LUẬN TẬP ĐẠI THỪA TƯỚNG
(Luận tập hợp các tướng của Đại thừa)
Bồ-tát Giác Cát Tường Trí tạo luận
Thí Hộ dịch
Nguyên Hồng dịch tiếng Việt

 

QUYỂN THƯỢNG

Kính lễ Diệu Cát Tường Bồ-tát Ma-ha-tát con nay sơ lược giải thích các tướng của Đại thừa.

Từ tâm Bồ-đề xuất sinh đại bi tương ưng, gọi là tất cả pháp. Như vậy tức phải hiểu rõ tất cả pháp là vô ngã.

Đây là tướng sở tri, cho nên nay nói về tướng này.

Sao gọi là tất cả pháp ?

Như là uẩn, xứ, giới, duyên sinh, Ba-la-mật-đa, địa, không, Bồđề phần, Thánh đế, tĩnh lự, vô lượng hành, Vô sắc v.v… cho đến giải thoát, Tam-ma-bát-để, tiên hành, giải thoát môn, thần thông, Đà-lani, lực, vô sở úy, vô ngại giải, đại từ, đại bi, Phật bất cộng pháp, các quả Thanh Văn, biết rõ tất cả tướng chân như thật tế, pháp giới vô tướng v.v… Đó là tất cả pháp.

Nói uẩn, tức 5 uẩn. Những gì là 5 ? Là săc thụ tưởng hành thức.

Sắc có 5 căn 5 cảnh. Căn là mắt tai mũi lưỡi thân. Cảnh là sắc, tiếng, mùi, vị, sự chạm xúc. Cái mà nhãn thức nương tựa là thanh tịnh nhãn căn, nhĩ thức nương tựa là thanh tịnh nhĩ căn, tỹ thức nương tựa là thanh tịnh tỹ căn, thiệt thức nương tựa là thanh tịnh thiệt căn, thân thức nương tựa là thanh tịnh thân căn.

Có 2 loại sắc: hiển sắc và hình sắc. Hiển sắc là như màu xanh v.v… Hình sắc là như dài v.v…

Có 3 loại thanh: chấp thụ đại chủng, không chấp thụ đại chủng và đều là đại chủng.

Có 2 loại hương: mùi thơm và mùi hôi.

Có 6 thứ vị: đắng, chua, ngọt, cay, mặn, nhạt.

Có 11 loại chạm xúc: cứng, loãng, thấm ướt, ấm nóng, khô ráo, động nhẹ, nặng nhẹ, trơn láng, thô ráp, mềm, đói khát. Các sự chạm xúc như vậy, nói chung có 3 thứ là vừa ý, không vừa ý và trung gian.

Như vậy do nhãn v.v… sinh ra. Nếu là giới thú thì phân biệt có 3 đời, phân biệt có vô biên phần, các hành tướng vi tế sai biệt. Phải biết những thứ như vậy sơ lược gọi là sắc uẩn.

Thụ uẩn như thế nào ?

Có 3 thứ thụ uẩn: khổ thụ, lạc thụ và phi khổ phi lạc thụ. Nhưng 3 thụ này nếu dựa vào mắt v.v… mà phân biệt thì có 6 phần. Như vậy theo phân biệt đó thì thụ có 18. Như trong hạ giới nói riêng về hành tướng này thì thụ uẩn này là nếu các giới thú phân biệt thì có vô biên phần hành tướng. Phải biết những thứ như vậy sơ lược gọi là thụ uẩn.

Tưởng uẩn như thế nào ?

Có 6 thứ tưởng uẩn. Hành tướng này nghĩa là dựa vào mắt v.v… phân biệt cảnh tướng sở thủ. Có 6 thứ tướng sở thủ là sắc v.v… Nhưng tính sở y thì không thể phân biệt. Hoặc phân biệt hoặc không phân biệt tức là 2 pháp sắc thụ. Những thứ này đều từ tự loại của ngã uẩn khởi. Tưởng uẩn này nếu các giới thú phân biệt thì có vô biên phần hành tướng. Phải biết những thứ như vậy sơ lược gọi là tưởng uẩn.

Hành uẩn như thế nào ?

Nghĩa là tâm sở hữu pháp như tín v.v… các thiện phần, tham sân si v.v. các phiền não phần. Như vậy tâm sở pháp, các phần vị của tâm có hành tướng dựa vào nhãn v.v… chuyển. Hành uẩn này nếu các giới thú phân biệt thì có vô biên phần hành tướng. Phải biết những thứ như vậy sơ lược gọi là hành uẩn.

Thức uẩn như thế nào ?

Là 6 thức thân. Thức uẩn này nếu y vào nhãn v.v…căn sắc v.v… cảnh phân biệt và tướng của thức kia, cho đến thiện, bất thiện, vô ký v.v… phân biệt có vô biên hành tướng. Phải biết những thứ như vậy sơ lược gọi là thức uẩn.

Nói chung như trên gọi là 5 uẩn.

Nói xứ tức là 12 xứ. Gồm 6 xứ bên trong là mắt tai mũi lưỡi thân và ý, 6 xứ bên ngoài là sắc thanh hương vị xúc và pháp.

Trong đây nên biết mắt v.v… 5 căn, sắc v.v… 5 cảnh gọi là 10 sắc xứ. Ý xứ tức các thức. Ngoài ra các pháp khác gọi là pháp xứ.

Nói giới tức 18 giới. Đó là 6 căn giới, 6 cảnh giới và 6 thức giới.

Trong đây nhãn thức v.v… phân biệt có 6 thứ, tức có 6 xúc, là nhãn xúc… cho đến ý xúc. Còn sắc thức v.v… có 3 tướng, là thiện bất thiện và trung gian.

Hành tướng này như nhãn xúc v.v… là nhân tính sinh 3 thụ. Tức là 3 thụ kia từ nhãn xúc v.v… sinh ra 6 thứ. Sáu thứ kia mỗi mỗi phân biệt làm 3 thứ là khổ, lạc và phi khổ lạc.

Như vậy nói chung xúc thụ đều có 18 thứ. Như trên thụ uẩn đã cho thấy, hành tướng cũng như vậy.

Lại nữa, các tướng địa thủy hỏa phong không thức, gọi là 6 giới.

Nói duyên sinh, hành tướng như thế nào ? Tức 12 duyên sinh.

Những gì là 12?

Tức là vô minh cho đến lão tử.

Vô minh là đối với nghiệp quả, nó là bất chính hành trong thật pháp, cho nên do vô minh này khởi các phiền não. Vì vậy trong vô ngã chấp ngã uẩn v.v… mà có sở đắc.

Vô minh duyên hành. Có 3 thứ hành: phúc hành, tội hành và bất động hành. Phúc hành là 10 thiện nghiệp đạo. Tội hành là 10 bất thiện nghiệp đạo. Bất động hành là vô sắc, đẳng chí. Các hành ấy do vô minh làm nhân mà có các hành sinh khởi.

Hành duyên nơi thức nên nhãn v.v… các thức sinh trưởng chủng tử của quả ái, phi ái.

Thức duyên danh sắc. Danh sắc này là do thức nên đặt ra tên ấy là có sinh xứ. Cho nên thụ v.v… 4 uẩn là danh sắc, tức như ứng y danh mà lập.

Danh sắc duyên 6 xứ. Nghĩa là 6 xứ ấy do danh sắc mà nhãn v.v… 6 xứ được kiến lập.

Sáu xứ duyên xúc. Xúc là như nhãn v.v… sắc v.v… như trước đã nói.

Xúc duyên thụ. Có 3 thứ thụ cũng như trước đã nói.

Trong đây phải biết hành tướng của xúc thụ.

Thụ duyên ái. Ái là do vô minh.

Ái duyên thủ. Thủ là sắc v.v… sở thủ mà sinh lạc hành.

Thủ duyên hữu. Hành tướng của hữu là như trước nói các tướng của hành thức.

Hữu duyên sinh. Nghĩa là các danh sắc có sinh khởi. Do vô minh nên có sinh pháp. Tự tính của vô minh này cũng không có phần vị.

Sinh duyên lão tử. Lão là các uẩn suy thoái. Tử là các uẩn hoại diệt. Sinh pháp sau biến đổi mà không có thật, trước được thân rồi cuối cùng rời bỏ thân. Nhưng cái vô minh kia lại tùy chuyển ở trong uẩn sau, tăng trưởng tất cả lỗi lầm phiền não. Chúng đều là nhân của nghiệp vô minh tự loại phiền não. Cho nên sinh ra nghiệp phiền não.

Ba cái này không dứt thì luân hồi tiếp tục lưu chuyển. Biết như vậy phải khởi đối trị thật pháp, hiểu rõ vô minh v.v… tự tính không có ngã. Đó là sơ lược nói 12 duyên sinh.

Nói Ba-la-mật-đa, hành tướng như thế nào ?

Có 10 Ba-la-mật-đa.

Thí có 3 thứ: pháp thí, vô vọng thí và từ thí.

Giới có 3 thứ: nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới và nhiêu ích hữu tình giới.

Nhẫn nhục có 3 thứ: đế sát pháp nhẫn, oán hại nhẫn và an thụ khổ nhẫn.

Tinh tiến có 3 thứ: bị giáp tinh tiến, gia hành tinh tiến và tất cánh thành tựu tinh tiến.

Định có 3 thứ: ly quá thất định, dẫn phát định và biện sự định.

Tuệ có 3 thứ: văn sở thành tuệ, tư sở thành tuệ và tu sở thành tuệ.

Phương tiện có 3 thứ: ly quá phương tiện, chẩn tế phương tiện và tốc chứng lạc phương tiện.

Nguyện có 3 thứ: tự hành thành tựu nguyện, giải chúng sinh phược nguyện và thanh tịnh Phật độ nguyện.

Lực có 3 thứ: thành biện sự nghiệp lực, diệt trừ phiền não lực và hàng phục ma oán lực.

Trí có 3 thứ: vô phân biệt trí, phân biệt bình đẳng giác liễu trí và diệt chúng sinh tội trí.

Như vậy thí v.v… các Ba-la-mật lấy tâm Bồ-đề làm đầu, trước tiên đối với chúng sinh khởi quán từ tâm, đối với các sở hành trong các thế gian không có hành tướng cũng không sở đắc, đối với xuất thế uẩn v.v… đó là tướng vô ngã giải thoát, như lý mà quán chân thật sở chứng.

Nói địa, tức 10 địa:

Hoan hỷ địa tu thí Ba-la-mật-đa.

Ly cấu địa tu giới Ba-la-mật-đa.

Phát quang địa tu nhẫn nhục Ba-la-mật-đa.

Diệm tuệ địa tu tinh tiến Ba-la-mật-đa.

Nan thắng địa tu định Ba-la-mật-đa.

Hiện tiền địa tu tuệ Ba-la-mật-đa.

Viễn hành địa tu phương tiện Ba-la-mật-đa.

Bất động địa tu nguyện Ba-la-mật-đa.

Thiện tuệ địa tu lực Ba-la-mật-đa.

Pháp vân địa tu trí Ba-la-mật-đa.

Như vậy pháp sở đắc của các địa là lý vô ngã, đều do tâm từ chứng đắc, nên đều không sai biệt, mà việc tu thí v.v… các Bala-mật-đa được an trụ thắng thượng thanh tịnh, thành tựu phổ biến nguyện lực rộng lớn, và không chung với tất cả Thanh Văn. Cho nên tướng sở duyên các Ba-la-mật-đa này không sai biệt, vì nhân cũng như pháp đều lìa tướng, đều không.

Nói không, tức 18 không.

Nghĩa là nhãn v.v… không, là nội không.

Sắc v.v… không, là ngoại không.

Nhãn v.v… , sắc v.v… , trí quán bình đẳng, là nội ngoại không.

Phương đẳng các phần tướng khí thế gian, mỗi mỗi quán sát mỗi mỗi đều không, gọi là đại không.

Đối với các phân biệt lìa tính thủ xả, gọi là không.

Cái không này cũng không, gọi là không không.

Đối với thắng nghĩa đế không thể quán được, gọi là thắng nghĩa không.

Đối với thí v.v… hành các pháp hữu vi đều bình đẳng, gọi là hữu vi không.

Các pháp vô vi không có tưởng phát ngộ, gọi là vô vi không.

Ở trong pháp không, không có một chút pháp nào thật có thể chuyển, tan mà không nhóm họp, gọi là tán không.

Tất cả pháp không có ranh giới, gọi là vô tế không.

Trong tất cả pháp hoàn toàn không một pháp nào là chẳng không, gọi là tất cánh không.

Uẩn v.v… các pháp tự tính như thị, không sinh khởi, lìa tướng tự thủ xả, gọi là tự tướng không.

Tất cả pháp không kia, là không sai biệt, gọi là nhất thiết pháp không.

Ở trong ngã uẩn không thể thủ xả, gọi là bất khả đắc không.

Cái bất khả đắc này là bất khả đắc của sắc v.v… các tướng, cho nên chỉ có tính của các nghiệp, gọi là vô tướng không.

Hoặc nhân, hoặc pháp, tự tính nó là không, gọi là tự tính không. Ở trong các tính, lìa tính thủ xả, gọi là vô tính không.

Cái vô tính kia là lìa uẩn v.v… không có tính riêng biệt. Cho nên nếu lìa uẩn v.v… tự tính khởi phân biệt không, đó là tướng đối ngại, tức gọi là vô tính tự tính không.

Nếu phân biệt như vậy hết các xứ tức có thể giải thoát các trói buộc của sắc v.v… không phân biệt có vô biên phần, lìa các thủ xả của uẩn v.v…. Đó tức là một tướng, mà tính một tướng kia không có hai. Do vậy nên an trụ một cảnh trong Ba-la-mật-đa. Tướng tự tính không lý, lìa hý luận tức là vô ngã chân như thật quán.

Nói Bồ-đề phần, tức 37 Bồ-đề phần. Đó là 4 niệm xứ cho đến 8 chính đạo.

Bốn niệm xứ là 4 điều phải luôn luôn nghĩ nhớ. Đó là thân, thụ, tâm và pháp.

Thân niệm xứ là quán sát thân này không thật có, do các thứ tụ họp mà thành nên không chấp đắm, lìa tướng thủ xả. Đó là thân niệm xứ. Thụ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ cũng quán như vậy.

Lại nữa, trong pháp niệm xứ này nếu phân biệt trong, ngoài và trung gian thì có 3 thứ: tinh tiến, định và chính niệm. Ba thứ này tương ưng nhau tức có thể quán sát tâm Bồ-đề tối thắng của các Bồtát và thí v.v… các thiện hạnh. Trong tất cả pháp được vô ngã tương ưng với niệm tối thắng này.

Lược nói như vậy gọi là 4 niệm xứ. Ngoài ra các pháp khác cũng hiểu như vậy.

Bốn chính đoạn, là đối trị những thứ chẳng phải Bồ-đề phần. Tức đã sinh thì đoạn trừ, chưa sinh thì làm cho không sinh. Đây gọi là siêng năng đoạn trừ 2 bất thiện. Chẳng phải đối trị là Bồ-đề phần. Chưa sinh thì làm cho sinh, sinh rồi thì làm cho tăng trưởng. Đây gọi là siêng năng tu tập 2 thiện.

Như vậy đã nói sơ lược về 4 chính đoạn.

Bốn thần túc, là dục, tinh tiến, Tam-ma-địa và tuệ. Như vậy tương ưng thực hành tăng thượng đạt được quả. Lấy quả sở đắc mà quán dục v.v… các sở duyên là 4 thứ Tam-ma-địa mà thân tâm lìa các chỗ y trụ, lìa tưởng tham, y chỉ vào tịch diệt hạnh vô sở tác.

Như vậy đã nói sơ lược về 4 thần túc.

Năm căn, 5 lực, là hiểu rõ quả của tất cả tướng. Nghĩa là căn và lực tương ưng tăng thượng của tín, tinh tiến, niệm, định, tuệ.

Như vậy đã nói sơ lược về 5 căn và 5 lực.

Lại nữa trong đây phải tu 2 phần giác liễu là noãn vị và đỉnh vị. Noãn vị tu 4 niệm xứ. Đỉnh vị tu 4 chính đoạn. Lại có 2 phần thắng giác liễu là nhẫn và thế đệ nhất pháp. Nhẫn vị tu 4 thần túc. Thế đệ nhất vị tu 5 căn 5 lực. Những thứ đó là hạnh vô sở tác. Tối thượng chân thật như tín v.v… căn, lực là hành tướng duyên kiến đạo. Phải biết kiến đạo phải tu là 7 giác chi.

Bảy giác chi, tức niệm giác chi cho đến xả giác chi.

Niệm giác chi, là tướng chính niệm hiện tiền, không quên mất nguyện làm lợi ích chúng sinh chứng Bồ-đề.

Trạch pháp giác chi, là đối với tự tính của ngã pháp, quyết định lựa chọn là tướng.

Hỷ giác chi, là tự mình tu đạo được nhân vô lậu nên sinh vui mừng.

Khinh an giác chi, là chứng chân thật pháp tính, xả bỏ những chủng tử không phải Bồ-đề phần nên nghiệp của thân, nghiệp của tâm được yên ổn nhẹ nhàng.

Định giác chi, là 4 vô lượng tâm và Bồ-đề nguyện nhập vào một cảnh tướng thuần nhất của trí chân như.

Tinh tiến giác chi, là tuy quán pháp môn công đức tịch tĩnh thắng thượng mà không đắm trước mùi vị và tiến tu các hạnh không biếng trễ nghỉ ngơi.

Xả giác chi, là nghĩ nhớ làm lợi ích chúng sinh, nếu cần phải điều phục thì tùy theo đó mà thực hành các pháp công đức của Bala-mật-đa. Bình đẳng phân biệt quán không đến không đi, vì an trụ bình đẳng.

Như vậy đã lược nói 7 giác chi.

Tức hành 7 giác chi là chính trí phần. Còn như hành tướng có thể đối trị phiền não chướng và sở tri chướng phải tu 8 chính đạo.

Tám chính đạo, là chính kiến cho đến chính định.

Chính kiến là hiểu rõ tướng của tất cả pháp là vô ngã, trụ nơi bình đẳng, khổ v.v… điên đảo là 2 phần quán thắng tuệ của tướng vi diệu.

Chính tư duy, là khởi liên tục tư duy về tác nhân, như nguyện mà chứng quả.

Chính ngữ, là nói năng lìa hư vọng phân biệt, nói như thật.

Chính nghiệp, là những việc làm không điên đảo, không hại chúng sinh, cứu vớt chúng sinh, lìa vọng mà tu.

Chính mạng, là sống thanh tịnh lìa các tà vọng, tự tu tự mình chứng.

Chính cần, là tuy đến tối thượng địa mà vẫn tăng tiến, thân không mệt mỏi, tâm dũng mãnh phấn chấn.

Chính niệm, là như thật mà quán các niệm xứ, lấy tâm từ trang nghiêm nguyện của mình, phương tiện đối với tất cả pháp không quên mất.

Chính định, là thân nghiệp v.v… thường y chỉ vào công đức tối thắng, an trụ trí vô phân biệt, tức tương ưng bình đẳng với các tướng tĩnh lự.

Như vậy là đã nói sơ lược 37 Bồ-đề phần pháp. Tùy theo chỗ thích ứng mà tổng lược hành tướng.

HẾT QUYỂN THƯỢNG

 

QUYỂN HẠ

Lại nữa, nói thánh đế, tức 4 thánh đế: khổ, tập, diệt và đạo.

Khổ thánh đế, là uẩn v.v… các tướng điên đảo, tính của nó là trái với thánh pháp.

Tập thánh đế, là như đã nói khổ do vô minh, hành v.v…các nghiệp phiền não tập họp làm duyên, với sinh v.v… các khổ làm tính của nhân.

Diệt thánh đế, là đối với tất cả pháp, cái tướng như thật vô phân biệt, vô sinh là tính. Đối trị si ám thế gian, diệt như chỗ chứng.

Đạo thánh đế, là các pháp từ tâm và pháp niệm xứ nhằm hướng đến Bồ-đề. Tổng lược gồm các thánh đế đây, duyên bình đẳng đối với các pháp.

Đó là lược nói 4 thánh đế.

Nói tĩnh lự, tức 4 tĩnh lự. Ly sinh hỷ lạc là sơ tĩnh lự. Định sinh hỷ lạc là tĩnh lự thứ hai. Ly hỷ diệu lạc là tĩnh lự thứ ba. Xả niệm thanh tịnh là tĩnh lự thứ tư.

Như vậy cả 4 tĩnh lự đều là tướng tịch chỉ. Dục giới v.v… tâm tham không lưu động gọi là tĩnh lự. Nhưng các Bồ-tát cũng không tham đắm mùi vị của các vui tĩnh lự. Rốt ráo không bỏ chúng sinh, viên mãn pháp Bồ-tát đạo, thành tựu vô lượng hành.

Như vậy là đã lược nói 4 tĩnh lự.

Nói vô lượng hành, tức 4 vô lượng hành: từ, bi, hỷ và xả. Cả 4 hành đây đều duyên vô lượng chúng sinh làm cảnh giới.

Từ vô lượng hành, là rốt ráo làm lợi lạc tất cả chúng sinh, việc tu các hành đều hoàn toàn lìa tướng, xa lìa điên đảo thuận đạo Bồ-tát.

Bi vô lượng hành, là không để cho chúng sinh có một khổ. Tính của bi này có thể đối trị để không khởi não hại.

Hỷ vô lượng hành, là chứng tất cả pháp vô ngã bình đẳng, có được thí v.v… các thiện thì trụ tâm Bồ-đề vì lợi lạc rộng rãi tất cả chúng sinh, phương tiện ra làm như có sinh hỷ thì đó là tướng của hỷ thụ.

Xả vô lượng hành, là trong ba cõi phân biệt bình đẳng, khởi hạnh rộng lớn cứu giúp chúng sinh, đối với mình được cái vui Tamma-địa mà không tham đắm mùi vị. Đây có thể đối trị lỗi lầm phóng dật, tâm trụ thật tướng. Nếu phải điều phục tất cả chấp tướng của thế gian v.v… tâm đã có thể an trụ tịch tĩnh. Đối với các sắc tưởng, đối trị thật pháp. Lại nữa, đối với vô lượng pháp môn được pháp bình đẳng, trụ pháp vô ngã mà chứng như lý, được tất cả bình đẳng pháp lạc. Đó gọi là được tối thắng tự tại.

Như vậy là đã lược nói 4 vô lượng hành.

Nói Vô sắc đẳng chí, có 4 thứ: không vô biên xứ cho đến phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Không vô biên xứ đẳng chí, là lìa tưởng đối ngại các thứ sắc, quán vô biên không mà tương ưng, xả các hữu tướng, tâm trụ một cảnh.

Lại nữa, thức vô biên xứ đẳng chí, vô sở hữu xứ đẳng chí, phi tưởng phi phi tưởng xứ đẳng chí, tất cả đều hành tịch tĩnh như tương ưng ban đầu, quán tướng vô tham làm sở duyên, ngoài ra còn quán sát vô trước, vô ngại. Như thích ứng, tối thượng vô tướng xuất sinh. Như vậy là đã lược nói 4 Vô sắc đẳng chí.

Nói giải thoát, tức 8 giải thoát. Nghĩa là nội hữu sắc quán ngoại sắc giải thoát, cho đến diệt thụ tưởng giải thoát.

Nội hữu sắc quán ngoại sắc giải thoát là bên trong quán tưởng hữu sắc lìa sự tham sắc bên ngoài. Đó gọi là nội hữu sắc quán ngoại sắc giải thoát.

Lại nữa, như hành tướng nội vô sắc tưởng, lìa ngoại sắc tham, gọi là nội vô sắc quán ngoại sắc giải thoát.

Lại nữa, đối với sắc v.v… trụ thanh tịnh không tham, gọi là tịnh giải thoát.

Lại nữa, không vô biên xứ giải thoát, thức vô biên xứ giải thoát, vô sở hữu xứ giải thoát, phi tưởng phi phi tưởng xứ giải thoát, như vậy là 4 Vô sắc xứ giải thoát đều trụ nơi hành tướng mà quán như thật.

Lại nữa, hành tướng giải thoát của diệt thụ tưởng cũng hiểu như vậy.

Như vậy đã lược nói 8 giải thoát.

Nói Tam-ma-bát-để tiên hành, nghĩa là muốn trụ nơi các Tamma-bát-dể của không vô biên xứ kia v.v…, trước tiên phải diệt các hành tướng, trụ pháp tự tính bình đẳng tịch tĩnh, sau phải an trụ các Tam-ma-bát-để. Đó gọi là tiên hành.

Lại nữa, phải biết 4 Vô sắc đẳng chí và diệt tận đẳng chí nầy mà các Bồ-tát Ma-ha-tát trong Mạo-lí-nhã-đa vị nhập Sư tử du hý Tamma-địa hiện tiền mà quán. Không bị cái tâm chẳng phải Tam-ma-hứđa làm gián đoạn. Cũng không bị các tĩnh lự ban đầu làm gián đoạn.

Diệt tận đẳng chí này là tướng không động.

Trong đây các Tam-ma-bát-để vì sao thứ tự như vậy ? Nghĩa là vì thành thục chúng sinh nên phải quán thứ tự như vậy.

Lại nữa, phải biết đây là tối thượng lạc môn, đạt được cái lạc này thì liễu ngộ ngã là không thật. Ngã không thật nên tự tâm vắng lặng. Tu tập các thần thông Ba-la-mật v.v… đều quán thắng tuệ như thật sinh ra.

Đây là tóm lược tướng tất cả pháp.

Nói giải thoát môn, tức 3 môn giải thoát: không, vô tướng và vô nguyện.

Không giải thoát môn, là hoặc người, hoặc pháp, các uẩn v.v… lìa tướng phân biệt mà các uẩn kia hoặc nhiễm hoặc tịnh, trong tướng phân biệt hoàn toàn vô tính, trong pháp không thì lìa tướng thủ xả, mà trí vô nhiễm như thật đối trị.

Vô tướng giải thoát môn, là đối với uẩn v.v… hoàn toàn vô tướng. Do vô tướng nên không thể thủ. Trí vô nhiễm kia như thật đối trị, không đeo bám các tướng.

Vô nguyện giải thoát môn, là đối với tất cả môn thanh tịnh giải thoát, uẩn xứ giới và Ba-la-mật-đa viên mãn thắng hạnh tối thượng, tất cả các tướng đều biết như thật, như thật xuất sinh, hiện tiền bình đẳng lìa các sở thủ, vì tâm nguyện lạc.

Như vậy là lược nói 3 môn giải thoát.

Nói thần thông, có 6 thứ. Nghĩa là thiên nhãn thông, cho đến lậu tận thông.

Thiên nhãn thông là đối với các sắc tướng chính quán vô ngại, tối thắng thanh tịnh.

Thiên nhĩ thông, là đối với tất cả âm thanh có thể nghe thanh tịnh.

Tha tâm thông, là đối với tất cả hành tướng trong tâm người khác, có thể biết như thật.

Túc trụ thông, là các việc quá khứ của mình của người khác đều có thể nghĩ nhớ.

Thần cảnh thông, có 3 thứ. Nghĩa là ẩn, hiển và tự tại, tùy các thế giới hiện các thứ thân. Qua lại trong hư không không trở ngại, ứng hiện tùy theo việc làm. Tùy theo thich ứng làm các thần thông mà không hiện thân tướng.

Lậu tận thông, là các vô minh như tham v.v… phiền não, gọi là lậu. Trí đoạn trừ hết không còn sót gọi là lậu tận. Như vậy tối thắng 6 thông, an trụ tâm Bồ-đề, lìa trí hý luận. Đó là chỗ tu tập thắng thượng của các Bồ-tát, không cùng chung với tất cả Thanh Văn đạo v.v… Viên mãn vô tướng, tính vô phát ngộ. Đó là đạo hạnh bình đẳng của các Ba-la-mật-đa, bao gồm tất cả pháp tự tu, tất cả nguyện lực, tất cả tướng cho nên dũng mãnh tinh tiến làm tiên phong, an trụ tối thượng thanh tịnh, tâm một cảnh tính. Sơ tĩnh lự v.v…, như tên như nghĩa tùy ứng sai biệt tổng lược gồm vô biên hành tướng, cho nên được Tam-ma-da giữ gìn.

Như vậy là đã lược nói về 6 thông.

Nói Đà-la-ni, là tất cả tướng và tất cả pháp, tất cả pháp tính tùy thích ứng thâu nhiếp thanh, tên, câu, văn làm tướng của các nghĩa. Có vô lượng niệm, vô biên biện tài và các Tam-ma-địa môn. Trí vô tướng đều có thể chứng nhập đối trị hữu tướng, hữu ngại tâm nên là Đà-la-ni môn được tối thắng vô thượng Bồ-đề. Mà tất cả Tam-mađịa Đà-la-ni kia Kim cương dụ định hiện tiền chứng nhập tức tất cả tướng phổ biến bình đẳng, nhập vô tướng trí chân thật mà chứng, xả ly tất cả chủng tập, trí quán bính đẳng đại bi tương ưng, chỗ làm kiên cố. Đối với các pháp tính như thật giải thoát, thắng báo hiện tiền, bình đẳng an trụ, đại viên kính trí như thật xuất sinh, tất cả nguyện lực đều được viên mãn.

Như vậy là đã lược nói về Đà-la-ni.

Nói lực là nói 10 lực của Phật. Tức xứ phi xứ trí lực cho đến lậu tận trí lực.

1. Xứ phi xứ trí lực, là trong tất cả mọi xứ, nhân quả quyết định hay không quyết định, trí hiểu biết như thật. Hoặc Phật, hoặc Phạm vương, hoặc Chuyển luân thánh vương, trí kia quyết định được thắng báo, gọi là xứ. Phi xứ, là nhân quả không quyết định hành tướng.

2. Nghiệp báo trí lực, là chúng sinh tạo các thiện nghiệp ác nghiệp sinh về nẻo thiện nẻo ác. Các nghiệp báo này, trí biết như thật.

3. Chủng chủng giới trí lực, là trí biết như thật các cõi, các nẻo đến sai biệt của chúng sinh.

4. Chủng chủng thắng giải trí lực, là các Thanh Văn v.v… ở trong các pháp khởi các thứ thắng giải, lìa các nhiễm pháp, hướng đến tướng vắng lặng. Trí như thật biết các điều như vậy.

5. Liễu biệt chư căn trí lực, là trí biết như thật các thứ sai biệt của tín v.v… các căn của chúng sinh.

6. Chủng chủng định trí lực, là trí biết như thật các Tam-mađịa, Tam-ma-bát-để của sơ tĩnh lự v.v… Như tên gọi, nghĩa, vô biên hành tướng.

7. Chí xứ đạo trí lực, là đạo có 2 thứ: phi ái lạc đạo, tức vô minh v.v…, và khả ái lạc đạo tức tịch diệt v.v… Mà diệt kia trí biết như thật các chỗ chứng sai biệt của Thanh Văn Duyên Giác và chư Bồ-tát.

8. Sinh diệt trí lực, là trí biết như thật các thứ sinh diệt của chúng sinh.

9. Túc trụ tùy niệm trí lực, là ghi nhận nghĩ nhớ như thật các việc quá khứ.

10. Lậu tận trí lực, là trí đại viên kính của chư Phật Thế Tôn quán sát tự tính lìa các chướng nhiễm phân biệt bình đẳng.

Như vậy xứ phi xứ v.v… các lực Như Lai thần thông du hý đã chứng. Các lực này đầy đủ nên quán tăng thượng tất cả pháp.

Như vậy là đã lược nói 10 lực.

Nói vô úy, tức 4 vô sở úy:

  1. Nhất thiết trí vô úy.
  2. Lậu tận vô úy.
  3. Thuyết chướng đạo vô úy.
  4. Xuất khổ đạo vô úy.

Các vô úy này hoặc khác hoặc chẳng phải khác, những gì nói ra đều vô sở đắc vô úy tự tại. Bốn vô úy này đều lấy bình đẳng tính trí mà quán sát. Như ngọc báu như ý, tùy ý muốn của chúng sinh mà phổ biến bình đẳng. Pháp này cũng vậy, ngã tướng thanh tịnh, lìa các chấp hữu.

Như vậy là đã lược nói 4 vô sở úy.

Nói vô ngại giải, là: nghĩa, pháp, lạc thuyết và biện tài.

Nghĩa vô ngại giải, là đối với tất cả chúng sinh không có tướng ngã, đem trí vi diệu bình đẳng mà quán sát.

Pháp vô ngại giải, là tùy các tướng hiểu biết các pháp, trí quán bình đẳng.

Lạc thuyết vô ngại giải, là tùy theo chỗ thích nói, năng thuyết sở thuyết không lìa tự tính.

Biện tài vô ngại giải, là trong vô lượng pháp môn, tùy thích ứng phân biệt thông suốt vô tướng.

Các pháp vô ngại giải này cùng với tất cả pháp tương ưng tăng thượng đều nhiếp hóa những kẻ ngu si khiến được điều phục mà an trụ trong các pháp ly tướng bình đẳng. Bốn pháp này đều lấy trí diệu quán sát mà quán sát.

Như vậy là đã lược nói về 4 vô ngại giải.

Nói đại từ đại bi, là từ tức cho chúng sinh sự an lạc, trụ tâm tịch tĩnh, không tướng phát ngộ, rộng lớn vượt trội lìa tướng bình đẳng. Bi là bạt khổ, điều phục cái khó điều phục, không bỏ chúng sinh, lìa các hữu tướng. Đại từ đại bi này đều dùng trí thành sở tác mà quán sát.

Như vậy là đã lược nói về đại từ đại bi.

Nói Phật bất cộng pháp, là 18 pháp không chung. Nghĩa là Như Lai thân không lỗi, cho đến hiện tại tri kiến vô trước vô ngại.

Thân Như Lai không lỗi, là không có sự mỏi mệt, lìa các lỗi của thân.

Lời nói Như Lai không lỗi, không lời nói nào không phải ái ngữ, lìa các lỗi về nói năng.

Ý Như Lai không lỗi, là không mất niệm, lìa các lỗi của ý.

Ba nghiệp như vậy làm cho kẻ ngu si sinh tịnh tín.

Tâm không dị tưởng, là đối với tất cả chúng sinh, trụ tâm bình đẳng.

Tâm không bất định, là khiến chúng sinh ngu si trừ tưởng tán loạn.

Tâm không gì không biết xả, là các việc của chúng sinh không có gì không biết mà xả bỏ.

Sáu pháp trên đây là do giới học tăng thượng sinh ra, làm nhân cho vô trụ Niết-bàn.

Tin không giảm, là trong vô trụ Niết-bàn không hư hỏng niềm tin.

Dục không giảm, là không ái trước vô trụ Niết-bàn.

Tinh tiến không giảm, là đối với lợi dưỡng, mạng sống, tu hành, đều không bám trụ.

Tuệ không giảm, là rốt ráo việc trưởng dưỡng chúng sinh trong các thế gian, không gì không thông suốt.

Giải thoát không giảm, là không thủ tướng Niết-bàn của Thanh Văn v.v…

Giải thoát tri kiến không giảm, là vì trí lợi ích chúng sinh, phá tướng hý luận, khiến các chúng sinh đều bình đẳng chứng đắc vô thượng Niết-bàn.

Sáu pháp trên đây do từ định học tăng thượng sinh ra, duyên với vô trụ Niết-bàn.

Thân nghiệp hành động theo trí tuệ, là trong mọi nơi các tướng như cử động, hoặc dừng nghỉ, hoặc đi kinh hành v.v… thường cùng với trí tuệ tương ưng. Cho nên trí tuệ là dẫn đầu.

Ngữ nghiệp hành động theo trí tuệ, là tất cả nói năng lìa hư vọng phân biệt, thường cùng với trí tuệ tương ưng. Cho nên trí tuệ là dẫn đầu.

Ý nghiệp hành động theo trí tuệ, là đối với chúng sinh trụ tâm bình đẳng, tùy theo lợi ích mà làm không sai biệt, thường cùng với trí tuệ tương ưng. Cho nên trí tuệ là dẫn đầu.

Vô trước vô ngại đối với các tri kiến quá khứ, là trong không có tính gọi là vô trước, ngoài lìa các trói buộc gọi là vô ngại. Đối với tất cả pháp quá khứ đều biết bình đẳng, phá tướng hý luận.

Vô trước vô ngại đối với các tri kiến vị lai, là đối với tất cả pháp vị lai đều biết bình đẳng, phá tướng hý luận.

Vô trước vô ngại đối với các tri kiến hiện tại, là đối với tất cả pháp hiện tại đều biết bình đẳng, phá tướng hý luận.

Sáu pháp trên đây do tuệ học tăng thượng sinh ra. Các pháp này là vô thượng thắng trí, chỉ Phật Như Lai mới thành tựu viên mãn, vì lợi ích chúng sinh mà tùy chuyển với chúng sinh, là trí pháp giới thanh tịnh sinh ra, mà các Thanh Văn không cùng có trí này.

Như vậy đã lược nói 18 pháp không chung.

Nói quả Thanh Văn, tức 4 quả của Thanh Văn, là Tu-đà-hoàn cho đến A-la-hán.

Tu-đà-hoàn là hạng chán khổ cầu vui, tùy ứng mà đoạn trừ phiền não, 7 lần sinh tử kiến khổ đế v.v… ngộ nhân vô ngã hướng đến Niết-bàn.

Tư-đà-hàm là hạng chán khổ cầu vui, tùy ứng mà đoạn trừ phiền não, một lần trở lại cõi này, kiến khổ đế v.v…ngộ nhân vô ngã hướng đến Niết-bàn.

A-na-hàm là hạng chán khổ cầu vui, không còn sót phiền não Dục giới để đoạn không trở lại Dục giới. sắc giới Vô sắc giới tùy ứng giải thoát, kiến khổ đế v.v… ngộ nhân vô ngã hướng đến Niết-bàn.

A-la-hán là hạng đã đoạn hết phiền não ba cõi, tận cùng biên giới của khổ, ngộ lý vô ngã, tùy ứng giải thoát hướng đến Niết-bàn.

Như vậy là đã lược nói 4 quả Thanh Văn.

Nói liễu tri tất cả tướng, là chư Phật Như Lai hiểu rõ như thật tất cả tướng hiện tiền bình đẳng.

Tất cả tướng, tức tất cả pháp. Chư Phật Như Lai vì lợi ích thế gian, tất cá đều phương tiện tùy ứng, được pháp không quên mất, trụ tướng kiên cố.

Trong đây 3 thân cũng gọi là nhất thiết tướng. Pháp thân là trí tướng của tự tính vô ngã, vì không sai biệt. Báo thân là tướng tối thắng, vì là tính sở y của trí nhất thiết tướng. Hóa thân là tướng sở tác sự, trong tất cả mọi nơi thi thiết ứng hiện để hóa độ.

Lại nữa, nhất thiết tướng tuy có liễu tri mà không phân biệt, vì lợi ích chúng sinh mà tùy ứng. Tướng này vắng lặng, không duyên, tự tính tất cả bình đẳng. Tất cả tướng của các uẩn cũng vô biên hoặc ở trong ba cõi hoặc ra ngoài ba cõi. Phải hiểu biết như thật các tướng là bất khả đắc.

Như vậy là hiểu biết tất cả tướng.

Nói chân như, là tự tính tất cả pháp, lìa thủ xả. Dầu trí, dầu ngu, dầu sắc, dầu tâm, trụ nơi tính bình đẳng, lìa vọng, không phân biệt. Đó gọi là chân như.

Nói thật tế, tức tính Bồ-đề, tất cả như lượng, như thật, lìa các phân biệt. Trong đây phải biết như Phật nói tính của ngã uẩn v.v… hoàn toàn là vô sở đắc. Còn ở tha lượng thì không thể nói. Đó gọi là thật tế.

Nói vô tướng, tức nói chân như kia là không có tướng. Mà chân như cũng chỉ là giả mượn danh tự để phân biệt, cho nên trong danh tự thì tính của nó cũng bất khả đắc. Phải biết tính của ngã v.v… tức tự tính các pháp. Cho nên trong đây hoặc nhân hoặc pháp phải lìa tất cá các tướng mà chỉ đồng một tướng. Cái một tướng này tức tướng không đối ngại của tất cả pháp, lìa các phân biệt, trong đệ nhất nghĩa, tự tính không động. Đó là vô tướng.

Nói pháp giới, tức quả pháp và các nhân pháp của 10 lực, cho đến chỗ sở y của tự tính tất cả pháp. Đó là pháp giới. Trong pháp giới này xa lìa tất cả tướng hư vọng điên đảo phân biệt. Trí tuệ sáng suốt như thật chiếu rõ hiện tiền.

Đó gọi là pháp giới.

Lại nữa, phải biết trong đây chân như v.v…, trí đại viên kính v.v… tức vô sở tác môn của tất cả pháp. Vô sở tác môn của chân như kia tức tự tướng môn của các pháp.

Lại nữa, phải biết trong đây chân như và 10 lực đều lấy đại viên kính trí mà quán sát. Chứng thật tế và 4 vô sở úy đều lấy bình đẳng tính trí mà quán sát. Tính vô tướng vi diệu thanh tịnh và 4 vô ngại giải đều lấy diệu quan sát trí mà quán sát. Tính chân thật sở chứng sở y của tất cả pháp trong pháp giới và đại từ đại bi đều lấy thành sở tác trí mà quán sát. Tất cả mọi nơi các quán pháp tăng thượng thảy đều an trụ trong pháp giới thanh tịnh trí.

Như vậy tất cả pháp thảy đều như lượng, chính ngữ tương ưng với tâm Bồ-đề. Đại từ tùy thuận tất cả chúng sinh là sở duyên bình đẳng đồng nhất của tất cả pháp, tương ưng pháp môn tối thượng vô tướng bao gồm tất cả pháp Ba-la-mật-đa. Cho nên tùy chỗ làm mà tương ưng như lượng. Vì tương ưng này nên gọi tất cả pháp vô ngã. Người trí phải biết Phật nói pháp là từ giải thoát môn như thật mà ra.

Trí tuệ chư Phật không gì trên,

Nói ra nhân tính cũng vô biên.

Nơi vô biên kia biết như thật,

Tất cả tương ưng mà biểu thị.

Pháp môn tương ưng hiến các tính,

Túy nghi phương tiện mà xuất sinh.

Đại tuệ sở tác đều viên thành,

Ta vì lợi lạc nên diễn nói.

HẾT QUYỂN HẠ