LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
TẬP V
QUYỂN 100
Phẩm thứ tám mươi chín
(tiếp theo)
Đàm Vô Kiêt
(Tiếp theo)
KINH:
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân, vị trưởng giả nữ cùng 500 vị thị nữ đến chỗ Bồ Tát Đàm Vô Kiệt rải hoa cúng dường xong, đầu mặt cung kính đảnh lễ, rồi đứng sang một bên.
Bồ Tát Đàm Vô Kiệt thấy đại chúng đã ngồi xong, liền bảo Bồ Tát Đà Ba Luân rằng: này Thiện Nam Tử! Hãy lắng nghe và tín thọ. Nay ta vì ông nói về tướng của Bát Nhã Ba La Mật.
Này Thiện Nam Tử! Các pháp bình đẳng, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bình đẳng.
Các pháp ly, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng ly.
Các pháp bất động, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bất động.
Các pháp vô niệm, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô niệm
Các pháp vô úy, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô úy.
Các pháp nhất vị, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng nhất vị.
Các pháp vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Các pháp vô sanh, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô sanh.
Các pháp vô diệt, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô diệt.
Hư không vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Nước trong biển lớn vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Núi Tu Di trang nghiêm, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng trang nghiêm.
Hư không vô phân biệt, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô phân biệt.
Sắc vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Thọ, tưởng, hành, thức vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Địa chủng vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Không chủng vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên.
Như kim cang bình đẳng, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bình đẳng.
Các pháp vô phân biệt, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô phân biệt.
Pháp tánh bất khả đắc, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bất khả đắc.
Các pháp vô sở hữu bình đẳng, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô sở hữu bình đẳng.
Các pháp vô tác, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô tác.
Các pháp bất khả tư nghì, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bất khả tư nghì.
Ngay lúc ấy, Bồ Tát Đà Ba Luân, ngay tại chỗ ngồi, liền vào được các tam muội, như: Chư pháp bình đẳng tam muội – chư pháp vô úy tam muội – chư pháp nhất vị tam muội – chư pháp vô biên tam muội – chư pháp vô sanh tam muội – chư pháp vô diệt tam muội – hư không vô biên tam muội – đại hải thủy vô biên tam muội – Tu Di Sơn trang nghiêm tam muội – hư không vô phân biệt tam muội – sắc vô biên tam muội – thọ, tưởng, hành, thức vô biên tam muội – địa chủng vô biên tam muội – thủy chủng, không chủng, hỏa chủng, phong chủng vô biên tam muội – như kim cang bình đẳng tam muội – chư pháp vô phân biệt tam muội – chư pháp bất khả tư nghì tam muội
Như vậy, có đến 600 vạn tam muội.
Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: này Tu Bồ Đề! Như hôm nay, trong 3000 đại thiên thế giới, giữa chúng Tỷ Kheo Tăng vây quanh, ta lấy tướng như vậy, tướng mạo như vậy, danh tự như vậy mà thuyết Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát Tát Đà Ba Luân được 600 vạn tam muội thấy 10 phương chư Phật trong 3000 đại thiện thế giới, giữa chúng Tỷ Kheo Tăng vây quanh cũng lấy tướng như vậy, tướng mạo như vậy, danh tự như vậy, nên cũng thuyết Bát Nhã Ba La Mật như vậy.
Từ đấy trở về sau, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân được đa văn, được trí huệ bất khả tư nghì, tợ như nước trong biển lớn, thường chẳng xa rời chư Phật, thường sanh vào các cõi có Phật… dẫn đến trong mộng cũng chẳng lúc nào chưa từng thấy Phật cả. Khi hết thảy các nạn đều đoạn dứt, Bồ Tát này được tùy nguyện vãng sanh về các cõi Phật.
Này Tu Bồ Đề! Phải biết do nhân duyên Bát Nhã Ba La Mật mà chư Bồ Tát Ma Ha Tát thành tựu được hết thảy các công đức, được nhất thiết chủng trí,
Này Tu Bồ Đề! Bởi vậy nên chư Bồ Tát Ma Ha Tát muốn học 6 pháp Ba La Mật, muốn thâm nhập vào trí huệ của chư Phật, muốn được nhất thiết chủng trí, phải thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật; Phải vì người rộng thuyết Bát Nhã Ba La Mật phải biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật; Lại phải tôn trọng tán thán, dùng hương hoa… dẫn đến dùng kỷ nhạc cúng dường Bát Nhã Ba La Mật.
Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của 3 đời 10 phương chư Phật. Chư Phật trong 3 đời và trong 10 phương đều tôn trọng Bát Nhã Ba La Mật.
LUẬN:
Sau khi ở tam muội ra, Bồ Tát Đàm Vô Kiệt đến nới pháp tòa mà Bồ tát Tát Đà Ba Luân đã trang nghiêm sẵn. Khi Bồ Tát Đàm Vô Kiệt đã ngồi lên pháp tòa, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân, vị trưởng giả nữ cùng 500 vị thị nữ đến trước Bồ Tát Đàm Vô Kiệt cung kính đầu mặt đảnh lễ, rồi đứng sang một bên.
Có 3 trường hợp đảnh lễ. Đó là:
- Cúi đầu đảnh lễ.
- Quỳ gối và cúi đầu đảnh lễ.
- Đầu mặt sát đất mà đảnh lễ.
Gieo đầu mặt sát đất mà đảnh lễ là lối đảnh lễ bậc nhất, gọi là thượng lễ. Người đời thường lấy đầu làm quý, cho chân là tiện. Như vậy lấy đầu mặt của mình gieo sát đất, dưới chân người là lối cung kính đảnh lễ vào bậc nhất vậy.
–o0o–
Bồ Tát Đàm Vô Kiệt nhìn pháp tòa quét dọn, trang trí rất trang nghiêm, biết là do người từ phương xa đến. Người ấy chẳng tiếc thân mạng, cần khổ trong mọi công việc, chỉ vì muốn được nghe pháp. Lần trước Bồ tát Đà Ba Luân đã được gặp mặt Bồ Tát Đàm Vô Kiệt, nhưng 2 vị Bồ Tát gặp nhau chưa được bao lâu, thì mặt trời đã xế bóng, và Bồ Tát Đàm Vô Kiệt lui vào cung để nghỉ.
Trong lần gặp gỡ này, Bồ Tát Đàm Vô Kiệt biết rõ Bồ tát Đà Ba Luân suốt 7 năm dài chờ đợi ngày được thầy truyền pháp, đã chẳng nằm ngồi, giữ tâm bất động, chẳng thối chuyển, quyết định chẳng còn nghi hối, nguyện nhất tâm kham thọ sự giáo huấn của thầy.
Bồ Tát Đàm Vô Kiệt thương xót Bồ Tát Đà Ba Luân vì pháp mà suốt 7 năm dài chờ đợi đã chẳng hề nằm ngồi, chẳng tiếc thân mạng, tự dùng dao bén đâm vào thân để lấy máu rửa đất nhằm trang nghiêm pháp tòa, nên đã vì Bồ Tát Đà Ba Luân dạy rằng: Này Thiện Nam tử! Ông hãy nhất tâm lắng nghe và tín thọ lời ta nói. Trước đây, ta đã đoạn đi chỗ nghi cho ông, khi ông muốn tìm hiểu về chỗ đến và chỗ đi của chư Phật. Nay ta muốn khai thị rõ thêm về thậm thâm Bát Nhã Ba La Mật và ta cũng sẽ vì ông nói về tướng của Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát nói tiếp: Các pháp bình đẳng, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bình đẳng.
Vì sao? Vì nhân và quả phải tương tợ nhau. Lúc ban đầu quán các pháp bình đẳng là tu nhân; Khi quyết định được Bát Nhã Ba La Mật bình đẳng là được quả.
Hỏi: Quán các pháp bình đẳng tức vào được Bát Nhã Ba La Mật rồi, vì Bát Nhã Ba La Mật tức là bình đẳng. Như vậy cần gì phải phân biệt nhân và quả?
Đáp: Bát Nhã Ba La Mật cùng với các pháp tuy chỉ là nhất tướng, là chẳng phải hai, chẳng phải khác, nhưng người tu hành lúc ban đầu phải quán nhân bình đẳng, rồi sau đó mới thấy được quả bình đẳng. Như vậy, thấy hết thảy pháp bình đẳng tức là được Bát Nhã Ba La Mật bình đẳng.
Hỏi: Muốn nói tướng của Bát Nhã Ba La Mật, thì sao lại nói đến nhân bình đẳng?
Đáp: Vì chúng sanh chẳng thấy được tướng bình đẳng của Bát Nhã Ba La Mật, nên phải nói nhân bình đẳng trước. Nếu đã thấy nhân bình đẳng rồi, thì sẽ thấy rõ các pháp bất bình đẳng khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật rồi chỉ là một tướng, chẳng phải hai tướng, chẳng phải khác tướng vậy.
Hỏi: Nếu nói hết thảy pháp chỉ là một tướng (nhất tướng), chẳng phải hai tướng, chẳng phải khác tướng, thì như vậy có thể thủ cái tướng “nhất tướng” đó chăng?
Đáp: Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm, vi diệu. Nếu chẳng dùng các phương tiện diễn nói ra, thì chẳng sao biết rõ được. Bởi vậy nên, trước phải phân biệt nói “bất bình đẳng” là có phiền não sanh, có 3 độc tăng trưởng, khiến có ra thương ghét, thân thù; Phân biệt thương thân là thiện, ghét thù là bất thiện.
Bồ Tát quán hết thảy pháp đều bình đẳng; quán thương ghét bình đẳng, thân thù bình đẳng, chẳng có sanh tâm phân biệt.
Khi đã bình đẳng rồi, thì liền mở của phước đức, và đồng thời đóng kín các của thương ghét, thân thù. Bồ Tát an trú trong các pháp bình đẳng như vậy, nên diệt trừ được mọi sự chấp tâm, thủ tướng, mọi sự phân biệt, ức tưởng. Lúc bấy giờ, chỉ còn thấy các pháp bình đẳng, vô phân biệt; Thấy rõ “bình đẳng” tức là “không” và “không” tức là “bình đẳng”.
Thế nhưng có người biết được các pháp là bình đẳng, là không, mà lại chấp bình đẳng, chấp không, nên chẳng vào được Bát Nhã Ba La Mật.
Phải chẳng chấp tướng “bình đẳng”, chẳng chấp tướng “không”, mới rõ được chân tướng của Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là chẳng có hý luận. Phải ly cả 2 bên “bình đẳng” và “bất bình đẳng” mới là chân thật tướng của Bát Nhã Ba La Mật.
Hỏi: Bình đẳng là tướng của Bát Nhã Ba La Mật. Sao lại nói ly bình đẳng là tướng của Bát Nhã Ba La Mật?
Đáp: trong kinh nói, “Các pháp bình đẳng, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bình đẳng”. Thế nhưng, người tu chẳng nên chấp cái tướng bình đẳng ấy.
Bình đẳng là tự tướng ly. Hết thảy các pháp đều là tự tướng ly. Ly có nghĩa là như tướng, là vô tướng. Trước đây đã có nói “ly tướng”, “vô tướng” tức là bình đẳng tướng. Trong kinh nói, “Các pháp ly, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng ly”.
Nếu là ly tướng thì là trú trong không, mà trú trong không tức là trú bất động. Vì sao? Vì ở nơi thật tướng pháp, thì hết thảy các pháp đều bình đẳng, bất động; các pháp hý luận bất động, các phiền não bất động… dẫn đến các pháp vô thường bất động vậy.
Trong kinh nói, “Các pháp bất động, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bất động”.
Nếu là bình đẳng, là ly, là bất động, thì cũng là vô niệm. Vì sao? Vì có niệm tức là có tướng, có chấp tướng. Phải là vô niệm mới là vô tướng vậy. Trong kinh nói, “Các pháp vô niệm, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô niệm”.
Nếu là bất động thì chẳng có đến, chẳng có đi, chẳng có sanh, chẳng có diệt. Trong kinh nói, “Các pháp vô sanh, vô diệt, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô sanh, vô diệt”.
Người có hý luận thì ở giữa đại chúng mới sanh sợ hãi, chẳng rõ được Niết Bàn mới sanh sợ hãi. Người nghe nói các pháp vô sanh, vô diệt mà chẳng sanh sợ hãi là người đã vào được pháp tánh, đã được vô sanh pháp nhẫn rồi vậy. Trong kinh nói, “Các pháp vô úy, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô úy”.
Khi đã vào được trong pháp tánh, thì biết rõ hết thảy pháp đều chỉ là một tướng (nhất tướng), chỉ là một vị (nhất vị) mà thôi. Trong kinh nói, “Các pháp nhất vị, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng nhất vị”.
Hỏi: Trên đã nói các pháp bình đẳng. Nay vì sao còn nói đến “nhất vị” làm gì nữa?
Đáp: trong “không” có thể có vị, có thể chẳng có vị.
Có người tu hành rồi mà còn có kiến chấp, còn chấp tâm, còn thủ tướng, còn phân biệt trù lượng. Hạng người đó khi biết được các pháp là rốt ráo không, là rốt ráo bình đẳng, thì rất hoan hỷ, vui mừng, nhưng lại lấy đó làm vị. Ví như người đang bị nóng nực bức bách mà gặp được nước được gió, thì hoan hỷ, vui mừng, lấy đó làm vị.
Như vậy ở nơi không mà còn chấp không, thì vẫn còn có vị. Khi đã vào được nơi chân thật rốt ráo không, thì chẳng còn có vị nữa.
Nay nói đến “nhất vị” là nói Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật thì chỗ duyên và chỗ quán đều đồng một vị, nên gọi là “nhất vị”.
Bồ Tát ở nơi “không” có “đại không trí lực”, nên hết thảy các pháp tùy theo đó cũng đều là rốt ráo không.
Ví như trong một chảo đường phèn đang được nấu sôi, nếu bỏ những thứ đường khác vào, thì tất cả đều hoà hợp thành một vị duy nhất của đường phèn. Lại ví như nước từ trăm sông chảy dồn vào biển, đều hoà hợp với nhau và hòa hợp với nước biển để thành một vị duy nhất là vị mặn của nước biển.
Các pháp cũng là như vậy. Phàm phu thấy các pháp có khác nhau. Thế nhưng khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì tất cả các pháp đều thành một vị.
–o0o–
Chấp có tướng là chấp “hữu”; chấp chẳng có tướng là chấp “vô”.
Người tu hành khi đã vào được thật quán, thấy hết các pháp là chẳng phải có, cũng là chẳng phải không, nên nói là vô tướng, là vô tướng tướng vậy.
Nếu là vô tướng thì cũng tức là vô biên. Quán như vậy nên được “vô biên Bát Nhã Ba La Mật”. Trong kinh nói, “Các pháp vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên”.
Có thuyết nói “hữu biên” là có hai bên: Bên thường và bên đoạn; Bên ác và bên thiện; Bên thế gian và bên Niết Bàn v.v… Khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì chẳng còn phân biệt có các biên như vậy nên gọi là “vô biên Bát Nhã Ba La Mật”
Lại có thuyết phân biệt có biên trước (tiền biên), có biên sau (hậu biên). Ví như nói thế gian vô thỉ là chẳng có biên trước (vô tiền biên); Vào vô dư Niết Bàn là có biên trước (tiền biên), chẳng có ra lại nữa là chẳng có biên sau (vô hậu biên) v.v…
Như vậy, người chấp thế gian, sợ Niết Bàn là người phân biệt có các biên. Trái lại, người đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì chẳng thấy có các biên, nên nói hết thảy các pháp ở nơi thật tướng là chẳng có vào ra, chẳng có đến đi vậy.
Hỏi: Các pháp bình đẳng, các pháp ly đã là vô biên rồi. Như vậy cần gì phải nói riêng nữa?
Đáp: Đối với người đã biết rõ các pháp là bình đẳng, là ly thì chẳng cần phải nói. Nhưng đối với những người còn chấp tướng, còn chấp một bên, thì phải nói các pháp là vô biên.
Bồ Tát Đàm Vô Kiệt chẳng phải chỉ thuyết pháp cho một mình Bồ Tát Tát Đà Ba Luân. Bồ Tát Tát Đà Ba Luân cũng chẳng phải chỉ vì mình mà hỏi Bồ Tát Đàm Vô Kiệt. Đây là vì chúng sanh có tâm hành sai khác nhau, nên Bồ Tát Đàm Vô Kiệt phải dùng các nhân duyên thí dụ để chúng sanh thấy rõ Bát Nhã Ba La Mật cùng hết thảy các pháp đều là vô biên, như nói, “hư không vô biên, nước trong biển lớn vô biên, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng vô biên”.
Hỏi: Hư không là vô vi, là thường pháp, chẳng có thể tìm được biên bờ, nên nói là hư không vô biên. Còn biển lớn ở trong 4 châu thiên hạ bao quanh núi Tu Di; Nước trong biển lớn có thể đo lường được. Vì sao lại nói nước trong biển lớn là vô biên?
Đáp: Phải hiểu “vô biên” theo 2 nghĩa:
– Thật sự là chẳng có biên bờ, nên gọi là vô biên.
– Thật sự là có biên bờ, nhưng vì mênh mông, chẳng thế suy lường được, nên gọi là vô biên.
Dùng thuyền có thể vượt qua biển nhỏ; Còn biển lớn quá mênh mông, chẳng có thể dùng thuyền vượt qua được, chỉ dùng thần thông mới vượt qua được, nên gọi biển lớn là vô biên vậy.
Ví như hàng ngoại đạo tu thiền định chỉ có thể đến các cõi trời Dục giới, Sắc giới hoặc Vô Sắc giới, nên chỉ ví như người vượt qua biển nhỏ. Hàng ngoại đạo do còn chấp tâm, do chưa phá được ngã tâm, nên chẳng có thể vượt qua được biển lớn “3 cõi”.
Các bậc Thánh Hiền đã được đầy đủ trí huệ, đã phá được các tà tướng, đã vào được thật tướng pháp, mới có thể vượt qua được biển lớn “3 cõi” vậy.
Hỏi: Núi Tu Di chỉ có một sắc. Như vậy vì sao nói, “Núi Tu Di trang nghiêm”?
Đáp: Trong các bộ luận Lục Túc và A Tỳ Đàm đều có nói, “Núi Tu Di ở bốn bên đều có thành 7 báu trang nghiêm. Nếu có các loài chim ở các nơi khác bay đến, thì đều biến thành một sắc. Có hai anh em Long Vương tên là Nan Đà và Bà Nan Đà dùng thân doanh vây trên đỉnh núi 7 vòng. Có 33 cung điện nguy nga, có thành 7 lớp gọi tên là Hỷ Kiến. Thành Hỷ Kiến có 999 cửa; Ở mỗi cửa đều có 16 vị quỷ thần hung mạnh, mặc y phục màu xanh, trấn giữ. Trong thành có chỗ gò cao; trên gò cao có xây cung điện gọi tên là Tối Thắng; Bốn bên cung điện có bốn khu vườn. Lại có hòn núi tên là Du Càn Đà, là nơi của bốn vị vua Trời (Tứ Thiên Vương) ở. Lại có 4 biển lớn; Nơi đây các loài A Tu La cùng các Long Vương dùng làm cung điện. Núi Du Càn Đà có đỉnh cao gọi tên là Cửu Bảo Sơn; có mặt trăng, mặt trời, 5 vị sao cùng 28 vị tinh tú khác đoanh vây hòn núi này, tạo nên cảnh trang nghiêm, hùng vĩ. Các vật trang trí như vậy nhìn rất trang nghiêm, nhìn mãi chẳng có nhàm chán.
Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật có quả báo 6 pháp Ba La Mật rất trang nghiêm. Nếu hành Bát Nhã Ba La Mật mà chưa đầy đủ, thì thọ được các quả báo Chuyển Luân Vương, Phạm Vương, Đế Thích cùng các quả báo khác ở các cõi trời. Nếu hành Bát Nhã Ba La Mật đầy đủ, thì thọ các quả Thanh Văn, qủa Bích Chi Phật, và Bồ Tát địa.
Như vậy, khi chưa đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật, thì có quả Chuyển Luân Thánh Vương, các quả Thiên Vương trang nghiêm; Khi hành đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật, thì có các đạo quả trang nghiêm.
Núi Tu Di, ở kiếp sơ, có gió thổi bốn bên, tụ đất lại làm thành núi. Lại có gió thổi khiến cho đất trở nên kiên cố, hóa thành các thứ trân bảo.
Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật do hết thảy các thiện pháp kiên cố vào bậc nhất hòa hợp mà thành.
Núi Tu Di ở 4 bên có gió mạnh thổi mãi; Ở trong biển lớn bao quanh núi có sóng nhồi. Thế nhưng sức gió, sức sống chẳng sao làm lay động núi Tu Di.
Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật rất kiên cố. Các hàng ngoại đạo tà kiến các loài ác ma chẳng sao làm lay động được.
Trên đỉnh núi Tu Di có 4 vị vua trời sống trong 4 khu vườn rộng rãi. Người đến được nơi đây sẽ hưởng được các thứ diệu dục lạc. Cũng như vậy, người hành Bát Nhã Ba La Mật đầy đủ sẽ lên được đỉnh của Bát Nhã Ba La Mật, ở nơi các vườn thiền định, hưởng được thiền định lạc vi diệu.
Các loài chim khi bay đến núi Tu Di đều biến thành một sắc.
Cũng như vậy, các pháp khi vào được trong Bát Nhã Ba La Mật rồi đều trở thành một tướng (nhất tướng), trở thành chẳng có tướng (vô tướng).
–o0o–
Ví như hư không vô phân biệt, thì trong ngoài, xa gần, tịnh uế… đều bình đẳng, vô phân biệt.
Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật vô phân biệt. Các pháp vào trong Bát Nhã Ba La Mật đều vô phân biệt, nên trong ngoài, thiện ác… đều bình đẳng. Phân biệt nói 5 ấm vô biên là nói 5 ấm thường có trong khắp thế gian.
Cũng như vậy, Bát Nhã Ba La Mật chẳng xa rời 5 ấm, vì 5 ấm thật tướng tức là Bát Nhã Ba La Mật.
Hết thảy các sắc pháp nếu được chia sẻ sẽ trở thành vi trần, trở thành vô phân vô lượng (chẳng thể phân, chẳng thể lượng). Như vậy các sắc pháp đều là vô hình, vô sắc, vô biên. Chẳng có bờ bên này, bờ bên kia( chẳng có bỉ thử)
“Vô biên Bát Nhã Ba La Mật” cũng là như vậy. Các pháp phân biệt, sắc pháp cùng vô sắc pháp, khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật đều chẳng có biên bờ, chẳng có phân biệt. Bởi vậy nên nói, “Sắc vô biên, thì Bát Nhã Ba La Mật cùng vô biên”.
Đối với địa chủng, thủy chủng, hỏa chủng, phong chủng, không chủng, thức chủng cũng là như vậy.
Ví như 4 vị vua Trời Chấp Kim Cang, mà chẳng có thương ghét; Chỉ tùy theo chỗ dụng mà phá nát tất cả.
Cũng như vậy, các đức Phật có “nhất thiết trí tam muội” thường phá sạch các kiết sử phiền não, diệt tận các tập khí, nên gọi là tam muội, đó là “Như Kim Cang Tam Muội”.
“Như Kim Cang Tam Muội” tương ứng với trí huệ, quán hết thảy các pháp bình đẳng như vậy.
–o0o-
Người thế gian do bị phiền não che tâm, nên phân biệt có các pháp riêng khác. Các bậc thánh, khi được Bát Nhã Ba La Mật rồi, dùng pháp “không” để phân biệt ức tưởng các pháp, nên vào được 3 giải thoát môn “không, vô tướng và vô tác”. Lúc bấy giờ, các ngài đã phá hết thảy các pháp tướng, nên chẳng còn ưu bi sầu khổ nữa; Các ngài chẳng còn chấp các pháp tướng, vì biết rõ các pháp tánh là bất khả đắc. Hết thảy các pháp đều theo nhân duyên sanh, nên chẳng có tự tánh, ngay từ căn bản là quyết định chẳng thật có. Vì các pháp đều theo nhân duyên hoà hợp sanh, nên khi các duyên chưa hòa hợp là không, khi có các duyên hòa hợp mới thành có. Như vậy là trước không, nay theo nhân duyên hòa hợp mà có, nên là chẳng có tự tánh vậy.
Các pháp theo nhân duyên sanh, tánh của các pháp là pháp tánh. Hết thảy các pháp hữu vi cũng như vô vi đều là chẳng có tự tánh, đều là bất khả đắc. Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy.
Bất khả đắc cũng tức là vô sở hữu; Vô sở hữu cũng tức là bình đẳng. Vì sao? Vì “có” mới phân biệt, “không” thì chẳng có phân biệt.
Ví như hương chiên đàn khi được đốt lên thì mới phân biệt được khói của hương chiên đàn thơm; Khi khói đã diệt rồi, thì chẳng còn phân biệt nữa, bởi vậy nên nói các pháp là vô tác; Chúng sanh là không, các pháp cũng là không; Chúng sanh và các pháp đều là vô tác.
Ví như nói lửa cháy, gió động, thức hay biết v.v… thì tất cả các sự việc ấy đều là pháp; Mỗi mỗi tợ như có tự lực riêng, nhưng thực ra đều là vô sắc, vô hình, đều là không, là vô tác cả. Dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là như vậy.
Trước đây đã nói chúng sanh là vô tác giả, nay rộng nói các pháp đều là vô sở tác cả.
Hết thảy các pháp bình đẳng là bất khả tư nghì. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều chẳng thể quyết định là thường hay là vô thường, là khổ hay là lạc, là thật hay là hư, là có ngã hay là vô ngã, là sanh diệt hay là bất sanh diệt, là ly hay là bất ly, là hữu hay là vô.
Hết thảy các pháp tuy có phân biệt sai khác, nhưng tất cả đều bất khả tư nghì. Vì sao? Vì sao tâm chúng sanh ức tưởng, phân biệt mà sanh ra có các pháp. Thật ra thật tánh của các pháp vượt qua khỏi tâm lượng của chúng sanh, vượt qua ngoài danh tự ngữ ngôn. Các bậc Thánh Hiền chẳng có thể hành được, chẳng có thể đến được, nên gọi là bất khả tư nghì. Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy.
–oOo–
Lúc bấy giờ, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân ở ngay tại chỗ nghe như vậy, liền được vô lượng tam muội.
Hỏi: Trước đây Bồ Tát Tát Đà Ba Luân đã biết các pháp đều là không, là vô sở hữu. Như vậy vì sao ngài phải cần khổ suốt 7 năm chờ thấy được Bồ Tát Đàm Vô Kiệt nghe thuyết pháp, mới được lợi ích?
Đáp: Trước đây Bồ Tát Tát Đà Ba Luân đã được các tam muội, đã thấy được các đức Phật ở khắp 10 phương, nhưng vì còn quý trọng Bát Nhã Ba La Mật, quý trọng chư Phật, nên sanh chấp tướng.
Nay, sau 7 năm dài chờ đợi, được thấy Bồ Tát Đàm Vô Kiệt, vừa ra khỏi các tam muội, đã vì mình thuyết Bát Nhã Ba La Mật, nên ngài mới phá được các tâm chấp, biết rõ hết thảy các pháp đều là tự tánh không, chẳng phải Bát Nhã Ba La Mật khiến cho thành không.
Bồ Tát Đàm Vô Kiệt nói, “các pháp bình đẳng, nên biết Bát Nhã Ba La Mật cũng bình đẳng; Các pháp ly, các pháp bất khả tư nghì v.v…, nên phải biết Bát Nhã Ba La Mật cũng ly, cũng bất khả tư nghì v.v…”. Do nghe thuyết như vậy nên Bồ Tát Tát Đà Ba Luân chẳng còn khinh thường các pháp, chẳng còn chỉ quý trọng Bát Nhã Ba La Mật như trước. Vì sao? Vì chỉ quý trọng Bát Nhã Ba La Mật mà khinh thường các pháp khác là cấu chấp Bát Nhã Ba La Mật vậy. Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo thanh tịnh, đem lại nhiều lợi ích, nhưng chẳng nên chấp tướng Bát Nhã Ba La Mật. Nếu hành Bát Nhã Ba La Mật mà còn sanh tâm chấp Bát Nhã Ba La Mật, thì cũng chỉ ví như vàng nấu chảy, tuy rất quý nhưng chẳng thể nhúng tay vào hay cầm nắm được. Bồ Tát Tát Đà Ba Luân được sự giáo hóa của Bồ Tát Đàm Vô Kiệt như vậy, nên đoạn được tâm chấp chấp Bát Nhã Ba La Mật, liền được các pháp bình đẳng và vào được vô lượng tam muội.
Mỗi câu của Bồ Tát pháp sư nói ra đều có tác dụng dẹp tan tâm tán loạn của Bồ Tát Tát Đà Ba Luân, chỉ còn lưu lại trí huệ “không” gọi là tam muội. Bồ Tát Tát Đà Ba Luân nghe lời thầy dạy được nhất tâm, chẳng tán loạn, nên trí huệ biến thành tam muội. Ví như cây đèn bị gió chẳng sao chiếu sáng tỏ được. Nếu được che kín gió, thì đèn sẽ chiếu sáng tỏ rất nhiều, tỏa sáng khắp 4 bên.
Trước đây Bồ Tát Tát Đà Ba Luân bị tâm dục giới làm tán loạn, nên chẳng thành tựu được lực trí huệ. Sau 7 năm chờ đợi, được nghe Bồ Tát Đàm Vô Kiệt thuyết Bát Nhã Ba La Mật, ngài đã tận phá được các phiền não, thành tựu lực trí huệ vào được vô lượng tam muội.
Ví như nước tuy lỏng nhưng có thể trở thành những tảng băng kiên cố. Khi chưa có gió lạnh thổi đến, thì nước chưa có thể thành băng được, khi gặp gió lạnh nước đông lại thành băng. Các tảng băng kiên cố có đủ sức gánh vác những vật nặng đặt lên trên.
Cũng như vậy, sau như nghe Bồ Tát Đàm Vô Kiệt thuyết Bát Nhã Ba La Mật. Bồ Tát Tát Đà Ba Luân đã được trí huệ sáng suốt, đã vào được 600 vạn tam muội, đã vào được nơi thật tướng pháp, đã thấy hết thảy các pháp bình đẳng, vô phân biệt. Như vậy là từ nơi tâm thiền định của Bồ Tát Tát Đà Ba Luân đã khởi sanh lực trí huệ. Lực trí huệ đó đã biến thành quả báo tam muội ở đời này và cả ở đời sau.
–oOo–
Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Tu Bồ Đề : Như hôm nay, giữa chúng Tỷ Kheo Tăng vây quanh, ta lấy tướng như vậy, tướng mạo như vậy, danh tự như vậy mà thuyết Bát Nhã Ba La Mật . Bồ Tát Tát Đà Ba Luân theo Bồ Tát Đàm Vô Kiệt nghe pháp, được 600 vạn tam muội cũng thấy được các đức Phật , ở trong khắp 10 phương, cũng lấy tướng như vậy, tướng mạo như vậy, danh tự như vậy , nên cũng thuyết Bát Nhã Ba La Mật như vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Từ sau khi thâm ái phát lạc, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân đã tu tập nhiều pháp môn, rộng học nhiều kinh, nên đã được trí huệ, đã văn bất khả tư nghì. Cũng như A Nan, Bồ Tát Tát Đà Ba Luân nghe lời thuyết pháp rồi thì liền ghi nhớ, trọn chẳng hề quên sót. Bồ Tát Tát Đà Ba Luân được trí huệ, đa văn mênh mông như nước trong biển lớn, nên dù ở trong thế gian mà thường chẳng ly các đức Phật. Đây là quả báo ở đời này khi xả báo thân, Bồ Tát ấy đã thường sanh về các nước Phật, tu hành niệm Phật tam muội, trọn chẳng ly các đức Phật. Các nhân địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng như các nhân Trời, Người, A Tu La đã tận diệt, nên Bồ Tát ấy tùy ý vãng sanh về các cõi Phật. Đây là do thâm nhập Bát Nhã Ba La Mật , do tu tập vô lượng công đức, nên Bồ Tát ấy chẳng còn tùy nghiệp dẫn sanh như vậy. Ví như vị trưởng giả hào hiệp hết lập hội từ thiện này, lại lập hội từ thiện khác. Bồ Tát Tát Đà Ba Luân đi từ cõi Phật này đến cõi Phật khác, cúng dường chư Phật, tu tập vô lượng công đức, và độ thoát vô lượng chúng sanh.
Hiện nay, Bồ Tát ấy đang ở cõi nước của Phật Đại Lôi Âm, tịnh tu phạm hạnh, hành Bồ Tát đạo . Người muốn cầu Phật đạo phải theo như Bồ Tát Tát Đà Ba Luân mà cầu
Vì sao?
Vì người cầu Phật đạo phải giữ tâm kiên cố, chẳng lay chuyển như Bồ Tát Tát Đà Ba Luân ; Phải biết rõ nhân duyên thành tựu hết thảy công đức là tận trừ tội cấu, giữ tâm thanh tịnh. Bồ Tát tu tại gia hay xuất gia đều phải hành như vậy.
Do giữ tâm thanh tịnh mà thành tựu được hêt thảy công đức, được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật; từ sơ địa lên đến thất địa được vô sanh pháp nhẫn , từ bát địa lên thập địa được thâm nhập trí huệ Phật, được nhất thiết chủng trí, được Vô Lượng Bồ Đề … dẫn đến thành tựu làm Phật. Lúc bấy giờ, ở nơi hết thảy các pháp đều được tự tại. Bởi vậy nên người cầu Phật đạo phải thọ trì Bát Nhã Ba La Mật ; phải dùng hương hoa, kỹ nhạc … cúng dường Bát Nhã Ba La Mật .
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề thường ái lạc “ không hạnh” , do nghe Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật mà được “ vô tránh tam muội” .
Còn ngài A Nan được “văn trì đà la ni”, lại thường thân cận, thường theo hầu bên Phật, nên ở phẩm Chúc Lụy sau đây rộng nói về ngài A Nan.
***
Phẩm thứ chín mươi
Chúc Luỵ
(Phó Chúc)
KINH:
Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài A Nan rằng: Này A Nan! Ý ông nghĩ sao? Phật có phải là đại sư của ông chăng? Ông có phải là đệ tử của Phật chăng?
Ngài A Nan bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Phật là đại sư của con. Đấng Thiện Thệ là đại sư của con. Con là đệ tử của Phật.
Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này A Nan ! Ta là bậc đại sư của ông. Ông là đệ tử của ta. Nếu là đệ tử của ta, thì phải làm như chỗ ông đã làm.
Này A Nan ! Ông đã dùng các nghiệp thân, khẩu và ý từ hoà cúng dường ta, cũng thường làm theo như ý của ta, chẳng có sai trái.
Này A Nan ! Hiện tại ông ái kính, cung cấp cúng dường thân ta với tâm thường thanh tịnh. Sau khi ta diệt độ, tất cả sự ái kính, cung cấp, cúng dường đó ông phải dành cho Bát Nhã Ba La Mật. Nay ta đem Bát Nhã Ba La Mật chúc luỵ cho ông.
Phật ba phen chúc luỵ như vậy.
Này A Nan ! Ông chớ có quên, chớ có để mất, chớ nên làm cho hạt giống Phật đoạn mất ở đời sau.
Này A Nan ! Khi nào Bát Nhã Ba La Mật còn ở đời, thì phải biết thời gian ấy xem như vẫn có Phật ở đời và đang thuyết pháp.
Này A Nan ! Nếu có người nào biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, cung kính, tôn trọng, tán thán, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật, lại vì người khác rộng nói Bát Nhã Ba La Mật, thì phải biết người ấy thường chẳng rời thấy chư Phật, thường chẳng rời nghe pháp, thường thân cận chư Phật.
-o0o-
Phật thuyết xong Bát Nhã Ba La Mật rồi, Bồ Tát Di Lặc và các Bồ Tát Ma Ha Tát khác, các ngài Huệ mạng tu Bồ Đề, Huệ mạng Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Diếp, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Ma Ha Câu Hy La, Ma Ha Ca Chiên Diên và ngài A Nan cùng toàn thể đại chúng, gồm tất cả thế gian, Trời, Người, A Tu La, Càn Thát bà v.v… đều rất vui mừng.
LUẬN:
Hỏi: Phật đã đoạn các pháp ái, đã được nhất thiết chủng trí, đã được Niết Bàn, chẳng còn chấp tâm, chẳng còn thủ tướng. Như vậy, vì sao Phật lại dùng các nhân duyên chúc luỵ Bát Nhã Ba La Mật cho ngài A Nan, tợ như vẫn còn chấp pháp ấy.
Đáp: Các đức Phật có tâm đại từ bi, từ khi sơ phát tâm cho đến khi vào Niết Bàn, trọn chẳng xả ly chúng sanh. Ở giữa 2 cây Sa La song thọ, Phật đã nhập kim cang tam muội, phá nát thân thành xá lợi để cho chúng sanh đời sau cúng dường, huống nữa là kinh điển Bát Nhã Ba La Mật thậm thâm vi diệu, có nhiều lợi ích cho chúng sanh, mà Phật chẳng chúc luỵ lại hay sao?
Lại nữa, vì ngài A Nan chưa ly dục, chưa biết rõ Bát Nhã Ba La Mật có thế lực lớn, đem lại quả báo bất khả tư nghì, lợi ích vô cùng tận, nên Phật mới ân cần phó chúc cho ngài A Nan rằng, “Ông chớ có quên, chớ để mất, chớ làm cho giống Phật đoạn mất ở đời sau”.
Dù ở nơi các pháp chẳng còn có ghét thương (tắng ái), dù vẫn thường ở trong tướng tịch diệt, nhưng Phật cũng phải chúc luỵ Bát Nhã Ba La Mật cho ngài A Nan, để lưu truyền lại cho chúng sanh ở đời sau.
Hỏi: Ngài A Nan chỉ là vị Thanh Văn. Vì sao Phật đem Bát Nhã Ba La Mật chúc luỵ cho ngài A Nan, mà chẳng đem chúc luỵ cho Bồ Tát Di Lặc và các Bồ Tát Ma Ha Tát khác ?
Đáp: Ngài A Nan thường ở bên cạnh Phật, thân cận, cúng dường Phật, nên được nghe tất cả những lời Phật dạy. Ngài A Nan đã được văn trì đà la ni, nên một phen được nghe Phật thuyết pháp liền ghi nhớ, chẳng hề quên sót. Ngài A Nan là em của Phật, có rất nhiều người biết đến. Ngài A Nan có nhiều trí huệ, lừng danh trong khắp cả 4 chúng, thường theo Phật chuyển pháp luân, thường được gọi là vị đệ tam sư, chuyển pháp luân.
Lại nữa, khi có được 6 thần thông, có được ba minh giải thoát rồi, ngài A Nan sẽ là vị thầy của 500 vị A La Hán.
Bởi các nhân duyên vậy, nên Phật chúc luỵ Bát Nhã Ba La Mật cho ngài A Nan, mà chẳng có chúc luỵ cho các vị khác.
Nhân đây, cũng nên biết rằng ngài Xá Lợi Phất xả thọ mạng sớm, diệt độ trước Phật, nên Phật chẳng chúc luỵ cho ngài. Còn Bồ Tát Di Lặc cùng chư Bồ Tát Ma Ha Tát khác, thì sau khi Phật diệt độ rồi, sẽ đi đến các cõi khác, để giáo hoá chúng sanh. Bồ Tát Di Lặc sẽ lên cõi trời Đâu Suất; Bồ Tát Duy Ma Cật, Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi … cũng sẽ đi đến các cõi nước mà các ngài có duyên với chúng sanh để giáo hoá họ.
Lại nữa, Phật đã biết các vị Bồ Tát Ma Ha Tát đã thâm nhập vào Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng cần phải chúc luỵ Bát Nhã Ba La Mật cho chư vị Bồ Tát Ma Ha Tát nữa; còn ngài A Nan là Thanh Văn, theo pháp Tiểu Thừa, nên cần phải ân cần chúc luỵ vậy.
Hỏi: Như vậy, vì sao Phật lại đem kinh Pháp Hoa và các kinh Phương Đẳng khác phó chúc cho các vị Bồ Tát ?
Đáp: Có thuyết nói khi Phật thuyết các pháp thậm thâm, chẳng có để cho hàng Thanh Văn nghe.
Ví như khi Phật thuyết kinh Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát, tuy lúc bấy giờ có 500 vị A La Hán ở bên cạnh Phật, mà các ngài chẳng có nghe gì hết, hoặc có nghe mà chẳng thâm nhập vào được.
Bởi vậy nên Phật phải chúc luỵ các Kinh đó cho hàng Bồ Tát.
Hỏi: Nếu nói chẳng có pháp gì thậm thâm hơn Bát Nhã Ba La Mật, thì vì sao Phật lại đem Bát Nhã Ba La Mật chúc luỵ cho ngài A Nan, và đem các Kinh khác chúc luỵ cho hàng Bồ Tát Ma Ha Tát ?
Đáp: Bát Nhã Ba La Mật tuy thậm thâm vi diệu, nhưng chẳng phải là pháp bí mật như kinh Pháp Hoa và một số kinh Đại Thừa khác.
Ví như trong kinh Pháp Hoa có nêu trường hợp các vị A La Hán được thọ ký làm Phật. Các Bồ Tát Ma Ha Tát là những người thọ trì, ứng dụng Bát Nhã Ba La Mật, mà nay Phật nói A La Hán được thọ ký làm Phật thì đây quả thật là pháp bí mật của Phật vậy.
Phật là bậc đại y vương, nên đã có thể dùng chất độc để làm thuốc trị bệnh vậy.
Trước đây đã có nói đến hai lối thuyết Bát Nhã Ba La Mật. Đó là :
– Vì hàng Thanh Văn mà thuyết.
– Vì hàng Bồ Tát thập địa mà thuyết. Trong trường hợp này thì hàng Bồ Tát cửu địa còn chẳng nghe được, huống nữa là hàng Bồ Tát sơ phát ý.
Nếu nói về tổng tướng của Bát Nhã Ba La Mật, thì hàng Bồ Tát cửu địa … dẫn đến hàng Bồ Tát sơ phát ý, cũng như hàng Thanh Văn đều có thể nghe được. Thế nhưng tuỳ theo đối tượng nghe pháp mà Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật có sâu có cạn sai khác nhau.
Bởi vậy nên việc đem Bát Nhã Ba La Mật chúc luỵ cho ngài A Nan cũng là hợp lý, chẳng có gì sai trái.
Hỏi : Trước đây ở phẩm 66, Phật nhiếp thần lực cho đại chúng thấy được cõi nước của Phật A Súc Bệ, thấy được Phật ấy đang thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật cho hàng Tỷ Kheo Tăng nghe, và Phật đã chúc luỵ Bát Nhã Ba La Mật cho ngài A Nan rồi. Nay vì sao ở phẩm 90 này Phật lại đem Bát Nhã Ba La Mật chúc luỵ cho ngài A Nan thêm một lần nữa ?
Đáp : Trong Bồ Tát đạo phân biệt có 2 :
– Bát Nhã Ba La Mật đạo.
– Phương tiện đạo.
Trước đây thuyết về thể của Bát Nhã Ba La Mật, nên Phật đã một lần chúc luỵ. Nay thuyết về phương tiện của Bát Nhã Ba La Mật , nên Phật lại chúc luỵ thêm một lần nữa.
Ở phẩm 66 trước đây chỉ nói về thể của Bát Nhã Ba La Mật; Nay nói về phương thức sử dụng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật là chỗ mà hàng Tiểu Thừa chẳng biết đến, nên phải nói riêng.
Ví như người thợ vàng dùng các phương tiện tinh vi để từ một chất vàng làm ra đồ trang sức, có tên và dụng khác nhau.
Bồ Tát được thật tướng Bát Nhã Ba La Mật rồi, biết rõ hết thảy pháp đều là không, là vô sở hữu, là tướng tịch diệt. Vì Bồ Tát chẳng muốn diệt độ, nên dùng các lực phương tiện tự nghĩ rằng, “Hết thảy pháp đều là tánh không, Niết Bàn cũng là tánh không. Ta nay ở nơi Bồ Tát đạo chưa có được đầy đủ các công đức, nên ta chớ nên vội vào Niết Bàn; Bao giờ được đầy đủ các công đức rồi, ta mới nên thủ chứng Niết Bàn”. Bồ Tát dùng các lực phương tiện, quán Nhị thừa địa, vào Bồ Tát vị; Trú trong Bồ Tát vị, Bồ Tát biết thậm thâm vi diệu Bát Nhã Ba La Mật là pháp chẳng có thể dùng ngữ ngôn, văn tự để diễn bày, nhưng vẫn dùng ngữ ngôn, văn tự để giáo hoá chúng sanh. Bồ Tát biết rõ các pháp là không, là vô sở hữu, mà vẫn trở lại trong thế gian, dùng 6 pháp Ba La Mật cùng các thiện pháp khác, để dạy chúng sanh về pháp không, mà vẫn chẳng chấp không. Có như vậy mới có thể thành tựu được 4 việc. Đó là : Trừ được tà kiến; Trừ được nghi hối; Chưa vội vào Niết Bàn; Chưa vội làm Phật. Như vậy mới có thể vào trong các đạo chúng sanh, dùng các phương tiện giáo hoá họ.
Lại nữa, Bát Nhã Ba La Mật làm nhiều lợi ích cho chúng sanh, là đại pháp bảo. Phật biết rõ sau khi ngài diệt độ rồi, sẽ có rất nhiều kẻ oán tặc muốn phá hoại Bát Nhã Ba La Mật, nên mới thuyết phẩm chúc luỵ này, để người đời sau biết giữ gìn pháp bảo này.
Hỏi : Vì sao chỉ chúc luỵ, mà phải ân cần, phải trịnh trọng như vậy ?
Đáp : Đây là Phật muốn tuỳ thuận pháp thế gian, để phương tiện dẫn đạo chúng sanh.
Ví như người lái buôn đường xa, trước khi lên đường phải đem các tài vật quý báu phó chúc lại cho con. Vì người con chưa biết được giá trị của các bảo vật, nên người lái buôn phải ân cần, trịnh trọng phó chúc cho con mình như vậy. Người con nghe được lời phó chúc của cha sẽ tuyệt đối tuân theo, ra sức giữ gìn các bảo vật.
Cũng như vậy, Phật chọn ngài A Nan là đệ tử có tín tâm kiên cố, chẳng có chút hiềm nghi, để phó chúc. Vì sao ? Vì nếu đem Bát Nhã Ba La Mật phó chúc cho những người khác, chưa có được tín tâm kiên cố, thì họ sẽ nghĩ rằng, “Phật tự xưng tán pháp bảo của Phật”. Do suy nghĩ như vậy, nên sanh nghi, khiến chẳng giữ vững được niềm tin.
Có thuyết nói rằng, “Ở phẩm 66 trước đây, Phật nói tịch diệt là chẳng có hý luận; Nói ở trong nhất thiết chủng trí quyết định là chẳng có pháp có thể thủ; Nên nhiều người chẳng cho Bát Nhã Ba La Mật quý”. Nay Phật đem Bát Nhã Ba La Mật ân cần phó chúc, thì biết rằng mặc dù Phật chẳng có chấp pháp không, nhưng vì chúng sanh ái niệm, tôn trọng Bát Nhã Ba La Mật, xem Bát Nhã Ba La Mật có thâm ân đối với họ, nên mới ân cần phó chúc như vậy.
Lại có thuyết nói, “Phật muốn thể hiện trung đạo, nên phó chúc”. Vì sao ? Vì trước đây Phật dùng pháp “không” để ngăn sự chấp về hữu biên. Nhưng lại sợ chúng sanh đoạ về chấp vô biên, nên đã ân cần phó chúc nhằm phá chấp về vô biên. Như vậy là ở nơi trung đạo. Nếu có người gọi Phật là ái trước Bát Nhã Ba La Mật, thì Phật đã nêu rõ các nhân duyên nói Bát Nhã Ba La Mật là tướng không. Nếu có người gọi Phật là đoạ về đoạn diệt, thì Phật đã ân cần phó chúc Bát Nhã Ba La Mật. Như vậy là ly cả hai biên rồi vậy.
Hỏi : Phật biết rõ ngài A Nan là đệ tử. Như vậy vì sao còn hỏi ngài A Nan rằng, “Ta có phải là đại sư của ông chăng ? Ông có phải là đệ tử của ta chăng” ?
Đáp : Phật có nhiều đệ tử ác, như ông Tu Na Lợi Đa La có ít nhân duyên mà vẫn làm đệ tử; Muốn ở trong Phật pháp mà lại làm nghề bắn tên.
Phật chẳng muốn vì hạng người như vậy nói là đệ tử, vì khi có ai hỏi thì họ liền phản giới, nói rằng, “Tôi chẳng phải là đệ tử Phật”.
Lại ví như ông Tu Thi Na chỉ nghe trộm pháp mà cũng tự xưng là đệ tử.
Như vậy có nhiều người mang danh đệ tử Phật, mà thật sự chẳng phải là đệ tử Phật vậy.
Lại nữa, hàng ngoại đạo nói ngài A Nan chưa được đạo, đã từng là đệ tử của họ; Nay vì thường gần bên Phật, vì là thân tộc của Phật nên được làm thị giả vậy thôi.
Bởi các sự việc như vậy, nên trước đại chúng, Phật phải hỏi ngài A Nan rằng, “Ta có phải là đại sư của ông chăng ? Ông có phải là đệ tử của ta chăng ?”.
–o0o–
Đã là chân đệ tử của Phật, thì phải tuỳ theo lời Phật dạy. Bởi vậy nên muốn cho đại chúng tin, ngài A Nan đáp lại, “Phật là đại sư của con, con là đệ tử của Phật”.
Phật dạy : Đúng như vậy. Nếu là đệ tử của ta thì phải làm như chỗ ông đã làm. Ông đã dùng các nghiệp thân, khẩu và ý từ hoà, cúng dường ta, thường là theo ý ta, chẳng có sai trái. Có đệ tử tâm rất tốt, nhưng thân, khẩu và ý chẳng có từ hoà, nên chẳng xứng đáng làm đệ tử của ta. Có đệ tử thân khẩu ý từ hoà mà tâm chẳng được tốt cũng chẳng đáng làm đệ tử của ta. Ông đã làm đầy đủ các sự việc để được xứng đáng là đệ tử của ta.
Phật lại dạy tiếp : Hiện tại ông ái kính, cung cấp, cúng dường thân ta, với tâm thường thanh tịnh. Sau khi ta diệt độ rồi, tất cả các sự ái kính, cung cấp, cúng dường đó ông phải dành cho Bát Nhã Ba La Mật.
Hỏi : Bát Nhã Ba La Mật là thầy của chư Phật. Vì sao ngài A Nan chưa cung kính, cúng dường bậc thầy của Phật, mà lại cung kính, cúng dường Phật ?
Đáp : Ngài A Nan tuy đã được sơ quả Tu Đà Hoàn, nhưng chưa được lậu tận, nên chưa biết rõ được Bát Nhã Ba La Mật thâm sâu như Phật.
Trước hết, Phật bảo ngài A Nan rằng, “Hiện tại ông ái kính, cung cấp, cúng dường thân ta”.
Vì sao ? Vì thân Phật có 32 tướng tốt, có 80 vẻ đẹp, có sắc vàng kim, có đại quang minh, khiến mọi người trông thấy đều ái kính.
Sau đó Phật bảo ngài A Nan rằng, “Sau khi ta diệt độ, tất cả các sự ái kính, cung cấp, cúng dường đó ông phải dành cho Bát Nhã Ba La Mật”.
Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là thậm thâm, vi diệu pháp, chẳng có sắc, chẳng có hình, chỉ có người trí mới hay biết. Thân Phật với các tướng tốt trang nghiêm, thì kẻ ngu, người trí đều thấy được cả; ai đã nhìn thấy được thân Phật cũng đều muốn nhìn mãi, chắng có nhàm chán. Ở đây, Phật dùng thân Phật để dụ cho Bát Nhã Ba La Mật; Khi Phật còn ở đời, thì thân Phật có oai lực tự ngăn các ác ma, chẳng cho các ác ma phá hoại. Sau khi Phật diệt độ rồi, thì phải giữ gìn Bát Nhã Ba La Mật còn ở đời, thì khi đó xem như Phật còn ở đời vậy.
Hỏi: Một phen chúc lụy là đủ rồi, vì sao phải căn dặn đến 3 lần như vậy?
Đáp: Vì thâm ái Bát Nhã Ba La Mật, nên phải chúc lụy 3 phen.
Hỏi: Nếu thâm ái Bát Nhã Ba La Mật, thì vì sao chỉ chúc lụy 3 phen mà thôi?
Đáp: Pháp Phật thường chỉ nói ra chẳng quá 3 lần. Nếu quá 3 phen là chẳng theo ý của vị “Chấp Kim cang Thần”. Ý của vị thần ấy là chẳng quá 3 phen.
Phật tùy thuận theo ý của vị thần ấy, nên chẳng có nói quá 3 phen. Nếu chỉ nói 1 lần thì chưa đủ; Nếu nói quá 4 lần thì lại quá dư thừa.
Lại có thuyết nói rằng, “Tâm người lãnh thọ có 3 hạng. Người độn căn phải đến phen thứ 3 mới lãnh hội được, mới sanh được thiện tâm. Tuy rằng ngài A Nan là bậc lợi căn, nhưng vì trong chúng hội còn có nhiều vị Thanh Văn khác chỉ cầu mong độ cho riêng mình, nên Phật vì các vị ấy mà phải nói đến 3 phen vậy”.
Khi ân cần đem Bát Nhã Ba La Mật chúc lụy cho ngài A Nan đến 3 phen như vậy, Phật muốn nói rằng: “Muốn cho Bát Nhã Ba La Mật được truyền thừa lại cho đời chúng sanh ở đời sau, thì ngài A Nan phải giáo hóa đệ tử,; Đệ tử của ngài A Nan lại phải giáo hóa cho bao nhiêu người khác; Cứ như vậy mãi mãi truyền từ đời này sang đời khác vậy. Ví như có một ngọn đèn được thắp sáng rồi, thì ánh sáng từ ngọn đèn ấy có thể chuyển từ cây đèn này sang cây đèn khác, liên tục mãi như vậy. Chớ nên để cho sự truyền thừa Bát Nhã Ba La Mật bị đoạn tuyệt, khiến hạt giống Phật bị đoạn mất ở thế gian này.
Hỏi: Trước đây nói rằng: “Dù có nói ra thì Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng tăng, dù chẳng nói ra Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng giảm, vì tướng của Bát Nhã Ba La Mật là là rốt ráo, tịch diệt”. Lại nữa, Bát Nhã Ba La Mật là hư không, chẳng ai có thể diệt được. Vì sao nay Phật lại bảo ngài A Nan: “Chớ nên để cho Bát Nhã Ba La Mật đoạn diệt”.
Đáp: Tuy rằng Bát Nhã Ba La Mật là tịch diệt, là vô sanh, vô diệt, là như hư không, là chẳng có hý luận, nhưng vì lợi ích chúng sanh mà phải dùng văn tự để biên chép kinh quyển Bát Nhã Ba La Mật, dùng ngôn thuyết để giảng nói cho người khác nghe. Đây là nói về nhân tu, rồi sau mới nói về quả tu vậy.
Phàm phu nghe nói Bát Nhã Ba La Mật là pháp vi diệu, liền khởi chấp tâm, thủ tướng của Bát Nhã Ba La Mật, rồi phân biệt có thiện, có ác, có thé gian, có Niết Bàn v. v… Vì chấp tâm nên khởi phân biệt; Vì phân biệt nên khởi đấu tranh; Vì đấu tranh nên khởi các nghiệp tội. Hành động như vậy gọi là diệt Bát Nhã Ba La Mật.
Phật bảo ngài A Nan: Ông phải y theo Bát Nhã Ba La Mật, chớ chấp vào văn tự ngữ ngôn khi giáo hóa Bát Nhã Ba La Mật cho chúng sanh. Như vậy mới gọi là chẳng diệt Bát Nhã Ba La Mật. Bát Nhã Ba La Mật còn ở đời bao nhiêu lâu thì còn phải biết Phật còn ở đời bấy nhiêu lâu.
-o0o-
Trong kinh rộng nói rằng Phật ân cần phó chúc Bát Nhã Ba La Mật giữa đại chúng, nhưng sợ có người khởi nên tâm nghi, nên Phật mới thuyết riêng phẩm Chúc Lụy này, để chúng sanh biết rõ nhân duyên có Bát Nhã Ba La Mật ở đời là có Phật ở đời vậy.
Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của 3 đời 10 phương các đức Phật, là thầy của các pháp, đem lại lợi ích lớn cho chúng sanh. Bởi vậy nên nói: “Bát Nhã Ba La Mật còn ở đời tức là đức Phật còn ở đời”.
-o0o-
Phật bảo chẳng ly Pháp bảo. Bồ Tát được 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, vẫn chưa có thể gọi là Phật. Khi được Pháp bảo rồi mới được gọi là Phật. Pháp bảo nói ở đây là Bát Nhã Ba La Mật vậy.
Hỏi: Nếu có người phạm trọng tội, hành các nghiệp bất thiện, mà được nghe Bát Nhã Ba La Mật, nghe rồi thọ trì, đọc tụng, biên chép Bát Nhã Ba La Mật, thì người ấy có thường chẳng rời thấy chư Phật, thường chẳng rời nghe pháp, thường thân cận chư Phật chẳng?
Đáp: Sự việc này đã được nói rõ trước đây rồi. Có 2 hạng người nghe pháp:
– Có hạng người nghe Pháp mà chẳng tin, chẳng thọ hành.
– Có hạng người nghe pháp rồi, liền tin và thọ hành.
Nếu người đệ tử này nghe thầy thuyết pháp mà chẳng tin, chẳng thọ hành, thì thầy xem người ấy như là chẳng có nghe pháp.
Nếu người đệ tử nghe thầy thuyết pháp và khởi lòng tin và tinh tấn thọ hành, thì thầy gọi người ấy là chân thật nghe pháp. Người đệ tử sau khi đã chân thật nghe pháp rồi, lại còn phải đọc tụng, chánh ức niệm, tùy theo ý Phật, xa lìa cả 2 bên mà hành trung đạo, như chỗ nghe pháp mà thọ trì, giải nghĩa, rồi vì người khác giải nói nghĩa trong kinh pháp. Ngoài ra còn phải cung kính, tông trọng, tán thán và đem hoa hương cúng dường kinh pháp.
Nếu người đệ tử y như vậy mà hành, thì lúc ban đầu phát tâm chỉ mới được phước đức cạn mỏng; nhưng càng lâu phước đức thêm dày, tín tâm càng kiên cố, bất động.
Nếu người đệ tử nghe thầy thuyết pháp, mà đem hoa hương cúng dường kinh pháp thì cũng có được một phần phước đức.
Nếu người đệ tử là người trí, biết công đức của Bát Nhã Ba La Mật mà cúng dường, thì được phước đức rất nhiều; còn nếu là người ít trí huệ, chẳng biết được công Đức của Ba La Mật mà vẫn cúng dường, thì chỉ được phước đức cạn mỏng mà thôi.
Người nào thành tựu được phước đức sâu dày, thì khi chuyển thân cũng chẳng rời thấy chư Phật, chẳng rời nghe pháp, thường thân cận chư Phật.
Người nào chỉ có phước đức cạn mỏng, thì khi chuyển thân chẳng có được 3 đời phước báo, cũng chẳng đền hết các tội. Thế nhưng khi đã đền tội xong rồi, thì về sau cũng sẽ được thấy Phật, được nghe pháp được thân cận chư Phật vậy.
Nơi đây, Phật nói rằng: “Người có phước đức thuần hậu thường chẳng rời thấy Phật, chẳng rời nghe pháp, thường được thân cận và cúng dường chư Phật. Người có phước đức cạn mỏng, khi đã đền tội xong rồi cũng sẽ được thấy Phật, được nghe pháp, dần dần cũng sẽ được đầy đủ 6 pháp Ba La Mật… dẫn đến cũng sẽ được làm Phật”.
Phật dùng Phật nhãn thấy Bát Nhã Ba La Mật có đại lợi ích cho chúng sanh nên mới ân cần chúc lụy như vậy.
Hỏi: Chư vị đại A La Hán đã chứng thật tế, chẳng còn có vui buồn. Như vậy vì sao các ngài còn sanh tâm đại hoan hỷ?
Đáp: Chư vị đại A La Hán tuy đã ly dục, đã vượt ra ngoài 3 cõi, nhưng chưa có đầy đủ trí huệ. Nay được nghe Bát Nhã Ba La Mật, minh giải rõ ràng, nên các ngài đã đoạn trừ tâm nghi, sanh tâm đại hoan hỷ.
Lại nữa, chư vị A La Hán đã chứng được thực tế, đã thâm nhập vào các pháp không, vô tướng, vô tác, vô phân biệt. Nay ở nơi các pháp tướng tịch diệt, mà Phật đã khéo dùng danh tự ngữ ngôn phân biệt các pháp, rộng nói các thí dụ. Như vậy Phật đã dung thông cả 2 đế, mà chẳng hoại pháp tánh. Bởi vậy nên chư đại A La Hán rất hoan hỷ. Phật khéo nói về các pháp không, vô tướng, vô tác, tịch diệt, vô phân biệt mà đại chúng chưa từng được nghe, nên tất cả đều hoan hỷ, nghĩ rằng: “nghe được pháp này rồi, chúng ta sẽ đoạn sạch được các nhân duyên sanh tử. Chúng ta sẽ được Phật đạo”.
Như vậy là có vô lượng nhân duyên khiến chư vị đại A La Hán cùng đại chúng đều sanh tâm hoan hỷ.
Hỏi: Phật đem Bát Nhã Ba La Mật chúc lụy cho ngài A Nan, bảo ngài phải giữ gìn Pháp Bảo này sau khi Phật nhập Niết Bàn, đừng để cho hạt giống Phật đoạn đứt. Như vậy, vì sao trong lần kiết tập 3 tạng kinh điển do ngài Ma Ha Ca Diếp chủ trì và ngài A Nan thuyết minh chẳng thấy đề cập đến kinh Bát Nhã Ba La Mật?
Đáp: Kinh đại thừa thậm thâm vi diệu, khó tin, khó giải, khó thành. Khi Phật còn tại thế còn có nhiều vị Tỷ Kheo nghe kinh Đại Thừa, khởi tâm nghi, chẳng tin, chẳng hiểu, nên đã đứng dậy, bỏ ra đi, huống nữa là sau khi Phật nhập Niết Bàn. Bởi vậy nên lúc kiết tập kinh điển chẳng có nói đến kinh Bát Nhã Ba La Mật.
-o0o-
Lại nữa, 3 tạng chánh có đến 30 vạn bài kệ, gồm có 960 vạn lời. Pháp Đại Thừa mênh mông, vô hạn lượng. Ví như phẩm Bát Nhã Ba La Mật này có đến 2 vạn 2 ngàn bài kệ, còn Đại Phẩm Bát Nhã có đến 10 vạn bài kệ. Chư vị Long Vương, chư vị A Tu La Vương, cùng chư Thiên tàng trữ ở trong các cung điện cả ngàn vạn ức bài kệ nữa. Vì sao? Vì chư Thiên Long Thần thọ mạng lâu dài; Tri thức và niệm lực rất vững mạnh; Trái lại người đời nay thọ mạng ngắn ngủi, tri thức và niệm lực cạn mỏng. Chỉ phẩm Bát Nhã Ba La Mật này là người thế gian còn chưa thể đọc trọn, huống nữa là đọc nhiều hơn.
Chư vị Bồ Tát Ma Ha Tát biết về Bát Nhã vô lượng, vô hạn. Vì sao? Vì chẳng phải ở nơi 1 thân mà Phật thuyết kinh này. Phật ở trong vô lượng đời, biến hóa vô lượng thân mà nói ra vô lượng pháp.
Ngoài kinh Bát Nhã Ba La Mật, còn có rất nhiều kinh Đại Thừa khác như: Kinh Bất Khả Tư Nghì Giải Thoát có 10 vạn bài kệ; Kinh Bổn Khởi Vân, kinh Đại Vân mỗi bộ có 10 vạn bài kệ; kinh Pháp Hoa, kinh Đại Bi, kinh Phương Đẳng, kinh Long Vương Vấn, kinh A Ta La Vương Vấn v.v… Như vậy, Đại Thừa có vô lượng vô biên bộ kinh lớn, nhiều như số trân bảo trong biển lớn. Làm sao bao nhiêu bộ kinh lớn như vậy mà có thể chứa được trong ba tạng kinh điển của loài người.
Tạng kinh điển của loài người chỉ là tạng nhỏ. Vật nhỏ có thể chứa đựng trong vật lớn, mà vật lớn chẳng sao có thể được chứa đựng trong vật nhỏ vậy.
Cũng như vậy, trong pháp Tiểu Thừa chẳng có pháp Đại Thừa; Còn pháp Đại Thừa kiêm nhiếp hết thảy pháp Tiểu Thừa. Chớ nên nạn hỏi.
-o0o-
Có thuyết nói sau khi Phật diệt độ, ngài Ma Ha Ca Diếp đưa các Tỷ Kheo vào trong núi Kỳ Xà Quật, kiết tập 3 tạng kinh điển. Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cùng một số chư vị Bồ Tát Ma Ha Tát khác đưa ngài A Nan theo để kiết tập kinh điển Đại Thừa.
Lại có thuyết nói ngài A Nan thấy chí nguyện của chúng sanh có đại, có tiểu sai khác nhau, nên ngài chẳng có nói kinh Đại Thừa trong chúng Thanh Văn. Nếu nói ra thì ắt phải có loạn động, có lầm lạc, chẳng sao thành tựu được Đại Pháp.
Phật pháp Tiểu Thừa chỉ có 1 món, 1 vị, nhằm diệt khổ, được giải thoát.
Thế nhưng giải thoát đầy đủ phải có 2 phần:
- Tự lợi. Chỉ có lợi cho mình.
- Tự lợi và tự tha. Vừa lợi cho mình, mà còn lợi cho hết thảy chúng sanh.
Đây là nhân duyên phân biệt có Tiểu Thừa và Đại Thừa sai khác nhau.
-o0o-
Tuy rằng các kinh đều từ kim khẩu đức Phật nói ra, nhưng y theo văn tự ngữ ngôn mà phân ra có:
– 3 tạng kinh Thanh Văn Tiểu Thừa.
– 3 tạng kinh Ma Ha Diễn Đại Thừa.\
Khi Phật còn tại thế chẳng có tên “ba tạng” mà chỉ có Tu Đa La, gồm có:
4 bộ A Hàm.
Kinh Ma Ha Diễn có 2 phần:
– 4 bộ A Hàm
– Tu Đa La.
Kinh Ma Ha Diễn Đại Thừa gọi là Tu Đa La gồm cả Tiểu Thừa và Đại Thừa
Riêng 250 giới Tỷ Kheo gọi là Tu Đa La Tỳ Ni. Do có các vị tỷ Kheo tạo tội, nên Phật mới kiết giới, ấn định việc nên làm, việc chẳng nên làm. Việc chẳng nên làm mà làm thì sẽ bị tội.
Luật cũng chia ra làm 2 phần:
– Ma Du La Quốc Tỳ Ni gồm luôn cả A Ba Đà Na (kinh Thí Dụ) và Xà Đà Già (kinh Bổn Sanh). Tất cả có 80 bộ.
– Phát Tân Quốc Tỳ Ni, trừ bớt A Ba Đà Na và Xà Đà Già, chỉ lược phần cốt yếu làm thành 10 bộ.
Lại có luận Tỳ Bà Sa, gồm có 80 bộ.
-o0o-
Kinh Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật ở trong Đại Tu Đa La. Kinh này nói về các đại sự nên phải nói riêng. Vì vậy mà chẳng có trong “3 tạng”.
Ngài pháp sư Cưu Ma La Thập, vào đời Tần Hoàng Thỉ năm thứ 3, đã đến đất Trường An ngày 20 tháng 12 năm Tân Sửu. Ở đây, sau 4 năm kiết hạ ngài đã phiên dịch kinh này sang tiếng Trung Hoa. Ngài ở trên gác có chư Thiên diễu quanh. Ngài dịch phần luận trong 7 năm 12 tháng 7 ngày mới xong.
Ở đây có dẫn các chỗ cốt yếu của kinh Bổn Thiền, kinh Giới Luật, kinh Bách Luận Thiền pháp giảng giải ra thành 50 vạn lời. Các lời thích luận gồm 150 vạn lời. Lúc ban đầu, phẩm thứ nhất bộ luận này có 34 quyển, giải thích 1 phẩm. Đây là gốc của toàn bộ luận.
Kể từ phẩm thứ 2 trở về sau, Pháp sư chỉ lược dịch và khai giải ý văn mà thôi, chẳng phải dịch đầy đủ, chỉ dịch có 1 phần 10 thôi.
(Hết Quyển 100)