ư tháp miếu trung, nhứt niệm nam mô Phật, giai dĩ thành Phật đạo). Kinh Pháp Hoa còn nói rõ rằng: “Nếu người nào y theo kinh Pháp Hoa dạy mà tu hành, thì khi mạng chung liền được vãng sanh về thế giới Cực Lạc, nơi đó được Đức Phật A Di Đà và chúng đại Bồ Tát vây chung quanh khen mừng, người đó từ hoa sen sanh ra và ngồi trên bảo tòa”. (Nhược hữu nhơn văn thị kinh như thuyết tu hành, ư thử mạng chung tức vãng sanh an lạc thế giới, A Di Đà Phật đại Bồ Tát chúng vi nhiễu trụ xứ, sanh liên hoa trung bảo tòa chi thượng).

Thái Hư đại sư khi luận về pháp môn Tịnh Độ, Ngài nói: “Kinh A Di Đà là kinh Pháp Hoa lược nói. Kinh Pháp Hoa là kinh A Di Đà giảng rộng”. Trong kinh A Di Đà, Đức Phật Thích Ca nói với Ngài Xá Lợi Phất rằng: “Nếu ai nghe nói đến Đức Phật A Di Đà mà trì niệm danh hiệu hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn, thì người đó khi sắp lâm chung, được Phật A Di Đà và Thánh chúng hiện ra trước mắt, người ấy khi chết tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nưóc Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà”. Kinh còn nói: “Người nghe kinh A Di Đà này, mà phát tâm thọ trì và nghe danh hiệu của Phật, thì được tất cả các Đức Phật nghĩ nhớ hộ niệm, rốt sau được đạo quả bất thối chuyển vô thượng Bồ Đề”.

Không những Đức Thích Ca Mâu Ni khuyên chúng sanh nên tu pháp môn Tịnh Độ là pháp môn chắc chắn nhất, bởi nhờ uy lực 48 đại nguyện độ sanh của Đức Phật A Di Đà, mà chính nNgài khi thâu thần tịch diệt Niết Bàn cũng hoàn nguyên trở về cảnh giới Thường tịch quang Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà Như Lai, như kinh Đại Bát Niết Bàn phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên thứ hai mươi bảy nói: “Giờ sắp nhập Niết Bàn, Đức Phật đã thuận nghịch ba lần nhập thiền định xong, từ sơ thiền đến diệt tận định, cuối cùng nhập siêu việt thiền định, Ngài nói: Vô minh không có cội gốc, nên lão tử cũng không, mười phương tất cả pháp đều giải thoát. Nay ta an trụ nơi Thường Tịch Diệt Quang gọi là Đại Niết Bàn”.

Đức Phật A Di Đà ngày đêm hướng về chúng sanh, như mặt trời hướng về vạn vật, như mẹ hiền trông ngóng con về. Đức Phật cũng như chư vị Bồ Tát vừa nêu trên, tuy khi ra độ sanh theo căn tánh của mỗi loài thấp cao mà mở bày đủ các pháp môn phương tiện, nhưng khi hoàn nguyên thì trở về an trụ nơi tự tánh Di Đà duy tâm tịnh độ trong cảnh Thường tịch quang tịnh độ của đức A Di Đà Như Lai.

Để cho quý vị nhận định rõ hiệu năng của pháp môn Tịnh Độ, nay tôi xin lược thuật câu chuyện do Ngài Trí Giả đại sư nói trong bộ Thập Nghị Luận và được dẫn trong sách Tịnh Độ Chỉ Qui như sau:

“Ba vị Bồ Tát là Vô Trước, Thế Thân và Sư Tử Giác cùng phát nguyện tu Duy Thức Quán để cầu mong được vãng sanh về cõi trời Đâu Suất nội viện hầu được diện kiến Đức Di Lặc Bồ Tát. Ba Ngài đồng giao hẹn với nhau rằng, nếu ai được lên gặp Đức Di Lặc trước thì phải nhớ về báo tin cho biết là mình đã gặp được rồi. Chẳng bao lâu sau đó Ngài Sư Tử Giác viên tịch. Trước giờ Sư Tử Giác viên tịch, hai Ngài Thế Thân và Vô Trước đến bên cạnh căn dặn nên nhớ lời giao hẹn. Sư Tử Giác gật đầu hứa chắc.

Nhưng sau khi Sư Tử Giác qua đời đã lâu, hai Ngài Thế Thân và Vô Trước đợi mãi mà không thấy tin tức đâu cả. Ba năm sau, đến lượt Thế Thân viên tịch. Lúc Thế Thân sắp viên tịch, Ngài Vô Trước đến căn dặn bốn năm lần rằng, dù thế nào cũng phải nhớ về báo tin cho biết chớ đừng như Sư Tử Giác. Mãi đến hơn ba năm sau, Thế Thân mới về báo tin cho Ngài Vô Trước hay. Vô Trước hỏi tại sao phải lâu đến hơn ba năm mới về cho hay?

– Thế Thân nói: Tôi đến Đâu Suất nội viện nhằm ngay lúc Đức Phật Di Lặc thuyết pháp, chỉ nghe được Ngài thuyết có một thời rồi liền bái biệt về ngay đây.

– Vô Trước lại hỏi: Còn pháp hữu Sư Tử Giác đâu?

– Thế Thân nói: Sư Tử Giác mới đến ngoại viện, bị ngũ dục lôi cuốn, mãi đến nay vẫn chưa vào được nội viện diện kiến Đức Di Lặc.

Vô Trước nghe xong như tỉnh mộng, nhận thấy phương pháp tu tự lực tư duy quán quá nguy hiểm, liền cải đổi tu theo pháp môn Tịnh Độ cầu sanh Cực Lạc.

Ngũ dục lạc trần gian đã nhận chìm bao kẻ anh hùng thế gian, cũng như đã cuốn lôi làm cho rơi rụng không biết bao kẻ đi trên đường ánh đạo vàng. Người tu hành phải khốn khó lắm mới khắc phục nổi ngũ dục. Huống nữa là tu thiền thì phải trải qua bốn cõi thiền, tám cõi định, mới đến cõi diệt tận định để bước vào quả vị đẳng giác. Ngũ dục của các cõi trời thiền trùng trùng điệp điệp vô cùng mỹ diệu siêu trần tuyệt thế, đạo lực như Bồ Tát Sư Tử Giác mà còn phải ngây ngất lặn lội chưa khắc phục nổi sự quyến rủ để vào Đâu Suất nội viện bái kiến Đức Di Lặc kia, huống hồ là phàm phu như chúng ta, đạo lực đến bực nào mà dám tự hào khắc phục nổi dục lạc bốn cõi thiền? Thế nên các bực cổ đức kinh nghiệm mới minh mẫn có lời ân cần nhắn nhủ: “Tu thiền như con mọt trong ống tre phải đục từng mắt tre mới ra khỏi. Tu Tịnh Độ như con mọt đục ngang ống tre mau lẹ thoát ra ngay”. Kinh Đại Bản Di Đà nói:

“Tu các pháp môn khác như kiến bò lên núi. Tu pháp môn niệm Phật như thuyền buồm thuận gió xuôi nước. (Dư môn học đạo du nghị tử thượng ư cao sơn. Niệm Phật pháp môn tợ phong phàm hành ư thuận thủy).

Cũng trong ý nghĩa này, người tu thiền hay tu các pháp môn khác để đạt đạo quả Bồ Đề chẳng khác nào như người nương theo bản đồ tự mình đến thành phố lạ. Tu Tịnh Độ giống như người đến thành phố lạ có bản đồ lại có người hướng dẫn đường đi. Người tu thiền hay các pháp môn khác giống như cậu bé ba tuổi tự một mình lần theo đường đã chỉ tìm về quê cha đất tổ. Người tu Tịnh Độ cũng giống như cậu bé theo đường đã chỉ lại có mẹ đi bên cạnh, nên vững tâm mạnh dạn phấn khởi trở về quê hương không sợ hầm hố chông gai, lại cũng không ngại lạc lối. Sự hiểu biết của đứa bé ba tuổi so với kiến thức và kinh nghiệm của bà mẹ, có khác gì khả năng kiến thức của chúng sanh so với trí tuệ giác ngộ và thần lực của Phật?

Người không tin pháp môn niệm Phật hoặc chê bai pháp môn niệm Phật là tầm thường, chẳng khác nào đứa bé lên ba tuổi sanh ở nơi tha hương, nay muốn về quê cha đất tổ mà lại không cần cha mẹ dẫn đường. Đây mới thật là kẻ đáng thương vậy. Như kinh Thanh Tịnh Giác nói: “Nếu người nào đối với pháp môn Tịnh Độ nghe như không nghe, biết như không biết, tất nhiên kẻ ấy mới vừa ở trong ba ác đạo địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ra, hoặc còn nhiều tội chướng, nên không sanh được lòng tin tưởng pháp môn này. Như Lai nói kẻ ấy kém phước duyên trên đường giải thoát”. Kinh lại nói: “Nếu người nào nghe pháp môn Tịnh Độ liền khởi tâm thương mừng rơi lệ, cảm động đến các chân lông nơi thân đều dựng đứng, nên biết kẻ ấy đời trước đã từng nghe, tin và tu tập pháp môn Tịnh Độ này. Nếu kẻ ấy chánh niệm tu hành thì nhất định vãng sanh”.

Pháp môn niệm Phật là pháp môn bao gồm tự lực và tha lực, gọi tắt là Pháp tu tự tha viên mãn. Là pháp môn rất dễ tu, rất dễ chứng, rất hoàn bị, rất khó tin. Nên trong kinh A Di Đà, Đức Phật kêu Ngài Xá Lợi Phất nói: “Này Xá Lợi Phất ơi! Ông nên biết ta đang ở trong đời ngũ trược xấu ác này làm việc thí pháp khó làm, mà được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề. Ta vì tất cả chúng sanh trong thế gian mà nói pháp môn Tịnh Độ, là pháp môn khó tin, đối với họ thật là khó tin”.

Ngẩu Ích đại sư nói, có được vãng sanh hay không là do hành giả có chuyên tâm chí thành tu niệm hay không. Phẩm vị cao hay thấp là tùy thuộc lòng tin của hành giả cạn hay sâu:

Được vãng sanh cùng chăng,
Tín nguyện có hay không,
 Phẩm vị cao cùng thấp,
Tùy niệm Phật cạn sâu.

Ngài Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát khuyên hành giả tu tịnh nghiệp rằng:

Ít nói một câu chuyện,
Nhiều niệm một câu Phật,
Đánh chết được vọng niệm,
Pháp thân người hiển lộ.

Đức Văn Thù Bồ Tát đối trước Đức Phật nói kệ khuyến lệ người tu Tịnh Độ rằng:

Khi đi đứng nằm ngồi,
Thường niệm công đức Phật,
Ngày đêm chớ tạm quên,
Nên siêng tu như vậy.

Hoằng Nhất đại sư khuyên ông bạn nên phát tâm quy y Tam Bảo, niêm Phật để tạo tư lương trên đường về Tây Phương Cực Lạc. Ông bạn hẹn chừng nào thu xếp xong việc rồi sẽ tính sau. Đại sư liền nói:

Ngay giờ quyết dứt liền thôi dứt,
Chớ hẹn cho xong chẳng lúc xong.

Thưa qúy vị, người đời có thói quen thường hay khất hẹn, nhất là đối với việc làm phước thiện và việc tu hành. Khi được mời khuyên đóng góp phần công đức vào việc thiện như bố thí, cúng dường thì kêu than “kẹt, túng”. Khi được khuyến khích tu tâm niệm Phật thì “khất hẹn” chừng nào thu xếp xong hãy tính.

Xin quý vị thử nghĩ, việc đời biết chừng nào mới hết “kẹt, túng”, đến bao giờ mới “thu xếp xong”? Nên cổ đức có lời khuyến giác:

Chớ đợi đến già mới niệm Phật,
Đồng hoang mồ trẻ thiếu chi người.