Luận về Bốn Chân Lý
Nguyên tác: Pháp Sư Bà Tẩu Bạt Ma
Việt dịch: Thích Như Điển

 

 Quyển Thứ Bốn

I.1 Phẩm Phân Biệt Đạo Đế (Thứ Sáu)

Kinh nói Đạo đế, chữ này như thế nào? Vì nhơn gì mà khởi lên? Nếu đạo có thể diệt được gọi sự khát ái tức thì nên nói việc làm cho khổ hết. Nếu chẳng phải vậy thì lời nói ấy sai. Nếu cũng như Diệt Tập Khổ thì vì sao trong kinh lại chẳng nói đầy đủ? Nếu đạo có thể hết khổ, thì kẻ tu đạo nên chẳng còn khổ. Nếu chẳng phải như vậy thì chẳng nên nói hành cho đến khổ hết, nếu hữu vi pháp đối với vô vi pháp không có hành đến thì sao lại nói hành đến khổ hết là nghĩa chánh hành. Kẻ nói chánh hành là Bát Thánh Đạo, thì quyết rằng lời nói ấy dùng để chỉ cho bậc Thánh nghĩa là gì? Tại sao nói đạo là Thánh mà chẳng nói các trợ đạo khác. Nếu đạo khác phân biệt để nói tiếng này thì lời nói này để phân chia đạo sao? Như vậy tức là có phân chia và sự phân chia ấy không có sai biệt? Đạo nghĩa là gì? Vì sao kinh này nói có phân chia đầy đủ, còn kinh khác thì không đủ.

Nếu đạo là hữu vi thì vì sao Phật nói: Gốc từ xưa đã có rồi, nếu là vô vi thì sao lại nói là hữu vi. Nếu đạo là một thì một người tu, người khác cũng được giống như thế để nương vào. Nếu chẳng như vậy, tức chẳng nên nói là do chỉ một đạo này. Nếu các bậc Thánh nhơn đồng được một đạo thì vì sao trí tuệ lại chẳng giống nhau ? Nếu trí huệ chẳng đồng thì vì sao mà nói sự giải thoát đều bình đẳng ? Nếu đạo phi tâm thì các vật vô tình lại cũng nên có đạo. Nếu tâm phi tâm thì pháp tu ấy tức chẳng đủ, nếu là tâm pháp thì các pháp sai khác vì sao cũng đều có một tâm? Nếu đạo đến để trừ hoặc, tức là pháp sai khác với cùng một tâm ấy. Nếu chẳng đến nơi tương tục khác thì vì sao lại chẳng ngoại trừ?

Nếu sự phân chia đầy đủ khởi lên tức là có nhiều tác ý, nếu lần lượt khởi lên tức hằng có một phần. Vì sao chỉ thành lập 8 phần mà chẳng hơn chẳng kém? Vì sao chẳng thủ dục và các pháp khác? Vì sao một pháp nói là tạo ra ba loại? Trung đạo có thể giảm phước, ác hạnh đến tận khổ.

Vì sao lại nói chánh kiến đầu tiên? Vì sao lại bảo đầu tiên nên hành chánh kiến là có ý nghĩa gì? Kiến tức là chẳng thuần thục vì có thể thấy chánh kiến. Cùng với Thập Thiện thì chánh kiến cả hai khác nhau thế nào? Nếu do chánh kiến một lúc thấy Đế (chân lý) có thể có nhiều cảnh. Nếu chẳng phải vậy thì phi niệm niệm diệt, nếu chánh kiến mà rõ biết các Đế thì ngoài ra sự phân chia ấy dùng để làm gì?

Chánh giác nghĩa là gì? Vì sao ba pháp lại thành một? Nếu nương vào hai định để chứng được lậu tận thì chánh giác chẳng đủ đạo phần và lại chia riêng ra, nghĩa này nên tìm hiểu thêm.

Còn chánh ngôn nghĩa là gì? Nếu có chứng ở lời nói thì đạo tu không có định. Vì sao vậy? Phật dạy rằng định là dùng âm thanh để lựa lọc, nếu chẳng thế thì chẳng thành đạo phần.

Chánh nghiệp nghĩa là gì? Tất cả phần đều là chánh nghiệp, vì sao nói một gọi là chánh nghiệp ? Nếu xa lìa gọi là chánh nghiệp thì sự lìa ấy chính là chẳng lìa. Vì sao lại thành nghiệp? Lìa sự hành hạ của nghiệp và vì sao lại chẳng nói là đạo phần? Chánh nghiệp, chánh mạng (mệnh) và Thập thiện chánh nghiệp chánh mạng cả hai khác nhau ra sao?

Chánh mệnh nghĩa là gì ? Chánh mệnh nếu thân khẩu nghiệp nhiếp thì vì sao lại biệt lập?

Cái gì là chánh tinh tấn? Tướng gì? Dụng gì? Duyên gì? Và nghĩa gì? Nếu hay diệt ác thì thiện tức là chẳng có hai tinh tấn. Nếu phi thiện là Diệt đế, tức là phi thiện. Nếu một tâm tu chánh cần tức là trợ đạo tu chẳng thành.

Thế nào là chánh niệm? Tướng gì? Dụng gì?

duyên gì? Nghĩa gì? Các pháp hữu vi trong sát na chẳng trụ thì vì sao lại thành niệm? Tại sao sự thấy khác, sự nhớ nghĩ khác chẳng phải là nghĩa này vậy? Nếu tất cả các pháp đều là niệm xứ thì niệm căn tức là niệm và xứ tức là nghĩa chẳng tương ưng. Nếu niệm riêng tự chẳng thể thủ pháp thì vì sao kinh lại nói có niệm một thủ (một sự giữ nắm) Vì sao có lúc có thể nhớ, có lúc chẳng nhớ?

Tam Ma Đề là thế nào? Tướng gì? Dụng gì?

Nghĩa gì? Chánh định nếu là Định thì người Tu Đà Hoàn nên chẳng có dục sân, nếu như vậy tức là sai với đạo lý.

Hỏi: Kinh nói Đạo đế. Vì sao nói việc này và dựa vào nhân nào để khởi lên?

Đáp: Câu hỏi này chẳng khai trí cho người khi nói, vì sao vậy? Do nghe tên rồi rõ nghĩa vậy, từ nơi đại bi mà khởi lên Niết Bàn và con đường ấy hiển lên sự yên ổn nơi nghĩa bị che khuất. Muốn nói rộng ra thì nói là chướng, vì phân biệt trí với các đệ tử, nên Phật tự hỏi. Vì sao vậy? Do trước hỏi rồi sau giải đáp thành nhiều việc lợi ích. Rộng nói về duyên khởi, rồi như trước đã nói.

Lại nữa nhân sự giáo hóa các đệ tử khi nghe các ngoại đạo hỏi mà chưa rõ nghĩa đạo này chánh hay tà. Vì để trừ nghi với tâm điên đảo vô minh nên Phật tự hỏi và tự đáp.

Thế nào là đạo? Bát Thánh đạo là đây, như người nghi người chỉ đường lành vậy.

Hỏi: Nếu đạo có thể diệt sự khát ái tức chẳng nên nói hành đến khổ tận, nếu chẳng đúng thì lời nói này sai trái?

Đáp: Thánh nhân sơ phát tâm rồi dùng sự tu hành trừ diệt khổ, vì đây mà khởi lên đạo, cho nên nói hành cho đến khổ diệt. Sự khổ tận này do nguyên nhân diệt mà thành. Đây là việc trừ nguyên nhân giống như sư tử.

Lại nữa chư Phật quán tất cả chúng sanh đọa vào nơi khổ nạn nên phát tâm tu đạo. Vì để trừ khổ kia như kinh Quốc Dụ có nói về sự dụng công tu hành này. Sự khổ tận là phải dụng công tu hành xuất gia phạm hạnh, như kinh dụ cho bảy chiếc xe. Lại nữa Như Lai xuất thế vì ba sự việc làm cho sự khổ kia được tận. Đây là điều đầu tiên nói hành cho đến khổ hết.

Lại nữa tất cả hữu vi vô thường là khổ. Lìa pháp hữu vi cho nên  nói là khổ hết, như kinh Phiệt Dụ (chiếc bè) nói: Pháp thượng nên bỏ, hà huống phi pháp. Lại nữa do Bát Thánh đạo có thể trừ diệt thủ ấm, cho nên thường nói hai diệt mà lời nói ấy không sai trái.

Ngươi hỏi: Nếu đủ Diệt Tập Khổ thì vì sao trong kinh chẳng nói đầy đủ?

Đáp: Sự khát ái này diệt, do sự khổ tập nên được hiển bày, lại nữa nguyên nhân tận chẳng phải là chánh dụng, lấy khổ tận làm chánh. Lại nữa Thánh đạo hay diệt hữu vi và thủ ấm, cho nên nói khổ tận qua sự diệt khát ái.

Ngươi hỏi: Nếu đạo có thể tận, nếu người tu đạo đủ thì chẳng có chỗ khổ, nếu chẳng đúng tức chẳng nên nói hành cho đến khổ tận?

Đáp: Nương vào nhân duyên tận cho nên nói khổ tận, như nói lửa hết tức có nghĩa là than đã tàn. Lại như cây diệt (chết) thì bảo là gốc hết. Lại như Thánh đạo có thể diệt tà và phân biệt khổ mà chẳng trừ ra nghiệp báo khổ đời trước và giới địa ngược lại với khổ, gống như hơi thở của Chiên Đà La và Ưu Ba Kỳ Na v.v… Lại nữa Thánh đạo đối với Hữu Dư Niết Bàn có thể diệt tâm khổ. Đối với Vô Dư Niết Bàn có thể diệt thân khổ. Lại nữa Thánh đạo có thể diệt hậu hữu ấm khổ, thường hay tích chứa việc làm tùy tiện chưa diệt. Như bánh xe quay và tên bắn.

Hỏi: Nếu như pháp hữu vi đối với vô vi không đến hữu hành thì tại sao lại nói hành cho đến khổ tận?

Đáp: Niết Bàn là vô hành, Đạo lại cũng vô hành (chẳng làm). Tuy đầy đủ hành do quy hướng Niết Bàn và làm cho được Niết Bàn vậy, nói hành đến khổ tận giống như quốc lộ. Lại nữa là phương tiện để nói như nói những sự lưu hành nổi trên nước, rồi làm cho hết từng giọt nước. Sự chảy (lưu hành) và giọt nước đối với sự tận là không có hành mà cuộc đời (người đời) nói là hành, hành đến khổ tận lại cũng như thế. Ngươi hỏi:

Chánh hạnh nghĩa là gì?

Đáp: Do để rõ nghĩa chân thật này nên nói chánh hạnh, lại có nghĩa là chí thú thực hành, như nói hành tất cả những nơi có đạo. Lại có thể giữ cho nơi ấy được an ổn, nên nói là chánh hạnh. Lại có nghĩa chánh không phải là trái lại, hạnh có nghĩa là quy hướng về. Do điều chẳng trái lại mà quy hướng về Niết Bàn, nên nghĩa là chánh hạnh.

Ngươi hỏi: Chánh hạnh là Bát Thánh đạo, đây là điều đoán chắc chăng?

Đáp: Để làm khác với đạo khác nên thành lập tất cả xứ hành đạo, vì để hiển thị, chẳng phải nơi khác, lại có thể cùng với tất cả đạo khổ, có thể làm cho tất cả nghiệp phiền não và quả báo thiêu đốt, có thể trừ cho mình cùng người, ngay cả những ác ma, tội nặng ác đạo, chết và sự sợ hãi. Có thể trừ đươc chỗ chứa cốt như núi Tỳ Phú La, có thể làm khô sữa, máu và nước mắt. Do công dụng này mà đoan chắc dùng lời quyết đoán như thế.

Ngươi hỏi: Thánh có nghĩa là gì?

Đáp: Do thể là chẳng lưu lại một vị mà nhằm giải thoát chúng sanh, nương vào sự tương tục để gọi là Thánh Nhơn, giống như những pháp lành như trong kinh nói: Thánh ấy là chánh kiến lại căn cứ vào chỗ làm của Thánh nhơn nên gọi là Thánh, giống như con đường của vua, lại cũng là chỗ Thánh nhơn nói, nên gọi là Thánh; giống như con đường của bậc Thầy, lại lo việc của Thánh chúng nên gọi là Thánh. Giống như con đường của bò đi, lại làm cho đến chỗ cực Thánh, nên gọi là Thánh. Giống như quốc lộ như trong kinh nói: Thánh tức là chánh giải thoát.

Ngươi hỏi: Tại sao Đạo lại có tên là Thánh? Mà ngoài ra không nói đến trợ đạo?

Đáp: Cùng một tướng vậy. Tất cả đều gọi là Thánh, giống như tánh của lửa. Lại cùng một vị giải thoát, giống như nước biển cùng một vị mặn. Lại nữa bát Thánh là tối vi cao cả, có thể nhiếp các trợ đạo khác, giống như trong kinh dấu chân voi nói.

Ngươi hỏi: Nếu đạo khác với từng phần nên nói ở tướng nầy thì Đạo chỉ là từng phần, tức là chia đều và chia ra không có sai biệt chăng?

Đáp: Đây có chia ra tổng thể và từng phần với tướng sai biệt, lại có thể thấy có thể nói, giống như ngũ phần tam muội, lại như ngũ phần Tỳ Kheo ở nơi ngũ phần xứ. Đạo cũng lại như thế. Cùng với từng phần có khác. Đây là sự phân chia bình đẳng; nên nói là Đạo. Vì sao vậy? Đây chính là 8 phần cho đến sự bình đẳng quả vị có thể làm tiêu trừ phiền não. Hoặc chìm hoặc nổi tức chẳng trừ hoặc; giống như sự điều tiết giây tơ. Lại là những phần đầy đủ nên gọi là Đạo. Việc ấy biện tài giống như cổ xe. Tuy nhiên đó là nghĩa chơn thật để nói từng phần và nói đầy đủ, giống như ngũ phần âm nhạc và ngũ phần định.

Đạo lại cũng như vậy. Tuy phân chia ra đạo để luận nói. Tuy phân ra đạo có 6 nghĩa chứng thành. Một nói là Đạo. Kinh nói ngũ căn là Đạo, thực hành cho đến Niết Bàn. Ngũ căn nầy tức là từng phần của Đạo. Cho nên rõ biết sự chia ra ấy là Đạo. Hai là vì kinh nói; ba là thân nhiếp Đạo. Ba thân có chia ra và ba sự khác biệt do Diệt.

Kinh nói: Chánh kiến hạnh ở nơi Diệt, lìa đạo thì chẳng diệt. Bốn là do sự trừ ra. Kinh nói: Nếu tu tập chánh kiến có thể trừ được dục. Nếu lìa nơi đạo tức chẳng thể trừ. Năm là do sự xa lìa. Kinh nói: Chánh kiến là những phần có thể xa lìa điều nầy. Nếu chẳng phải Đạo thì chẳng thể xa lìa. Sáu là do thanh tịnh đạo. Kinh nói: Bát Nhã là Đạo. Vì được thanh tịnh. Bát Nhã tức là chánh kiến; cho nên rõ từng phần tức là Đạo.

Ngươi hỏi: Đạo nghĩa là gì?

Đáp. Đạo nghĩa là sự tìm cầu. Vì sao vậy? Do đây mà có thể được nghĩa chơn thật. Lại cũng có nghĩa là hành. Lại có nghĩa là hành vi của Đạo. Như người đời nói: Con đường nầy đi hướng đến nước Xá Vệ và Đạo cũng như thế, quy hướng về Niết Bàn. Lại là ý nghĩa chân thật, phương tiện dẫn đến con đường sống. Như những nghĩa nầy, tất cả đều là Đạo.

Ngươi hỏi: Vì sao mà kinh nầy nói đủ các phần còn kinh khác thì không đủ?

Đáp: Pháp Tạng luận nói: Giả chia ra có 2 loại. Một là tự tại giả danh và 2 là y tha giả danh. Nói tự thể để gọi các phần. Đây gọi là tự tại giả danh, như chánh kiến và đạo phần. Y tha giả nghĩa là như nhớ nghĩ về các pháp môn và các phần trợ đạo khác. Vì sao vậy? Đạo phẩm nầy tu không có tán  tu. Lại vì hơn hẳn sự bức bách vậy. Niệm xứ và giữ tùy theo một pháp hơn những loại khác cùng một tên, giống như vị mặn chua, ngoài ra còn có những vị khác theo đó hơn lên. Lại như các giới tùy theo một chỗ hơn vậy. Ngoài ra tùy theo đó mà được gọi tên. Lại nữa đối với dục giới, trong ấy nói Đạo đầy đủ; sắc, vô sắc giới hoặc 4 hoặc 5 vì diệt tự thể mà có 4 sự đối trị vậy. Ngoài ra hoặc tăng hoặc giảm, tùy theo giới địa. Do ở nghĩa nầy mà đầy đủ hay không đầy đủ.

Ngươi hỏi: Nếu Đạo là hữu vi thì vì sao Phật nói là đạo cổ ngày xưa? Nếu là vô vi thì tại sao lại nói là pháp hữu vi?

Đáp: Do chỗ cổ xưa nầy nên nói Đạo là hữu vi. Vì sao vậy? Hữu vi là pháp có cái mới trong ấy, giống như lúa gạo vậy. Nếu là vô vi  thì không thể nói điều nầy. Giống như hư không và lấy làm Niết Bàn; như nói thân nầy là chỗ chứa chất nghiệp mà chẳng phải là vô vi. Như nói hạt giống Thánh và pháp của các Sư. Cho nên do đây mà nói Đạo ấy chẳng phải vô vi. Bây giờ luận về chỗ cho rõ đạo thì là hữu vi. Sao lại rõ được điều này? Do rộng phân biệt vậy, như chân lý tương ưng kinh và đáp lại Đạt Ma Trần Na vậy, do tướng hữu vi như kinh nói:

Nương vào chánh tư duy, nếu đạo chưa sanh thì sẽ sanh, đã sanh rồi liền tăng trưởng. Có sự tăng trưởng tức biết rằng hữu vi. Do xả trừ như kinh nói: Pháp tương ưng xả, hà huống phi pháp. Diệt là vô vi thì chẳng thể xả. Duyên nội khởi lên, như kinh nói: Đạo là nương vào bên trong để khởi, mà việc trở về nương tựa này khó được. Nếu là vô vi thì chẳng có nơi nương tựa để khởi lên bên trong. Do nghiệp như trong kinh nói: Đạo chẳng phải trắng, chẳng phải đen mà có thể diệt được nghiệp, nếu nghiêp này là chẳng phải pháp vô vi. Do sự có ăn như trong kinh nói: Thất Bồ đề phần chính là sự ăn uống và là nguyên nhân. Nếu là vô vi thì chẳng thuận theo nguyên nhân để ăn, do nghĩa này mà Đạo là hữu vi.

Ngươi hỏi: Nếu đạo là mỗi mỗi người tu hành thì người khác cũng sẽ được, giống như nương tựa vào vậy. Nếu chẳng phải vậy thì chẳng thể nói, do điều này chỉ là một đạo?

Đáp: Nhiều đạo (nhiều con đường) chẳng phải một, vì sao vậy ? Vì quả chẳng đồng, do đạo khác nhau nên quả có sai khác, cũng như đường khác cho nên phải đi khác. Lại nữa thể khác cho nên đạo khác, nghĩa là thấy đạo tu đạo lại cũng như bốn khổ, vui, chậm, nhanh vậy. Lại có gốc gác khác cho nên đạo khác. Nghĩa là 9 loại học, 9 loại vô học, Bích Chi Phật, Phật do căn tánh sai biệt, nương vào chủng tánh cho nên nói do một đạo, như đời nói một hạt gạo. Như trong kinh nói: Ba đời chư Phật hoặc quán, hoặc nói cũng là Tứ Đế này, mà khổ và ba Đế khác thể thật chẳng thường. Do một đạo nói lại cũng như thế.

Ngươi hỏi: Nếu các bậc Thánh nhân cùng được một đạo, thì vì sao trí huệ lại chẳng giống nhau. Nếu trí huệ không đồng thì tại sao sự giải thoát lại bình đẳng?

Đáp: Quán tất cả, tất cả loại cảnh giới được thành chánh giác. Do đây mà Phật đạo chẳng đồng hai thừa, như kinh nói nếu người biết rằng tất cả, tất cả loại cảnh giới,thì sẽ biết vị này là Thế Tôn, thông đạt bình đẳng đạo vậy. Chỉ diệt cái gốc của hoặc, tam thừa nhân. Như kinh nói: Giải thoát ngũ ấm và giải thoát không khác, như nhiều loại lửa, mỗi loại đều thiêu đốt rơm rạ thành tro chẳng khác. Do lửa chẳng đồng với ánh sáng, tiếp với ánh sáng và sức mạnh có sai biệt , như vậy trí huệ cũng sai biệt (khác nhau). Còn chỗ diệt hoặc, trừ giải thoát thì giống nhau. Phật có định trí uy đức và ân đức và do đạo sai biệt, khó thể suy đếm như kinh Hỏa luân nói vậy.

Ngươi hỏi: Nếu đạo là phi tâm pháp, vô tình và các vật lại cũng có đạo. Nếu tâm phi tâm để tu pháp thì chẳng đầy đủ ý nghĩa. Nếu tâm pháp này là các pháp sai trái thì vì sao một tâm lại có?

Đáp: Tên ấy chính là do sanh tử chia ra theo pháp thế gian. Còn đạo là pháp xuất thế gian, cả hai chẳng giống nhau, như pháp và phi pháp vậy. Nói đạo là phi tâm pháp, nương vào cảnh gọi là tâm, còn có thể được gọi là đạo. Cả hai nếu là một thể tức tự tánh tự biết. Vì sai với điều này vậy, nói đạo là phi tâm pháp, giống như thọ mạng và vô tưởng, vô tâm cùng định. Tuy phi tâm pháp mà chẳng vô đạo lại cũng như thế, tuy có tâm không tâm, xứ vị mà đạt rồi, thì tất cả những sự có ấy cũng là không, không tu đầy đủ.

Lại nữa tu có 3 loại, nghĩa là thủ tập nghiêm (giữ gìn, thực tập, nghiên cứu), cho nên không chẳng đầy đủ. Đạo lại nói có thể là tâm pháp, vì sao vậy? Cùng với chánh tư duy đồng sanh diệt, giống như một tâm. Như kinh nói: lấy tâm làm tăng thượng, cho nên được một tâm. Đây gọi là tâm định, tức là đạo phần cùng một ra khỏi, cùng thành một việc, cho nên cùng một tên mà chẳng sai khác.

Ngươi hỏi: Nếu đạo đến để trừ hoặc, tức là pháp sai với một tâm có. Nếu chẳng đến thì ở nơi tiếp tục kia vì sao lại chẳng trừ đi?

Đáp: Đạo chẳng đến hoặc mà có thể trừ hoặc (ngờ mê). Như đạo chẳng đến phá giới mà có thể trừ sự tự phá giới mà chẳng trừ kẻ khác phá giới. Trừ sự nghi ngờ cũng như thế. Đối với chính mình và kẻ khác liên tục; tuy đủ nhưng không đến. Hằng trừ sự nghi ngờ của riêng mình, chứ chẳng thể trừ cái mê của người khác. Phân biệt bộ nói: Chẳng đến chẳng không đến, lúc ấy là trừ hoặc. Lấy chẳng sanh làm khổ diệt, giống như trị bệnh. Nếu thọ bệnh rồi mới đến y sư thì chẳng thể trị được. Vì sao vậy? Vì chẳng thể chuyển cái khổ thành vui được, khổ thọ chưa đến mà y sư chẳng thể chữa được nữa. Vì sao vậy? vì vô sở hữu vậy, nếu như vậy thì chữa trị chỗ nào? thường tạo ra duyên sai trái làm cho cái khổ chưa sanh vĩnh viễn chẳng thể khởi lên, tức có nhiều tác ý. Nếu lần lượt khởi lên tức thường có một sự phân chia?

Đáp: Do thành một việc cho nên được đầy đủ khởi lên, phi duyên biệt cảnh vậy. Chẳng có nhiều ý, tướng tạp đều khởi lên. Do công năng cho nên có thể thấy sự sai biệt, giống như dục.

Ngươi hỏi: Vì sao chỉ lập 8 phần mà chẳng tăng chẳng giảm?

Đáp: Hỏi như thế thì chẳng cùng, cho nên sự đáp lại nên để yên , mà để đối trị với 8 thứ tà cho nên nói làm 8 phần là vậy. Lại nữa để nhiếp ba thân, phải có đối trị của ba thích (sự đâm chết) ba kết, ba hỏa và ba độc, cho nên nói là tám phần. Trong tạng luận cũng nói: Có thể thành 8 công đức của tâm, cho nên nói là 8 phần. Do được chánh giác cho nên tâm thanh tịnh, do được chánh giác cho nên tâm được thanh khiết, do được chánh giác cho nên tâm được thanh thản, do đựợc chánh giác cho nên tâm không hối quá, do được chánh mệnh cho nên tâm thật nhu nhuyến, do được chánh tinh tấn cho nên tâm thường tùy theo sự dạy dỗ, do được chánh mệnh cho nên tâm được an trụ, do được chánh định cho nên tâm chẳng động.

Ngươi hỏi: Vì sao chẳng thủ dục và các pháp khác?

Đáp: Hay thủ các thắng pháp, hoặc thủ để dùng thật mạnh, hoặc thủ có thể kèm thêm sự suy nghiệm hoặc nhiếp đầy đủ hết cả chánh tín, chánh nghiệp và chánh mệnh. Đây là sự phân giải niềm tin của Tu Đà Hoàn làm ba nhiếp vậy. Tu Đà Hoàn đầy đủ bốn trí tín mà dục tức là niềm tin.

Lại nữa niềm tin này do chánh kiến nhiếp, người chứng đắc Tu Đà Hoàn được trí tín niềm vui, lời khen xả bỏ và nhiếp vào chánh định. Cho nên trong 8 phần nhiếp thì các phần đều hết.

Ngươi hỏi: Vì sao một pháp mà nói rằng tạo thành ba loại? Hoặc nói trong đạo có thể diệt phước ác hạnh cho đến hết các khổ?

Đáp: Do 3 việc vậy, giống như mặt trời có thể chiếu phá chỗ tối tăm là nhờ ánh sáng, có thể phân biệt ngày đêm, nên gọi là mặt trời, có thể phân biệt từng sát na cho nên nói là thời gian. Thánh đạo căn bản này cũng như thế, có thể lìa nhị biên cho nên gọi là trung đạo, có thể trừ đen trắng hai nghiệp, nên gọi là diệt phước ác. Bạt trừ thân tâm khổ cho nên nói là làm cho hết khổ, hoặc trừ ba đường dữ trong đời cho nên nói là hành cho đến hết khổ.

Ngươi hỏi: Vì sao lại nói chánh kiến đầu tiên? Đáp: Đầu ở đầu cũng ví như vị vua, như trong kinh nói: Tất cả pháp hữu vi thì Bát Nhã là tối thắng.

Lại nữa có thể tạo nên công đức lớn, từ tuệ ấy cái đức hơn tất cả, như Xá Lợi Phất do chánh giác mà chẳng quán đến những mặt khác. Như trưởng giả Thủ La do chánh kiến mà tâm này khó động, như vua A Du Ca do chánh kiến này mà ông ta chẳng thể dẫn đến chỗ sai trái, như trưởng giả Chất Đa La có thể đánh bạt những khổ tai ngang trái, như trong kinh nói: Do ánh sáng khởi lên nên vô minh lại diệt tận, cho nên chánh kiến nói đầu tiên.

Ngươi hỏi: Vì sao nói hành trước?

Đáp: Do được chánh kiến vậy, được ra khỏi đời, được chẳng sanh tử, được chẳng cùng chung. Hoặc nói do lực chánh kiến mà được giải thoát vậy. Như trong kinh nói: Tỳ Kheo là những vị chánh kiến, thân, khẩu, ý nghiệp đều dễ thương, đẹp đẽ xinh tươi, như kinh nói rộng hơn là chánh kiến phải làm trước.

Ngươi hỏi: Chánh kiến có nghĩa là gì?

Đáp: nghĩa là chẳng điên đảo, chứng thấy qua cái thấy biết, tự nương tựa nơi sự chân thật và không điên đảo và có sự chứng biết chiếu soi.

Lại nữa chân như cũng có tên là chánh quán và cũng có tên là thấy, như thật quán Thánh đế, thì gọi là chánh kiến. Lại nữa chánh ở đây có nghĩa là có thể tán thán, kiến có nghĩa là ánh sáng chiếu soi. Có thể tán thán ánh sáng ấy, nên gọi là chánh kiến, như kinh nói: Trong ánh sáng thì ánh sáng này là lớn hơn cả, nên gọi là chánh kiến.

Lại hơn cả việc làm của đức cảnh trí cho nên nói là chánh kiến, vì sao vậy? Đây nghĩa là quả vị của chánh định, nên gọi là chánh kiến, như nói trong kinh Chủng Tử dụ. Lại nói đầy đủ lý luận, do cảnh chánh, cho nên nói là trí chánh, chẳng phải do trí chánh mà nói cảnh chánh. Tất cả hữu vi có tướng lưu chảy tương ưng nên đều phải khổ. Quyết định trí về việc này gọi là chánh kiến, như Phật đã vì Đại Ca Chiên Diên nói.

Trong tạng luận cũng nói: Đối trị với vô trí, trí nghi, trí điên đảo, có thể làm cho qua khổ ác, chân thật trí này gọi là chánh kiến.

Ngươi hỏi:Kiến tức là chẳng thuần về việc thấy sao?

Đáp: Các duyên tụ tập thành tựu cho sự thấy này, chẳng phân biệt một vật vì đó mà thấy, giống như hoa quả, như kệ nói sau đây:

Có thấy chẳng thể thấy
Pháp gì làm cho thấy
Từ duyên hòa hợp sanh
Thấy sắc, nói tức hư
Pháp này, tập thời kiến
Hợp tan chẳng thể thấy
Đều do nhân duyên tạo
Như người khóc, chẳng đắm

Pháp từ duyên sanh chẳng thể nói thuộc một, như Phật vì phá thuyết của Cầu Na rằng: Ta chẳng nói thức mà cũng có thể là thức, vì sao vậy? Đây chính là một phần giả danh tạo ra vậy.

Ngươi hỏi: Chánh kiến và Thập thiện chánh kiến cả hai có khác nhau không?

Đáp: Tục trí ở nơi Thập thiện, còn chơn trí ở tại bát chánh, có thể cảm quả khổ ở đời sau. Quán nghiệp làm cảnh, như đây, chánh kiến ở pháp thập thiện có thể diệt tam hữu, Niết Bàn là quả, duyên theo chân lý làm cảnh, như đây chánh kiến ở tại Bát Chánh Đạo.

Ngươi hỏi: Nếu do chánh kiến một lúc thấy Đế (chơn lý) thì nên có nhiều cảnh, nếu chẳng phải vậy thì chẳng phải niệm niệm diệt chăng?

Đáp: Một lúc có thể thành 4 việc, cho nên nói là một lúc, chẳng phải cảnh khác vậy, lý thuyết và luận nói đầy đủ. Kẻ tu quán hạnh, dùng Thánh trí huệ để thông đạt, nên những lỗ chân lông cũng có thể đoạn trừ được những hoặc.

Lại nữa những kinh khác còn nói: Nếu quán thông tam thọ thì các việc sẽ rõ ràng, chẳng thể tạo tác. Do thông hiểu pháp tướng của chân lý là tướng vô ngã, cho nên một lúc thông quán Tứ đế, như thế lần lượt quán về các duyên vô thường, khổ, vô ngã một lúc đều thông qua Khổ đế.

Ngươi hỏi: Nếu chánh kiến rồi thì hà tất phải dùng đến Đế (chân lý)?

Đáp: Tất cả các phần đều có thể diệt và tự đối trị với nhau, mỗi mỗi đều có công dụng như vứt bỏ xuống đất. Lại nữa tất cả các phần đối với mỗi việc đều có những phần đặc biệt tạo thành một việc, giống như những phần của xe và toàn thể phần của xe, mỗi cái đều có cái riêng và khi cộng chung lại thì có khả năng vận tải (chuyên chở). Đạo phần và đạo cũng như thế thôi.

Ngươi hỏi: Chánh giác nghĩa là gì?

Đáp: Chưa hề có tính toán để sanh ra như hôm nay và đây là chánh giác.

Lại nữa sự bình đẳng ấy là do các tưởng hành duyên khởi vậy, lại do thể tướng cảnh giới cộng chung lại phù hợp cho nên gọi là chánh giác. Lại như thấy tùy theo sự chọn lựa chẳng xả bỏ, tên là chánh giác, giống như trâu ăn vậy.

Ngươi hỏi: Vì sao ba pháp thành một được?

Đáp: Đồng một tướng cho nên như những đạo phần khác, lại nữa lành nghe việc bình đẳng cho nên dụ như định phần. Lại do duyên vào Niết Bàn làm cảnh như vô tướng định cho nên ba thành một.

Ngươi hỏi: Nếu nương vào hai định để chứng được lậu tận, thì chánh giác chẳng đủ đạo phần có quan hệ chăng và nghĩa này nên cứu xét ra sao?

Đáp: Nếu nương vào hai định, tu Bát Chánh Đạo, thì thường không có sơ định giác quán phần, chẳng phải chẳng có đạo phần ở trong giác, giống như sơ định và Tu Ma Địa chẳng có giác quán. Lại do việc thành nên nói có chánh giác, chẳng phải do thể tại vậy, như có giác ngũ căn, lại hay đánh bạt sự đối trị cho nên nói là có chánh giác, giống như chánh tín.

Ngươi hỏi: Chánh tín là nghĩa gì?

Đáp: Vĩnh viễn thề nguyện chẳng phá lời nói của mình, gọi là chánh ngôn, như truyện của Cù Sư La nói, lại nữa lời nói thanh tịnh ấy là do trừ nguyện thủ và sự dơ bẩn mất đi vậy. Lại pháp ấy tự được vĩnh viễn là việc lành, cho nên nói là lời nói chân chánh. Chánh ngôn giới có hai loại, một là chẳng làm cho biết như trong kinh nói: Người này lìa vọng ngữ, hai là làm cho biết như kinh nói, người này lúc nói là nói lời thật.

Ngươi hỏi: Nếu có nói lời tu đạo vô định thì vì sao như Phật nói định là dùng âm thanh để trừ khử đi, nếu không thì chẳng thành đạo phần?

Đáp: Đạo phần cho nên chẳng trừ khử, giống như chánh giác hỷ giác phần vậy, lại nữa nghe âm thanh thử thách làm chẳng định như thấy nữ nhân, kinh nói: những lần thấy người nữ làm cho việc tu phạm hạnh bị thử thách. Tuy nhiên chẳng phải A La Hán bị thử thách mà là diệt trừ điều thử thách ấy đi vậy. Lại nữa kinh nói: Như voi lớn đi đứng đều chửng chạc, kẻ tu hành quán chiếu chánh tư duy, nói pháp tâm tức có định, chẳng phải do từ lời nói mà nói là không định. Ngoài ra cũng có thuyết nói: Hay là bốn loại nói tức là lời nói chân chánh, như người đời nói: Hay lìa khỏi như việc làm chơn chánh. Hoặc nói con ngựa này chạy nhanh cũng giống như người hiền nói năng vậy.

Ngươi hỏi: Chánh nghiệp nghĩa là gì? Đáp: Kinh nói lìa nghiệp ác nơi thân gọi là chánh nghiệp, kinh lại nói: Nghiệp của thân này chẳng ngoi lên được, chẳng chảy suốt, chẳng loan lỗ, tự tại chẳng chấp giữ có thể sanh tịch tịnh. Đây gọi là chánh nghiệp. Lại nữa do quán sự sai trái và xa lìa sự sát sanh, chẳng làm những việc không đúng và dừng lại những việc vui. Đây có tên là chánh nghiệp.

Ngươi hỏi: Tất cả phần đều là chánh nghiệp, vì sao lại nói một tên là chánh nghiệp?

Đáp: Nếu lìa tên này tên kia thì chẳng hiển thị được, như pháp giới và pháp nhập, nếu không có nhãn thức thì sẽ chẳng duyên vào đựợc, chẳng làm cho kia rõ, tất cả các nghiệp là nơi nương tựa vậy, giống như nghiệp là chỗ căn bản.

Ngươi hỏi: Nếu nói việc làm là chánh nghiệp, thì sự lìa ấy tức chẳng làm, vì sao có thể thành nghiệp được?

Đáp: Chẳng làm cho nên khởi ác nghiệp và tạo ra việc giữ gìn cái thiện. Nên biết rằng đây cũng là nghiệp. Như kinh nói: Ta nói làm đồng thời ta nói chẳng làm. Lại nữa có thể trừ được đen trắng hai nghiệp, cho nên nói là chẳng làm. Việc hay làm để đối trị với nghiệp cho nên nói là làm. Lại nữa chánh nghiệp cũng có tên gọi khác là chánh nghiệp trừ.

Do tên gọi này cho nên nghĩa là làm cũng như không làm và tên này được thành tựu. Cũng như do mắt nói là thấy và do mắt lại cũng nói là chẳng thấy.

Ngươi hỏi: Nếu chẳng làm thì vì sao hết có nghiệp này?

Đáp: Có nhiễm nhơn duyên nghiệp này có thể rõ biết, do kinh nói: Sắc có ba loại: một là có thấy có nghi, hai là chẳng thấy có nghi và ba là không thấy không nghi. Lại nói có vô lưu sắc và cũng nói rằng do 7 phước đức mà rõ biết vậy. Lại nói do chỉ bày cho người khác lại có Thập nghiệp đạo.

Lại nói Tỳ Kheo có pháp, chẳng phải 11 nhập nhiếp, nghĩa là chẳng thấy chẳng nghi, chẳng nói vô sắc. Lại nữa nếu vô thử nghiệp thì 8 phần Thánh đạo tức chẳng đầy đủ. Vì sao vậy? Lúc chánh nghiệp quán thì chẳng làm ba nghiệp vậy. Nói khác đây là nghĩa chẳng đúng, vì sao vậy? Ở trong phương tiện đã tu tam nghiệp, như kinh nói: Người này thấy như thế, rõ biết như thế. Đây là chánh kiến, được tu đầy đủ và chánh giác tinh tấn, chánh niệm chánh định. Đầu tiên là chánh ngôn, chánh nghiệp, chánh mạng cho thanh tịnh rồi và vì   nương vào thế gian lìa dục, con đường giới hạnh cho nên nói ra điều này.

Lại nữa, như nói Ba La Đề Mộc Xoa cũng chẳng có, vì sao thế? Vì lúc thọ thì có, nhưng sau đó vì tâm dị biệt và không nên gọi là Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, lại nữa kinh nói: Nghiệp này gọi là đê dương (bờ đê), có thể lần lượt phá các giới. Nếu không chẳng thể dừng việc ác. Trong kinh bộ thường nói: Điều chướng này đặc biệt nhiều, nhưng nghĩa thì thật là ít, chẳng phải như điều này, vì sao vậy? Ngươi nói: do nói ba sắc cho nên rõ biết có làm không làm, nghĩa này thật chẳng đúng, các thầy quán xem việc làm như Mục Liên A Ni Lầu

Đà nói: Hữu định cảnh sắc là do định lực mà được. Sắc này chẳng phải nhãn căn, cảnh giới, nên nói là không thấy, chẳng có nơi chướng ngại, cho nên nói là vô ngại. Nếu ngươi nói: giống như vậy thì vì sao gọi là sắc? Điều này và vô tác giống nhau vậy, lại còn khó rõ về nghĩa của ngươi, ngươi nói: Do nói vô lưu sắc nên rõ biết là có hay không làm, nghĩa này lại chẳng đúng, sắc này lại do định lực sanh, do định vô lưu cho nên sắc cũng vô lưu .

Các luận sư khác giải thích rằng: A La Hán sắc cũng là vô lưu, chẳng có lưu để nương vào. Lại nói: nghĩa này không đúng, như kinh nói: Thế nào là pháp hữu lưu? Nghĩa là tất cả mắt, tất cả sắc v.v. Sắc này không lưu đối trị cho nên nói là hữu lưu. Nếu như vậy thì sắc này hoặc là hữu lưu hoặc là không lưu?

Hỏi: Nếu như vậy thì có cái gì? Tiếp theo, tương tục phức tạp chăng?

Đáp rằng:như tướng hữu lưu và tướng vô lưu chẳng như có tướng phức tạp, lại nếu như sắc nhập vào một huớng hữu lưu vì sao trong kinh biến đổi giản đơn và nói là không thông qua việc nói, kinh nói rằng: Hữu lưu sắc nghĩa là có tâm thủ kiên cố che đậy và làm chỗ nương vào, cho nên gọi là Hữu lưu sắc.

Ngươi hỏi: Do 7 phước đức lợi mà biết được hữu, vô tác, nghĩa này chẳng đúng, các sư thuộc về kinh bộ nói: Như ngươi thọ dụng vật của thí chủ cho, do sự thọ nhận này mà công đức được lợi ích. Tuy rằng thí chủ có tâm khác, nhưng do tác ý khi cúng thí trước rồi huân tu tương tục lần lượt chuyển đổi khác hơn. Do sự khác hơn này mà có thể sanh ra trong vị lai tùy theo phước báu ít nhiều đó, nương vào sự tương tục ấy mà nói thí chủ công đức sanh trưởng. Nếu ngươi nói: Do sự tương tục kia khác hơn và tùy theo chỗ dụng, thì ở nơi tâm khác kia chính là sự tương tục chẳng đổi tốt hơn, vì sao lại thành tựu? Nghĩa này không đúng, vì sao vậy? Cùng với vô tác cho nên ngươi chấp vô tác và do sự tương tục kia có hơn thua và tùy theo chỗ dùng, nhân đó mà có sự tương tục kia vì sao lại được thành tựu?

Hỏi rằng: Các loại phước đức chẳng tăng trưởng và cũng không bảo rằng vì sao lại hay sanh?

Đáp rằng: Do nhiều lần huân tập, duyên vào giới định tác ý cho đến nơi mắt tăng trưởng tùy theo vậy.

Hỏi: Nếu như vậy thì theo kinh Úc Già Trưởng Giả nghĩa này như thế nào?

Đáp: Kinh nói: Nếu Tỳ Kheo trì giới hành thiện, thọ dụng đồ ăn thức uống, y phục của thí chủ rồi tu vô lượng tâm định và thân chứng được định này rồi vào trong rừng sâu để ở. Do sự thọ dụng này mà thí chủ được phước đức thiện lạc tăng trưởng vô lượng, nên tin rõ điều này. Trong đây có tác ý gì? Cho nên sự rõ biết tương tục chẳng đổi tốt hơn là chánh đạo lý vậy.

Ngươi hỏi: Như vô tác vô giáo (không làm, không dạy) cho người kia chỗ tác nghiệp nghiệp đạo thì tại sao lại được thành tựu?

Đáp: Các sư thuộc kinh bộ cũng lại nói điều này, do sự dạy bảo này cho nên kẻ kia hoặc bỏ hoặc thọ nhận sự sát hại và sự khổ, cho nên có thể chỉ cho kia những sự vi tế tương tục của việc lành dữ tăng trưởng, do sự chẳng đổi khá hơn này mà có thể sanh ra vào vị lai tùy theo phước báu nhiều hay ít. Nếu người tự tạo tác tùy theo việc mà thành thì sự tương tục chẳng đổi khá hơn. Đây gọi là nghiệp đạo, nghĩa này nên biết. Quả ấy chính là nguyên nhân của sự giả vậy, đây là quả của thân khẩu và giả thân khẩu lại nghĩa cũng như thế. Như ý, thân, khẩu chẳng dạy vậy.

Có đại đức nói: Nương vào thủ ấm của chúng sanh, do 3 thời tạo ý bị phạm tội sát sanh, nghĩa là sẽ vì ta mà giết, giết đúng và giết rồi. Sự giải thích này lại chẳng sát, tuy có 3 ý nghiệp đạo khi đến tất thành tựu, vì sao vậy? Vì lẽ chưa đoạn hẳn về mệnh căn gốc vậy, người khởi lên 3 ý chẳng có tội nghịch, cho nên nếu ngươi tự hại mệnh của kẻ kia, do 3 ý này mà có thể trở thành tội.

Lại hỏi: Nếu chẳng thể thấy, thì vì sao lại giận dữ phỉ báng, chẳng chỉ để tin rằng sự thọ dụng tương tục chẳng khác hơn được?

Đáp: Không phải sự giận dữ phỉ báng này, hằng do tâm vận chuyển và thân nghiệp đạo, thành sự việc. Nghĩa là hành giả có pháp khác biệt với tâm, chỗ ta chẳng vui, do tâm gia hạnh cho nên sự việc này được thành tựu. Việc này thành rồi cho nên tương tục chuyển tiếp tốt hơn, nghĩa này có thể vui, vì sao vậy? Do tâm tương tục và quả sẽ được thành tựu. Ngươi nói: Pháp vào nơi Phật thì chẳng nói vô sắc, rõ biết có không về lời dạy ấy, nghiã này đã đáp rồi. Như định cảnh giới sắc. Ngươi nói: Nếu không có nghiệp này thì 8 con đường chẳng thành, cho nên rõ biết hữu vô, lời dạy vậy. Nghĩa này nên rõ biết, bạn bè của người cũng nên vì đó mà nói, vào chân lý, quán người nói lời chân chánh, nghiệp chân chánh và mạng chân chánh. Vì sao lại được có? Vì người này ở chỗ quán lấy hữu nói là tác nghiệp, cầu đủ bốn việc, cho nên có ba điều này, vì sẽ chẳng giống. Nếu chẳng thế thì ai là kẻ đang lúc quán đó, được ba loại này mà không có sự chỉ bảo, do đây mà được điều này. Nếu xuất quán sẽ được lời nói chẳng tà và thường hay nói lời chân chánh.

Luận chủ đáp rằng trong đây cái gì là chẳng chấp như thế, nếu trong khi quán mà lìa sự chẳng dạy bảo? Sở dĩ được ý tự tại, được nương vào chỗ tự tại như thế này là do được điều này vậy. Sau đó có thể lúc xuất quán chẳng ở nơi lời nói sai trái mà thường ở nơi lời nói đúng. Cho nên nguyên nhân trong đây giả được tên của quả, do vậy mà nói tương tục chuyển đổi tốt hơn, nên gọi là chánh ngôn: Vì ở nghĩa này nên đạo chia ra làm 8 phần.

Theo Thượng Tọa Bộ nói, thường hay chẳng làm ác thì gọi là Tam phân, vì sao vậy? Do lực của Thánh đạo và pháp ấy quyết định chẳng làm, nương vào đường vô lưu cho nên gọi là vô lưu. Chẳng phải kể tất cả nơi bị bởi số pháp, tất cả đều là sự chân thật có được như 8 pháp xuất thế. Nghĩa là được chẳng được, gọi là không danh dự, hủy báng sự vui khổ. Trong đây chẳng được, liền không có pháp sai biệt.

Các sư khác nói, giới Ba La Đề Mộc Xoa là ba đạo phần, nương vào phương pháp trước rồi tác ngôn, thọ ý. Do sự tác ý này mà có thể phòng thân khẩu, ngăn ngừa chỗ tác ý, gọi là giới Ba La Đề Mộc Xoa. Nếu ngươi nói người ở  tên khác, tức chẳng thủ hộ (giữ gìn), nghĩa này không đúng, do nhiều lần huân tập vậy, phạm giới duyên đến sự tác ý tức là đến. Nói sự tác ý này nghĩa là việc đê đường (như cái đê), vì sao vậy? Do nhớ nghĩ lại lời thệ nguyện trước, lành chẳng tạo ác, vì có tác dụng của việc thọ giới. Lại nữa nếu như người lập luận rằng có khác nhau chỗ không chỉ bày nên có thể phá giới, tức nghĩa là không có sự sơ ý để phạm giới, chẳng cần nói rộng. Nếu đúng hay không quyết định nên rõ ràng.

Trong Bát Chánh Đạo giới có ba phần, vì đạo làm cơ bản, giống như đất lấy đó làm trước, giống như nhà vua có thể qua khỏi sự sống chết nhờ thuốc hay, giống như sự đầy đủ có thể thọ nhận hương thơm như lá cây trên cõi trời. Trong sạch truyền nhau có thể đến tận Niết Bàn, như 7 loại xe thí dụ. Các vị luận sư khác nói, dẫn từ trong kinh làm chứng. Đây chính là đạo quả vậy, đối với sự cung kính lợi dưỡng nhân duyên thì không có sự thủ hộ đối trị, rời khỏi chỗ hiểu biết, có thể rõ được giới này. Các luận sư khác cũng nói:

Vì sao không chỉ bảo lại là sắc mà chẳng phải là thân thọ?

Đáp rằng: Sự không chỉ bảo thuộc về nghiệp của thân và khẩu, vì các sắc vừa nhiếp phục, thân thọ kia cùng với tâm tương ưng, nên gọi là sở nhiếp. Lại nữa không chỉ bảo là thân nghiệp, thuộc về thân, thọ ấy là tâm pháp thuộc về tâm. Lại nữa vô giáo (không chỉ dạy) lại là giới, cũng là sắc và sắc ấm sở nhiếp, thân thọ tâm pháp và thọ ấm sở nhiếp, khiến cho luận ấy biện giải pháp này là việc làm thuộc về tâm nghiệp. Do thân khẩu thành tựu, giả được để gọi tên, pháp này cùng với thọ có gì khác?

Đáp: Thọ ấm sở nhiếp pháp này, thông qua các ấm nhiếp, vì sao vậy? Vì nương vào chỗ tương tục vậy.

Ngươi hỏi: Lìa sự đả phá vì sao chẳng nói đạo phần?

Đáp: Hữu học Thánh nhân vì chưa hoàn toàn tịch tĩnh vậy, giống như chế tội (giảm tội) dùng sự bất biến để ngăn che những việc không phạm hạnh, lấy sự bất định vậy, giống như phần bố thí. Vì là tư lương giống như sự thí kia, làm cho luận này rộng hiểu nên chia ra rõ ràng 8 giới. Trong đây nói về 8 Thánh đạo phần.

Ngươi hỏi: Chánh nghiệp, chánh mệnh và Thập thiện chánh nghiệp, chánh mệnh có sai khác gì chăng?

Đáp: Có thể loại trừ mà cũng chẳng có thể loại trừ, từ sự khởi dậy của chánh kiến xuất thế thì vô lưu, lấy cam lồ làm quả vị. Từ sự khởi dậy chánh kiến thế gian thì có lưu, thủ ấm ấy là quả, hay sanh ra phước đức, nên gọi đây là nghiệp đạo. Có thể lìa nghiệp đạo, cho nên gọi đây là đạo phần.

Ngươi hỏi: Chánh mệnh nghĩa là gì?

Đáp: Chánh mệnh có hai loại, một là người bạch y (cư sĩ) không buôn bán 5 loại, hai là kẻ xuất gia lìa 5 loại tà mạng. Lại nữa còn nương vào lý để cầu cho đủ sự thọ dụng về y thực và bốn duyên và đồng thời biết đủ, không làm mất hạt giống Thánh và luôn nhiếp phục. Lại giữ gìn thân khẩu, đồng thời do nguyên nhân trí huệ về trước mà xa rời thân tâm tà kiến, do đây gọi là chánh mệnh.

Ngươi hỏi: Chánh mệnh nếu nhiếp được thân, khẩu nghiệp thì tại sao lại lập riêng ra?

Đáp: Thông qua hai việc nhiếp, do nghĩa này mà khác, biệt lập ấy nên rõ, giống như các ấm thông qua, đấy là hành nhiếp. Do nghĩa sai biệt cho nên lập riêng 4 ấm. Lại nữa thể lại có hai loại, giống như quán về thân, kinh nói: Đối với thân thì quán thân trụ, lại nữa chánh mệnh khác với hai phần trước, giống như số sai.

Ngươi hỏi: Tinh tấn nghĩa là gì?

Đáp: Hành nơi xứ xứ, tùy theo đất đai mà có sai biệt, vì được nhiều pháp lành, khiến cho thân tâm khởi lên việc chẳng xả bỏ đồ mang theo. Lại vì pháp diệt ác để chứng các pháp lành nên thường phải siêng năng. Đây có tên là tinh tấn. Lại nữa việc tu hành đối với nơi chốn chẳng thay đổi, thân tâm luôn cố gắng. Đây gọi là tinh tấn.

Ngươi hỏi: Tướng gì? Dụng gì? Duyên gì? Nghĩa gì?

Đáp: Sự siêng năng khởi lên của thân tâm ấy là tướng, chẳng bị sa đọa ấy là dụng, khởi lên nhiều loại tinh tấn ấy là duyên. Trong tạng luận nói rằng: Tinh tấn lấy sự dõng mãnh làm tướng, lấy sự bất nhiễm làm dụng, Tứ chánh cần làm duyên, Thắng lợi hạnh làm nghĩa. Nếu kẻ giải đãi thì hành vô thắng lợi hành.

Lại nữa là một lực thù thắng, nếu người có tinh tấn, đối với phiền não phải chiến đấu, ấy là lực thù thắng. Nếu là kẻ biếng nhác thì chẳng có việc này. Đồng thời việc làm này có thể diệt trừ phá bỏ, nên đây nghĩa là tinh tấn.

Ngươi hỏi: Nếu diệt ác là thiện rồi, tức không có hai sự tinh tấn, nếu chẳng thiện thì Diệt đế tức không phải việc sai chăng?

Đáp: Diệt ác tuy không phải là vật và thiện không phải là vậy, cho nên tinh tấn có hai. Lại nữa diệt ác có nghĩa là cái thiện chân thật, ngoài ra còn có hai thiện. Vì sao lại 4 thiện? Lìa sự phá giới sai trái tên là diệt ác. Giới hương phát khởi ấy là sanh việc lành giống như thật yên tịnh khác với sự sống trong đông lạnh.

Ngươi hỏi: Nếu một lòng tu chánh cần, tức đầy đủ, tức không cần đến Tứ chánh cần, nếu lần lượt tu rồi trợ đạo để tu không đủ sao?

Đáp: Một lần được tu Tứ chánh cần giống như một lòng thông quán Tứ đế, vì sao vậy? Do việc tu này vậy, việc ác chưa sanh đừng làm cho sanh, đã sanh ra rồi thì nên dừng lại. Pháp lành chưa sanh, thì làm cho sanh ra, đã sanh rồi thì trụ lại kiên cố. Đây chính là sự tinh tấn do thể lấy làm một, do dụng thì lại có bốn.

Lại nữa Phân biệt bộ nói: Đối với kẻ trì giới, quán hạnh, vì trừ định đối trị tu Tứ chánh cần. Khi việc ác sanh rồi có thể làm chướng ngại cho định, do tinh tấn mà diệt vậy. Việc phá giới chưa sanh ra thì đừng làm cho sanh, cái định chưa sanh nên làm cho sanh, khi đã sanh rồi được ở yên thanh tịnh, kiên cố. Đây là ý nghĩa vậy, tinh tấn tuy chỉ có một việc, nhưng dụng thì có đến bốn.

Lại nữa có thuyết cho rằng, Tứ chánh cần lần lượt khởi lên, giống như được định, vì sao vậy? Có chánh cần hay phá thượng tâm hoặc, ngoài ra cũng có chánh cần có thể đánh bạt cái hoặc buồn ngủ.

Lại cũng có chánh cần có thể sanh cái căn chưa phát sanh và cũng có chánh cần hay làm cho việc sanh rồi thật kiên cố. Cho nên tu đạo phẩm tức chẳng phải là tu siêng năng, nên có chánh cần vậy.

Ngươi hỏi: Kẻ nào được chánh niệm?

Đáp: Chẳng quên việc trước và rõ cảnh, đây gọi là chánh niệm, giống như tướng thủ thuần thục, như kinh nói: Tâm rõ biết, tâm trói buộc. Đây gọi là niệm.

Ngươi hỏi: Tướng gì? Dụng gì? Duyên gì? Nghĩa gì?

Đáp: Lấy cảnh giới nhớ nghĩ về sau làm tướng, tâm cảnh chẳng lìa làm dụng, sáu niệm lấy làm duyên, tự nhớ và làm cho nhớ lại nghĩa là niệm, giống như bồ đề tự giác làm cho giác (rõ biết), Theo tạng luận nói: Tâm trường tịnh làm tướng, chẳng quên mất, nếu sự thất hoại hiện ra, lại có thể giả cảnh giới và dùng trí để nương vào, cho nên nói là niệm. Lại nữa niệm có bốn loại, một là tùy chấp gọi là câu vị, hai là tùy theo chỗ chấp về đạo, ba là hay tùy theo nghĩa suy nghĩ, bốn là hay tùy theo sự thông đạt chỗ suy nghĩ, làm cho luận ấy chánh đáng rõ ràng làm bốn.

Ngươi hỏi: Các pháp hữu vi trong mỗi sát na không dừng thì làm sao giữ niệm lại cho được? Vì sao vậy? Cái thấy kia, sự nhớ nghĩ kia không phải là nghĩa này chăng?

Đáp: Nếu kẻ rõ biết cái niệm khác, tức không thành, như việc vua Trường Kiến nhớ lại, muốn rõ biết một niệm lại cũng chẳng thành và sau đó thì chẳng rõ biết. Ngược lại với ba nghĩa này, tức là niệm (nhớ nghĩ).

Lại giải thích thêm nếu chẳng tương quan, tức cái thấy của kẻ kia chẳng thể nhớ lại, như người này thấy mà người kia thì chẳng nhớ, nếu nhân duyên tương quan tức cái thấy kia và kẻ kia được nhớ. Cũng giống như Đồng tử thì mạnh, khi già lại yếu đuối, rõ biết điều này thì niệm ấy tùy đó mà sanh, cũng giống như Đồng tử chẳng tương quan vậy, giống lúa mì chẳng sanh mầm lúa mì, nếu nhân quả tương quan mà luôn có sự sai biệt, giống lúa này, hạt mầm này, cành lá này là những vật theo đó mà sanh. Nếu một niệm lại chẳng thành thì nhân quả không lập, như hạt giống thì thường có một mầm, nhưng chẳng sanh là do sự tương quan khác nhau chẳng phải một, nên niệm được thành.

Ngươi hỏi: Nếu tất cả các pháp đều là niệm xứ, thì niệm căn tức là niệm xứ, với nghĩa này chẳng tương ưng chăng?

Đáp: Làm cho luận này rõ ra, niệm tưởng tức là Tứ niệm xứ, hằng chuyển lấy cảnh giới phân biệt về căn vậy, giống như trí căn và trí lượng.

Lại nữa niệm xứ có ba loại, một là tự tánh niệm xứ, thường sanh ức niệm (nhớ nghĩ lại việc xưa) giống như vua, hai là tạp niệm xứ, lấy pháp hay trợ duyên làm niệm, như vua, đại thần, tả hữu. Lại cũng gọi là thuộc về vua. Ba là cảnh giới niệm xứ, do niệm duyên này khởi, lại cũng gọi là niệm, như chỗ ở của vua, cho nên nói niệm căn tức là niệm xứ, nghĩa chẳng khác nhau.

Ngươi hỏi: Nếu niệm riêng nó chẳng thể giữ lại một pháp, thì vì sao kinh nói: Có niệm nhứt thủ vậy?

Đáp: Niệm chính là sự thủ hộ (giữ gìn) Là đệ nhất tăng thượng duyên, cho nên nó nhất thủ, giống như không ai hơn vua vậy, như trong kinh nói: Tất cả các pháp niệm là tăng thượng duyên, vì giữ gìn vậy. Lại nữa một niệm có thể giữ gìn cho tất cả các việc làm, như kinh nói: Niệm này làm ở tất cả các nơi và tất cả các niệm đều có thể giữ gìn được sáu căn, giống như người gác cổng, lại niệm này có thể chép vào một tâm, giống như người lấy tay cầm giữ miệng âm dương của ống sáo. Lại có thể giữ một sự tương tục cho nên nói là nhất thủ, như giữ một con, lại sáu căn bị ràng buộc, đối với một niệm cột chân, chẳng thể tạo ra cảnh khác. Như sáu chúng sanh đồng cột vào một cây cột, cho nên kinh nói: Hữu niệm nhứt thủ.

Ngươi hỏi: Vì sao có lúc có thể nhớ, có lúc lại chẳng nhớ?

Đáp: Có ba nhân duyên cho nên có thể sanh niệm, một là do sự huân tập nhiều lần, do thân, khẩu, ý như thấy trong mộng. Hai là tướng, do tướng thuận nghịch mà nhớ, giống như hoặc cảnh không giống. Ba là trường tịnh, do tâm thanh tịnh niệm ấy thường khởi. Như bình chứa nước trong được thấy rõ mặt mình. Nếu ngược lại ba việc ấy tức chẳng thể nhớ nghĩ. Lại nữa lúc sắp chết và lúc sắp sanh đều khổ sở bức bách, quên mất chánh niệm, cho nên chẳng nhớ lại đời trước. Lại nữa có sáu nhân duyên có thể sanh niệm như kệ nói sau:

Thuận nghịch và huân tập
Một nơi cùng hội tụ
Định lực và nhân lực
Sáu niệm này là nhân

Thuận tức là như thấy kẻ kia giống con của mình, nên liền nhớ lại. Nghịch nghĩa là do gặp nóng quá cho nên nhớ lại lúc xưa quá lạnh. Số tập nghĩa là như những tập quán và những việc làm tự nhiên nhớ lại. Một xứ hội tụ nghĩa là như người thấy cây Ám la (xoài) liền nhớ lại vị chua. Định lực có nghĩa là như được Tam minh, người nhớ lại những việc đời trước. Nhơn lực có nghĩa là như Thánh nhơn và những Đại hành giả nhớ về đời sống quá khứ của mình.

Ngươi hỏi: Tam Ma Địa nghĩa là thế nào?

Đáp: Kinh nói rằng tâm định ở yên, ấy là Tam Ma Địa. A Tỳ Đạt Ma tạng cũng nói: Có thể nhiếp pháp chẳng tán loạn, ấy gọi là Tam Ma Đề. Tâm này tương tục, phiền não ác phong không thể động được, như ngọn đèn trong thất vậy. Tam Ma Đề lại có hai loại, nghĩa là thế gian và xuất thế gian. Thế gian nghĩa là có thể sanh quả báo của thế gian và cùng với giác phần lìa khỏi, có thể hàng phục thượng tâm hoặc. Xuất thế gian nghĩa là có thể làm cho qua khỏi xa lìa thế gian và giác phần tương ưng. Có thể đánh tan những sự mê muội hoặc. Làm cho rõ ràng luận này tức là xuất thế gian định.

Ngươi hỏi: Tướng gì? Dụng gì? Duyên gì? Nghĩa gì?

Đáp: Tâm định trụ ấy là tướng, hàng phục đối trị ấy là dụng, nương vào tâm để học, ấy là duyên và theo Tạng luận nói: Nhất tâm ấy là tướng, chẳng tán loạn ấy là dụng, tứ định chính là duyên. An tâm làm cho ngay thẳng, ấy là nghĩa. Như trước các luận sư đã giải thích: Thế gian nói dùng mũi tên Tam Ma Đề. Lời nói này chính là sự điều chỉnh cho mũi tên ngay ngắn, như vậy sự điều tâm ngay ngắn liên tục ấy gọi là Tam Ma Đề như kệ sau:

Tâm chạy nhảy loạn động
Khó giữ và khó kèm
Kẻ trí khiến cho ngay
Như mũi tên chẳng khác

Lại có thể an tâm bình đẳng, giống như người giữ ngựa và cho xe ngựa chạy trên khúc đường khó khăn, kẻ quán hạnh cũng như thế, có thể đặt tâm mình vào nơi bình đẳng, nơi cảnh nơi tướng. Có thể kềm chế sự bất bình đẳng xấu ác. Đây gọi là Tam Ma Địa, lại như bệnh ngũ cái (5 sự che khuất) tiêu trừ trở thành người không bệnh, gọi là Tam Ma Đề.

Hỏi: Chánh định nếu là định thì Tu Đà Hòan thường không có dục sân, nếu chẳng phải như vậy tức sai đạo lý chăng?

Đáp: Chỗ đối trị của định là do kết quả thể nghiệm mà được định, giống như ngũ căn, lại chuyên tâm hướng về định, giống như con ong tuy cột ràng vào chỗ xấu uế, nhưng tâm ấy là hoa sen. Cho nên rõ biết là thường ở nơi hoa, Thánh nhân lại cũng như vậy. Tuy ở nơi dục trần mà tâm an vui tịch tĩnh, cho nên thường hay biết là an trụ nơi định.

Lại như Tu Đà Hoàn tuy vô minh còn, nhưng sự sáng ấy chẳng mất. Lại như Phật Bà Già Bà tuy có giác quán mà chẳng ra khỏi tâm tán loạn, thường ở nơi định. Định của người Tu Đà Hoàn cũng như thế, cho nên chẳng khác với chân lý.

Hỏi: Thánh đạo tám phần lần lượt như thế nào?

Đáp: Do có thể nương vào lý để quán Thánh đế, cho nên trước lập chánh kiến, đối với chỗ quán pháp chấp thị chẳng xả, lần theo lập chánh giác. Từ đây lần lượt lập chánh ngôn, chánh nghiệp, chánh mệnh. Rồi theo chỗ quán pháp lúc lìa lúc được, nên lập tinh tấn. Rồi để chỗ lìa vĩnh viễn chẳng quên nên lập chánh niệm. Do niệm chẳng mất nên đối với chỗ cảnh thấy ấy tâm chẳng tán loạn lại lập nên chánh định.

Lại nữa nếu 8 pháp đầy đủ khởi lên tức chẳng theo thứ lớp, mà thứ lớp ấy nói là không đúng với đạo lý. Nếu người khởi lên sự ham muốn Niết Bàn thì đầu tiên nên tìm chánh kiến, nếu người muốn làm thì làm phải có mắt, như chỗ thấy lý chấp đã được chọn lựa và theo đó lập chánh giác. Rồi theo chỗ chọn lựa mà lập nên chánh ngôn, vì sao vậy? Nếu có ngôn ngữ (lời nói) nương vào nơi giác quán, như nói mà làm rồi lập nên chánh nghiệp. Hai sự thanh tịnh này lần lượt lập nên chánh mệnh, người này an trụ nơi giới và khởi lên sự siêng năng tinh tấn. Khi có tinh tấn rồi thì mệnh chẳng mất, kế tiếp lập nên chánh niệm và do có niệm cho nên tâm nhứt như không tán loạn, kế đến ấy là định.

Lại nữa A Tỳ Đạt Ma luận tạng có nói: Việc làm này dùng trí huệ để làm căn bản, vì sao vậy? Vì cảnh của Tứ đế thâm sâu, không thể không dùng trí huệ thì sẽ không rõ nghĩa được. Đầu tiên thành lập chánh kiến, tâm tiếp xúc với cảnh này, sau đó lập chánh giác (chánh tư duy). Do hai phần này đối với trong Tứ đế là tự làm cho hiểu biết. Sau đó lập chánh ngôn (chánh ngữ), do hai phần trước như phát ra lời nói và việc làm, kế tiếp lại thành lập chánh nghiệp. Do hai phần trước mà miệng nói, thân làm thọ dụng Tứ Đế, tiếp theo thành lập chánh mệnh. Khi sách tấn thân tâm tiến lên chân lý thì thành lập tinh tấn, do sự tinh tấn này mà đối với Tứ Đế cảnh, tâm dùng để lắng đọng thanh tịnh.

Kế theo là lập chánh niệm, do chánh niệm này đối với Tứ Đế cảnh và tâm cùng các pháp vĩnh viễn chẳng tán loạn. Sau cùng lập nên chánh định. Lại do chánh kiến mà thấy được việc làm của người và chẳng đọa vào nơi tăng thượng mạn, có thể như thật phân biệt và tự chứng đắc. Do chánh giác mà phát khởi lên lời nói chân chánh. Đây là sự tự chứng được và có thể truyền đến cho người khác, do chánh ngôn này có thể lập, có thể phá và có thể quyết nghi, làm cho lòng tin kia có được trí huệ.

Do có chánh nghiệp nên thà bỏ thân mạng chứ không phạm tội phi pháp, cho nên làm cho lòng tin kia có chỗ thánh thiện và yêu mến giới, nương vào pháp như điều cần nơi Tứ duyên vậy.

Do chánh mệnh mà làm cho lòng tin kia có được hạt giống Thánh và trí đầy đủ. Lại do chánh kiến, chánh giác, đó chính là nguyên nhân của lời nói chân thật giống như sư tử hống.

Do chánh nghiệp, chánh mệnh có thể hiển thị chỗ nghĩa để nói. Do chánh tinh tấn mà chỗ chưa được liền làm cho được, chỗ chưa diệt làm cho diệt. Do có chánh niệm mà lúc chìm nổi chẳng quên ba tướng, cho nên định vô chướng, do có chánh định diệt trừ định chướng, có thể dẫn đến Lục thông.

Với cái đức ấy sau này đầy đủ sẽ được giải thoát.

Theo A Tỳ Đạt Ma tạng nói: Do chánh kiến cho nên nói tín căn, tín lực và dục, vì sao vậy? Do có trí huệ nên tín dục thành tựu, do tinh tấn nên có thể nhiếp chánh cần và tinh tấn căn lực giác phần.

Do chánh định cho nên nhiếp tâm như ý túc, cùng định căn, định lực, hỷ, ỷ, xả, định giác phần v.v . là do ở nghĩa này vậy. Nên biết rằng ấy chính là 37 phẩm, trong đó có Bát Thánh đạo.

Lại nữa chánh kiến và chánh niệm đây chính là Tỳ Bà Xá Na phần (vipas-yana: quán kiến). Do sự diệt vô minh này nên huệ giải thoát chính là quả và đạo phần khác thuộc Xa Ma Tha (Samatha: định, chỉ). Do việc lìa dục cho nên tâm giải thoát ấy là quả, cho nên lược nói đạo có hai phần, một là Tỳ Bà Xá Na (quán) và hai là Xa Ma Tha (chỉ). Lại nữa trong luận tạng nói: Chánh ngôn, chánh nghiêp, chánh mệnh là ba tụ giới, do có giới này mà đánh bạt gốc rễ của sự ngu si ác độc. Chánh giác, chánh tinh tấn, chánh định là ba định tụ, do đây mà đánh bạt những tham dục và các căn xấu ác. Chánh kiến, chánh mệnh là hai tụ của huệ, do đây phá trừ các căn vô minh xấu ác, chính là ở nghĩa này vậy. Đạo ấy có ba phần.

Đạo này cũng có bốn phần, một là Phương tiện đạo, do điều vô ngại này mà đạo sanh. Vô ngại đạo cũng còn gọi là Phương tiện. Hai là Vô ngại đạo, điều chánh có thể trừ các chướng ngại và lấy đó làm đối trị, hoặc chẳng ngại, nên gọi là Vô ngại. Ba là Giải thoát đạo, Giải thoát vô ngại đạo, chỗ phá các hoặc. Đầu tiên là giải thoát. Bốn là Thắng đạo, từ sau Giải thoát đạo, ngoại trừ các đạo đều có tên là Thắng đạo.

Hỏi: Tại sao bốn điều này gọi là đạo?

Đáp: Do sự thẳng tới Niết Bàn cho nên gọi là Đạo.

Hỏi: Nếu vậy thì Giải thoát đạo và Thắng đạo tên gọi là đạo gì?

Đáp: Đạo có nhiều loại, chẳng đổi khác như làm cho trước ra sau và có thể đến Vô Dư Niết Bàn, nên gọi tên là Đạo. Lại nữa đạo có bốn loại, một là khổ đạo trì trí (đạo khổ, trí chậm), hai là khổ đạo tốc trí (đạo khổ, trí nhanh), ba là lạc đạo trì trí (vui đạo, trí chậm), bốn là lạc đạo tốc trí (vui đạo, trí nhanh). Lạc đạo nghĩa là nương vào 4 định đầy đủ, định huệ bình đẳng, vô công dụng hành. Đây chính là nghĩa vậy, tên gọi là Lạc đạo, lìa điều này ra thì gọi là khổ đạo. Nghĩa là nương vào vị lai định, trung gian định và tam không định.

Bất cụ phần (phần không đủ), định huệ bất đẳng (định huệ chẳng cùng nhau), hữu công dụng hành (có công dụng khi thực hành), vị lai định (cái định trong vị lai), hữu huệ thiểu định (có huệ ít định), tam không hữu định thiểu huệ (ba không có định ít huệ), trung gian định, phần bất cụ, định huệ đều ít. Với những nghĩa trên nên gọi là khổ đạo. Trong này có hai đạo, nếu người có được tín căn thì gọi là trì hành (đi chậm), nếu người có được trí căn thì gọi là tốc hành (đi nhanh). Trong Bát Thánh đạo này ước định, ước căn có bốn loại hành.

Lại nữa nói là Thánh đạo hay nói 37 phẩm trợ giác (trợ đạo) pháp nào là giác? Lấy tận trí vô sanh trí gọi là giác. Do ba loại người thành ba phẩm giác, nghĩa là Thanh Văn bồ đề, Bích Chi bồ đề, Vô thượng bồ đề hay diệt trừ vô minh làm cho vô dư, đây chính là tự mình làm và chẳng làm trở lại nữa, như thật giác nên có tên là giác.

Trợ có nghĩa là 37 pháp tùy tùng (giúp cho đến) chỗ tận trí, vô sanh trí, nên gọi là trợ. Do tên gọi nên nói là 37 chẳng do ở nơi thể. Luận này nếu chỉ nói ở thể thì chỉ có 10, nghĩa là: Tín, Tinh tấn, Niệm, Định, Huệ, Hỷ, Khinh an, Xả, Giới, Giác. A Tỳ Đạt Ma luận sư nói: Thể lại có đến 11, tức là khai giới là hai, đó là thân, khẩu. Lại có A Tỳ Đạt

Ma luận sư nói: Thể có đến 13, nghĩa là Túc, Dục và Tâm, trải qua tất cả các pháp được đắc, đều gọi là trợ giác (trợ đạo). Đây là sự biến đổi của 10 loại. Nói là 37 nghĩa là có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác phần (Thất bồ đề phần) và Bát Thánh đạo.

Hỏi: Phàm có bốn nơi, một là Sơ phát hành vị, hai là Thông đạt vị, ba là Kiến vị, bốn là Tu vị.

Hỏi: Lần lượt ra sao?

Đáp: Kẻ quán hạnh, trụ ở nơi giới, rồi có thể rõ biết sanh tử là sai trái và Niết Bàn là công đức, lìa Tứ đế quán vô phân biệt phương tiện, hay rõ biết chỗ sai trái của công đức, rồi nhiếp nhiều cảnh, tán tâm làm cho ở lại một nơi. Vì sanh ra sự đối trị, hàng phục bốn sự điên đảo, làm cho tâm như lý, nhập vào Tứ đế quán, cho nên nói là đầu tiên ở nơi Tứ niệm xứ. Do quán riêng biệt các pháp của Tứ niệm xứ rồi, có thể thủ, có thể xả. Vì giữ thiện và bỏ ác cho nên tu hành chánh cần, nguyên nhân là quán Tứ niệm, Chánh cần được thành tựu. Do chánh cần quán tướng hoặc chướng thanh tịnh rồi, trợ pháp được lập để tâm tùy theo ý mà trụ.

Tiếp theo đó thành lập Tứ như ý túc, do định lực này mà chẳng nghi về cảnh và tâm có sự tăng trưởng. Do lòng tin này mà chẳng giải đãi, tâm có tăng trưởng, do sự tinh tấn này mà được tâm thiện. Có trợ lực, không chướng ngại, đối với việc quên cảnh, tâm có sự tăng trưởng, do niệm này mà nhiếp ở một cảnh. Đối với việc không tán loạn, tâm có sự tăng trưởng, do định này mà như thật quán cảnh, tâm có sự tăng trưởng. Do đương thể tăng trưởng cho nên chẳng thoái vị. Tâm có sự tăng trưởng, do chẳng thoái vị. Đối với Thông đạt phần, tâm có sự tăng trưởng, rồi tiếp theo thành lập Ngũ căn và Ngũ căn này tăng trưởng cho đến tối thượng thượng phẩm, hạ hoặc chẳng thể phá hoại được. Ngoài ra thế gian pháp chẳng có gì có thể hơn, vô lưu tâm lần lượt duyên vào, chẳng thoát Thánh vị. Đây là nghĩa vậy.

Kế đến thành lập Ngũ lực, đã thấy ta, người, được, mất, rồi được con đường chân chánh, rồi được sự quyết tâm, rồi được mắt, rồi được chân. Do Ngũ lực nên được xuất tuế hành. Kế tiếp là thành lập Bát Thánh đạo, do Bát Thánh đạo phá kiến đế hoặc rồi, được gần tận trí, vô sanh trí và chuyển con đường này thành Thất giác phần (Thất bồ đề phần). Đây chính là sự lập thành theo thứ tự của 37 phẩm. Tứ niệm xứ quán tức là Sơ phát hành vị, tức là giải thoát phần, Tứ chánh cần nghĩa là Nhẫn vị, Tứ như ý túc, tức là Danh vị, Ngũ căn tức là Tướng vị, Ngũ lực tức là Đệ nhất pháp vị. Bốn loại này gọi là Quyết liễu vị, Bát Thánh đạo gọi là Kiến vị, Thất giác phần gọi là Tu vị, Tận trí, Vô sanh trí gọi là Cứu cánh vị. Đây là quả không có nhân, chẳng lập làm đạo.

Lại nữa đạo này hoặc nói là Phạn luận, Phạn luận có nghĩa là Phật Thế Tôn và các đệ tử sở chuyển. Thánh đạo này có sáu ý nghĩa, giống như bánh xe, một là Tốc Tật hành, nghĩa là hoặc nhất tâm, hoặc mười hai tâm, hoặc 15 tâm, biến hành vào tam giới Tứ Đế cho nên gọi là Tốc Tật. Hai là bỏ đây đến kia, nghĩa là xả bỏ thế gian và đến xuất thế gian. Ba là Thượng hạ hành, nghĩa là hoặc tại pháp nhẫn, hoặc ở loại nhẫ y n. Bốn là từ đây đến kia, nghĩa là từ Thầy đến Thầy tương tục giải bày và mãi cho đến đệ tử cũng tương tục giải bày. Năm là tương tự như trục quay của bánh xe.

Giới có ba phần làm trục, chánh kiến, chánh giác, chánh tinh tấn, chánh niệm làm cần, chánh định làm sườn xe như xe của Thánh vương, chưa điều phục sẽ được điều phục, đã điều phục có thể giữ gìn. Do hay hàng phục những đạo vô ngại và giải thoát đạo hay giữ lại. Do đây mà có nghĩa ấy, gọi tên là Phạm luân.

Lại nữa Bát Thánh, chánh kiến có 5 phần, giới có sáu loại, nghĩa là ba nghiệp, chỉ bày chẳng chỉ bày. Tinh tấn có 9 phần, chánh niệm có 8 phần, chánh định lại có 8 phần. Thánh đạo này nếu nói rộng ra, tức có 37 phần, nếu nói vừa thì có 8 phần, nếu lược nói hoặc 3 phần, hoặc hai phần, kệ rằng:

Nếu người cầu Niết Bàn
Diệt ngưng và lìa khéo
Nên thường hành tinh 
Nghe, nghĩ, tu Tứ Đế.

Luận về Bốn Chân Lý hết quyển bốn, trọn bộ.

Dịch xong vào ngày rằm tháng 7 nhuần năm Bính Tuất, Phật lịch 2550, Dương lịch nhằm ngày 7 tháng 9 năm 2006 tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover, Đức quốc, nhân lễ truyền giới Sa Di cho các đệ tử của Hạnh Tấn, gồm: Đồng Tú, Điệu An, Điệu Vân, Điệu Ninh và chú Thiện Châu, đệ tử y chỉ của Thầy Đồng Văn.

Pages: 1 2 3 4