LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
TẬP IV
QUYỂN 64
Phẩm thứ bốn mươi hai
(Tiếp theo)
Thán Tịnh
(Tiếp theo)
KINH:
Lúc bấy giờ Thích Đế Hoàn Nhơn hỏi ngài Tu Bồ Đề: Thưa Đại Đức! Thế nào gọi là Thiện Nam, Thiện Nữ cầu Bồ Tát đạo, mà chướng ngại pháp ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Kiều Thi Ca! Có Thiện Nam, Thiện Nữ cầu Bồ Tát đạo, mà mống tâm chấp tướng, như là chấp tướng Bàn Đa La Mật …dẫn đến tướng Bát Nhã Ba La Mật, chấp tướng nội không…dẫn đến tướng vô pháp hữu pháp không, chấp tướng 4 niệm xứ…dẫn đến 8 tướng thánh đạo, chấp tướng 10 lực…dẫn đến tướng 18 bất cộng pháp, chấp tướng gieo trồng thiện căn của chư Phật,chấp tướng hòa hợphết thảy các phước đức, chấp tướng hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề!
Như vậy là Thiện Nam,Thiện Nữ cầu bồ Tát đạo, mà chướng ngại pháp. Dung pháp như vậy chẳng được vô ngại ở nơi Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì có chấp tướng 5 ấm … dẫn đến còn chấp tướng nhất thiết chủng trí, thì chẳng thể hồi hướng được.
Lại nữa, Thưa ngài Kiều Thi Ca! Nếu Bồ Tát muốn giáo hóa người khác tu tập để đến được Vô Thượng Bồ Đề, thì phải giáo hóa họ về thật tướng các pháp.
Thiện Nam, Thiện Nữ, nếu cầu Bồ Tát đạo, thì khi hành 6 pháp Ba La Mật chẳng nên khởi tâm phân biệt rằng : Tôi có bố thí, có trì giới, có nhẫn nhục, có tinh tấn, có thiền định, có trí tuệ; tôi có tu tập nội không…dẫn đến vô pháp hữu pháp không, có tu tập 4 niệm xứ …dẫn đến 8 thánh đạo, có tu tập 10 lực …dẫn đến 18 bất cộng pháp, có hành Vô Thượng Bồ Đề.
Nếu giáo hóa người khác tu Vô Thượng Bồ Đề như vậy, thì Thiện Nam, Thiện Nữ ấy đã theo đúng lời Phật dạy, chẳng có lầm lạc, khiến xa lìa được hết thảy các chướng ngại pháp.
Lúc bấy giờ, Phật tán ngài Tu Bồ Đề: Lành thay, lành thay ! Này Tu Bồ Đề ! Ông đã vì chư Bồ Tát khéo thuyết về các chướng ngại pháp.
Này Tu Bồ Đề! Nay ông hãy lắng nghe ta nói về các tướng chướng ngại vi tế.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con xin nhất tâm nghe.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào phát tâm cầu Vô Thượng Bồ Đề, mà còn chấp tướng tưởng niệm chư Phật là còn bị chướng ngại pháp.
Lại nữa, nếu Thiện Nam, Thiện Nữ niệm tưởng hết thảy thiện căn của chư Phật, từ sơ phát tâm…dẫn đến thời kỳ pháp trụ, rồi hồi hướng về Vô Thương Bồ Đề, mà còn chấp tướng thì như vậy là còn bị chướng ngại pháp.
Lại nữa, nếu Thiện Nam, Thiện nữ chấp tướng thiện căn của chư Phật, của chư đệ tử Phật…dẫn đến của các chúng sanh, rồi đem hết thảy các thiện căn đó hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, thì như vậy cũng là còn bị chướng ngại pháp.
Vì sao? Vì chẳng nên chấp tướng chư Phật, chẳng nên chấp tướng tưởng niệm chư Phật, chẳng nên chấp tướng thiện căn, chẳng nên chấp tướng tưởng niệm thiện căn.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát Nhã Ba La Mật thật thậm thâm.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Thậm thâm vì thường ly hết thảy các pháp vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Con xin thành kính đảnh lễ Bát Nhã Ba La Mật.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bát Nhã Ba La Mật chẳng khởi, chẳng tác, nên chẳng có ai năng đắc cả.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Như vậy hết thảy các pháp đều bất khả đắc chăng?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Hết thảy các pháp đều chỉ là một tánh (nhất tánh) , chẳng phải là hai tánh (nhị tánh).
Nhất tánh cũng chính là vô tánh, nên chẳng có khởi, chẳng có tác.
Nếu Bồ Tát biết rõ các pháp chỉ lá nhất tánh, là vô tánh, đều chẳng khởi, chẳng tác thì xa lìa được hết thảy chướng ngại tướng vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát Nhã Ba La Mật thật khó biết, khó giải.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Đúng như lời ông nói, Bát Nhã Ba La Mật chẳng ai thấy, chẳng ai nghe, chẳng ai biết, chẳng ai đắc cả.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát Nhã Ba La Mật là bất khả tư nghì.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Đúng như lời ông nói, Bát Nhã Ba La Mật chẳng từ tâm sanh, chẳng từ 5 ấm sanh,… dẫn đến chẳng từ 18 bất cộng pháp sanh.
LUẬN:
Hỏi: Vì sao vị Đế Thích lại hỏi về chướng ngại pháp ?
Đáp: Ngại tướng ở nơi chư vị Bồ Tát rất là vi tế. Vì sao? Vì ngay ở nơi các thiện pháp cũng có vi tế ngại tướng. Người lợi căn, thượng trí mới có thể thấy được ; còn người độn căn, thiểu trí thì chẳng sao có thể thấy được vậy.
Bởi vậy nên, trước Phật vị Đế Thích mới thưa hỏi về vi tế chướng ngại pháp.
–oOo–
Nên biết,“ xan tâm” là chướng ngại pháp. Muốn bỏ “xan tâm”, phải hánh “ thí tâm ”. Thế nhưng, bỏ xan tâm, hành thí tâm, mà vẫn còn thủ chấp tướng bố thí, thì cũng vẫn còn bị ngại pháp.
Trái lại, nếu bố thí các nội ngoại vật sở hữu của mình,mà chẳng chấp có tướng người thí, người thọ và tài vật thí,thì mới chẳng bị ngại pháp, mới là bố thí Ba La Mật. Đối với tùy hỷ thiện căn, hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề cũng là như vậy.
Vì sao? Vì mặc dù bố thí là diệu pháp, nhưng nếu trong vẫn còn chấp ngã, và ngài vẫn còn chấp pháp, thì cũng vẫn còn là bị ngại pháp vậy.
Ví như món ăn ngon có trộn tạp độc, khiến người ăn phải mang độc vào thân.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề nói rõ răng : Pháp tướng rốt ráo là không, Bồ Tát phải chẳng chấp tướng chư Phật,tướng thiện căn, tướng hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề…mới xa lìa được các chướng ngại pháp. Ở nơi “ vô ngại tướng”, Bồ Tát phải dụng thật trí huệ khai thị cho người cầu Vô Thượng Bồ Đề, để họ biết rõ được thật nghĩa của 6 pháp Ba La Mật, khiến họ diệt sạch được các thức tướng phân biệt, dẫn họ vào nơi thật tướng pháp.
Nếu Bồ Tát, dụng thật tướng pháp, giáo hóa cho người cầu Vô Thượng Bồ Đề như vậy, sẽ đạt được 2 điều lợi ích. Đó là :
Tự mình chẳng lầm lạc.
Đúng theo lời Phật dạy mà giáo hóa người khác, khiến họ chẳng bị lầm lạc.
Được như vậy là chẳng còn bị “ ngạo pháp tướng ” nữa, nên gọi là được “ vô ngại pháp tướng ”, được “vô tướng pháp tướng” vậy.
Hỏi: Ngài Tu Bồ Đề đã khéo thuyết về nghĩa “ngại pháp tướng”, và đã được Phật tán thán. Nay vì sao Phật còn dạy thêm về nghĩa “vi tế ngại pháp tướng” nữa ?
Đáp: Phật thấy ngài Tu Bồ Đề có trí lực, nên đã tán thán ngài là ngưới đã xả được “chúng sanh tâm”, và đã thuyết về nghĩa “ ngại pháp tướng ”. Thế nhưng, trí thức của ngài Tu Bồ Đề vẫn còn có hạn lượng, nên Phật đã phải dạy rõ thêm về nghĩa của “vi tế ngại pháp tướng”, khiến ngài xin nhất tâm lắng nghe.
Vì sao? Vì nếu Bồ Tát còn chấp tướng niệm Phật, chấp tướng thiện căn, chấp tướng hồi hướng,…là còn bị “vi tế ngại pháp tướng”, là chưa vào được Bát Nhã Ba La Mật, vì Bát Nhã Ba La Mật là vô ngại tướng, là vô tướng tướng vậy.
Chư Phật xuất sanh từ nơi Bát Nhã Ba La Mật cũng là vô tướng tướng.
Bởi vậy nên, nếu ở nơi các thiện căn mà còn chấp có tướng thiện căn, còn chấp có tướng hồi hướng thiện căn về Vô Thượng Bồ Đề, thì chỉ thọ được quả báo thế gian có tạp độc, chẳng có thể nào đến được Vô Thượng Bồ Đề.
Hỏi: “Thô ngại pháp tướng” và “vi tế ngại pháp tướng” có gì khác nhau chăng ?
Đáp: Trên đây đã nói về “thô ngại pháp tướng”, như nói hành bố thí mà còn chấp có tướng người thí, có tướng người thọ, có tướng tài vật thí là còn bị “thô ngại pháp tướng”.
Nay nói về “vi tế ngại pháp tướng”, như nói về trường hợp Bồ Tát thủ tam muội.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề biết Phật dạy đến chổ thâm diệu của Bát Nhã Ba La Mật mà chính ngài chưa có đạt đến được, nên ngài đã tán thán Bát Nhã Ba La Mật là thậm thâm.
Phật dạy: Vì thường ly hết thảy các pháp, nên Bát Nhã Ba La Mật là thậm thâm.
Bởi vậy nên phải ly hết thảy các pháp tướng…dẫn đến phải vi hết thảy các vi tế pháp tướng, mới vào được Bát Nhã Ba La Mật.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề được thâm giải nghĩa Bát Nhã Ba La Mật, nên phát tâm kính lễ Bát Nhã Ba La Mật,và bạch Phật rằng: Con xin thành kính đảnh lễ Bát Nhã Ba La Mật.
Phật dạy: Bát Nhã Ba La Mật chẳng khởi,chẳng tác, Nên chẳng có ai đắc. Hằng sa chư Phật khắp trong 10 phương đều chẳng đắc, huống nữa là hàng Thanh Văn làm sao nói đắc được.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Chẳng phải riêng Bát Nhã Ba La Mật là pháp chẳng thể biết, chẳng thể đắc, mà hết thảy các pháp cũng đều là chẳng thể biết, chẳng thể đắc cả.
Phật dạy: Các pháp đều chỉ là nhất tánh (một tánh), chẳng phải là nhị tánh ( hai tánh ). Nhất tánh là rốt ráo không, nên cũng là vô tánh vậy. Vì là rốt ráo không, nên là chẳng thủ chấp vậy.
Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng: Nếu là vô tánh, thì chẳng khởi, chẳng tác…dẫn đến chẳng còn tương tục ở đời sau.
Biết được như vậy là vào được Bát Nhã Ba La Mật, xả ly hết thảy các ngại pháp, thì được tự tại…dẫn đến được Vô Thượng đạo vậy.
Ngài Tu Bồ Đề lại nghĩ rằng: Chỗ ta cho là đắc, thì Phật gọi là bất đắc. Bát Nhã Ba La Mật thật là khó giải, khó biết vậy.
Phật dạy: Chẳng phải chỉ riêng ông nghĩ là khó, mà hết thảy chúng sanh đều chẳng thể thấy, chẳng thể nghe, chẳng thể biết, chẳng thể đắc vậy. Chẳng có thể dùng 6 căn, 6 thức để biết, để đắc Bát Nhã Ba La Mật được. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật vượt qua ngoài tầm hay biết của 6 thức, nên nói là khó giải vậy.
Ngài Tu Bồ Đề dụng trí lực đến chổ cùng tột mới thâm nhập được vào Bát Nhã Ba La Mật, nên ngài bạch Phật rằng : Bát Nhã Ba La Mật là bất khả tư nghì.
Phật dạy: Bát Nhã Ba La Mật phải từ tâm sanh, chẳng phải từ 5 ấm sanh,…dẫn đến chẳng phải từ 18 bất cộng pháp sanh. Bởi vậy nênBát Nhã Ba La Mật là vô sanh tướng vậy.
Hỏi: Nói Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải từ tâm sanh là đủ rồi. Vì sao lại còn nói Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải từ 5 ấm sanh làm gì nữa ? Vì trong 5 ấm, thì thức ấm cũng chính là tâm rồi vậy.
Đáp: Trước nói Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải từ tâm sanh là được. Nay nói Bát Nhã Ba La Mật chẳng phải từ 5 ấm sanh là nói rộng. Đây là nói 5 ấm…dẫn đến 18 bất cộng pháp, tuy cùng với Bát Nhã Ba La Mật duyên khởi, mà chẳng sanh ra Bát Nhã Ba La Mật. Ví như gió lớn làm cho đám mây tan biến, khiến mặt trời và mặt trăng xuất hiện, mà gió chẳng phải là mặt trời, mặt trăng vậy.
***
Phẩm thứ bốn mươi ba
Vô Tác
KINH:
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn! Như vậy Bát Nhã Ba La Mật là vô sở tác chăng?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì tác giả là bất khả đắc, nên sắc…dẫn đến hết thảy các pháp đều là bất khả đắc cả.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu Bồ Tát muốn thật hành Bát Nhã Ba La Mật, thì phải thật hành như thế nào ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng hành sắc …dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí , mới là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát chẳng hành sắc thường hay vô thường…dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí thường hay vô thường, là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát chẳng hành sắc lạc hay khổ…dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí lạc hay khổ, là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát chẳng hành sắc ngã hay vô ngã…dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí ngã hay vô ngã, là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Bồ Tát chẳng hành sắc tịnh hay bất tịnh…dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí tịnh hay bất tịnh, là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Vì sao? Vì sắc…dẫn đến nhất thiết chủng trí là tự tánh không, là vô sở hữu. Bởi vậy nên sắc …dẫn đến nhất thiết chủng trí đều chẳng phải là thường, là vô thường, là lạc, là khổ, là ngã, là vô ngã, là tịnh, là bất tịnh vậy.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng hành sắc bất cụ túc (chẳng đầy đủ) …dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí bất cụ túc, mới là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Vì sao? Vì sắc bất cụ túc thì chẳng gọi là sắc …dẫn đến nhất thiết chủng trí bất cụ túc, thì chẳng gọi là nhất thiết chủng trí. Chẳng hành như vậy mới gọi là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật là chưa từng có ! Thế Tôn đã khéo thuyết về “ ngại pháp tướng’’, và về “ vô ngại pháp tướng’’ của các Thiện Nam, Thiện Nữ cầu Bồ Tát đạo.
Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! “Ngại Pháp tướng’’ và “ vô ngại pháp tướng’’ của các Thiện Nam, Thiện Nữ cầu Bồ Tát đạo là như vậy đó.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng hành sắc …dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí, là chẳng bị chướng ngại pháp , mới là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy, nên biết rõ sắc…dẫn đến nhất thiết chủng trí là vô ngại; biết rõ 4 quả Thanh Văn, Bích Chi Phật đạo…dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề đều là vô ngại.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn!Thật là chưa từng có! Pháp thậm thâm này, hoặc thuyết ra, hoặc chẳng thiết ra, cũng chẳng có tăng giảm.
Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Tu Bồ Đề! Pháp thậm thâm này, hoặc được thuyết ra hoặc chẳng được thuyết ra, cũng chẳng có tăng giảm.
Ví như Phật, hoặc được tán thán, hoặc bị hủy báng mãi cho đến trọn đời, tâm vẫn thường như hư không, chẳng có tăng, chẳng có giảm.
Lại ví như người huyễn, khi được tán thán chẳng có vui, khi bị hủy báng chẳng có buồn.
Này Tu Bồ Đề! Hết thảy các pháp tướng cũng dều là như vậy. Dù có nói ra cũng như vậy, dù chẳng có nói ra cũng như vậy.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bồ Tát đạo rất khó hành rất khó tu. Chư Bồ Tát lúc tu tập Bát Nhã Ba La Mật, chẳng ưu phiền, chẳng hoan hỷ. Các ngài luôn luôn tu tập, hành trì Bát Nhã Ba La Mật chẳng bao giờ thối chuyển , mãi cho đến khi được Vô Thượng Bồ Đề.
Vì sao?
Bạch Thế Tôn! Tu tập Bát Nhã Ba La Mật là như tu tập hư không. Trong hư không chẳng có Bàn Đa La Mật…dẫn đến chẳng có Bát Nhã Ba La Mật; chẳng có sắc…dẫn đến chẳng có thức; chẳng có nội không…dẫn đến chẳng có vô pháp hữu pháp không, chẳng có 4 niệm xứ…dẫn đến chẳng có 8 thánh đạo; chẳng có 10 lực…dẫn đến chẳng có 18 bất cộng pháp, chẳng có 4 quả Thanh Văn,chẳng có Bích Chi Phật đạo…dẫn đến chẳng có Vô Thượng Bồ Đề. Trong Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy.
Bạch Thế Tôn! Phải kính lễ chư Bồ Tát Ma Ha Tát, vì chư vị này đã phát đại thệ trang nghiêm. Vì chúng sanh, mà chư vị này đã phát đại thệ trang nghiêm, tinh tấn tu hành; y như vì hư không, mà phát đại thệ trang nghiêm tinh tấn tu hành vậy.
Bạch Thế Tôn! Chư Bồ Tát này muốn độ chúng sanh như muốn độ hư không. Chư Bồ Tát này phát đại thệ trang nghiêm, như hư không phát đại thệ trang nghiêm.
Bạch Thế Tôn! Chư Bồ Tát này phát đại thệ trang nghiêm, muốn độ chúng sanh, như là muốn nâng hư không lên vậy.
Bạch Thế Tôn! Chư Bồ Tát này do tinh tấn dõng mãnh muốn độ chúng sanh như độ hư không, mà phát Vô Thượng Bồ Đề tâm.
Vì sao? Vì khắp 3000 đại thiên giới, chư Phật vẫn thường thuyết pháp, độ vô lượng, vô biên chúng sanh, khiến họ vào được Niết Bàn, mà vẫn biết rõ chúng sanh tánh chẳng có tăng giảm, biết rõ chúng sanh tánh là vô sở hữu.
Bạch Thế Tôn! Bởi nhân duyên vậy, nên con mới nói Bồ Tát phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, muốn độ vô lượng vô biên chúng sanh, như là muốn độ hư không vậy.
Lúc bấy giờ, trong chúng hội, có 1 vị Tỳ Kheo bạch Phật rằng : Bạch Thế Tôn! Con xin đảnh lễ Bát Nhã Ba La Mật.
Trong Bát Nhã Ba La Mật, dù chẳng có pháp sanh, dù chẳng có pháp diệt, mà vẫn có giới chúng, giải thoát tri kiến chúng; vẫn có 4 quả Thanh Văn, có Bích Chi Phật đạo,…dẫn đến có Phật đạo; vẫn có Phật Bảo; vẫn có chuyển pháp luân.
LUẬN:
Ngài Tu Bồ Đề nghe Phật thuyết Bát Nhã Ba La Mật chẳng khởi, chẳng tác, nên ngài tự niệm rằng : Nếu Bát Nhã Ba La Mật chẳng khởi, chẳng tác, thì hành Bát Nhã Ba La Mật cũng chẳng đoạn được các phiền não, chẳng trồng được các thiện căn.
Ngài Tu Bồ Đề lại nghe Phật thuyết nhân duyên tác giả bất khả đắc, mà hết thảy pháp đều bất khả đắc, nên ngài lại tự niệm rằng : Nếu chẳng có tác giả, thì Bát Nhã Ba La Mật là vô sở tác. Như vậy thì làm sao mà hành Bát Nhã Ba La Mật được.
Phật dạy: Vì Bồ Tát chẳng hành hết thảy pháp, nên chẳng đắc hết thảy pháp. Bồ Tát chẳng hành sắc thường hay vô thường, khổ hay lạc, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí thường hay vô thường, khổ hay lạc, ngã hay vô ngã, tịnh hay bất tịnh, là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Người vô trí hành các pháp thường, vô thường, khổ, lạc v.v…rồi trú nơi các pháp đó, nên mới khởi phân biệt.
Còn người trí, tuy có hành các pháp đó, nhưng lại dùng trí huệ Bát Nhã soi sáng, biết rõ thật tướng pháp, nên chẳng có vướng chấp các pháp là thường, là vô thường, là khổ, là lạc…nữa.
Cũng nên biết, vì muốn phá chấp thường của phàm phu, mà nói đến vô thường v.v… Thế nhưng, khi đã vào được Bát Nhã Ba La Mật, thì hành giả chẳng thọ hết thảy pháp, nên chẳng còn thủ chấp các pháp. Bởi vậy nên tư duy, trù tượng để cầu “ thường’’ hay “ vô thường’’ cũng đều là bất khả đắc cả.
Hỏi: Nói các sắc pháp là tội lỗi, là khổ, là bất tịnh v.v…còn hợp lý. Vì sao nói các thiện pháp cũng là khổ, là bất tịnh ?
Đáp : Đã là “ danh pháp’’, thì là bất tịnh, là khổ rồi vậy.
Ví như, khi một pháp ứng hợp với ý mình, thì cho pháp ấy là tịnh, là lạc; trái lại, khi một pháp chẳng ứng hợp với ý mình, thì cho pháp ấy là bất tịnh, là khổ.
Đối với thiện pháp cũng là như vậy. Khi ưa thích thì cho là tịnh, là lạc; khi đã nhàm chán thì cho là bất tịnh, là khổ
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề tự niệm rằng: Nếu ly hết thảy các pháp quán, là chẳng được cụ túc Bồ Tát đạo chăng ?
Phật dạy: Nếu chẳng hành sắc bất cụ túc…dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí bất cụ túc, mới là hành Bồ Tát đạo.
Nên biết: “ Cụ túc ” (đầy đủ) có nghĩa là ở nơi các sắc pháp mà còn có ức tưởng, còn có phân biệt là thường, là vô thường v.v…
Còn “ bất cụ túc’’ có nghĩa là dùng vô thường để phá chấp về thường v.v….Nay ở nơi sắc cũng chẳng hành quán vô thường nữa, nên nói : Chẳng hành sắc bất cụ túc là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Lại có thuyết nói: Bồ Tát cụ túc là vị Bồ Tát Bổ Xứ, như thật quán sắc…dẫn đến như thật quán nhất thiết chủng trí . Nếu trái lại, thì gọi là Bồ Tát bất cụ túc.
Nếu Bồ Tát chẳng hành sắc bất cụ túc, là Bồ Tát ấy hành cụ túc Bát Nhã Ba La Mật. Vì sao? Vì sắc bất cụ túc là “ phi sắc’’. Chẳng phải là sắc, thì cũng chẳng phải là thường tướng vậy.
Phật dạy: Phải vượt qua sự chấp thường của chúng sanh, phải dụng vô sở hữu, mới nói năng được vô ngại, mới thật là thanh tịnh. Vì sao? Vì chẳng hành sắc…dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí, mới gọi là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Đây là lượt nói về “đạo’’ và “ phi đạo’’ của Bồ Tát.
Nếu còn ngại pháp là phi đạo. Phải chẳng còn ngại pháp nữa, mới là đạo.
Bởi vậy nên ngài Tu Bồ Đề đã tán thán : Thật chưa từng có. Phật quán biết toàn thể chúng hội đã hướng tâm về pháp “không’’ đã biết rõ Bát Nhã Ba La Mật là vô ngại, nên nói: Chẳng hành sắc…dẫn đến chẳng hành nhất thiết chủng trí, mới gọi là hành Bát Nhã Ba La Mật.
Ngài Tu Bồ Đề, tuy chưa rốt ráo thông đạt về lý “ không ”, mà thường năng thuyết về pháp “ không ”. Ngài cho rằng: Pháp này cùng với hết thảy pháp thế gian trái nhau.
Phật dạy: Dù được thuyết ra, hay dù chẳng được thuyết ra, thì pháp này vẫn chẳng tăng, chẳng giảm. Dù có dùng thân, dùng ý nhằm hủy hoại cũng chẳng làm cho thật tướng pháp thay đổi được,huống nữa là dùng miệng nói ra.
Vì sao? Vì thật tướng pháp là thường hằng, là vô sanh tướng, là như hư không vậy. Bát Nhã Ba La Mật ví như hư không, chẳng có tăng, chẳng có giảm. Người hành Bát Nhã Ba La Mật giống như người huyễn, dù được tán thán cũng chẳng vui, dù bị hủy báng cũng chẳng buồn vậy.
Do nghiệp tội nhân duyên, mà hư vọng, điên đảo chấp có các pháp sai khác. Thế nhưng khi đã vào được trong Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì biết rõ các pháp, ở nơi tự thể chẳng hề thay đổi.
Ví như , khi đã qui tụ về núi Tu Di rồi, thì hết thảy các sắc pháp đều biến thành vàng ròng cả.
Cũng như vậy, hết thảy các pháp tướng, ở trong Bát Nhã Ba La Mật, đều là thật tướng pháp, nên đều chẳng thể biết, chẳng thể nói ra được, dù có nói ra, hay dù chẳng có nói ra, thì thật tướng pháp, trước sau, vẫn rốt ráo là như vậy.
Lúc bấy giờ, ngài Tu Bồ Đề tự niệm rằng : Nếu hết thảy các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô sở hữu, là như hư không,…dẫn đến chẳng có vi tế tướng, thì sự việc chư Bồ Tát tu tập các thiện pháp dẫn đến Vô Thượng Bồ Đề thật là khó tin, khó lãnh thọ được.
Tự niệm như vậy rồi ngài bạch Phật: Vì muốn độ hết thảy chúng sanh, nên Bồ Tát cần khổ làm những việc khó làm. Vì Vô Thượng Bồ Đề, mà Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm. Bởi vậy nên hết thảy các hàng Trời Người đều phải cung kính, lễ bái Bát Nhã Ba La Mật.
Hỏi: Vì sao biết thệ nguyện của Bồ Tát là đại thệ trang nghiêm ?
Đáp: Như ngài Tu Bồ Đề đã nêu lên thí dụ: Bồ Tát biết rõ chúng sanh là tự tánh không, là vô sở hữu như hư không, mà vẫn phát thệ nguyện siêng năng, tinh tấn tu tập, làm những việc khó làm, vì lợi ích cho chúng sanh. Như vậy nên gọi là đại thệ trang nghiêm.
Bồ Tát, vì lợi ích chúng sanh, vì muốn độ hết thảy chúng sanh, mà vẫn biết rõ chúng sanh là như hư không, nên gọi là phát đại thệ trang nghiêm vậy.
Hỏi: Vì sao chỉ có 1 vấn đề, mà cứ hỏi đi hỏi lại mãi như vậy ?
Đáp: Vì muốn làm lợi ích cho những người chưa vào Niết Bàn, khiến họ được trí huệ, thiền định…dẫn đến được phước lợi ở đời sau , khiến họ được lậu tận, thành tựu được 3 thừa đạo, vào được Vô Dư Niết Bàn, chẳng còn bị trói buộc bởi “ sanh, diệt, khổ, vui” , được vô sở hữu như hư không, mà ngài Tu Bồ Đề nói đi nói lại nhiều lần: Bồ Tát muốn độ chúng sanh như độ hư không, mà phát đại thệ trang nghiêm.
Ngài Tu Bồ Đề lại tán thán: Bồ Tát này được đại tinh tấn, chẳng còn nghi tâm, nên dù chưa được Phật đạo, chưa diệt sạch kiết sử, mà thường hành Bồ Tát hạnh một cách dõng mãnh như vậy. Có như vậy mới làm được việc khó làm, mới có thể độ “ hư không chúng sanh ”, như lấy vật nhọn vẽ trong hư không vậy.
Đây chính là nghĩa “ chúng sanh không ”. Chúng sanh do nhân duyên hòa hợp mà có, nên đều là tự tánh không vậy.
Chư Phật trong khắp 10 phương, vì chúng sanh thuyết pháp, trong nhiều đời nhiều kiếp. Mỗi đức Phật dùng thần lực, độ vô lượng vô biên chúng sanh vào Niết Bàn, mà số chúng sanh vẫn chẳng có giảm thiểu. Chúng sanh chẳng có giảm thiểu thì chư Phật cũng chẳng có giảm thiểu.
Bởi vậy nên nói: Bồ Tát muốn độ chúng sanh cũng rất khó, như là muốn độ hư không.
Lúc bấy giờ, có 1 vị Tỷ Kheo nghe thuyết về rốt ráo không, vừa kinh hãi, vừa vui mừng, đứng lên bạch Phật rằng: Con xin đảnh lễ Bát Nhã Ba La Mật. Trong Bát Nhã Ba La Mật chẳng có pháp nào có định tướng cả, mà vẫn có chúng sanh, vẫn có các quả báo vậy.
KINH:
Lúc bấy giờ, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn nói với ngài Tu Bồ Đề rằng : Thừa Đại Đức! Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật phải nên tu tập pháp gì ?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Kiều Thi Ca! Bồ Tát tu tập Bát Nhã Ba La Mật là tu tập pháp “không ”.
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn bạch Phật : Bạch Thế Tôn! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào thọ trì, thân cận, đọc tụng, giảng nói, chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật, thì con phải thủ hộ người ấy như thế nào ?
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Thưa ngài Kiều Thi Ca! Ngài có thấy pháp gì để thủ hộ chăng ?
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn Đáp: Thưa Đại Đức! Tôi chẳng thấy có pháp gì để thủ hộ người hành Bát Nhã Ba La Mật cả.
Ngài Tu Bồ Đề nói : Nếu Thiện Nam, Thiện Nữ y theo Bát Nhã Ba La Mật mà hành trì, thì như vậy là đã tự thủ hộ rồi vậy. Thiện Nam, Thiện Nữ ấy thường chẳng xa lìa Bát Nhã Ba La Mật, và thường y theo Bát Nhã Ba La Mật mà hành trì, nên chẳng bị các hạng người xấu ác, chẳng bị các loài phi nhơn quấy phá, hãm hại.
Thưa ngài Kiều Thi Ca! Thủ hộ người hành Bát Nhã Ba La Mật là như thủ hộ hư không vậy.
Thưa ngài Kiều Thi Ca! Ý ngài nghĩ sao ? Ngài có thể thủ hộ mộng, diệm, ảnh, hưởng, huyễn, hóa được chăng?
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn Đáp: Thưa Đại Đức! Chẳng thể thủ hộ được.
Ngài Tu Bồ Đề nói : Thưa ngài Kiều Thi Ca! Nếu ai muốn thủ hộ Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, thì cũng là như vậy. Chỉ tự mình làm nhọc mình thôi.
Lại nữa, Thưa ngài Kiều Thi Ca! Ý ngài nghĩ sao?
Ngài có thể thủ hộ pháp mà Phật biến hóa ra được chăng?
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn Đáp: Thưa Đại Đức! Chẳng thể thủ hộ được.
Ngài Tu Bồ Đề nói : Thưa ngài Kiều Thi Ca! Nếu ai muốn thủ hộ Bồ Tát Bát Nhã Ba La Mật, thì cũng là như vậy.
Lại nữa, Thưa ngài Kiều Thi Ca! Ý ngài nghĩ sao ? Ngài có thể thủ hộ pháp, tánh thất tế, bất khả tư nghì tánh chăng ?
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn Đáp: Thưa Đại Đức! Chẳng thể thủ hộ được.
Ngài Tu Bồ Đề nói: Thưa ngài Kiều Thi Ca! Nếu ai muốn thủ hộ Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như thế nào, để như thật biết hết thảy các pháp đều là như mộng, như diệm, như ảnh, như hưởng, như huyễn, như hóa?
Ngài Tu Bồ Đề đáp: Thưa ngài Kiều Thi Ca! Khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát chẳng niệm mộng, chẳng niệm ta dùng mộng, chẳng niệm mộng là của ta. Đối với diệm, ảnh, hưởng, huyễn, hóa cũng là như vậy.
Thưa ngài Kiều Thi Ca! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật lại chẳng niệm sắc, chẳng niệm đây là sắc, chẳng niệm ta dùng sắc, chẳng niệm sắc là của ta,…dẫn đến chẳng niệm nhất thiết chủng trí, chẳng niệm đây là nhất thiết chủng trí, chẳng niệm ta dùng nhất thiết chủng trí, chẳng niệm nhất thiết chủng trí là của ta.
Thưa ngài Kiều Thi Ca! Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật như vậy là như thật biết hết thảy các pháp đều là như mộng, như diệm, như ảnh, như hưởng, như huyễn, như hóa.
LUẬN:
Ở đoạn kinh trên đây, vị Đế Thích, sau khi nghe thâm Bát Nhã Ba La Mật, bèn hỏi ngài Tu Bồ Đề : Phải nên tu tập pháp gì ?
Ngài Tu Bồ Đề đã đáp lại rằng : Hết thảy các pháp đều dẫn đến Niết Bàn, nên phải tu tập pháp “ không ”. Muốn tu tập Bát Nhã Ba La Mật là phải tập pháp “không” vậy.
–oOo–
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn là một vị Thiên chủ, có lực tự tại, lại phát nguyện thủ hộ người tu hành. Khi nghe được Bát Nhã Ba La Mật, ngài rất vui mừng, bạch Phật rằng: Con phải làm gì để thủ hộ người tu hành Bát Nhã Ba La Mật ?
Lại nữa, ngài Thích Đề Hoàn Nhơn biết ngài Tu Bồ Đề là một vị Tỷ Kheo, xuất gia, kính pháp, sợ các ác quỷ manh tâm quấy phá, như đã thường làm não hại người hành Bát Nhã Ba La Mật, nên bạch Phật rằng: Con phải làm gì để thủ hộ người tu tập Bát Nhã Ba La Mật ?
Ngài Tu Bồ Đề biết Bát Nhã Ba La Mật là pháp rất quí trọng, có vô lượng oai lực, nhưng lại chẳng có chổ nhẫn thọ, nên đã nói với vị Đế Thích rằng: Bát Nhã Ba La Mật là tự tánh không, là như mộng, như diệm, như ảnh, như hưởng, như huyễn, như hóa. Như vậy ngài có thấy có pháp gì để thủ hộ chăng ?
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp lại rằng: Chẳng thấy có pháp gì để thủ hộ người hành Bát Nhã Ba La Mật cả, vì Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo không vậy.
Ngài Tu Bồ Đề nói : Nếu hành giả y theo Bát Nhã Ba La Mật mà an trú, là đã tự thủ hộ rồi vậy.
Nếu y theo Bát Nhã Ba La Mật, mà nhất tâm tín thọ, tư duy, chánh ức niệm, thì sẽ vào được thâm thiền định, quán được thật tướng pháp, vào được rốt ráo không.
–oOo–
Với trí huệ lực như vậy, hành giả sẽ mau được vô sanh pháp nhẫn, mau vào được Bồ Tát vị.
Vì đã vào được nơi thật tướng pháp, biết rõ các pháp đều là như mộng, như huyễn, đều là tự tướng không, nên hành giả dứt sạch được các phiền não, thường được an lạc, cần khổ làm các việc lợi ích cho chúng sanh, mà chẳng tiếc nhân mạng.
Vì đã xả ly hết thảy các pháp thế gian, nên hành giả chẳng còn có ưu sầu, khổ nảo, chẳng còn đắm chấp các lạc sự ở thế gian. Được thế gian lạc chẳng vui, mất thế gian lạc chẳng buồn. Hành giả thường y theo Bát Nhã Ba La Mật, nên tâm thường như như bất động, thường được vô sở úy.
Trong kinh có nêu mẫu chuyện về ngài Xá Lợi Phất như sau :
Khi ngài Xá Lợi Phất đang nhập vào Diệt Tận Định, các quỷ Dạ Xoa đến quấy phá, đánh trên đầu ngài, mà ngài vẫn an nhiên tự tại. Vì sao? Vì nhập vào Diệt Tận Định là được khí phần của Bát Nhã Ba La Mật, nên giữ được tâm bất động, khiến các kẻ ác, các loài phi nhơn chẳng sao tìm được chổ tiện lợi để gây tác hại được.
–oOo–
Như vậy, người hành Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật, tự thủ hộ cho mình, chẳng cần đến sự thủ hộ của người khác.
Chỉ có người hành Bát Nhã Ba La Mật, mà còn chấp có được, có mất thì mới cần đến sự thủ hộ vậy.
Có 2 trường hợp chẳng cần đến sự thủ hộ. Đó là:
Người đã nhàm chán thân; đã xả ly hết thảy pháp, được vô ngã và vô ngã sở. Do vì chẳng còn chấp ngã, nên dù thân có bị chẻ như chẻ tre cũng chẳng hề bị phiền não quấy nhiễu.
Người đã được Thượng Diệu Pháp, đã được 10 phương chư Phật, chư đại Bồ Tát thường hộ niệm.
Lại nữa, người hành Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Bát Nhã Ba La Mật được tâm tĩnh lặng như hư không, mưa chẳng thể làm ướt, gió chẳng thể lay động, đao thương chẳng thể làm hại được. Người muốn thủ hộ hư không chỉ tự mình làm nhọc mình; người muốn thủ hộ người hành Bát Nhã Ba La Mật cũng là như vậy.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề hỏi ngài Thích Đề Hoàn Nhơn : Ngài có thường thủ hộ hư không, thường thủ hộ người trong mộng chăng ?
Vị Đế Thích Đáp: Chẳng thể thủ hộ được.
Vì sao ?
Vì người hành Bát Nhã Ba La Mật xem 5 ấm thân như hư không, như mộng, như huyễn, là vô vi pháp, là như pháp tánh thật tế, là bất khả tư nghì tánh, nên thủ hộ người hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng lợi ích gì cả. Do vì xem thân là như pháp tánh thật tế, là bất khả tư nghì tánh, nên thủ hộ người hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng lợi ích gì cả. Do vì xem thân là như pháp tánh thật tế, là bất khả tư nghì tánh, nên người hành Bát Nhã Ba La Mật luôn luôn được an nhiên, tự tại; khi được cúng dường chẳng chấp đắm, khi bị hủy báng chẳng buồn nản. Do vậy mà chẳng cần đến sự thủ hộ của người khác nữa.
–oOo–
Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn biết rõ phước lạc của mình cũng như mộng, như huyễn, biết rõ Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật có đại trí lực, chẳng cần sự thủ hộ của người khác, nên đã hỏi ngài Tu Bồ Đề: Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật làm thế nào để như thật biết các pháp đều là như mộng, như huyễn?
Ngài Tu Bồ Đề đáp lại vị Đế Thích với nội dung như sau:
Như thật biết các pháp đều là như mộng, là chẳng niệm mộng, chẳng niệm đây là mộng, chẳng niệm ta dùng mộng, chẳng niệm mộng là của ta.
Phàm phu chẳng biết 5 ấm là như mộng, mà thường đắm chấp thân 5 ấm, nên phải dạy họ quán 5 ấm là như mộng, chẳng nên chấp, và ngay cả mộng đó cũng chẳng nên chấp nữa. Vì sao ?
Vì:
Dù đã lấy mộng để dụ cho 5 ấm, mà phàm phu vẫn chấp cảnh mộng khởi sanh ra trong lúc ngủ. Như vậy là “ niệm mộng ”.
Ở trong cảnh mộng, lại phân biệt có tốt, có xấu, có lành, có dữ… cho như vậy là thật, như vậy là “niệm đây là mộng ”.
Thấy cảnh mộng tốt lành, thì phấn khởi, vui vẻ; thấy cảnh mộng xấu ác, thì buồn khổ, chán nản. Rồi lấy các điều thấy trong mộng để chứng minh, suy luận. Như vậy là “niệm dùng mộng”.
Do chứng minh, suy luận về cảnh mộng, mà đắm chấp vào cảnh mộng của mình. Như vậy là “niệm mộng là của ta”.
Bởi vậy nên phải dạy cho họ chẳng nên niệm mộng, chẳng nên niệm đây là mộng, chẳng nên niệm ta dùng mộng, chẳng nên niệm mộng là của ta.
Đối với diệm, ảnh, hưởng, huyễn, hóa cũng là như vậy.
Ngài Tu Bồ Đề lại nói tiếp : Người hành Bát Nhã Ba La Mật chẳng niệm sắc, chẳng niệm đây là sắc, chẳng niệm ta dùng sắc, chẳng niệm sắc là của ta…dẫn đến chẳng niệm nhất thiết chủng trí, chẳng niệm đây là nhất thiết chủng trí, chẳng niệm ta dùng nhất thiết chủng trí, chẳng niệm nhất thiết chủng trí là của ta.
Người chẳng niệm sắc vì biết rõ nội ngoại sắc đều do 4 đại và 4 đại tạo sắc tạo thành…dẫn đến chẳng niệm 4 đại tạo sắc tạo thành…dẫn đến chẳng niệm 4 đại tạo sắc, thì dù sắc là thường, là vô thường v.v…vẫn chẳng hành sắc. Do chẳng hành sắc là thường, là vô thường, nên chẳng có sanh kiêu mạn. Do chẳng niệm sắc là ngã, là vô ngã, nên vào thẳng trong Phật tướng pháp vậy.
Do chẳng niệm sắc, nên cũng chẳng niệm mộng, chẳng niệm đây là mộng, chẳng niệm ta dùng mộng, chẳng niệm mộng là của ta.
Khi đã phá được chấp về 5 ấm rồi, thì dù ở trong mộng cũng chẳng có lầm lạc. Còn người chưa phá được sắc, thì ở nơi sắc bị lầm lạc, ở nơi mộng bị lầm lạc. Chưa phá được các chấp về thọ, tưởng, hành, thức…dẫn đến chưa phá được chấp về nhất thiết chủng trí cũng là như vậy.
Đối với các dụ về “ diệm, ảnh, hưởng, huyễn, hóa ” cũng luận giải như trên.
KINH:
Lúc bấy giờ, do thần lực của Phật, chư Thiên khắp trong 3000 đại thiên thế giới, từ cõi trời Tứ Thiên Vương, Đao Lợi Thiên, Đâu Sức Đà Thiên, dẫn đến Dạ Ma Thiên, Hóa Lạc Thiên, Tha Hóa Tự Tại Thiên, Phạm Thiên, Phạm Phú Thiên, Phạm Chúng Thiên, Đại Phạm Thiên, Thiểu Quang Thiên…dẫn đến Tịnh Cư Thiên đều tán hương chiêu đàn cúng dường Phật, và cùng đến đảnh lễ dưới chân Phật rồi đứng sang một bên.
Do thần lực của Phật, mà chư Thiên thấy được ở phương Đông có cả ngàn đức Phật đang thuyết pháp; lại thấy có các vị Tỷ Kheo như ngài Tu Bồ Đề đang vấn nạn về phẩm Bát Nhã Ba La Mật; lại cũng thấy các vị Đế Thích đang thưa hỏi các đức Phật.
Ở chín phương kia cũng đều là như vậy.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Di Lặc, khi thành Vô Lượng Bồ Đề, sẽ ở nơi đây thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật. Chư đại Bồ Tát trong Hiền kiếp cũng đều ở nơi đây thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Khi được Vô Thượng Bồ Đề, Bồ Tát Di Lặc sẽ dùng tướng gì, nhân gì, nghĩa gì mà nói Bát Nhã Ba La Mật ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Khi được Vô Thượng Bồ Đề, Bồ Tát Di Lặc sẽ thuyết rằng sắc…dẫn đến thức đều chẳng phải thường, chẳng phải vô thường; chẳng phải khổ, chẳng phải lạc; chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh; chẳng phải phước, chẳng phải giải; chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Lại thuyết rằng sắc…dẫn đến thức đều là rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo thanh tịnh chăng ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì sắc…dẫn đến thức rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc…dẫn đến thức rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Nếu sắc…dẫn đến thức chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh thì gọi là sắc…dẫn đến thức rốt ráo thanh tịnh. Sắc… dẫn đến thức rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề! Vì hư không rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì hư không chẳng sanh, chẳng diệt, nên là rốt ráo thanh tịnh. Hư không rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật cũng rốt ráo thanh tịnh.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề! Vì sắc…dẫn đến thức chẳng nhiễm ô nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao sắc…dẫn đến thức chẳng nhiễm ô, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Cũng như hư không chẳng nhiễm ô, sắc…dẫn đến thức chẳng nhiễm ô là rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không chẳng ô nhiễm, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì hư không bất khả thủ (chẳng thể nắm bắt được), nên là rốt ráo thanh tịnh. Hư không rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật cũng rốt ráo thanh tịnh.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề! Vì hư không bất khả thuyết (chẳng thể nói ra được), nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả thuyết, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì hư không chỉ là danh tự, nên là bất khả thuyết. Hư không bất khả thuyết là rốt ráo thanh tịnh nên Bát Nhã Ba La Mật cũng rốt ráo thanh tịnh.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề! Vì hư không bất khả đắc (chẳng thể được) nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao hư không bất khả đắc, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Vì hư không chẳng có tướng đắc, nên là bất khả đắc. Hư không bất khả đắc là rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật cũng rốt ráo thanh tịnh.
Lại nữa, Này Tu Bồ Đề! Vì hết thảy các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao hết thảy các pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, là rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Hết thảy các pháp chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm, là rốt ráo thanh tịnh, nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh.
LUẬN:
Bát Nhã Ba La Mật là pháp thậm thâm, vi diệu. Chư Thiên, nhờ nghe Phật thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật, mà rõ được thật tướng các pháp, nên đã từ khắp 3000 đại thiên thế giới tán hương chiên đàn cúng dường chư Phật, cùng nhau đến đảnh lể dưới chân Phật, rồi đứng sang một bên để nghe pháp.
Các lời thưa hỏi do ngài Tu Bồ Đề nêu lên, và các lời giải đáp của Phật đã giúp chư Thiên thâm tín Bát Nhã Ba La Mật . Lại nữa, do thần lực của Phật mà chư Thiên thấy chư Phật khắp 10 phương đang thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật, như ở tại pháp hội tiền, lại cũng thấy mỗi nơi có 1 vị Tỷ Kheo như ngài Tu Bồ Đề đang nạn vấn về Bát Nhã Ba La Mật, và cũng có 1 vị Đế Thích đang thưa hỏi Phật.
Phải có đầy đủ phước đức nhân duyên mới có thể thấy được như vậy, nên ngài Tu Bồ Đề và ngài Thích Đề Hoàn Nhơn rất vui mừng, tự niệm rằng : Chẳng phải riêng chúng ta, ở chúng hội này, thưa hỏi Phật về Bát Nhã Ba La Mật , mà ở khắp 10 phương chư Phật cũng đang thuyết giảng Bát Nhã Ba La Mật, và ở đâu cũng có 1 vị Tỷ Kheo, và 1 vị Đế Thích đang thưa hỏi Phật ở nơi đó về Bát Nhã Ba La Mật.
–oOo–
Phật muốn minh chứng pháp sự này, nên đã dùng thần lực khiến chúng hội thấy ở khắp 10 phương, có chư Phật đang thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật. Phật cũng cho chúng hôi biết ở đời vị lai, khi thành Vô Thượng đạo, ngài Bồ Tát Di Lặc cũng sẽ thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật tại núi Kỳ Xà Quật, ở thành Vương Xá, trong nước Ma Già Đà nay.
Trong kinh có chép :
Ở đời vị lai, khi thành Vô Thương Đạo, ngài Bồ Tát Di Lặc dẫn đại chúng đến núi Kỳ Xà Quật, lấy ngón tay ấn xuống, khiến vách núi mở ra. Từ trên đỉnh núi, ngài Ma Ha Ca Diếp mặc áo tăng già lê của Phật, chấp trì bình bát của Phật,tiến về phía ngài Di Lặc,đảnh lễ rồi trao y bát cho ngài Di Lặc. Xong ngài Ma Ha Ca Diếp bay lượn giữa hư không, hiện đủ các thứ thần thông, và từ giữa không trung tự diệt thân, mà nhập vào Niết Bàn.
Trước sự kinh ngạc của các đệ tử, ngài Di Lặc nói với họ rằng : Người ấy là một vị đại đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni, trong thời quá khứ. Người ấy tên là Ma Ha Ca Diếp, tu hạnh đầu đà, thiểu dục, tri túc, và cũng là một vị Đại A La Hán. Ngài Ma Ha Ca Diếp có đầy đủ “ tam minh, lục thông”, thường lân mẫn chúng sanh, nên đã dùng thần thông, khiến cho thân tổn hại cho đến ngày hôm nay. Vào thời bấy giờ , người chỉ sống 100 tuổi, thân hình nhỏ bé, mà có thể làm được nhiều việc lợi ích lớn như vậy. Còn các ngươi, ngày nay thân hình to lớn, lại được sanh vào thời sung túc, mà chẳng lo tinh tấn tu học, để tự lợi và lợi tha hay sao ?
Nói xong, Ngài Di Lặc bèn vì họ thuyết một bài pháp, khiến họ đoạn được các khổ, và có rất nhiều người chứng được quả Thanh Văn, được vô sanh pháp nhẫn.
(Xem thêm ở quyển 3 – “ Trú Thành Vương Xá”)
Lời viện dẫn trên đây của kinh cho thấy rằng chư Phật,ở trong cả 3 đời, đều thuyết kinh Bát Nhã Ba La Mật.
Bởi nhân duyên như vậy, nên người phát tâm cầu Vô Thượng Đạo phải tín thọ Bát Nhã Ba La Mật, phải nhất tâm tinh tấn hành Bát Nhã Ba La Mật.
–oOo–
Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Ngài Di Lặc sẽ dùng tướng gì, nhân gì, nghĩa gì mà nói Bát Nhã Ba La Mật?
Phật dạy: Cũng như ta bây giờ, ngài Di Lặc cũng sẽ thuyết rằng sắc…dẫn đến thức đều chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải khổ, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, chẳng phải tịnh, chẳng phải bất tịnh, chẳng phải phước, chẳng phải giải, chẳng phải quá khứ, chẳng phải hiện tại, chẳng phải vị lai. Cũng như ta bây giờ, ngài cũng sẽ thuyết rằng hết thảy các pháp đều là tướng Niết Bàn, đều là rốt ráo thanh tịnh.
Lúc bấy giờ, Ngài Tu Bồ Đề rất hoan hỷ, hỏi Phật rằng : Bát Nhã Ba La Mật là rốt ráo thanh tịnh chăng ?
Phật dạy: Sắc cùng hết thảy các pháp đều rốt ráo thanh tịnh , nên Bát Nhã Ba La Mật rốt ráo thanh tịnh. Vì sao? Vì hết thảy các pháp đều chẳng sanh, chẳng diệt, chẳng cấu, chẳng tịnh, chẳng tăng, chẳng giảm. Ví như nước trong chẳng có vấy bụi trần, ví như hư không chẳng có nhiễm ô, tánh thường thanh tịnh vậy. Bát Nhã Ba La Mật cũng như hư không, chẳng có nhiễm ô, tánh thường thanh tịnh. Dù cho các tà kiến, hý luận, các ác sự quấy nhiễu , thì Bát Nhã Ba La Mật cũng vẫn chẳng bị tổn hại. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật là chẳng có sắc, chẳng có hình, chẳng có đối, nên cũng chẳng có thủ, chẳng có nhiễm ô vậy.
Lại nữa,nhờ Bát Nhã Ba La Mật lực mà chư đại Bồ Tát “ biện tài vô ngại”, vì chúng sanh, thuyết 12 bộ kinh, 8 vạn 4 ngàn pháp môn, phân biệt rõ các pháp, khiến chúng sanh được dễ hiểu. Bởi vậy nên nói Bát Nhã Ba La Mật là bất khả thuyết, là thanh tịnh như hư không.
–oOo–
Ví như tiếng nói truyền trong hư không, chạm vào vách đá, dội trở lại, người nghe cảm tưởng như có 2 âm, trong đó có 1 âm chánh và một âm vang; âm chánh là chân thật, âm vang là ngụy tạo, chẳng nên tin. Họ chẳng biết rằng cả 2 âm đều là hư vọng, chẳng thật có.
Cũng như vậy, hết thảy các pháp, dù là phàm phu pháp, dù là Thánh pháp, đều là như mộng, như huyễn. Hàng tiểu Bồ Tát, do chưa được đầy đủ các lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, nên chỉ biết phàm phu pháp là như mộng, như huyễn, nhưng vẫn còn chấp Thánh pháp là chân thật. Các bậc đại Bồ Tát biết rõ Bát Nhã Ba La Mật cũng như hết thảy các pháp đều là như mộng,như huyễn cả
Hỏi: Vì sao nói phàm phu pháp và Thánh pháp đều là hư vọng ?
Đáp: Chư thánh, do trì giới, do thiền định, do tu tập các công đức mà phát sanh trí huệ, biết rõ được “ pháp giới tánh” đều là nhất tánh, là vô tánh. Trái lại những người còn chấp đắm thiện pháp, mới cho thánh pháp là chân thật, vì họ chẳng biết rằng thánh pháp cũng là hư vọng, là tự tướng không.
Do ngôn ngữ và âm thanh mà các pháp thế gian được truyền đạt từ đời này qua đời khác. Phàm phu chấp vào ngôn ngũ và âm thanh khởi chấp các pháp là thật có. Thế nhưng, khi đã vào trong Bát Nhã Ba La Mật rồi, thì các ngôn ngữ đều đoạn, biết rõ Bát Nhã Ba La Mật cùng hết thảy các pháp đều là bất khả đắc, đều là rốt ráo thanh tịnh cả.
(Hết quyển 64)