LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
TẬP V
QUYỂN 94
Phẩm tám thứ mươi Ba
(Tiếp theo)
Tất Định
(Tiếp theo)
KINH:
Ngài Tu Bồ đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát an trú trong thiện pháp vô lậu thanh tịnh nào để làm các phương tiện như vậy, mà chẳng bị nhiễm ô?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát dùng lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, ở trong hằng sa quốc độ khắp 10 phương để làm lợi ích cho chúng sanh, mà chẳng có tham chấp thân mình. Vì sao ? Vì chấp thân là chấp pháp, mà ở trong bố thí, thì cả ba pháp đều là bất khả đắc. Do tự tướng các pháp là không, mà trong không chẳng có tướng không, nên chẳng có người chấp, chẳng có chỗ chấp vậy. Vì sao ? Vì trong không, thì tướng không cũng là bất khả đắc.
Này Tu Bồ Đề ! Như vậy gọi là “bất khả đắc không”. Bồ tát an trú nơi đây mà được Vô Thượng Bồ Đề.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát an trú trong Bát Nhã Ba La Mật mà được Vô Thượng Bồ Đề; chẳng an trú trong các pháp khác chăng?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Có pháp nào chẳng vào trong Bát Nhã Ba La Mật chăng?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Nếu Bát Nhã Ba La Mật là tự tánh không, thì vì sao hết thảy các pháp đều vào trong Bát Nhã Ba La Mật?
Bạch Thế Tôn ! Trong không, chẳng có pháp vào, cũng chẳng có pháp chẳng vào.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Hết thảy pháp tướng là không chăng?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Đều là không cả.
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Hết thảy pháp tướng đều là không. Như vậy vì sao nói hết thảy pháp chẳng vào trong không?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, đại Bồ Tát làm thế nào để an trú trong hết thảy pháp không mà có thể khởi các thần thông Ba La Mật; rồi lại dùng các thần thông Ba La Mật để đi hằng sa quốc độ khắp 10 phương, cúng dường chư Phật, nghe chư Phật thuyết pháp, và gieo trồng thiện căn nơi chư Phật?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, đại Bồ Tát quán hằng sa quốc độ khắp 10 phương đều là tánh không; Hiện thân của các đức Phật chỉ là giả danh tự. Giả danh tự ấy cũng là không.
Này Tu Bồ Đề ! Vì các cõi Phật khắp 10 phương đều là tánh không, các đức Phật là tánh không, hết thảy các pháp tướng là tánh không, nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, dùng lực phương tiện khởi các thần thông Ba La Mật. An trú trong các thần thông Ba La Mật, Bồ Tát khởi thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, như ý túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông, mà biết rõ các chúng sanh trong các đường sanh tử.
Nếu Bồ Tát xa rời các thần thông Ba La Mật, thì chẳng có thể làm lợi ích cho chúng sanh, chẳng có thể được Vô Thượng Bồ Đề. Thần thông Ba La Mật và đạo lợi ích dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề.
Vì sao ? Vì Bồ Tát dùng thiên nhãn, tự mình thấy các thiện pháp, cũng dạy người, khiến họ được các thiện pháp, ở nơi các thiện pháp, Bồ Tát chẳng thủ chấp, vì các thiện pháp đều là tự tánh không. Trong “không” chẳng có chỗ thủ chấp. Nếu chấp, thì sẽ thọ mùi vị, mà trong “không” thì chẳng có mùi vị vậy.
Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, dùng thiên nhãn quán hết thảy pháp đều là không. Vì thấy hết thảy pháp đều là không nên chẳng thủ tướng, chẳng tác nghiệp, chẳng thấy có vì người mà nói pháp ấy, chẳng thấy có tướng chúng sanh, cũng chẳng nghe danh tự chúng sanh.
Bồ Tát dùng pháp “vô sở đắc, khởi thần thông Ba La Mật; Dùng thần thông quán chỗ nào nên làm thì làm. Thiên nhãn thù thắng hơn nhân nhãn, nên Bồ Tát dùng thiên nhãn thấy được các cõi Phật trong khắp 10 phương. Thấy rồi, Bồ Tát bay đến tận các cõi Phật để làm lợi ích cho chúng sanh; Hoặc dùng bố thí, hoặc dùng trì giới, hoặc dùng nhẫn nhục, hoặc dùng tinh tấn, hoặc dùng thiền định, hoặc dùng trí huệ để làm lợi ích cho chúng sanh; Hoặc dùng 37 pháp trợ đạo, hoặc dùng 3 giải thoát môn, hoặc dùng pháp Thanh Văn, hoặc dùng pháp Bích Chi Phật, hoặc pháp Bồ Tát, hoặc dùng pháp Phật để làm lơi ích cho chúng sanh. Gặp người xan tham, thì Bồ Tát nói với họ, “các ngươi nên hành bố thí. Bần cùng là khổ não. Người bần cùng chẳng tự lợi ích cho chính mình, huống nữa là lợi ích cho người khác. Các ngươi, hãy siêng năng hành bố thí, khiến tự mình được vui, cũng làm cho người khác được vui. Các ngươi chớ nên vì bần cùng mà xâu xé nhau, trộm cắp của nhau khiến chẳng xa rời được 3 đường ác”. Gặp người phá giới, thì Bồ Tát nói với họ, “các ngươi chớ nên phá giới. Phá giới là khổ não. Người phá giới chẳng tự lợi ích cho chính mình, huống nữa là lợi ích cho người khác. Do phá giới mà phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; chẳng thể cứu mình, huống nữa là cứu người khác. Các ngươi chớ nên tùy theo tâm phá giới; đến khi chết, các ngươi sẽ hối hận”.
Gặp người sân hận, đấu tranh lẫn nhau, thì Bồ Tát với họ, “Các ngươi chớ nên sân hận. Sân hận là khổ não. Sân hận làm não loạn lòng người, chẳng thuận với thiện pháp. Do sân hận mà phải đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Các ngươi chớ nên sanh hận thù, dù chỉ là một niệm, mà tự làm khổ mình”.
Gặp người giải đãi, thì Bồ Tát dạy họ tu tinh tấn.
Gặp người loạn tâm, thì Bồ Tát dạy họ tu thiền đinh.
Gặp người ngu si, thì Bồ Tát dạy họ tu trí huệ.
Gặp người nhiều dâm dục, thì Bồ Tát dạy họ quán bất tịnh.
Gặp người sân nhuế, thì Bồ Tát còn dạy họ quán từ bi.
Gặp người ngu si, thì Bồ Tát còn dạy họ quán 12 nhân duyên.
Lại nữa, gặp người hành phi đạo, thì Bồ Tát dạy họ vào chánh đạo; dạy họ tu Thanh Văn đạo, Bích Chi Phật đạo … dẫn đến tu Phật đạo. Bồ Tát nói với hạng người này rằng, “Các ngươi chớ nên chấp tướng, vì pháp là vô tướng, là tự tánh không. Trong không, thì chẳng có chỗ chấp trước”.
Như vậy, này Tu Bồ Đề ! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát an trú trong thần thông Ba La Mật để làm lợi ích cho chúng sanh.
Này Tu Bồ Đề ! Nếu xa rời thần thông Ba La Mật, thì Bồ Tát chẳng có thể tùy ý chúng sanh để thuyết pháp được.
Bới vậy nên, khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát phải khởi các thần thông Ba La Mật mới có thể tùy ý chúng sanh thuyết pháp, khiến họ được lợi ích. Ví như chim chẳng có đôi cánh, chẳng có thể bay cao được; Bồ Tát chẳng có thần thông Ba La Mật cũng chẳng có thể tùy ý giáo hóa chúng sanh được vậy.
Này Tu Bồ Đề ! Bởi vậy nên khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát phát khởi thần thông. Phát khởi thần thông rồi, Bồ Tát mới tùy ý làm lợi ích cho chúng sanh được.
-Dùng thiên nhãn quán thấy chúng sanh trong hằng sa quốc độ. Quán thấy rồi, dùng lực thần thông đến với chúng sanh, vì họ thuyết pháp, khiến họ được lợi ích.
-Dùng thiên nhĩ nghe chư Phật trong khắp 10 phương thuyết pháp. Nghe rồi, liền thọ trì, và đúng như Pháp mà dạy lại cho chúng sanh.
-Dùng tha tâm trí biết rõ tâm trí của chúng sanh. Biết rồi, liền tùy chỗ ưa thích của chúng sanh mà thuyết pháp; như thuyết bố thí … dẫn đến thuyết Niết Bàn.
-Dùng túc mạng trí biết rõ đời trước của mình, và của chúng sanh; Biết rõ danh hiệu của chư Phật và của chúng đệ tử trong quá khứ. Nếu có chúng sanh nào có lòng tin, muốn nghe về đời quá khứ của họ, thì vì họ nói lại những việc làm của họ trong quá khứ, để rồi vì họ thuyết pháp, như thuyết bố thí …dẫn đến thuyết Niết Bàn.
-Dùng như ý thần túc thông, đi đến vô lượng cõi Phật, cúng dường chư Phật, gieo trồng thiện căn.
-Dùng lậu tận thông trí chứng, để tùy theo chỗ ưa thích của chúng sanh mà thuyết pháp, như thuyết bố thí …dẫn đến thuyết Niết Bàn.
Như vậy, này Tu Bồ Đề ! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát phát khởi những thần thông như vậy. Do các thần thông mà Bồ Tát tùy ý thọ thân trong cảnh khổ, cũng như trong cảnh vui mà chẳng bị nhiễm vậy.
Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật phải như vậy mà du hý thần thông tịnh Phật quốc độ, thành tựu chúng sanh.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Nếu Bồ Tát chẳng tịnh Phật quốc độ, chẳng thành tựu chúng sanh, thì chẳng thể được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì chẳng đầy đủ nhân duyên nên chẳng được Vô Thượng Bồ Đề vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Phải đầy đủ những nhân duyên gì?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Hết thảy các thiện pháp đều là nhân duyên mà Bồ Tát phải đầy đủ để được Vô Thượng Bồ Đề.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn! Những thiện pháp ấy là những pháp gì, mà Bồ Tát phải đầy đủ để được Vô Thượng Bồ Đề ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Từ sơ phát tâm cho đến nay, Bồ Tát bố thí Ba La Mật. Đó là nhân duyên thiện pháp. Ở trong đó chẳng phân biệt người thí, người thọ và tài vật thí, vì các pháp là tự tánh không.
Dùng bố thí Ba La Mật, Bồ Tát có thể tự làm lợi ích cho mình, và làm lợi ích cho chúng sanh dẫn dắt chúng sanh ra khỏi sanh tử và đưa họ vào Niết Bàn. Đó là nhân duyên thiện pháp để các Bồ Tát hành Bồ Tát đạo. Do nhân duyên thiện pháp như vậy mà chư Bồ Tát trong 3 đời đã đang và sẽ độ mình ra khỏi sanh tử và cũng đã đang và sẽ độ chúng sanh ra khỏi sanh tử.
Dùng 5 Ba La Mật kia, 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, 37 pháp trợ đạo, 18 pháp không … dẫn đến 18 bất cộng pháp cùng hết thảy các công đức Phật pháp đều dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề ! Đó là các thiện pháp. Bồ Tát phải đầy đủ các nhân duyên thiện pháp như vậy, rồi mới được nhất thiết chủng trí. Được nhất thiết chủng trí rồi, Bồ Tát sẽ được chuyển pháp luân, độ hết thảy chúng sanh.
LUẬN:
– Ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật : Bồ Tát an trú trong các thiện căn nào để thọ các thân?
– Phật dạy : Bồ Tát phải an trú đầy đủ nơi hết thảy các thiện pháp.
– Ngài Tu Bồ Đề hoan hỷ thưa : Bồ Tát thành tựu các lực phương tiện, an trú trong các thánh pháp vô lậu, nên thường thọ các thân, mà chẳng bị nhiễm ô.
– Phật dạy : Bồ Tát thành tựu các lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, nên thường thọ các thân, thường làm lợi ích cho chúng sanh mà chẳng tham luyến thân vậy.
– Ở nơi đây Phật nêu lên các nhân duyên Bồ Tát có 3 pháp bất khả đắc.
– Đó là : Pháp thân Bồ Tát, thân thị hiện làm súc sanh, và chỗ dụng pháp.
– Vì sao ? Vì Bồ Tát biết rõ các pháp là tánh không, mà cũng chẳng chấp không. Trong không, thì chẳng có người tham chấp, chẳng có pháp để chấp, và cũng chẳng có chúng sanh.
– Phật nói lên các nhân duyên rằng “không” là bất khả đắc, nên Bồ Tát chẳng tham chấp. Lại nữa trí huệ cũng chẳng khả đắc, vì “không” chính là Bát Nhã Ba La Mật vậy. Bồ Tát an trú trong “không” mà được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Vì Bồ Tát chẳng bị chướng ngại, nên dễ được đạo.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bồ Tát an trú trong 6 pháp Ba La Mật,… dẫn đến an trú trong 18 bất cộng pháp mà được đạo. Như vậy, vì sao nói Bồ Tát an trú trong “vô sở đắc Bát Nhã Ba La Mật” mà được đạo?
– Phật hỏi lại : Có pháp nào chẳng có vào trong Bát Nhã Ba La Mật chăng?
– Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bát Nhã Ba La Mật là tánh không. Như vậy làm sao hết thảy pháp đều vào trong Bát Nhã Ba La Mật được?
– Ý ngài Tu Bồ Đề muốn nói rằng, “Trong không, chẳng có thể có pháp ra, có pháp vào được”.
Phật hỏi lại : Hết thảy tướng đều là không chăng?
Ngài Tu Bồ Đề thưa : Đều là không cả.
Phật dạy : Nếu hết thảy pháp tướng đều là không, thì các pháp đều nhập vào trong không. Như vậy vì sao ông lại nói trong “không” chẳng có pháp ra, chẳng có pháp vào?
Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề mới chịu phục theo, và mới thọ lời giải rằng, “Bồ Tát hóa thân để độ chúng sanh”.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi : Bồ Tát làm thế nào để an trú trong pháp không, mà vẫn thường khởi thần thông Ba La Mật, đi đến các cõi Phật ở khắp 10 phương cúng dường chư Phật, nghe chư Phật thuyết pháp và gieo trồng thiện căn?
Ý ngài Tu Bồ Đề muốn nói rằng, “Bát Nhã Ba La Mật là tánh không, là vô pháp. Như vậy làm sao Bồ Tát an trú trong tánh không, trong vô pháp, mà lại có thể thường khởi các thần thông, là hữu pháp?
Phật dạy : Vì là “không” cho nên mới hành. Vì sao ? Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, quán các quốc độ trong khắp 10 phương đều là không, quán chư Phật trong 10 phương cũng đều là không.
Hỏi : Nếu các quốc độ trong khắp 10 phương là không, chư Phật ở trong khắp 10 phương cũng đều là không, thì còn nói làm gì nữa?
Đáp : Phật thành tựu các công đức từ vô lượng kiếp, thật có thân này. Một ngón chân Phật động thì các quốc độ trong 10 phương đều động theo.
Do đời đời tham ái Phật, nên Bồ Tát khó có thể thấy được Phật là không, khó có thể quán các quốc độ trong khắp 10 phương đều là không.
Với hạng người này, Phật dạy, “Các quốc độ và các đức Phật ở khắp 10 phương là không, và cũng là chẳng không (bất không)”. Vì sao ? Vì do đối với đãi với “có” mà nói “không”; chấp “không” là chấp thiên lệch về một bên. Do vậy mà nói hết thảy pháp tướng là không, tức là nói hết thảy pháp là tự tướng không. Bồ Tát biết rõ như vậy nên ở nơi hết thảy pháp đều được vô chướng ngại.
–o0o–
Nếu dùng nhục nhãn mà quán các sắc pháp, thì chẳng thấy thông đến trên, chẳng thấy thông đến dưới, chẳng thấy thông đến trước, chẳng thấy thông đến sau, nếu thấy ngày thì chẳng thấy đêm, nếu thấy đêm thì chẳng thấy ngày v.v… Lực của nhục nhãn yếu kém như vậy, nên Bồ Tát phải dùng đến lực của thiên nhãn, khiến từ nơi thân 4 đại mà có thể thấy thông suốt được các cõi.
Bồ Tát dùng thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, như ý túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông biết rõ chúng sanh qua lại trong các đường sanh tử, biết chúng sanh căn tánh như thế nào để tùy theo đó thuyết pháp độ thoát họ ra khỏi sanh tử. Nếu chẳng có các thần thông, thì Bồ Tát chẳng có thể làm lợi ích cho chúng sanh. Vì sao ? Vì chẳng có thần thông, thì chẳng có làm cho đông đảo chúng sanh phát tâm Vô Thượng Bồ Đề Vậy. Bồ Tát dùng các thần thông là để hành Bồ Tát đạo. Bồ tát tự mình tu các thiện pháp, và cũng dạy người tu các thiện pháp, mà chẳng chấp các thiện pháp.
Hỏi : Thiên nhãn thấy các sắc pháp, nhưng làm sao thấy được các thiện pháp, làm sao thấy được hết thảy pháp là tự tánh không được?
Đáp : Nay ở trong nhân mà nói đến quả. Bồ Tát dùng thiên nhãn tự thấy được thân mình, và thấy được chúng sanh trong khắp 10 phương. Sau đó mới dùng tha tâm thông, túc mạng thông để biết rõ thiện căn của chúng sanh ở đời này và đời sau; Thấy chúng sanh thọ quả báo rồi cũng phải tiêu diệt; Thấy hết thảy các thiện pháp đều là pháp hữu vi, chẳng có tự tánh, nên là không. Vì là không, nên là bất khả đắc.
Ví như con nhện chẳng có chỗ nào mà chẳng đặt chân đến, chỉ trừ chỗ có lửa là chẳng có đặt chân lên. Chúng sanh ái trước cũng là như vậy. Dù có lên đến trời phi hữu tưởng, phi vô tưởng cũng vẫn còn chấp, nên chẳng vào được Niết Bàn. Chấp hết thảy mà chẳng chấp được Bát Nhã Ba La Mật tánh không, vì tánh không là như lửa, nên chẳng có mùi vị. Vì sao ? Vì Bát Nhã Ba La Mật tướng là không, nên là chẳng có chỗ chấp. Nếu là chẳng phải không, thì mới có chỗ chấp.
Bồ Tát an trú trong “không”, dùng trí huệ khởi các nghiệp hữu lậu để vì chúng sanh thuyết pháp, mà vẫn biết rõ chúng sanh chỉ là giả danh, là bất khả đắc vậy.
Bồ Tát phải an trú trong “vô sở đắc Bát Nhã Ba La Mật” mới có thể đầy đủ thần thông. Nếu Bồ Tát chẳng được “vô chướng ngại Bát Nhã Ba La Mật”, thì chẳng được “vô ngại thần thông”. Được “vô thượng thần thông” rồi, mới đi đến quốc độ ở khắp 10 phương, làm lợi ích cho chúng sanh ( như trong kinh đã rộng nói).
–o0o–
Ở nơi đây, Phật dạy,”Ví như chim chẳng có đôi cánh, chẳng thể bay cao được. Cũng như vậy, Bồ Tát chẳng có các thần thông Ba La Mật, chẳng có thể giáo hóa chúng sanh được”.
Bồ Tát dùng thiên nhãn thông, thấy được chư Phật cùng chúng sanh ở các quốc độ trong khắp cả 10 phương; Dùng thiên nhĩ thông nghe chư Phật thuyết pháp; dùng như ý thần túc thông phóng đại quang minh, hóa ra lửa, hóa ra nước, hiện ra các sự việc lạ lùng khiến chúng sanh phát tâm tin kính; Dùng tha thâm thông biết rõ tâm trí chúng sanh, biết chúng sanh nào nên độ hay chưa nên độ, biết chúng sanh lợi căn hay độn căn, biết chúng sanh nào đã thành tựu thiện căn hay chưa thành tựu thiện căn v.v…;
Dùng túc mạng thông biết rõ mỗi chúng sanh đã đang và sẽ qua lại trong sanh tử như thế nào, thuộc giống gì, thiện căn ra sao, từ đâu sanh về đây, sau khi chết sẽ sanh về đâu, tu tập như thế nào, bao giờ mới được giải thoát v.v… Như vậy, Bồ Tát tư duy, trù lượng, biết rõ chúng sanh nào có thể độ được, chúng sanh nào chưa thể độ được; Dùng các lực thần thông biết rõ các duyên nghiệp của mỗi chúng sanh ở đời quá khứ và quả báo ở đời vị lai. Nếu thấy chúng sinh nào cần đến sự sợ hãi mới được độ, thì Bồ Tát khai thị cảnh giới địa ngục cho họ thấy, khiến họ sanh sợ hãi. Nếu thấy chúng sanh nào cần sự vui vẻ mới được độ, thì Bồ Tát khai thị cảnh Tịnh Độ cho họ thấy khiến họ sanh vui vẻ, nhàm chán cảnh thế gian. Lúc bấy giờ, Bồ Tát dùng thần thông vô lậu thuyết các pháp vô lậu. Chúng sanh nghe pháp tự phá được tâm chấp của minh; Rồi Bồ Tát lại dùng 3 thừa đạo dạy cho chúng sanh, dẫn họ vào Niết Bàn.
Ví như con chim hạc muốn bắt cá, trước hết phải tư duy, trù lượng về chỗ đứng của mình, về hướng đi của đàn cá, chẳng bỏ mất cơ hội khi biết cơ hội đã đến, liền nhanh chóng bắt lấy cá. Cũng như vậy, Bồ Tát dùng thần thông quán chúng sanh từ các đời trước đến nay, tư duy, trù lượng phải cần đến các nhân duyên gì để độ họ, phối hợp với các nhân duyên về quốc độ, về thời cơ, về căn tánh lợi độn của chúng sanh v.v… Khi đã hội đầy đủ các nhân duyên, Bồ Tát mới vì họ nói pháp. Bởi vậy nên trong kinh nói, “Bồ Tát xa rời thần thông Ba La mật, chẳng có thể làm lợi ích cho chúng sanh được. Ví như chim chẳng có đôi cánh, chẳng có thể bay cao được”.
–o0o–
Ở nơi đây, Phật nói lên các nhân duyên Bồ Tát dùng thiên nhãn thấy rõ chúng sanh ở khắp 10 phương, biết rõ tâm niệm của chúng sanh mới vì họ thuyết pháp được; Bồ Tát lại dùng các lực thần thông, vì chúng sanh thọ các thân, mà chẳng bị khổ hay lạc làm nhiễm ô. Bồ Tát hiện thân làm cha, làm mẹ, làm thầy, làm đệ tử, làm chủ, làm tớ; hoặc làm trâu, làm ngựa, làm người giàu có làm người có oai lực quyền uy, làm người bần cùng hạ tiện v.v… Ở trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất cứ địa vị nào, Bồ Tát cũng chẳng bị nhiễm ô. Ví như các người hóa do Phật hóa tác ra, làm đầy đủ tất cả các việc, mà chẳng bao giờ vị nhiễm ô vậy.
Vì sao ? Vì Bồ Tát ở trong cảnh lạc chẳng sanh ái, gặp cảnh khổ chẳng sanh sân. Bồ Tát tùy nơi chỗ khởi các phiền não, mà chẳng bị các phiễn não trói buộc,
Như vậy là Bồ Tát du hý thần thông, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.
Hỏi : Bồ Tát dùng lực thần thông có nơi, có chốn. Như vậy vì sao nói là du hý?.
Đáp : “Du” là đi qua, “hý” là như huyễn. Bồ Tát dùng các thần thông cũng như nhà huyễn thuật biến hiện ra các sự vật.
Trong Phật pháp, hành 3 tam muội “không, vô tướng và vô tác” gọi là hành ở cấp cao ( thượng hạnh). Vì sao?. Vì là tợ như Niết Bàn, mà là vô sở trước, vô sở đắc. Bởi vậy nên, hành các pháp khác gọi là hành ở cấp thấp (hạ hạnh).
Dùng các lực thần thông gọi là du hý. Vì sao ? Vì điều cốt yếu để tịnh Phật quốc độ là thành tựu chúng sanh. Như vậy, ngay khi tịnh Phật quốc độ, thì đồng thời đã có tu thiện căn rồi.
Hỏi : Vì sao phải thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ rồi mới được Vô Thượng Bồ Đề?
Đáp : Phật nói lên nhân duyên “chẳng thành tựu chúng sanh, chẳng tịnh Phật quốc độ” thì chẳng được Vô Thượng Bồ Đề” Vì sao? Vì phải đầy đủ các nhân duyên mới được Vô Thượng Bồ Đề vậy.
Nhân duyên, nói nơi đây, là hết thảy các thiện pháp từ sơ phát tâm đến nay, Bồ Tát thường hành hết thảy các thiện pháp, hành 6 pháp Ba La Mật … dẫn đến hành 18 bất cộng pháp. Khi hành các thiện pháp, Bồ Tát chẳng ức tưởng phân biệt. Ví như khi hành bố thí, Bồ Tát chẳng phân biệt có người thí, có người thọ, có tài vật thí. Dẫn đến khi hành 18 bất cộng pháp cũng là như vậy.
Nếu Bồ Tát chẳng chấp tâm, chẳng phân biệt khi hành 6 pháp Ba La Mật…..dẫn đến khi hành 18 bất cộng pháp, thì đó là nhân duyên thành Vô Thương Bồ Đề, đó là nhân duyên để có thể tự độ mình và độ người vậy.
Hỏi : Nếu Bồ Tát khởi tâm chấp khi hành bố thí thì có lỗi gì?
Đáp : Hành bố thí như với tâm chấp tuy có lợi nhỏ, mà có lỗi rất lớn. Ví như món ăn ngon có xen chất độc, tuy ăn vào ngon miệng, mà về sau sẽ bị chất độc gây tác hại … dẫn đến có thể mất mạng.
Hỏi : Lỗi gì mà quá nặng đến như vậy?
Đáp : Nếu người bố thí mà có chấp tâm, khi gặp những điều gì chẳng được vừa ý mình, như thấy người thọ thí chẳng chút cảm ơn mình, thì liền sanh sân hận. Nếu người cúng dường mà có chấp tâm, khi gặp những điều chẳng may đến với mình, như bị hoạn nạn, bị ốm đau…, thì liền sanh chán nản, chẳng muốn cúng dường nữa.
Người đã phát tâm hành bố thì, thì chẳng nên luyến tiếc việc làm của mình, vì nếu luyến tiếc thì sẽ thọ quả báo bất tịnh.
Lại nữa, do chấp tâm bố thí mà sanh tâm chấp đắm tài vật của mình. Hạng người này sẵn sàng làm hại kẻ xâm đoạt tài sản của mình; do vậy mà gây nên tội lỗi
Lại nữa, do bố thí mà muốn hướng nhiều quả báo phước đức, nên mới sanh tâm chấp bố thí. Bố thí như vậy sẽ được thọ quả báo bất tịnh chỉ đem lại cho mình toàn là ưu bi khổ não. Vì sao ? Vì có chấp tướng là có lỗi lầm vậy.
Người đúng như thật tướng mà hành bố thí, mới chẳng có lỗi lầm. Người này dù ở trong sanh tử mà vẫn thọ được các phước lạc bất tận, dẫn đến được vô Thượng Bồ Đề.
Còn người hành thiện pháp, khi nghe pháp là rốt ráo không, mà lại chấp “không” cũng là có lỗi. Người chấp tâm, thủ tướng như vậy, chẳng những mất hết thảy công đức mà còn bị đọa vào tà kiến nữa.
Vì sao? Vì chấp mình có hành các công đức bố thí là có chấp tâm, có thủ tướng, nên là có lỗi lầm.
Bồ Tát xả tâm chấp, nên an trú nơi pháp không, mà chẳng chấp tướng “không”. Bồ Tát ở nơi như pháp tánh thật tế, cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề.
Khi bố thí, Bồ Tát dấy niệm rằng, Chư Phật ba đời 10 phương do ở nơi rốt ráo thanh tịnh mà biết rõ thật tướng các pháp, cũng biết rõ thật tướng bố thí là rốt ráo không. Tôi nay cũng dùng tánh không ấy, để cùng với hết thảy chúng sanh, đồng hồi hướng các công đức bố thí về Vô Thương Bồ Đề. Vì biết rõ nơi các tâm và tâm sở pháp, 5 căn chẳng dùng, chẳng hành, chẳng biết được các pháp tướng; Vì biết rõ các pháp đều do nhân duyên sanh, đều là hư vọng, là chẳng có tự tánh, nên nay tôi đem tất cả các công đức bố thì, cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì ở nơi thật tướng các pháp, ở nơi thật tướng hồi hướng, thì hết thảy các pháp hư vọng đều bình đẳng, chẳng có sai khác. Tôi nay chưa được thật trí huệ thanh tịnh, nên còn có phân biệt thật hư. Nếu có được thật trí huệ thanh tịnh, thì biết rõ hết thảy các pháp vào trong đệ nhất nghĩa, đều là bình đẳng, thanh tịnh, chẳng có sai biệt”.
Như vậy, bố thí thanh tịnh là bố thí với sự hồi hướng tất cả công đức bố thí thẳng về Phật đạo. Hành bố thì mà chẳng có tâm phân biệt như vậy mới gọi là hành chân Bồ Tát Đạo.
***
Phẩm thứ tám mươi bốn
Tứ Đế
(Bốn Thánh Đế)
KINH:
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn! Nếu hết thảy các pháp ấy đều là Bồ Tát pháp, thì pháp gì gọi là Phật pháp?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát pháp cũng là Phật pháp. Nếu biết hết thảy chủng trí, thì được nhất thiết chủng trí, là đoạn đứt hết thảy các phiền não tập khí. Bồ Tát đang hướng về nhất thiết chủng trí, và sẽ được pháp ấy.
Phật đã được nhất thiết chủng trí, dùng nhất tiệm tương ưng huệ, biết hết thảy pháp, mà được Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề ! Đây là chỗ sai biệt giữa Phật và Bồ Tát. Ví như người đã đắc đạo quả và người hướng đến đạo quả, tuy đồng là bậc Thánh, nhưng có sai khác nhau.
Này Tu Bồ Đề ! Người hành đạo vô ngại được gọi là Bồ Tát.
Người đã được giải thoát đạo. chẳng còn hết thảy ám chướng, thì được gọi là Phật.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Nếu hết thảy pháp đều là tự tướng không, thì làm sao có phân biệt địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trời, người; Làm sao có phân biệt Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát… dẫn đến Phật ?
Bạch Thế Tôn ! Nếu người tác nghiệp là bất khả đắc, thì nghiệp nhân cũng bất khả đắc, nghiệp quả cũng bất khả đắc chăng?
Phật dạy : Đúng như vậy, đúng như vậy ! Này Tu Bồ Đề ! Đúng như chỗ ông nói. Các pháp là tự tướng không, nên chẳng có pháp, chẳng có chúng sanh, chẳng có nghiệp nhân duyên, chẳng có nghiệp quả báo.
Này Tu Bồ Đề ! Vì chúng sanh nên chẳng biết được các pháp đều là tướng không, nên mới hành các nghiệp nhân duyên, hoặc là ác, hoặc là thiện, hoặc là bất động. Do các ác nhân duyên mà chúng sanh bị đọa vào ba đường ác; Do các thiện nhân duyên mà chúng sanh làm người, hoặc được sanh lên các cõi trời Dục và Sắc; Do các bất động nhân duyên mà chúng sanh dược sanh lên cõi trời Vô Sắc.
Bồ Tát hành 6 pháp Ba La Mật …dẫn đến hành 18 bất cộng pháp, thọ hành hết thảy các pháp trợ đạo, vào Kim cang tam muội, được Vô Thượng Bồ Đề; Được Vô Thượng Bồ Đề rồi, lại ra làm các việc lợi ích cho chúng sanh. Vì Lợi ích chẳng mất ấy chẳng mất nên chẳng đọa vào trong sáu đường sanh tử.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : bạch Thế Tôn ! Phật được Vô Thượng Bồ Đề rồi, có còn ở trong các đường sanh tử chăng?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Chẳng còn ở trong các đường sanh tử vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn! Phật còn có các nghiệp ác( hắc nghiệp), các nghiệp thiện ( bạch nghiệp), các nghiệp vô ký chăng?
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Nếu chẳng có, thì làm sao Phật lại nói đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh; Nói đến trời, người; Nói đến Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm, A La Hán, Bích Chi Phật và Phật?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Nếu chúng sanh biết các pháp đều là tự tướng không, thì Bồ Tát chẳng cầu Vô Thượng Bồ Đề, chẳng cứu chúng sanh ra khỏi ba đường ác …dẫn đến chẳng qua lại trong sáu đường sanh tử.
Này Tu Bồ Đề ! Vì chúng sanh thật chẳng biết các pháp đều là tự tướng không, nên chẳng thoát khỏi 6 đường sanh tử.
Bồ Tát theo các đức Phật, nghe thuyết về pháp “tự tướng không”, nên phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề.
Này Tu Bồ Đề ! Do vọng chấp mà phàm phu tưởng các pháp đều là thật có. Vì sao : Vì ở nơi pháp “vô sở hữu” mà phàm phu điên đảo khởi các vọng tưởng phân biệt, nói có được pháp, như nói : Có pháp “hữu”, có pháp “vô”; ở nơi chẳng có sắc mà tưởng có sắc; Ở nơi chẳng có thọ, tưởng, hành, thức mà chấp có thọ, tưởng, hành, thức … Dẫn đến hết thảy pháp hữu vi đều là vô sở hữu, mà phàm phu dùng tâm điên đảo, khởi các vọng tưởng … để rồi gây ra các nghiệp nhân duyên ở thân, ở khẩu, ở ý, khiến phải trói lăn trong 6 đường sanh tử, chẳng sao được giải thoát vậy.
Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật cùng hết thảy các thiện pháp. Vì sao ? Vì hết thảy các thiện pháp đều nhiếp trong Bát Nhã Ba La Mật. Bởi vậy, nên hành Bát Nhã Ba La Mật là hành Bồ Tát đạo, được Vô Thượng Bồ Đề. Được Vô Thượng Bồ Đề rồi, Bồ Tát lại vì chúng sanh thuyết bốn thánh đế, gồm khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế; Khai thị cho chúng sanh biết rõ hết thảy các thiện pháp trợ đạo đều nhiếp trong bốn thánh đế; Dùng các thiện pháp trợ đạo phân biệt có ba ngôi Tam Bảo, gồm có Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo.
Có những chúng sanh, do chẳng tin Tam Bảo, mà chẳng sao ra khỏi sáu đường sanh tử được..
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Dùng khổ thánh đế mà được độ, hay dùng khổ trí mà được độ? Dùng tập thánh đế mà được độ, hay dùng tập trí mà được độ? Dùng diệt thánh đế mà được độ, hay dùng diệt trí mà được độ? Dùng đạo thánh đế mà được độ, hay dùng đạo trí mà được độ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Chẳng phải dùng khổ thánh đế, cũng chẳng phải dùng khổ trí mà được độ … dẫn đến chẳng phải dùng đạo thánh đế, cũng chẳng phải dùng đạo trí mà được độ.
Này Tu Bồ Đề ! Tất cả bốn thánh đế đều bình đẳng. Thánh đế tức là Niết Bàn, nên chẳng phải dùng khổ thánh đế … dấn đến đạo thánh đế, cũng chẳng phải dùng khổ trí… dẫn đến đạo trí mà được Niết Bàn vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Vì sao nói bốn thánh đế là bình đẳng tướng?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Chẳng có khổ, cũng chẳng có khổ trí; chẳng có tập, cũng chẳng có tập trí; chẳng có đạo, cũng chẳng có đạo trí. Như vậy gọi là tướng bình đẳng của bốn thánh đế.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề ! 4 thánh đề hầu như đều chẳng khác với pháp tướng, pháp tánh, pháp trụ, pháp vị, thật tế.
Dù có Phật hay chẳng có Phật, thì pháp tướng vẫn thường trú, chẳng hư dối, chẳng lầm lẫn, nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật là thông đạt “thật tế”.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Bồ Tát thông đạt thật tế như thế như nào mà gọi là hành Bát Nhã Ba La Mật; mà chẳng lạc về Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa, vào thẳng Bồ Tát vị?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát thấy các pháp như thật. Thấy như vậy rồi, nên vào được nơi “vô sở hữu pháp”; Thấy hết thảy các pháp đều là KHÔNG. Các pháp, dù nhiếp trong bốn thánh đế, dù chẳng nhiếp trong bốn thánh đế, cũng đều là KHÔNG.
Quán được như vậy rồi, Bồ Tát liền vào Bồ Tát vị, an trú trong “tánh địa”, chẳng lạc về Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa.
Bồ Tát an trú trong tánh địa, thường sanh bốn thiền, bốn vô lượng tâm, bốn vô sắc định.
Bồ Tát an trú trong sơ định địa, phân biệt hết thảy các pháp, thông đạt bốn thánh đế, biết khổ chẳng sanh tâm duyên khổ…dẫn đến đạo chẳng sanh tâm duyên khổ. Bồ Tát chỉ tùy thuận theo Vô Thượng Bồ Đề, dùng tâm quán các pháp như thật tướng.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thế nào là quán các pháp như thật tướng ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Đó là quán các pháp không.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thế nào là quán các pháp không?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Đó là quán các pháp tự tướng không.
Bồ Tát dùng trí huệ, quán hết thảy các pháp đều không, chẳng có pháp tánh có thể thấy được.
Bồ Tát an trú trong tánh không mà được Vô Thượng Bồ Đề.
Vì sao ? Vì tướng của “tánh không” là tướng của Vô Thượng Bồ Đề. Tướng “tánh không” đó chẳng phải do chư Phật làm ra, chẳng phải do chư Thanh Văn, chư Bích Chi Phật, chư Bồ Tát làm ra.
Vì chúng sanh chẳng biết, chẳng thấy các pháp như thật tướng, nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật phải dùng các lực phương tiện, để vì chúng sanh thuyết ra các pháp ấy.
LUẬN:
Pháp Bồ Tát và pháp Phật tuy đồng, nhưng cũng có chỗ sai khác nhau. Bồ Tát chưa được nhất thiết chủng trí, còn Phật đã được nhất thiết chủng trí rồi; Bồ Tát là người đang hướng đến đạo quả, còn Phật là người đã đắc đạo quả.
Hỏi : Vì sao ngài Tu Bồ Đề sanh nghi, mà hỏi Phật ?
Đáp : Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng, “Bồ Tát y theo chỗ Phật dạy mà hành, hành 6 pháp Ba La Mật….dẫn đến hành nhất thiết chủng trí, nên pháp Bồ Tát phải đồng với pháp Phật”. Suy nghĩ như vậy rồi, ngài hỏi Phật : Chỗ Bồ Tát hành cũng với chỗ Phật hành chẳng có sai khác nhau. Như vậy, nếu các pháp đều là pháp Bồ Tát, thì pháp gì gọi là pháp Phật ?
Phật dạy : Như vậy là ông hỏi về chỗ hành của Bồ Tát và chỗ hành của Phật. Chỗ hành ở nơi sắc tướng tuy đồng, mà ở nơi trí huệ, thì có độn có lợi sai khác nhau.
Nơi đây, Phật tự nói Bồ Tát tuy đã như thật hành 6 pháp Ba La Mật, mà chưa có khắp biết, chưa vào được nhất thiết chủng trí môn, nên chưa được gọi là Phật. Nếu Bồ Tát vào được nhất thiết chủng trí môn, vào được thật tướng các pháp, thì ở nơi nhất niệm tương ưng huệ, đã được Vô Thượng Bồ Đề, đã đoạn sạch hết thảy phiền não tập khí, đã được tự tại nơi hết thảy các pháp, và đã được gọi là Phật.
Ví như mặt trăng đêm 14 và mặt trăng đêm rằm tuy đồng, nhưng mặt trăng đêm 14 chưa có đủ sức hút mạnh để nâng thủy triều lên cao.
Cũng như vậy, Bồ Tát tuy có thật trí huệ, nhưng chưa đầy đủ các Phật pháp, nên chẳng có thể tác động được hết thảy chúng sanh ở khắp 10 phương.
Ví như mặt trăng đêm rằm có ánh sáng thanh mãn, mới có sức hút mạnh nâng thủy triều lên cao. Cũng như vậy, Bồ Tát khi thành Phật rồi, mới phóng đại quang minh có thể tác động được hết thảy chúng sanh ở khắp 10 phương vậy.
Nhân đây, Phật nêu thí dụ về “hướng A La Hán” và “đắc A La Hán” tuy đồng là bậc thánh, nhưng có sai khác nhau. Cũng như vậy, Bồ Tát khi đang tu học, từ khi sơ phát tâm cho đến khi vào được Kim cang tam muội, vẫn còn được gọi là Bồ Tát; Đến khi đã được chánh quả rồi, đã đoạn sạch hết chỗ nghi, chẳng còn chỗ nào chẳng thấy rõ, thì mới được gọi là Phật.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Nếu các pháp là tự tướng không là chẳng có sai biệt, thì làm sao có phân biệt địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trời, người; Làm sao có phân biệt Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát….dẫn đến Phật ? Nếu địa ngục, ngạ quỷ v.v….đều bất khả đắc, chúng sanh bất khả đắc, thì các nghiệp nhân duyên cũng bất khả đắc. Vì người tác nghiệp đã bất khả đắc thì nghiệp nhân duyên và nghiệp quả báo cũng phải bất khả đắc vậy. Như vậy vì sao nói Bồ Tát cùng Phật có sai khác nhau ?
Phật dạy : Đúng như vậy. Vì chúng sanh chẳng biết được các pháp là tự tánh không, nên thường khởi các nghiệp, hoặc ác, hoặc thiện.
Chúng sanh, nói ở đây, bao gồm hàng phàm phu chưa được vào pháp vị, là những người còn tâm chấp ngã và chấp pháp.
Do các phiền não nhân duyên điên đảo, mà chúng sanh khởi 3 nghiệp ở thân khẩu và ý. Trong các nghiệp nhân duyên có thiện có ác, có bất động, có hữu lậu, có vô lậu. Nếu tạo nghiệp ác thì sẽ đọa vào 3 đường ác; nếu tạo nghiệp thiện thì sẽ sanh làm người, hoặc sẽ sanh lên cõi trời Dục và Sắc; nếu tạo nghiệp bất động thì sẽ sanh lên cõi trời Vô Sắc.
Nếu chúng sanh tự biết các pháp là tự tánh không, thì chẳng sanh tâm chấp, mới chẳng khởi các nghiệp. Nhưng vì chúng sanh chẳng biết các pháp là tự tánh không nên mới sanh tâm chấp, mới khởi các nghiệp vậy. Bởi vậy nên Bồ Tát phải tinh tấn hành các pháp bố thí cùng hết thảy các thiện pháp cho đến khi vào được Kim cang tam muội, được Vô Thượng Bồ Đề, để làm lợi ích cho chúng sanh, độ thoát chúng sanh ra khỏi 6 đường sanh tử.
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi : Phật được Vô Thượng Bồ Đề rồi, có được sáu đường sanh tử chăng ?
Phật dạy : Chẳng có được.
Hỏi : Trước đây nói Phật chẳng đọa vào 6 đường sanh tử. Nay vì sao lại nói chẳng được 6 đường sanh tử ?
Đáp : Trước đây vì người tà kiến quyết định chấp tướng, chấp có 6 đường sanh tử, chấp có đọa vào trong 6 đường sanh tử nên nói “Phật chẳng đọa vào trong 6 đường sanh tử”.
Nay vì muốn khai thị cho chúng sanh biết rõ “6 đường sanh tử, cũng như các nghiệp nhân duyên dẫn sanh vào 6 đường sanh tử chỉ là giả danh, chẳng thật có, là như mộng, như huyễn, là bất khả đắc”, nên nói “Phật chẳng được 6 đường sanh tử”.
–o0o–
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi : Phật có được hắc nghiệp, bạch nghiệp, phi hắc nghiệp chăng ?
Phật dạy : Chẳng có được.
Như trên đây đã nói nghiệp cũng như nhân duyên tạo nghiệp là giả danh, chẳng có thật có, là như mộng, như huyễn, là bất khả đắc, nên Phật dạy, “Chẳng có được”.
Ở đây nên biết có bốn loại nghiệp. Đó là :
Hắc nghiệp (nghiệp đen) : Chúng sanh tạo nghiệp nhân ác, phải thọ quả báo khổ ở trong ba đường ác. Do nghiệp quả báo này thuần khổ, nên gọi là “hắc nghiệp”.
Bạch nghiệp (nghiệp trắng) : Chúng sanh tạo nghiệp nhân lành được thọ quả báo phước lạc, tùy ý tự tại ở các cõi trời. Do nghiệp báo thuần phước lạc như vậy, nên gọi là “bạch nghiệp”.
Hắc bạch nghiệp (Nghiệp vừa đen vừa trắng) : Chúng sanh vừa tạo nghiệp nhân ác, vừa tạo nghiệp nhân lành, thọ quả báo vừa khổ vừa lạc, sanh làm người, làm A Tu la, làm rồng… Do nghiệp quả báo này vừa có khổ, vừa có lạc, nên gọi là “hắc bạch nghiệp”.
Phi hắc bạch nghiệp (nghiệp chẳng đen chẳng trắng) : Đây là nghiệp vô lậu, vô vi của các bậc đã đắc đạo.
–o0o–
Nghiệp vô lậu thường phá các quả báo bất thiện. Nghiệp hữu lậu thường khiến chúng sanh phải thọ quả báo thiện hay ác.
Nghiệp vô lậu chẳng phải là “bạch nghiệp”, mà là “phi hắc phi bạch nghiệp”.
Vì sao ? Vì nghiệp vô lậu, tuy thanh tịnh, vô cấu, mà là không, vô tướng, vô tác, nên chẳng có chỗ phân biệt. Nói hắc hay nói bạch là có tương đãi, có phân biệt, mà nghiệp vô lậu là vô tướng, nên chẳng có thể gọi là bạch nghiệp được. Nghiệp vô lậu thường diệt hết thảy các quán, chẳng còn phân biệt hắc hay bạch. Vì là vô tướng, vô quán, nên nghiệp vô lậu được gọi là “phi hắc phi bạch nghiệp”.
–o0o–
Ngài Tu Bồ Đề lại hỏi : Nếu Phật chẳng được bốn nghiệp này, thì làm sao phân biệt có hắc nghiệp, có bạch nghiệp; làm sao phân biệt có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trời, người, A Tu La; Làm sao phân biệt có Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát….dẫn đến Phật ?
Phật dạy : Nếu chúng sanh tự biết các pháp là tự tướng không, thì Bồ Tát chẳng phải phát tâm tu Vô Thượng Bồ Đề, cũng chẳng phải lăn lóc trong 6 đường chúng sanh, để dẫn dắt chúng sanh ra khỏi sanh tử. Vì sao ? Vì nếu chúng sanh tự biết các pháp là tự tánh không, thì họ chẳng cần được độ nữa. Ví như chẳng có bệnh, thì chẳng cần đến thuốc; chẳng có tối, thì chẳng cần có đèn sáng.
Do vì chúng sanh chẳng biết được các pháp là tự tướng không, nên tùy tâm mà chấp tướng. Do sanh tâm chấp, mà sanh nhiễm trước, tùy theo 5 dục mà sanh tham đắm. Do nhân duyên tham đắm mà sanh xan tham, tật đố, sân si…dẫn đến đấu tranh lẫn nhau. Do đấu tranh mà bị các nghiệp tội che tâm, chẳng còn hay biết gì nữa.
Bởi vậy nên, hạng chúng sanh đó khi mạng chung sẽ bị các nghiệp nhân duyên dẫn sanh vào đường sanh tử, qua lại mãi trong 6 đường chúng sanh, chẳng bao giờ ngưng nghỉ.
Bồ Tát nghe Phật dạy các pháp tự tánh không, khởi tâm từ bi thương xót chúng sanh, biết rõ chúng sanh do ngu si điên đảo, mà khởi tâm chấp, nên phát nguyện rằng, “Nếu được làm Phật, tôi sẽ phá tâm điên đảo của chúng sanh, khiến họ được giải thoát”.
Các pháp vốn là tự tướng không, mà phàm phu khởi tâm chấp, nên ở trong vô sở hữu mà lại ức tưởng phân biệt, vọng chấp có sở đắc; ở trong vô chúng sanh mà lại khởi tưởng có chúng sanh; ở trong vô sắc…dẫn đến vô thức mà lại tưởng có sắc…dẫn đến có thức.
Do khởi các vọng tưởng như vậy nên điên đảo nên các nghiệp ở thân khẩu và ý, khiến phải trôi lăn mãi trong 6 đường sanh tử, chẳng có thể thoát ra được.
Nếu chúng sanh nào chỉ khởi các tưởng về phiền não kiết sử, mà chưa có hành động tạo tội ác, thì còn có thể độ được. Còn những chúng sanh tham dục, sân nhuế v.v…mà tạo nên tội ác nặng, thì do các nghiệp nhân ác đó sẽ phải thọ nghiệp quả khổ; hạng chúng sanh này rất khó được độ. Ví như vi trần đã được chất thành núi cao rồi, thì rất khó mà dời đi hết được vậy.
Vì muốn phá các nhân duyên quả báo sanh tử của chúng sanh, mà Bồ Tát nguyện ở trong Bát Nhã Ba La Mật, nhiếp hết thảy các thiện pháp, hành Bồ Tát đạo, được Vô Thượng Bồ Đề, rồi vì chúng sanh thuyết 4 thánh đế, gồm khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
Hỏi : Phật có rất nhiều pháp vi diệu dẫn đến “vô ngại giải thoát”. Vì sao ? Chỉ nói đến 4 thánh đế mà thôi ?
Đáp : Vì chúng sanh khổ, nên trước hết phải trừ khổ cho chúng sanh; sau đó mới khai thị Phật đạo.
Ví như người lâm bệnh nặng, trước hết phải trừ gốc bệnh cho họ; Sau đó mới cho họ bổ dưỡng để phục hồi lại.
—o0o—
Chúng sanh thọ thân 5 ấm, mà 5 ấm là gốc của hết thảy khổ. Do vậy mà phải vì chúng sanh nói về “khổ đế”.
Có vô lượng khổ; nếu nói lược thì có các khổ “sanh, già, bệnh, chết”.
Lại phải cho chúng sanh biết về các nguyên nhân sanh khổ, nên phải vì họ nói về “tập đế”. Do có “ái, thủ và hữu” mà chúng sanh phải thọ thân ở đời sau. Đã thọ thân tức là phải thọ khổ. Do vậy mà nói “ái, thủ, hữu là các nhân chính tạo ra khổ”.
Lại phải dạy cho chúng sanh biết về cách diệt khổ, nên phải vì họ nói về “diệt đế”. Chúng sanh muốn đoạn khổ thì trước phải đoạn “ái”. Đoạn ái rồi, thì thủ, hữu….dẫn đến sanh, già, chết đều đoạn cả. Do vậy mà nói “ái” đoạn thì “khổ” tự diệt.
Lại phải cho chúng sanh biết con đường đưa đến sự diệt khổ, nên phải vì họ nói về “đạo đế”. Con đường diệt khổ tức là “đạo” vậy.
Ở đời này, chúng sanh phải quán thân 5 ấm là gốc của khổ, nên phải quán thân này là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã. Lại phải biết do “ái” mà phải thọ thân, nên phải quán “ái” như bệnh, như ung nhọt, như giặc cướp; Phải hành 8 thánh đạo, tu chánh kiến và 7 pháp thánh đạo kia, để giúp cho sự phát đạo tâm, giúp đoạn sạch pháp “ái”, ví như dùng chất rượu để dẫn thuốc vậy.
Nếu ở nơi hết thảy pháp thế gian mà chẳng còn khởi tâm tham đắm nữa, thì mới ly được khổ. Khi ly được khổ rồi, thì ảnh hưởng của khổ liền tự diệt. Có như vậy mới thành tựu được diệu pháp.
Bởi vậy nên, ở đoạn kinh trên đây, Phật dạy, “ bốn thánh đế nhiếp hết thảy các thiện pháp”.
Hỏi : Vì sao chẳng nói đến các pháp trợ đạo ?
Đáp : Vì hết thảy các thiện pháp nhiếp bên trong bốn pháp đế. Các thiện pháp trợ đạo làm nhân duyên giúp chúng sanh tin kính ba ngôi Tam Bảo. Nếu chúng sanh chẳng tin Tam Bảo, thì chẳng thể ra khỏi 6 đường sanh tử. Bởi vậy nên trước hết phải dạy cho chúng sanh bốn thánh đế, khiến họ trừ được khổ, rồi sau đó mới dùng các thiện pháp trợ đạo để đưa họ vào đạo.
Hỏi : Vì sao ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật, “Dùng khổ đế mà được diệt độ, hay dùng khổ trí mà được diệt độ chăng ?
Đáp : Hỏi như vậy chẳng phải là thô. Hỏi như vậy để cho thấy rõ về thể của bốn thánh đế. Muốn diệt độ thì phải dùng đến trí. Khi đã diệt sạch hết các phiền não rồi, thì được diệt độ, tức là được Niết Bàn vậy. Khổ đế là do khổ trí hòa hợp mà thành tựu.
Cho nên chẳng phải dùng khổ đế mà được diệt độ, được Niết Bàn, mà phải do khổ trí mới được như vậy. Dẫn đến đạo đế và đạo trí cũng là như vậy.
Phật dạy : Chẳng phải dùng khổ đế, cũng chẳng phải dùng khổ trí mà được diệt độ…dẫn đến chẳng phải dùng đạo đế, cũng chẳng dùng đạo trí mà được diệt độ. Tất cả bốn đế đều bình đẳng; Bốn đế tức là Niết Bàn. Chẳng phải dùng khổ đế hay khổ trí…dẫn đến chẳng phải dùng đạo đế hay đạo trí mà được diệt độ. Vì sao ? Vì khổ, tập, diệt và đạo đều do nhân duyên sanh, là hư dối, là chẳng thật có, là chẳng có tự tánh. Nếu khổ, tập, diệt và đạo đều chẳng thật có, thì chẳng có thể dùng các pháp ấy để được diệt độ vậy.
Hỏi : Hai pháp “khổ” và “tập” là pháp hữu lậu, hư dối, chẳng thật có. Còn “đạo đế” là pháp vô lậu, do nhân duyên sanh mà chẳng phải hư dối; “diệt đế” là pháp vô vi chẳng do nhân duyên sanh. Vì sao nói cả 4 pháp đều là hư dối, chẳng thật có ?
Đáp : Khi mới vào đạo, thì chỉ mới biết có hai đế hư dối, là khổ đế và tập đế mà thôi. Khi đã vào vô dư Niết Bàn rồi, thì cũng sẽ biết đạo đế và diệt đế chính là “không tam muội”.
Do hữu lậu, hữu vi mà nói đến vô lậu, vô vi. “Khổ” khi đã diệt rồi, ví như cây đèn đã tắt, chẳng nên hý luận, tâm cầu xứ sở làm gì nữa. Bởi vậy nên Phật dạy, “Chẳng phải dùng khổ mà được diệt độ…dẫn đến chẳng phải dùng đạo mà được diệt độ”.
–o0o–
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Vì sao nói 4 đế bình đẳng ?
Phật dạy : Chẳng có khổ cũng chẳng có khổ trí…dẫn đến chẳng có đạo cũng chẳng có đạo trí; Chẳng có chỗ chia bốn đế ra làm 8 pháp, thì gọi là bình đẳng. “Đế” là như thật, chẳng hư dối, là như pháp tánh, pháp tướng, pháp vị, thật tế. Dù có Phật hay chẳng có Phật, thì pháp tướng vẫn thường trú, chẳng hư dối.
Chúng sanh chẳng biết rằng chỉ có thật tướng pháp là chẳng hư dối, là thường trú, bất diệt, mà cứ mãi vọng chấp điên đảo, tạo nên các nghiệp nhân duyên, khiến phải thọ lãnh các nghiệp quả báo; Dù được quả báo phước lạc ở cõi trời hay cõi người, thì phước lạc đó lâu sau cũng sẽ bị hoại diệt.
Bởi vậy nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, thông đạt “thật đế”, dùng các lực phương tiện vì chúng sanh nói ra “thật đế” vậy.
–o0o–
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bồ Tát thông đạt thật đế như thế nào, mà vào thẳng Bồ Tát vị ?
Phật dạy : Bồ Tát tu duy hết thảy pháp đều không; pháp nhiếp trong 4 thánh đế là không, pháp chẳng nhiếp trong 4 thánh đế cũng là không. Do quán hết thảy pháp không, mà Bồ Tát vào thẳng Bồ Tát vị.
Hỏi : Vì sao nói chẳng quán các pháp không như trên đây, thì chẳng vào được Bồ Tát vị ?
Đáp : Quán hết thảy pháp không, như nói trên đây, có nghĩa là quán hết thảy pháp đều không, và ở trong “không” đó, thì “không” cũng là không. Nếu trong “không” mà còn có “bất không” thì chẳng thể gọi là hết thảy pháp không vậy.
Bồ Tát hành “không” như vậy, nên vào thẳng Bồ Tát vị. Vào Bồ Tát vị, Bồ Tát an trú trong “tánh địa”, chẳng còn bị lạc về Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa.
“Tánh địa” là đệ nhất pháp thế gian. Pháp này tùy thuận “vô lậu đạo” nên gọi là tánh.
Bồ Tát an trú trong “tánh địa” cầu được làm Phật, nên sanh 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định. Khi vào được thiền định, Bồ Tát nhiếp tâm phân biệt các pháp, thông đạt 4 đế, nghĩa là biết khổ mà chẳng duyên khổ.
Phàm phu cũng biết khổ, nhưng cứ mải miết tạo tác ra các nhân duyên nghiệp khổ, khiến mãi miết thọ thân trong các nẻo đường sanh tử.
Bồ Tát biết rõ thân là vô thường, là khổ, là không, là vô ngã, là oán tặc, là giặc cướp. Biết rõ như vậy, nên gặp khổ Bồ Tát liền xả, chẳng chấp tướng khổ, cũng chẳng chấp khổ đế. Dẫn đến đạo đến cũng là như vậy.
Bồ Tát chỉ nhất tâm hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề; biết 4 đế chỉ là phương thuốc để đối trị bệnh chấp của chúng sanh, nên chẳng chấp 4 đế, Bồ Tát chỉ quán thật tướng pháp, nên chẳng có phân biệt 4 pháp quán về 4 đế vậy.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Thế nào gọi là như thật quán các pháp ?
Phật dạy : Đó là quán “không”.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Nếu nói Bồ Tát quán hết thảy các pháp, từ lớn đến nhỏ đều “không”, thì như vậy dùng pháp “không” gì để quán ?
Phật dạy : Dùng “tự tướng không” để quán.
Hỏi : Có đến 18 pháp không, vì sao Phật chỉ nói đến “tự tướng không” mà thôi ?
Đáp : Nói “tự tướng không” là nói ở trong “không”, thì “tự tướng có” mặc nhiên bị phá rồi. Do vậy mà tâm chẳng còn bị chìm đắm, dẫn đến chẳng còn thấy một pháp “hữu tánh” nào nữa…dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề cũng là tự tướng không. Bồ Tát an trú trong “tánh không” mà được Vô Thượng Bồ Đề. Tánh không đó chẳng phải do Phật làm ra chẳng phải do ai khác làm ra, là thường tịch diệt, chẳng có hý luận vậy.
Vì chúng sanh chẳng có thể biết được như thật tướng của các pháp, nên Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, vì chúng sanh nói ra diệu pháp đó.
Bồ Tát được vô sanh pháp nhẫn, đã vào Bồ Tát vị, đã thông đạt đệ nhất nghĩa đế, nên có đầy đủ các lực phương tiện. Bồ Tát quán các đạo tướng thậm thâm vi diệu, mà chẳng đắc, chẳng xả; Lại dùng trí huệ quán biết chúng sanh ở trong “không” mà phải đọa vào ba đường ác, phải thọ bao nhiêu khổ não. Quán như vậy rồi, Bồ Tát trải rộng lòng đại từ bi, thâm niệm chúng sanh, dùng mọi phương tiện cứu vớt chúng sanh ra khỏi các khổ.
Nếu Bồ Tát nói thẳng về tự tướng không của các pháp, thì chúng sanh sẽ chẳng tin, chẳng thọ, dẫn đến sẽ phá hoại pháp, khiến phải bị đọa vào địa ngục. Bởi vậy nên Bồ Tát phải thành tựu hết thảy các thiện pháp, tự trang nghiêm thân tướng của mình, để phương tiện dẫn đạo chúng sanh, tùy từng đối tượng chúng sanh mà thuyết pháp, khiến họ được giải thoát.
(Hết Quyển 94)