LUẬN TẬP ĐẠI THỪA TƯỚNG
Giác Cát Tướng Trí Bồ-tát tạo – Đại sư Thi Hộ dịch
Việt dịch: Linh Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản

 

QUYỂN THƯỢNG

Quy mệnh Bồ-tát Ma-ha-tát Diệu Cát Tường. Con nay lược dịch các tướng Đại thừa, từ tâm Bồ-đề mà khởi xuất đại bi tương ưng, gọi là tất cả pháp chính nên thấu hiểu tất cả pháp vô ngã. Cho nên nay mới nói tướng sở tri này. Trong đây, tất cả pháp là gì? Là các uẩn, xứ, giới, duyên sanh, Ba-la-mật-đa, Địa không, Bồ-đề phần, Thánh đế, Tĩnh lự, vô lượng hạnh, vô sắc, đẳng chí, giải thoát, Tam-ma-bát-để, trước hành giải thoát môn, thần thông, Đà-la-ni, lực vô sở úy, vô ngại giải thoát, đại từ đại bi pháp bất cộng của Phật và các quả Thanh văn. Biết được tất cả tướng chân như thực tế vô tướng, các pháp của pháp giới… Đó gọi là tất cả pháp. Thế nào là uẩn? Tức là năm uẩn. Là, sắc, thọ, tưởng, hành và thức. Trong đó sắc là chỉ cho năm căn và năm cảnh. Về căn gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân. Về cảnh gồm sắc, thanh, hương,vị, xúc. Nhãn căn thanh tịnh là chỗ dựa của nhãn thức. Nhĩ căn thanh tịnh là chỗ dựa của nhĩ thức. Tỷ căn thanh tịnh là chỗ dựa của tỷ thức, thiệt căn thanh tịnh là chỗ dựa của thiệt thức, thân căn thanh tịnh là chỗ dựa của thân thức. Sắc có hai loại: Hiển sắc và hình sắc. Hiển là chỉ cho màu sắc xanh, vàng, đỏ, tím… Hình là chỉ cho tướng dài, ngắn, lớn, nhỏ… Thanh gồm ba loại: Chấp thụ đại chủng, không chấp thụ đại chủng, câu đại chủng. Hương có hai loại: Hương tốt, hương xấu. Vị có sáu loại: Đắng, chua, ngọt, cay, nhạt mặn. Xúc gồm mười một thứ: Cứng chắc, lưu nhuận, ấm áp, khô ráo, nhẹ nhàng, nặng nề, thô nhám, mềm mại… đói khát, các xúc như thế là tóm nói sơ lược, lại có ba loại xúc: Vừa ý, không vừa ý, và giữa hai loại này. Các loại như thế đều từ nhãn nhĩ… sanh ra. Nếu các cõi phân biệt ra ba đời thì phân biệt có vô biên hành tướng sai biệt vi tế, nên biết các thứ như thế là lược nói về sắc uẩn.

Thế nào gọi là thọ uẩn? Thọ có ba loại: Khổ thọ, lạc thọ, không khổ không lạc thọ, mà ba thọ này dựa vào nhãn, nhĩ… mà phân biệt, lại có sáu phần, cứ như thế mà chia ra thì thọ có mười tám phần. Như ở hạ giới nói rõ về hành tướng, thọ uẩn này tức là nếu ở cõi mà phân biệt lại có vô biên hành tướng, biết rằng các hành tướng như thế là lược nói về thọ uẩn. Sao gọi là tưởng uẩn? Tưởng có sáu loại; hành tướng của sáu loại tưởng này là dựa vào sáu căn: nhãn v.v… phân biệt mà bám lấy loại cảnh tướng của chúng. Tướng chấp lấy (sở thủ) tức là sắc… nhưng cái tánh chỗ dựa thì không thể phân biệt nếu phân biệt hoặc không phân biệt được chính là hai pháp sắc, thọ. Các thứ như vậy đều chính từ loại Ngã uẩn khởi ra. Tưởng uẩn này nếu ở cõi và thú mà phân biệt thì có vô biên hành tướng. Nên biết những điều nói trên là tóm nói về tưởng uẩn. Sao gọi là hành uẩn? Nghĩa là tâm sở hữu pháp gồm các phần thiện như tín… tham, sân, si và các phần phiền não. Tâm sở pháp như thế, tức là các hành tướng thuộc các phần vị của tâm vốn có, dựa vào các nhãn v.v… mà chuyển. Hành uẩn này nếu ở nơi cõi mà phân biệt thì có vô biên hành tướng. Biết rằng những điều như thế là lược nói về hành uẩn.

Thức uẩn là sao? Là thân sáu thức. Thức uẩn này dựa vào các căn nhãn v.v… cảnh sắc v.v… mà phân biệt và tướng của thức kia, cho đến thiện, bất thiện và vô ký… phân biệt thì có vô biên hành tướng, biết rằng các hành tướng đó là lược nói về thức uẩn. Những điều nói trước gọi là năm uẩn.

Nói về xứ tức chỉ cho mười hai xứ, gồm có sáu xứ ở trong là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Sáu xứ ở ngoài gồm có sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Ở đây nên biết năm căn là mắt… và năm cảnh là sắc… làm thành mười sắc xứ. Ý xứ tức là các thức, ngoài ra các pháp chính là pháp xứ.

Nói về giới tức là mười tám giới gồm sáu căn, sáu trần, và sáu thức. Trong đây các thức của nhãn… phân biệt có sáu tức là sáu xúc: Từ nhãn xúc cho đến ý xúc. Thức của sắc… kia gồm có ba loại tướng là thiện, bất thiện và vô ký. Các hành tướng này, các xúc của nhãn làm tánh nhân sở sanh của ba thọ tức là ba thọ kia. Từ xúc của nhãn… sanh ra sáu loại. Sáu xúc kia mỗi thứ đều có ba loại phân biệt tức là khổ, vui, không khổ không vui. Như thế là tổng nói về xúc thọ đều có mười tám, như thọ uẩn đã nói rõ ở trước, hành tướng cũng vậy.

Lại nữa, các tướng như địa, thủy, hỏa, phong, không, thức gọi là sáu giới. Nói về duyên sanh thì hành tưởng như thế nào? Là chỉ cho mười hai duyên sanh. Những gì là mười hai? Là từ vô minh cho đến lão tử. Trong đó vô minh đối với nghiệp quả ở trong thật pháp gọi là bất chánh hạnh, do vô minh này mà khởi lên bao phiền não. Cho nên ở trong vô ngã chấp có ngã uẩn, rồi có các sở đắc. Vô minh duyên với hành, hành lại có ba thứ, phước hành, tội hành và bất động hành. Phước hành tức là mười thiện nghiệp. Tội hành là mười bất thiện nghiệp. Bất động hành là đẳng chí ở cõi vô sắc. Các hành như thế do vô minh làm nhân mà các hành phát sinh. Hành duyên với thức cho nên chủng tử các thức ái hay thức không ái của nhãn.. sanh trưởng. Thức duyên với danh sắc, danh sắc này do thức giả lập mà có danh kia, là xứ của các hữu sanh ra nên hợp với bổn uẩn, thọ v.v… là danh sắc. Tức là tương ưng dựa vào danh mà lập. Danh sắc duyên sáu xứ. Sáu xứ ấy do sáu xứ danh sắc là nhãn… mà kiến lập. Sáu xứ lại duyên với xúc. Xúc là nhãn… và sắc… như đã nói ở trước. Xúc duyên với thọ, thọ có ba loại, cũng như trước nói. Trong đây hành tướng xúc, thọ nên biết. Thọ duyên vơi ái, ái do vô minh. Ái duyên với thủ, thủ tức là chấp giữ các sắc v.v… mà sanh ra hành động ưa thích thủ duyên hữu, hành tướng của hữu như đã nói ở trước về các tướng của hành thức v.v… Hữu duyên với sanh nghĩa là chính ở danh sắc có nghĩa sanh khởi. Do vô minh kia nên các pháp có sanh tức là tự tánh của vô minh này cũng không có phân vị. Sanh duyên lão tử. Lão tử là các uẩn suy hoại mà biến chuyển, tử tức là các uẩn bị hoại diệt sinh ra các pháp đời sau chẳng phải thật sự là cái thân của đời trước mà tất cả đều đã rời bỏ. Nhưng vô minh ấy ở trong uẩn đời sau lại tùy theo mà chuyển biến tăng trưởng hết thảy tội lỗi phiền não. Tất cả đều vô minh phền não nghiệp quả mà làm các nhân cho nên nghiệp phiền não phát sinh ba thứ ấy không đoạn trừ, do đó mà bị luân hồi lưu chuyển liên tục. Người biết như thế nên ở nơi thật pháp mà khởi tâm đối trị biết rõ tự tánh vô minh v.v… là vô ngã. Những thứ như trên là lược nói về mười hai nhân duyên sanh.

Nói về Ba-la-mật thì hành tướng của chúng như thế nào? Chúng có mười loại.

Trong Bố thí có ba loại: Pháp thí. Vô vọng thí và Từ thí. Về Giới gồm ba loại: Nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới. Nhẫn nhục gồm ba loại: Nhẫn quán sát pháp thật tế, Nhẫn chịu oán hại, Nhẫn an trụ thọ khổ. Tinh tấn có ba loại: Bị giáp tinh tấn, Gia hành tinh tấn và rốt ráo thành tựu tinh tấn. Định có ba loại: Định xa lìa lỗi, Định dẫn phát và Định thành tựu sự. Tuệ cũng có ba loại: Tuệ thành tựu do Văn (nghe), Tuệ thành tựu do Tư, Tuệ thành tựu do tu.

Phương tiện gồm ba loại: Phương tiện xa lìa lỗi, Phương tiện cứu vớt chúng sanh, Phương tiện mau chứng sự an lạc. Nguyện có ba loại: Nguyện tự hành thành tựu, Nguyện giải thoát cho chúng sanh bị trói buộc, nguyện thanh tịnh Phật độ. Lực có ba loại: Lực hoàn thành sự nghiệp, Lực diệt trừ phiền não, lực hàng phục ma oán. Trí có ba loại: Trí vô phân biệt, Trí phân biệt bình đẳng giác liễu, Trí diệt tội của chúng sanh. Như thế các Ba-la-mật: bố thí v.v… lấy tâm Bồ-đề dẫn đầu đối với tất cả chúng sanh mà khởi lòng từ bi quán sát. Tuy nhiên, người thực hành các Ba-la-mật-đa này, đối với sự tạo tác trong các thế gian đều không chấp có hành tướng cũng không chấp đạt được gì cả. Đối với các uẩn xuất thế gian v.v… chính là tướng vô ngã giải thoát, chân thực như lý đã chứng mà quán.

Nói về Địa: Là mười địa: Hoan hỷ địa tu tập Bố thí Ba-la-mật-đa. Ly cấu địa tu tập Giới Ba-la-mật-đa. Phát quang địa tu tập Nhẫn nhục Ba-la-mật-đa. Diệm tuệ địa tu tập Tinh tấn Ba-la-mật-đa. Nan thắng địa tu tập Định Ba-la-mật-đa. Hiện tiền địa tu tập Tuệ Ba-la-mật-đa. Viễn hành địa tu tập Phương tiện Ba-la-mật-đa. Bất động địa tu tập Nguyện Ba-la-mật-đa. Thiện tuệ địa tu tập Lực Ba-la-mật-đa. Pháp vân địa tu tập Trí Ba-la-mật-đa. Như thế, các địa vốn chứng lý pháp vô ngã đều do từ tâm đã chứng, thảy đều không sai biệt. Mà sự tu tập về các Ba-la-mật của bố thí… kia được an trụ vào chứng thanh tịnh hơn hết, được thành tựu nguyện lực rộng lớn cùng khắp, không chung với hết thảy Thanh-văn. Vì các pháp Ba-la-mật-đa này đối với tướng sở duyên mà không có sai biệt. Hoặc người, hoặc pháp đều không, vắng lặng xa lìa các tướng.

Nói về không tức là mười tám không. Không của nhãn gọi là nội không, Không của sắc gọi là ngoại không. Dùng trí bình đẳng quán sát nhãn v.v… sắc v.v… gọi là trong ngoài đều không; tướng các phần khí thế gian của các phương v.v… từng thứ quán sát từng mỗi đều không, gọi là đại không. Đối với các sự phân biệt thì lìa tánh thủ, xả, gọi là không, Không lại cũng không, nên gọi là Không Không. Thắng nghĩa đế không thể quan sát nắm bắt bằng khái niệm được, gọi là thắng nghĩa không. Việc tu tập các pháp hữu vi về bố thí… đều bình đẳng gọi là hữu vi không.

Các pháp vô vi không phát khởi tướng ngộ gọi là vô vi không. Ở trong pháp không không có ít pháp mà thật có thể chuyển được. Phân tán mà không tích tập gọi là tán không. Hết thảy các pháp kia không có bờ mé gọi là vô tế không. Ở trong tất cả các pháp rốt ráo không một pháp nào mà chẳng không, gọi là rốt ráo không. Tự tánh của các pháp uẩn v.v… như thế không có chỗ sanh khởi, lìa tự tướng thủ xả, gọi là tự tướng không. Hết thảy pháp không kia không sai biệt gọi là tất cả pháp không. Thủ xả ngã trong uẩn không thể nắm bắt được gọi là bất khả đắc không. Bất khả đắc này là không thể nắm bắt được các tướng của sắc v.v… chỉ có các nghiệp tánh, nên gọi là vô tướng không. Hoặc người, hoặc pháp thì tự tánh là không nên gọi là tự tánh không. Ở trong các tánh ấy xa lìa tánh thủ, xả. Gọi là vô tánh không. Vô tánh ấy lìa tánh không phân biệt của các uẩn, nếu lìa tự tánh của uẩn v.v… khởi lên phân biệt không thì tướng đối ngại này gọi là vô tánh tự tánh không. Nếu người như thế mà phân biệt hết thảy các xứ thì có thể giải thoát khỏi sự ràng buộc của sắc… không còn phân biệt phần hữu biên và vô biên. Lìa thủ, xả của uẩn tức là một tướng mà tánh của một tướng không có hai. Do đó mà người kia đối với Ba-la-mật an trụ vào một cảnh, lý không của tự tánh lìa tướng hý luận, tức là quán sát một cách như thật về vô ngã.

Nói về Bồ-đề phần là chỉ cho ba mươi bảy phần Bồ-đề. Từ bốn niệm xứ cho đến tám chánh đạo. Bốn niệm xứ gồm thân, thọ, tâm và pháp. Trong đây, thân niệm xứ là quán thân không có một bộ phận nào có thể tồn tại lâu dài được nên không chấp trứơc. Xa lìa tướng thủ, xả… gọi là thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ và pháp niệm xứ cùng quán như thế. Lại nữa đối với các pháp niệm xứ này mà ở trong đó phân biệt lại có ba loại: tinh tấn, thiền định và chánh niệm, ba loại ấy tương ưng thì có thể quán sát. Các Bồ-tát có tâm Bồ-đề tối thắng và các thiện hạnh như bố thí… ở trong tất cả pháp đắc vô ngã pháp tương ưng. Như thế là lược nói về bốn niệm xứ, các pháp còn lại cũng nên biết pháp như thế.

Bốn chánh đoạn có nghĩa là cái bị đối trị của phi Bồ-đề phần, tức là điều ác đã sanh, khiến cho đoạn diệt, đìều ác chưa sanh khiến cho đừng sanh, đây là cần đoạn, đối trị hai lỗi bất thiện.

Bồ-đề phần chưa sanh khiến cho phát sanh, đã sanh làm cho tăng trưởng, đây là cần tu hai thiện, như thế là nói gọn về bốn chánh đoạn.

Bốn thần túc là dục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ. Các công hạnh tương ưng như thế làm tăng trưởng quả sở đắc: đem cái sở đắc mà quán sát cái sở duyên của dục… gọi là bốn loại thiền định, mà thân và tâm lìa được nơi dựa, lìa được cái tưởng tham dục. Y chỉ vào nơi tịch diệt thì không có sự tạo tác. Như thế là nói gọn về bốn thần túc.

Năm căn năm lực tức là thấu biết tất cả các quả tướng. Là tín, tinh tấn, niệm, định và tuệ. Làm tăng trưởng năm căn năm lực tương ưng. Như thế là lược nói về năm căn năm lực.

Lại nữa, trong đó tu các công hạnh là phải giác liễu hai phần: Noãn vị và Đảnh vị, Noãn vị là tu bốn niệm xứ, còn Đảnh vị là tu bốn chánh đoạn. Lại có hai phần thù thắng là Nhẫn vị và Thế đệ nhất pháp. Nhẫn vị là tu bốn thần túc, Thế đệ nhất pháp vị là tu ngũ căn ngũ lực. Tất cả như thế đều không có chỗ tạo tác, chân thật tối thượng… năm căn năm lực làm những hành tướng duyên với kiến đạo nên biết rằng những pháp tu tập của kiến đạo là phải tu bảy giác chi.

Bảy giác chi là niệm giác chi cho đến xả giác chi. Trong đó Niệm giác chi nguyện đem lại lợi ích cho những chúng sanh chứng được Bồđề. Hiện tại luôn tỉnh giác không bị quên mất. Trạch pháp giác chi là ở nơi tự tánh của ngã và pháp chọn làm tướng. Hỷ giác chi là tự mình tu đạo đắc được nhân vô lậu sanh ra niềm hỷ lạc. Khinh an giác chi nghĩa là như những gì chứng được là pháp tánh như thật, không chủng tử phi Bồ-đề phần thì xả ly, nên thân nghiệp và tâm nghiệp được khinh an vậy. Định giác chi chỉ cho bốn vô lượng tâm và Bồ-đề nguyện, thể nhập trí chân như thuần nhất cảnh tướng. Tinh tấn giác chi là tuy quán chiếu về công đức tối thượng tịch tĩnh nhưng tâm không ám độn và chấp trước. Tinh tấn tu các hạnh không lười biếng. Xả giác chi là nhớ nghĩ đến lợi ích chúng sanh như đáng điều phục, tùy theo việc làm của họ. Các pháp công đức Ba-la-mật kia thì bình đẳng phân biệt, quán không đến và chẳng đi, an trụ vào bình đẳng, như thế là lược nói về bảy giác chi, tức là các hành về bảy giác chi như thế gọi chánh trí phần. Nó có thể đối trị các hành tướng phiền não chướng và sở trí chướng. Nên biết, để đạt được quả vị tu đạo thì phải tu tám chánh đạo.

Tám chánh đạo là từ chánh kiến cho đến chánh định. Trong đó chánh kiến là thấu biết tướng vô ngã của tất cả pháp. An trụ vào bình đẳng hay các khổ điên đảo. Thì hai phần ấy là tướng vi dịêu là nó được quán chiếu bằng thắng tuệ. Chánh tư duy là khởi tư duy chẳng đoạn, các nhân đã làm, như nguyện mà chứng quả. Chánh ngữ là các lời nói lìa hư vọng, phân biệt một cách như thật mà nói. Chánh nghịêp là các việc đã làm mà không điên đảo. Không giết hại chúng sanh mà lại còn cứu vớt chúng sanh. Xa lìa hư vọng mà tu tập. Chánh mạng, giữ mạng sống trong sạch xa lìa các tà vọng, tự hành mà tu, tự hành mà chứng. Chánh cần là tuy đạt được địa tối thượng nhưng vẫn tinh tấn tu hành. Thân không mệt mỏi, tâm luôn kiên cường. Chánh niệm là niệm các xứ… như thật mà quán chiếu, tâm từ trang nghiêm, tự nguyện phương tiện, đối với hết thảy pháp không có quên mất. Chánh định là nghiệp của thân… thường nương vào công đức tối thắng, an trụ vào trí vô phân biệt, tức là các tướng bình đẳng tĩnh lự tương ưng. Như thế là lược nói ba mươi bảy phẩm Bồ-đề. Tùy vào các hành tướng mà nói một cách tổng lược.

 

QUYỂN HẠ

Lại nữa, gọi là Thánh đế tức chỉ cho bốn đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong đó, khổ thánh đế là uẩn… và các tướng điên đảo… bản chất nó là trái với pháp Thánh. Tập thánh đế như đã nói về khổ, do các phiền não nghiệp tập của vô minh hành làm duyên cùng các khổ của sanh… mà làm tánh nhân. Diệt thánh đế là đối với hết thảy pháp như thật không phân biệt. Lấy tướng vô sanh làm tánh. Thế gian si ám được đối trị diệt như đã chứng. Đạo thánh đế là các pháp hướng đến Bồ-đề, từ tâm… và pháp niệm xứ. Tổng lược thâu nhiếp nên Thánh đế này đối với hết thảy pháp bình đẳng làm sở duyên. Như thế là lược nói về bốn Thánh đế.

Nói về Tĩnh lự là bốn Tĩnh lự: Ly sanh hỷ lạc gọi là Sơ tĩnh lự, Định sanh hỷ lạc gọi là đệ nhị tĩnh lự, Ly hỷ diệu lạc gọi là đệ tam tĩnh lự, Xả niệm thanh tịnh gọi là đệ bốn tĩnh lự. Bốn tĩnh lự như thế đều là tướng tịch chỉ. Tâm tham của dục giới… chẳng lưu động nên gọi là tĩnh lự. Nhưng các Bồ-tát cũng chẳng mê muội đắm trước các an lạc của tĩnh lự, cuối cùng chẳng rời chúng sanh, tròn đầy quả Bồ-đề đạo pháp. Thành tựu vô lượng hạnh. Như thế là lược nói về bốn tĩnh lự.

Nói về vô lượng hạnh là chỉ cho bốn vô lượng hạnh: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Bốn hạnh này đều duyên với vô lượng chúng sanh làm cảnh giới. Trong đó Từ vô lượng hạnh là đem tất cả các điều lợi lạc đến cho hết thảy chúng sanh. Tu các công hạnh mà không chấp vào tướng, xa lìa điên đảo thuận theo đạo Bồ-tát. Bi vô lượng hạnh là làm cho chúng sanh không còn một nỗi khổ nào cả. Tánh của tâm bi này có thể đối trị các não hại không cho sanh khởi. Hỷ vô lượng hạnh là thể chứng hết thảy các pháp vô ngã bình đẳng. Thực hành hạnh bố thí… thì khéo trụ vào tâm Bồ-đề, rộng vì lợi lạc cho hết thảy chúng sanh. Phương tiện tu hành là nơi phát sanh ra hỷ lạc làm tưởng hỷ thọ. Xả vô lượng hạnh là ở trong ba cõi phân biệt bình đẳng thực hành hạnh rộng lớn để cứu giúp

chúng sanh; đối với thiền định an lạc tự mình đã chứng không mê muội chấp trước vào đó. Đây có thể đối trị lại lỗi lầm phóng dật, tâm an trụ vào thật tướng. Như phải điều phục được tất cả tâm chấp tướng… của thế gian để có thể an trụ trong tĩnh lự, đối với các sắc tưởng thì đối trị bởi thật pháp. Lại ở trong vô lượng pháp môn được các pháp bình đẳng. An trụ trong pháp vô ngã như lý mà thật chứng. Đạt được hết thảy bình đẳng pháp lạc. Đây gọi là sở đắc tự tại tối thắng vậy, như thế là lược nói về bốn vô lượng hạnh.

Nói về đẳng chí của cõi Vô sắc có bốn: Không vô biên xứ cho đến Phi tưởng Phi phi tưởng xứ. Trong đây định không vô biên xứ là lìa tất cả tưởng sắc đối ngại. Quán vô biên không làm tương ưng, lìa các tướng hữu, tâm trụ vào một cảnh. Lại Thức vô biên xứ định, Vô sở hữu xứ định, Phi tưởng Phi phi tưởng xứ định. Các định như vậy đều gọi là hạnh tịch tĩnh như định đầu tương ưng. Quán tướng vô tham làm sở duyên, ngoài ra còn quán sát vô trước, vô ngại, và khởi sanh các vô tướng tối thượng.

Nói về giải thoát tức là tám giải thoát. Là trong có sắc quán sắc ở ngoài mà giải thoát cho đến diệt thọ tưởng giải thoát. Trong đây, giải thoát đầu tiên là trong có tưởng sắc lìa tham sắc ở ngoài. Gọi là trong có sắc quán sắc bên ngoài mà giải thoát. Lại tiếp như hành tướng bên trong không có sắc tưởng lìa tham sắc bên ngoài, đây gọi là nội vô sắc quán ngoại sắc giải thoát. Lại tiếp đối với sắc… an trụ trong hạnh vô tham thanh tịnh, gọi là tịnh giải thoát. Lại nữa, Không vô biên xứ giải thoát, Thức vô biên xứ giải thoát, Vô sở hữu xứ giải thoát, Phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát. Bốn giải thoát vô sắc xứ như thế đều như hành tướng của chúng mà trụ vào như thật tướng quán. Lại tiếp hành tướng giải thoát của diệt thọ tưởng, nên biết như thế là lược nói về tám giải thoát.

Nói về Tam-ma-bát-để thực hành trước tên, tức là nếu muốn trụ vào Tam-ma-bát-đề của Không vô biên xứ kia…, trước phải diệt các hành tướng, trụ vào tự tánh các pháp bình đẳng tịch tĩnh rồi sau mới an trụ vào Tam-ma-bát-để, đây gọi là thực hành trước. Lại nên biết. Bốn định vô sắc này cùng với diệt tận định mà các Bồ-tát ở nơi địa vị Mạolí-nhạ đa nhập sư tử du hý Tam-ma-địa, hiện ở trước mà quán, không bị gián đoạn, trái lại với tâm ở Tam-ma-sất-đa, cũng không bị gián đoạn bởi sơ tĩnh lự v.v… Diệt tận tịnh này là vô động tướng. Trong đó, các Tam-ma-bát-để, sao lại theo thứ lớp như thế? “Nghĩa là để thành tựu chúng sanh, như phải được quán thứ lớp như thế. Lại nữa nên biết rằng đây chính là các pháp môn đem lại niềm vui tối thượng, đạt được an lạc này thì biết được ngã không thật. Ngã mà không thật nên tự tâm vắng lặng, các tu tập thần thông Ba-la-mật vốn thích ứng đều là các thắng tuệ đã quán như thật mà sanh khởi. Đây là lược nói tướng của hết thảy pháp.

Nói về giải thoát môn tức là ba giải thoát môn: Không, vô tướng, vô nguyện. Trong đây không giải thoát môn có nghĩa là hoặc là nhân hoặc là pháp các sự việc của uẩn… lìa tướng phân biệt, mà các uẩn kia hoặc nhiễm, hoặc tịnh ở trong phân biệt hoàn toàn không có tánh. Ở trong pháp không lìa tướng thủ xả, dùng trí vô nhiễm như thật để đối trị. Vô tướng giải thoát môn, ở nơi uẩn… rốt ráo không có tướng. Do vô tướng nên chấp thủ không thể được, trí vô nhiễm kia như thật mà đối trị không nhiễm trước vào các tướng.

Vô nguyện giải thoát môn là đối với tất cả các giải thoát thanh tịnh, uẩn, xứ, giới và Ba-la-mật-đa, các tướng viên mãn thắng hạnh tối thượng ấy đều biết đúng như thật mà phát sanh ra hiện tiền bình đẳng. Xa lìa các chấp thủ an lạc tự tâm. Như thế là lược nói về ba giải thoát môn.

Nói về thần thông tức là Sáu thông: từ Thiên nhãn thông đến Lậu tận thông. Trong đó, thiên nhãn thông có nghĩa là đối với các sắc tướng quán xét đích thực không ngăn ngại, tối thắng thanh tịnh. Thiên nhĩ thông là đối với các âm thanh có thể nghe một cách thanh tịnh. Tha tâm thông là biết đúng như thật các hành tướng của tâm người khác. Túc trụ thông là có thể nhớ biết các sự việc sai biệt trong quá khứ của mình và của người. Thần cảnh thông lại có ba loại: Ẩn hiện tự tại, hiện ra muôn thân trong khắp thế giới, ở trong không trung đi đứng một cách vô ngại, tùy theo sự giáo hóa mà hiện ra cái thân thích ứng. Nhưng đối với sự thích ứng ấy, không hiện cái thân tướng để làm các việc thần thông.

Lậu tận thông là đối với các vô minh phiền não… gọi là lậu. Dùng trí tuệ mà đoạn trừ không còn sót gọi là lậu tận. Sáu thông tối thắng như thế… an trụ vào tâm Bồ-đề xa lìa trí hý luận, là cái lối tu cao thượng mà Bồ-tát tu, không chung với tất cả các đạo của Thanh-văn, vì Bồ-tát viên mãn vô tướng, không phát khởi tánh (chấp) ngộ, là các đạo hạnh bình đẳng Ba-la-mật-đa tổng nhiếp hết thảy các pháp tự tu, tất cả các nguyện lực và hết thảy các tướng. Dõng mãnh tinh tấn mà làm người dẫn trước an trụ tâm thanh tịnh tối thượng vào nhứt cảnh tánh. Các tĩnh lự… như danh như nghĩa tùy ứng mà có sai biệt vô biên hành tướng đều tổng lược thu nhiếp vì sự gìn giữ của Tam-ma-đà-da. Như thế gọi là Sáu thông.

Nói về Đà-la-ni tức là hết thảy tướng và hết thảy pháp. Tánh của tất cả pháp nhiếp ứng hết thảy thanh, danh, cú, văn là các nghĩa tướng, là nơi có vô lượng niệm, vô biên biện tài và các Tam-ma-địa. Trí vô tướng này có thể chứng nhập được để đối trị tâm hữu tướng hữu ngại, đây chính là pháp môn Đà-la-ni đạt được quả Bồ-đề vô thượng tối thắng. Nhưng tất cả thiền định Đà-la-ni… cùng với Kim cang dụ định hiện tiền được chứng nhập, chính là hết thảy các pháp khắp nơi dụ định hiện tiền bình đẳng, thể nhập, trí vô tướng chứng ngộ chân thật. Tất cả các chủng tử được huân tập đều bỏ hết. Tương ưng với trí quán đại bi bình đẳng. Sự tạo tác kiên cố đối với các pháp tánh như thật mà giải thoát, hiện tiền an trụ bình đẳng vào quả báo thù thắng. Đại viên cảnh trí như thật mà phát sanh, hết thảy các nguyện lực đều được viên mãn. Như thế là đã lược nói về Đà-la-ni.

Nói về Lực có nghĩa là mười lực của Phật. Từ Xứ phi xứ trí lực cho đến Lậu tận trí lực. Trong đó Xứ phi xứ trí lực có nghĩa là trí tuệ biết một cách như thật tất cả lãnh vực nhân quả quyết định hoặc không quyết định, nếu Phật hoặc Phạm vương hay Chuyển luân Thánh vương, mà các vị ấy đạt được các quả báo thù thắng quyết định thì gọi đó là xứ. Phi xứ kia có nghĩa biết được các hành tướng nhân qủa không quyết định. Nghiệp báo trí lực là nơi tất cả các chúng sanh gây tạo các thiện nghiệp hay ác nghiệp, được sanh về cõi lành hay cõi ác, tất cả các nghiệp báo như thế, trí lực đều biết đúng như thật. Chủng chủng giới trí lực là các cảnh giới của chúng sanh có sai biệt, thì trí tệ biết đúng như thật. Chủng chủng thắng giải trí lực có nghĩa là các hạng Thanh-văn ở trong các pháp phát khởi sự giải thoát thù thắng, lìa các pháp nhiễm, hướng đến tướng tịch tĩnh, hết thảy như thế, trí tuệ đều biết một cách đúng như thật. Liễu biệt chư căn trí lực có nghĩa là các căn tín v.v… của tất cả chúng sanh mỗi thứ đều sai biệt mà trí tuệ biết được một cách như thật. Chủng chủng định trí lực là các tĩnh tự… các Tam-ma-địa và Tamma-bát-đề, như danh như nghĩa, vô biên hành tướng thì trí tuệ đều biết đúng như thật. Chí xứ đạo trí lực nghĩa là Đạo có hai thứ: Phi ái lạc đạo tức chỉ cho vô minh… và Khả ái lạc đạo tức chỉ cho Tịch diệt v.v… mà tịch diệt kia với sự chứng đắc sai biệt của các Thanh-văn, Duyên giác và các Bồ-tát, trí tuệ đều biết như thật. Sanh diệt trí lực là đủ loại sanh diệt của chúng sanh mà trí tuệ đều biết đúng như thật. Túc trụ tưởng niệm trí lực là đối với các việc ở quá khứ, ghi nhớ một cách như thật. Lậu tận trí lực là Đại viên cảnh trí của Phật, Thế tôn, tự tánh mà quán sát, lìa các chướng ngại nhiểm ô, phân biệt bình đẳng. Các lực của xứ, phi xứ như thế là sự chứng đắc du hý thần thông của Như lai, lực ấy đầy đủ nên quán tăng thượng ở hết thảy các pháp, như thế là đã lược nói về Thập lực.

Nói về Vô úy (không sợ hãi)? Tức là bốn sở úy, Nhứt thiết trí vô úy, Lậu tận vô úy, thuyết chướng đạo vô úy; Xuất khổ đạo vô úy. Các vô úy như thế hoặc khác hoặc chẳng khác, có sự ngôn thuyết thì đều không có gì đạt được sự tự tại vô úy. Bốn vô úy này đều lấy trí tánh bình đẳng mà quán sát. Như châu Như ý thuận theo chúng sanh mà phổ biến bình đẳng. Pháp đây cũng vậy tướng ngã thanh tịnh xa lìa các chấp về hữu, như thế là lược nói về Bốn vô sở úy.

Nói về Vô ngại giải : là Nghĩa, Pháp, Nhạo thuyết, Biện tài v.v… Trong đó, Nghĩa vô ngại giải là đối với tất cả chúng sanh không có tướng ngã, lấy trí vi diệu bình đẳng mà quán chiếu. Pháp vô ngại giải là nương theo các tướng biết rõ các pháp mà trí quán bình đẳng. Nhạo thuyết vô ngại giải là tùy theo nghĩa ưa nói, chủ động nói, nói ra mà chẳng lìa tự tánh. Biện tài vô ngại giải là ở trong vô biên pháp môn tùy thích ứng phân biệt để thông đạt vô tướng. Những đều kể trên cùng với hết thảy pháp tăng thượng tương ưng đều vì nhiếp phục những kẻ ngu si khiến thảy điều phục và an trụ các pháp bình đẳng lìa tướng. Bốn thứ vô ngại này đều lấy trí vi diệu mà quán sát. Như thế là đã lược nói về bốn vô ngại giải (bốn thứ giảng nói giải thích tu đạo).

Nói đến đại từ đại bi: Trong đó Từ có nghĩa là ban niềm an lạc cho chúng sanh, trụ vào tịch tĩnh, tâm không phát khởi tướng ngộ mà quảng đại tối thắng lìa tướng, bình đẳng. Bi có nghĩa là nhổ tận gốc khổ đau, điều phục những thứ khó điều phục, không bỏ chúng sanh và lìa các tướng hữu. Hai điều ấy đều dùng Thành sở tác trí mà quán, như thế là lược nói về đại từ đại bi.

Nói về các pháp bất cộng (không chung) của Phật: Tức là mười tám bất cộng pháp, từ Như lai thân vô thất cho đến hiện tại tri kiến vô trước vô ngại. Trong đó, bất cộng pháp thứ nhứt là Thân Như Lai không lỗi lầm, nghĩa là không có sự mệt mỏi xa lìa các lỗi nơi thân… Như Lai ngữ vô thất là đều ái ngữ, xa lìa các lỗi lời nói… Như Lai ý vô thất, tức là không bao giờ bị thất niệm, lìa được các lỗi của ý. Ba nghiệp như thế khiến cho tất cả kẻ ngu si sanh lòng tin thanh tịnh. Vô dị tưởng tâm là đối với tất cả chúng sanh, thì trụ vào tâm bình đẳng… Vô bất định tâm có nghĩa là khiến cho những chúng sanh ngu si trừ diệt được tâm tán loạn. Vô bất tri xả tâm là các sự việc của chúng sanh không có gì mà không biết, nhưng rồi xả ly hết thảy. Sáu pháp này được phát sanh ra từ giới học tăng thượng mà làm nhân cho Vô trụ Niết-bàn. Tín vô giảm có nghĩa là ở trong vô trụ Niết-bàn không hoại niềm tin. Dục vô giảm là đối với Vô trụ Niết-bàn chẳng tham ái chấp trước. Tinh tấn vô giảm có nghĩa là đối với sự lợi ích, mạng sống và hạnh đều không chấp trụ. Tuệ vô giảm là rốt ráo đối với các thế gian, trưởng dưỡng chúng sanh không ai mà không thông đạt. Giải thoát vô giảm có nghĩa là không chấp vào tướng Niết-bàn của Thanh-văn… Giải thoát tri kiến vô giảm là vì lợi ích chúng sanh mà dùng trí tuệ phá các tướng hý luận khiến cho các chúng sanh mỗi người chứng đắc được Niết-bàn vô thượng bình đẳng. Sáu pháp này là được phát sinh từ định học tăng thượng và làm duyên với Vô trụ Niết-bàn. Thân nghiệp tùy trí tuệ hành có nghĩa là ở nơi hết thảy xứ hoặc động, hoặc dừng, hoặc kinh hành… các tướng thường cùng với trí tuệ tương ưng, vì vậy, trí tuệ mang tính dẫn đầu trong mọi pháp. Ngữ nghiệp tùy trí tuệ hành là tất cả các lời nói xa lìa hư vọng, phân biệt, thường tương ưng với trí tuệ, do thế biết rằng trí tuệ mang tính dẫn đầu. Ý nghiệp tùy trí tuệ hành có nghĩa là đối với tất cả chúng sanh mà an trụ vào tâm bình đẳng, tùy sự lợi ích không có sai biệt, thường tương ưng với trí tuệ, do đó nói trí tuệ dẫn đầu các pháp vậy. Quá khứ tri kiến vô trước vô ngại có nghĩa là trong không có tánh gọi là vô trước, ngoài lìa các trói buộc gọi là vô ngại, tất cả pháp quá khứ đều biết một cách bình đẳng, phá tướng hý luận. Vị lai tri kiến vô trước vô ngại là trong tất cả các pháp ở vị lai, biết một cách bình đẳng phá tướng hý luận. Hiện tại tri kiến vô trước vô ngại là trong tất cả các pháp ở trong hiện tại, đều biết bình đẳng phá tướng hý luận. Sáu pháp này được phát sanh ra từ tuệ học tăng thượng. Tất cả các pháp này chỉ có Phật, Như lai thành tựu vô lượng thắng trí viên mãn. Đem lại lợi ích chúng sanh, tùy cúng sanh mà chuyển; hết thảy hàng Thanh văn không có các pháp bất cộng vậy. Nó được sanh ra từ trí tuệ thanh tịnh của pháp giới. Như thế là đã lược nói về mười tám pháp bất cộng.

Nói về quả Thanh văn tức chỉ cho bốn quả Thanh văn, là từ Tuđà-hoàn đến A-la-hán. Trong đó, quả Tu-đà-hoàn chán khổ ưa vui, tùy vào sức tu mà đoạn trừ phiền não, vốn có trải qua bảy lần sanh tử thông suốt các đế khổ… ngộ nhân vô ngã hướng đến Niết-bàn.

Tư-đà-hàm cũng chán khổ ưa vui, tùy theo pháp tu mà đoạn trừ phiền não vốn có một lần sanh lại cõi này thấy các đế khổ…, ngộ nhân vô ngã, hướng đến Niết-bàn. A-na-hàm nghĩa là ghét khổ ưa vui, không còn phiền não cõi Dục có thể đoạn, không trở lại cõi Dục mà sanh nơi cõi Sắc và Vô sắc, tùy thích ứng giải thoát thấy rõ các đế khổ… ngộ nhân vô ngã, hướng đến Niết-bàn. A-la-hán có nghĩa là đoạn hết phiền não vốn có trong ba cõi, thấu triệt cội nguồn khổ đau, giác ngộ lý vô ngã tùy theo thích ứng giải thoát hướng đến Niết-bàn. Như thế là lược nói về bốn quả Thanh-văn.

Nói về liễu tri tất cả tướng, nghĩa là chư Phật Như lai đối với các tướng và các pháp hiểu biết như thật hiện tiền bình đẳng. Tất cả tướng chính là tất cả pháp. Chư Phật Như lai vì lợi ích thế gian bày ra các phương tiện thích ứng tùy theo căn cơ chúng sanh, mà không quên mất pháp, trụ nơi tướng kiên cố.

Trong đây nên biết, tam thân cũng gọi là nhứt thiết tướng, pháp thân là tự tánh, là trí tướng vô ngã, không sai biệt. Tướng tối thắng của Báo thân chính là tánh chỗ dựa của tất cả tướng. Hóa thân là nơi tạo tác các sự tướng, nơi hết thảy xứ tùy ứng mà hiện hóa thực hành công hạnh vậy. Lại nữa, đối với tất cả tướng, tuy đã liếu tri nhưng không có phân biệt, vì lợi ích chúng sanh thuận theo thích nghi mà tạo tác. Các tướng ấy tịch tĩnh không duyên với tự tánh, hết thảy đều bình đẳng. Uẩn… cùng với tất cả tướng cũng lại vô biên, hoặc trụ trong tam giới hay xuất ly ra khỏi tam giới, nên biết như thật các tướng chẳng thể được. Như thế là liễu tri nhứt thiết tướng.

Nói về chân như tức là tự tánh các pháp lìa thủ, xả, hoặc kẻ trí hay người ngu, hoặc là sắc hay là tâm đều trụ tánh bình đẳng lìa vọng không phân biệt. Đây gọi là chân như.

Nói về thật tế tức là tánh Bồ-đề hết thảy như lượng, như thật lìa các phân biệt, trong đây nên biết, như điều Phật nói về tánh ngũ uẩn… rốt ráo không nắm bắt được. Lại đối với suy xét khác thì không thể nói được; như thế gọi là thặt tế.

Nói về vô tướng tức là chân như kia mà gọi là vô tướng. Mà chân như có nghĩa là chỉ lấy danh tự hư giả phân biệt, trong danh tự ấy, thể tánh chẳng thể được, nên biết thể tánh của ngã… tức là tự tánh của các pháp. Cho nên trong đó hoặc là nhân hoặc là pháp, đều lìa các tướng nhưng đồng một tướng. Một tướng ấy là hết thảy các pháp không có tướng đối ngại lìa các phân biệt, đối với đệ nhất nghĩa, tự tánh của nó vốn không động, nên gọi là vô tướng.

Nói về pháp giới tức chỉ chi các pháp nhân, quả trong mười phương. Cho đến tự tánh chỗ dựa của tất cả pháp. Đây gọi là pháp giới. Trong pháp giới này xa lìa hết thảy tướng hư vọng điên đảo phân biệt… hiện tiền trí tuệ sáng suốt như thật chiếu sáng, gọi là pháp giới. Lại nữa, nên biết, trong đây, chân như… đại viên cảnh trí… tức là tất cả pháp không có sự tạo tác. Chân như không sự tạo tác ấy chính là tự tướng của các pháp.

Lại nữa nên biết, trong đó chân như và thập lực ấy đều lấy Đại viên cảnh trí mà quán chiếu. Thật tế sở chứng cùng với bốn vô sở úy đều dùng Bình đẳng tánh trí mà quán. Còn vô tướng vi diệu thanh tịnh và bốn vô ngại giải tánh kia lấy Diệu quan sát trí mà quán. Tánh chỗ dựa, sở chứng chân thực của tất cả pháp trong pháp giới với đại từ đại bi đều lấy Thành sở tác trí mà quán. Pháp sở quán tăng thượng nhứt thiết xứ đều an trụ vào trí thanh tịnh của pháp giới. Hết thảy các pháp như vậy nên biết đều là như lượng chánh ngữ cùng tâm Bồ-đề tương ưng. Lòng đại từ tùy thuận theo hết thảy chúng sanh là hết thảy pháp bình đẳng đồng một sở duyên. Tương ưng với pháp môn vô tướng tối thượng. Tổng nhiếp pháp Ba-la-mật-đa… và hết thảy các pháp, tùy theo sự hành trì ấy như lượng mà tương ưng.. sự tương ưng này gọi là hết thảy pháp vô ngã. Kẻ trí nên biết, pháp mà Phật nói từ môn giải thoát như thật mà lưu xuất.

Trí tuệ chư Phật không ai bằng
Đã thuyết tánh nhân cũng vô biên
Ở vô biên ấy như thật biết
Hết thảy tương ưng mà biểu thị
Các pháp tương ưng bày các tánh
Tùy nghi phương tiện mà khởi sanh
Đại tuệ vốn làm đều trọn thành
Ta vì lợi lạc nên mới nói.