LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 57

Phẩm thứ ba mươi hai
Bảo Tháp Đại Minh
(Tháp Báu Đại Minh)

KINH:

Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thích Đề Hoàn Nhơn: Này Kiều Thi Ca! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào nghe Bát Nhã Ba La Mật, mà thọ trì, đọc tụng, thân cận, thuyết giảng, chánh ức niệm, chẳng ly Tát Bà Nhã Tâm mà tu tập, thì dù ở ngay trong chiến trận, giữa rừng đao tên, cũng chẳng mất mạng, chẳng bị đao tên làm cho tổn hại. Vì sao? Vì Thiện Nam, Thiện Nữ này thường hành 6 pháp Ba La Mật, nên tự mình trừ được đao tên dâm dục, cũng khiến người trừ được đao tên dâm dục; tự mình trư được đao tên sân nhuế; cũng khiến người trừ được đao tên sân nhuế; tự mình trừ được đao tên ngu si,; cũng khiến người trừ được đao tên ngu si, tự mình trừ được đao tên là kiến, cũng khiến người trừ được đao tên tà kiến, tự mình trừ được đao tên triền cái; cũng khiến người trừ được đao tên triền cái, tự mình trừ được đao tên kiết sử, cũngk hiến người trừ được đao tên kiết sử.

Bởi nhân duyên vậy, nên Thiện Nam, Thiện Nữ này chẳng bị đao tên làm tổn hại.

Này Kiều Thi Ca! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào nghe Bát Nhã Ba La Mật, mà thọ trì, đọc tụng, thân cận, thuyết giảng, chánh ức niệm, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, thì gặp độc dược, độc trùng, hầm lửa, hố sâu, gươm đao, cũng chẳng bị não hại. Vì sao?Vì Bát Nhã Ba La Mật là đại minh chú, là vô thượng chú. Các Thiện Nam, Thiện Nữ này, do học minh chú này, mà chẳng bị não hại, và cũng chẳng làm não hại người.

Các Thiện Nam, Thiện Nữ này biết rõ ngã, chúng sanh, thọ giả, tri giả, kiến giả đều là bất khả đắc, biết rõ 5 ấm…, dẫn đến nhất thiết chủng trí cũng là đều bất khả đắc. Do biết rõ hết thảy pháp đều là bất khả đắc, nên tụ mình chẳng bị naõh ại và cũng chẳng làm não hại người vậy.

Các Thiện Nam, Thiện Nữ này, do học đại minh chú này, mà được Vô Thượng Bồ Đề tâm, quán được hết thảy tâm chúng sanh, mà tùy ý thuyết pháp.

Vì sao?

Vì chư Phật quá khứ đã học minh chú này mà được đạo Vô Thượng Bồ Đề; chư Phật hiện tại học minh chú này mà được đạo Vô Thượng Bồ Đề, chư Phật vị lai cũng sẽ học minh chú này để được đạo Vô Thượng Bồ Đề vậy.

Này Kiều Thi Ca! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào biên chép kinh Bát Nhã Ba La Mạt này, để nơi trú xứ mình, mà thờ phụng, cúng dường, thì dù chẳng thọ trì, chẳng đọc tụng, chẳng thuyết giảng, chẳng chánh ức niệm tư duy, mà vẫn chẳng bị bất cứ người ngào hoặc là loài phi nhơn nào đến nơi đó phá hoại được. Vì sao?

Vì kinh Bát Nhã Ba La Mật được hết thảy chư Thiên Vương, chư Phạm Vương, cùng chư Thiên Trong cả 3000 đại thiên thế giới ở khắp 10 phương ủng hộ. Ở nơi trú xứ thờ phượng, cúng dường Bát Nhã thường có chư Thiên lui tới, cúng dường, tôn trọng, lễ bái, tán thán vậy.

Chỉ biên chép Bát Nhã Ba La Mật, mà ở hiện đời còn được nhiều công đức như vậy, huống nữa là thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, chẳng ly Tát Bà Nhã tâm mà tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Người hoặc súc vật, nếu đến được dưới “cội Bồ Đề”, thì chẳng có bất cứ người nào, hoặc loài phi nhơn nào có thể đến làm hại được.

Vì sao?

Vì cội Bồ Đề là nơi mà chư Phật quá khứ, được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Cũng tại cội Bồ Đề, mà chư Phật hiện tại được đạo Vô Thượng Bồ Đề, và chư Phật vị lai sẽ được đạo Vô Thượng Bồ Đề vậy.

Sau khi thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, chư Phật đều bố thí vô úy cho hết thảy chúng sanh, làm cho vô lượng chúng sanh được phước lạc, được 4 quả Thanh Văn, dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề.

Do oai lực của Bát Nhã Ba La Mật, mà ở nơi cội Bồ Đề thường có các hàng Trời, Người đến cung kính, tôn trọng, lễ bái và cúng dường.

LUẬN:

Hỏi: Những người nào đã thọ trì, đọc tụng, cháh ức niệm và tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì dù ở ngay trong chiến trận, giữa rừng đạo tên vẫn chẳng bị tổn hại. Như vậy vì sao Phật lại nói khi nhân duyên các nghiệp báo đã đến thời thì chúng sanh chẳng thể nào trốn thoát được?

Đáp: Nên biết, có hai loại nghiệp báo nhân duyên:

  1. Quyết định phải thọ tội báo
  2. Không quyết định phải thọ tội báo.

Đối với những chúng sanh mà nhân duyên quyết định phải thọ tội báo, thì mới nói: chẳng có chỗ nào để trốn thoát được.

Còn ở đây chỉ nói đến chúng sanh mà nhân duyên chưa quyết định phải thọ tội báo, mà biết thọ trì đọc tụng, chánh ức niệm và tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì đao tên chẳng thể nào làm hại được.

Cũng ví như người phạm trong tội lỗi đã lãnh án tử hình, thì dù có thế lực, dù có tiền của cũng chẳng sao thoát chết được. Còn người tuy phạm trọng tội, nhưng chưa lãnh án tử hình, mà lại khéo cầu cứu, biện bạch, hoặc kéo dùng thế lực, tiền của mình thì vẫn có thể thoát khỏi tội báo vậy.

—o0o—

Lại nữa, những người nào đã xa lìa các ác pháp, đã điều phục được vọng tâm, chẳng còn nghi mạn, đã trải qua nhiều đời tu tập, phước đức trí huệ, thường hành đại bi tâm để giáo hóa chúng sanh, thì cũng chẳng bị đao tên làm hại được.

Phật dạy: Những người khéo tu tập 6 pháp Ba La Mật, thì tự mình trừ được các nạn đao tên, và cũng khiến cho chúng sanh trừ được nạn đao tên.

Hỏi:  Nói như vậy cũng còn có thể tin được. Còn như biên chép kinh Bát Nhã Ba La Mật để thờ phụng, cúng dường mà sao lại có nhiều công đức như vậy được?

Đáp: Biên chép kinh Bát Nhã Ba La Mật cũng có được nhiều công đức. Vì sao? Do vì trước đã từng nghe Bát Nhã Ba La Mật, thâm nhập ái kính Bát Nhã Ba La Mật, nên nay mới biên chép Bát Nhã Ba La Mật để thờ phụng, cúng dường vậy. Mặc dù xa bậc Đạo Sư, nên mới biên chép để thờ phụng, cúng dường và để lưu lại đời sau. Do vậy mà người biên chép kinh Bát Nhã Ba La Mật, được vô lượng công đức, ngang với người thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm và tu tập Bát Nhã Ba La Mật.

Hàng chư Thiên thường quý mến, tôn trọng, gìn giữ kinh điển nên thường thủ hộ người Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép kinh Bát Nhã Ba La Mật, khiến những người có ác tâm cũng như hàng phi nhơn chẳng có thể tìm được chỗ tiện để phá hoại.

—o0o—

Pháp sự này rất khó tin, nên Phật đã dùng “cội Bồ Đề” (Bồ Đề thọ) để làm pháp dụ.

“Cội Bồ Đề” là nơi Phật tu tập Bát Nhã Ba La Mật, mà thành được đạo Vô Thượng Bồ Đề. Nơi đó có đủ oai lực của Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng có các ác sự hiện thành được vậy.

Lại nữa, Bát Nhã Ba La Mật là mẹ của chư Phật trong 3 đời, nên những Thiện Nam, Thiện NỮ nào nhất tâm cung kính cúng dường được vô lượng công đức vậy.

KINH:

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn hỏi Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật, và lại có Thiện Nam, Thiện Nữ xây tháp để cúng dường Phật, sau khi Phật nhập Niết Bàn, thì bên nào được phước đức nhiều hơn?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Ta hỏi lại ông và ông cứ tùy ý mà đáp lại. Ý ông nghĩ sao? Do đâu mà Phật được nhất thiết chủng trí, được tướng hảo trang nghiêm?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Do tu tập Bát Nhã Ba La Mật mà Thế Tôn được nhất thiết chủng trí, và cũng được các tướng hảo trang nghiêm.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Đúng như vậy, đúng như vậy! Phật từ nơi Bát Nhã Ba La Mật mà được nhất thiết chủng trí.

Này Kiều Thi Ca! Chẳng phải do thân tướng hảo trang nghiêm mà ta được gọi là Phật. Chính là do ta được nhất thiết chủng trí nên mới được gọi là Phật.

Này Kiều Thi Ca! Nhất thiết chủng trí từ Bát Nhã Ba La Mật mà sanh ra.Phật thân chỉ là chỗ sở y của nhất thiết chủng trí, nương nơi Phật thân mà được nhất thiết chủng trí.

Chúng sanh do nghĩ rằng thân của Phật chính là chỗ sở y của nhất thiết chủng trí, nên sau khi Phật nhập Niết Bàn, đã xây dựng tháp để cúng dường xá lợi của Phật.

Này Kiều Thi Ca! Nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào nghe Bát Nhã Ba La Mật mà biên chép, thọ trì, đọc tụng, thân cận, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, thì đó chính là người cúng dường nhất thiết chủng trí vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên người biên chép, thọ trì, đọc tụng, thân cận, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật có phước đức thù thắng hơn người xây tháp cúng dường xá lợi của Phật, sau khi Phật nhập Niết Bàn.

Vì sao?

Vì từ Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh 5 Ba La Mật kia, xuất sanh nội không,… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, xuất sanh 4 niệm xứ…, dẫn đến 18 bất cộng pháp, xuất sanh hết thảy các tam muội, hết thảy các đà la ni, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ.

Bồ Tát thành tựu các công hạnh như thành tựu sanh thai, thành tựu gia đình, thành tựu chỗ sanh, thành tựu quyến thuộc, thành tựu xuất sanh, thành tựu tướng trang nghiêm, thành tựu xuất gia, … cũng đều xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật.

Lại nữa, cũng từ nơi Bát Nhã Ba La Mật mà thế gian xuất sanh các đại gia, các đại tộc, các cõi trời Tứ Thiên Vương… dẫn đến Sắc Cứu Cánh Thiên, mà ở thế gian có các quả Thanh Văn, có nhất thiết chủng trí… dẫn đến có Phật.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Người ở cõi Diêm Phù Đề chẳng biết cúng dường, tôn trọng, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, có phải vì họ chẳng biết làm như vậy là có nhiều phước đức chăng?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Ở trong cõi Diêm Phù Đề có được bao nhiêu người có lòng tin nơi bất hoại Phật, Pháp và Tăng? Có bao nhiêu người chẳng nghi?Có bao nhiêu người quyết liễu?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Ở trong cõi Diêm Phù Đề có rất ít người có lòng tin nơi bất hoại Phật, Pháp và Tăng, cũng rất người chẳng nghi, rất ít người quyết liễu.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Ở trong cõi Diêm Phù Đề có bao nhiêu người được 37 Phẩm Trợ Đạo, 3 giải thoát môn, 8 bối xả, 9 thứ đệ định, 4 vô ngại trí, 6 thần nông, có bao nhiêu người đoạn được 3 kiết sử, được quả Tu Đà Hoàn, có bao nhiêu người đạt được 3 kiết sử, cạn mỏng tham sân si, được quả Tư Đà Hàm, có bao nhiêu người dứt 5 hạ phần kiết sử, được quả A Na Hàm, có bao nhiêu người dứt 5 thượng phần kiết sử, được quả A La Hán, có bao nhiêu người cầu Bích Chi Phật đạo, có bao nhiêu người phát Vô Thượng Bồ Đề tâm?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Ở trong cõi Diêm Phù Đề rất ít người được 37 Phẩm Trợ Đạo… dẫn đến rất ít người phát Vô Thượng Bồ Đề tâm.

Phật dạy: Đúng như vậy, đúng như vậy! Này Kiều Thi Ca! Ở trong cõi Diêm Phù Đề có rất ít người có lòng tin bất hoại nơi Phật, Pháp và Tăng rất ít chẳng nghi, rất ít người quyết liễu.Lại cũng có rất ít người được 37 Phẩm Trợ Đạo… dẫn đến có rất ít người phát Vô Thượng Bồ Đề tâm.Hơn nữa ở trong những người đã phát Vô Thượng Bồ Đề tâm rồi, có rất ít người thật hành Bồ Tát hạnh.

Vì sao?

Vì đời trước chúng sanh ở trong cõi Diêm Phù Đề chẳng thấy Phật, chẳng nghe Pháp, chẳng cúng dường Tăng, chẳng bố thí, chẳng trì giới, chẳng nhẫn nhục, chẳng tinh tấn, chẳng thiền định, chẳng trí huệ, chẳng nghe nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, chẳng nghe 4 niệm xứ… dẫn đến 18 bất cộng pháp, chẳng nghe và chẳng tu các tam muội, các đà la ni, lại cũng chẳng nghe và chẳng tu nhất thiết trí và nhất thiết chủng trí.

Này Kiều Thi Ca! Ta dùng Phật nhãn thấy ở phương Đông có vô lượng chúng sanh phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo. Thế nhưng vì những chúng sanh ấy xa lìa các lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, nên có rất ít người được an trú trong bất thối chuyển địa. Do vậy mà phần nhiều bị rơi về Thanh Văn đạo và Bích Chi Phật đạo. Ở 9 phương kia cũng đều là như vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên những Thiện Nam, Thiện Nữ nào muốn cầu Vô Thượng Bồ Đề, phải nghe Bát Nhã Ba La Mật, phải thọ trì, thân cận, đọc tụng, thuyết giảng, chánh ức niệm Bát Nhã Ba La Mật, rồi lại phải biên chép, cung kính, tôn trọng, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật.

Những Thiện Nam, Thiện Nữ này lại còn phải nghe, thọ trì,… dẫn đến cúng dường, tán thán các thiện pháp khác nữa. Vì sao?Vì hết thảy các thiện pháp đều quy nhiếp về Bát Nhã Ba La Mật.

*Các thiện pháp khác gồm những gì?

Đó là Đàn Ba La Mậ… dẫn đến Thiền Ba La Mật, nội không,… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, 4 niệm xứ,.. dẫn đến 18 bất cộng pháp, hết thảy các tam muội, hết thảy các đà la ni, đại từ, đại bi cùng vô lượng thiện pháp khác.

Vô lượng thiện pháp như vậy đều quy nhiếpvề Bát Nhã Ba La Mật cả.Bởi vậy nên phải nghe, thọ trì, thân cận, đọc tụng, thuyết giảng, chánh ức niệm, tán thán, cúng dường Bát Nhã Ba La Mật.

Vì sao?

Vì chư Phật khi còn là Bồ Tát, cũng tu tập Bát Nhã Ba La Mật, cùng vô lượng thiện pháp khác, vì Bát Nhã Ba La Mật cùng vô lượng thiện pháp đều là pháp tôn quý, là pháp ấn của Thanh Văn, của Bích Chi Phật, của Bồ Tát và của Phật.

Chư Phật, chư đại Bồ Tát cùng chư Thánh Hiền do tu tập Bát Nhã Ba La Mật và các thiện pháp khác mà được nhất thiết chủng trí và qua được “bờ bên kia”.

Này Kiều Thi Ca! Bởi nhân duyên vậy, nên khi Phật còn tại thế cũng như sau khi Phật đã nhập Niết Bàn, các Thiện Nam, Thiện Nữ đều phải y chỉ nơi Bát Nhã Ba La Mật, nơi 5 Ba La Mật kia… dẫn đến các ý chỉ nơi nhất thiết chủng trí, mà tu tập. Vì sao? Vì Bát Nhã Ba La Mật… dẫn đến nhất thiết chủng trí là chỗ mà chư Thanh Văn, chư Bích Chi Phật, chư Bồ Tát, chư Phật cùng hết thảy thế gian, Trời, Người, A Tu La đều phải y chỉ vậy.

LUẬN:

Hỏi: Phật đã nhiều phen tán thán Bát Nhã Ba La Mật rồi, nay vì sao ngài Thích Đề Hoàn Nhơn còn so sánh công đức cúng dường Bát Nhã Ba La Mật với công đức cúng dường xá lợi của Phật để làm gì nữa?

Đáp: Người chỉ có tín căn, thì muốn cúng dường xá lợi, người có huệ căn thì muốn cúng dường kinh pháp.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn muốn biết rõ 2 trường hợp cúng dường, bên nào có phước đức nhiều hơn, nên mới hỏi Phật để được Phật chỉ dạy cho.

Phật dạy: 5 Ba La Mật kia đều từ Bát Nhã Ba La Mật sanh.

Phật lại cho biết thêm rằng 5 độ kia, từ bố thí… dẫn đến thiền định, nếu chẳng có Bát Nhã Ba La Mật chỉ đạo, chẳng có lực phương tiện của trí huệ Bát Nhã Ba La Mật, thì chẳng thể gọi là Ba La Mật được. Vì sao?Vì liễu đạt 18 không là có được trí huệ. Do có trí huệ mà có được 4 niệm xứ… dẫn đến có được nhất thiết chủng trí.

Bồ Tát tuy chưa có trí huệ Phật, nhưng do đã hành đầy đủ Bát Nhã Ba La Mật, nên đã rõ được thật tướng các pháp. Do vậy mà được đầy đủ Đàn Ba La Mật, … dẫn đến đầy đủ thiền Ba La Mật.

—o0o—

Hãy nói về 2 độ “bố thí” và “trì giới”

Người chấp các pháp là thật không, thì nghĩ rằng chẳng có tội, chẳng có phước, nên chẳng cần tu các hạnh bố thí và trì giới.

Người chấp các pháp là thật có, thì nghĩ rằng các pháp chẳng phải do duyên sanh mà là thường còn.

Người chấp các pháp là thật có, thì nghĩ rằng các pháp chửng phải là do duyên sanh mà là thường còn.

Người chấp các pháp là vô thường, thì nghĩ rằng 5 ấm thân cũng phải theo thân mà diệt. Như vậy cũng chẳng có tội phước ở đời sau.

Lại nữa, nếu như nói chẳng có chúng sanh, thì cũng chẳng có tội sát sanh. Như vậy cũng chẳng cần nói đến giới “không sát sanh”.

Thế nhưng người liễu thông được rằng Bát Nhã Ba La Mật chính là thật tướng của các pháp, thì sẽ chẳng bị đọa về 2 chấp “có – không”. Như vậy mới vào được Trung Đạo, mới được đầy đủ Đàn Ba La Mật, đầy đủ Thi La Ba La Mật,..dẫn đến đầy đủ các Ba La Mật khác.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói hết thảy công đức tu tập các thiện pháp đều nhiếp cả vào trong Bát Nhã Ba La Mật.

Hết thảy các quả báo thế gian và xuất thế gian đều y chỉ vào Bát Nhã Ba La Mật, nên công đức cúng dường Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn công đức cúng dường xá lợi vậy.

Hỏi: Vì sao trong cõi Diêm Phù Đề có rất nhiều chúng sanh cầu phước đức mà rất ít chúng sanh cầu Bát Nhã Ba La Mật?

Đáp: Ở trong cõi Diêm Phù Đề rất ít người lợi căn, thượng trí, nên đa số chỉ ham cầu phước lợi mà chẳng biết cúng dường Bát Nhã Ba La Mật. Ví như người mù nhặt được quý kim mà chẳng thấy được, nên chẳng biết đó là quý kim vậy.

Ở trong cõi Diêm Phù Đề, số người thâm tín ba ngôi Tam Bảo cũng còn rất ít, huống nữa là biết được Bát Nhã Ba La Mật. Bởi vậy nên Phật mới hỏi ngài Thích Đề Hoàn Nhơn: Có bao nhiêu người có tin tâm bất hoại nơi 3 ngôi Tam Bảo?

Hỏi: “Tín tâm bất hoại”. “không nghi” và “quyết liễu” có gì sai khác nhau không?

Đáp: Khởi lòng tin bất hoại nơi Tam Bảo là không nghi. Lại nữa, nếu đã không nghi thì đã quyết liễu rồi. Cho nên “không nghi” và “quyết liễu” dẫn đến sự thành tựu của “lòng tin bất hoại”.

Hỏi: “Không nghi” và “quyết liễu” có gì sai khác nhau không?

Đáp: Tin Tam Bảo thì gọi là “không nghi”. Do “không nghi” mà sanh trí huệ, thông rõ được các pháp, nên gọi là “quyết liễu”.

Ví như người lội qua dòng nước là do không nghi. Khi đã lội qua bờ bên kia rồi, mới biết dòng nước đẩy mạnh hay yếu, sâu hay cạn. Như vậy gọi là quyết liễu.

Hỏi: Được 3 tâm ấy thì có được quả báo gì?

Đáp: Có được 3 tâm ấy, hành giả sẽ chẳng còn bị chướng ngại trong việc tu tập 37 Phẩm Trợ Đạo… dẫn đến được 6 thần thông, đoạn được 3 phần kiết sử, chứng quả Tu Đà Hoàn,…, dẫn đến đoạn sạch các tập khí, chứng “vô vi quả”.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn có quả báo sanh, được tha tâm trí, thường dùng Thiên nhĩ để nghe âm thanh của các đạo chúng sanh sai khác. NNay ngài lại tu đạo Bồ Tát, được căn tánh lanh lợi, nhập vào các tam muội, quán tâm hành của chúng sanh, biết rõ sự hành đạo của chúng sanh trong các đạo.

Bởi vậy nên ngài mới trả lời Phật rằng: Ở trong cõi Diêm Phù Đề số người thâm tín Tam Bảo rất ít, số người được quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến số người phát tâm cầu Phật đạo lại càng ít hơn nữa, nên rất ít người biết được Bát Nhã Ba La Mật để cung kính cúng dường. Vì sao? Vì dời trước chẳng nghe danh Tam Bảo,… dẫn đến chẳng nghe nói đến nhất thiết chủng trí.

Phật ấn chứng lời nói của ngài Thích Đề Hoàn Nhơn, và dạy: Ta dùng Phật nhãn quán thấy trong khắp 10 phương có vô lượng chúng sanh phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, hành Bồ Tát đạo, nhưng vì xa lìa các lực phương tiện Bát Nhã Ba La Mật, nên có rất ít người trú được trong bất thối chuyển địa, mà thường bị rơi về Thanh Văn địa.

—o0o—

Cũng thế nên biết, hết thảy các thiện pháp đều nhiếp trọn vào trong Bát Nhã Ba La Mật, … dẫn đến hết thảy các kinh điển như Pháp Hoa, Giải Thâm Mật, Mật Tích… đều nhiếp vào trong Bát Nhã Ba La Mật cả.

Hỏi: Vì sao nói Tu Đà Hoàn phải học Bát Nhã Ba La Mật mới qua được “bờ bên kia”?

Đáp: Vì 6 pháp Ba La Mật, 3 giải thoát môn, 37 Phẩm Trợ Đạo… dẫn đến nhất thiết chủng trí đều là pháp chung cho cả 3 thừa. Người tu hành phải tùy theo từng phần, từng quả vị tu chứng mà học vậy.

KINH:

Phật bảo: Này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Sauk hi Phật nhập Niết Bàn, nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ nào xây 7 tháp báu, cao 1 do tuần, rồi dùng hương hoa, anh lạc, tràng phan, bảo cái và các vật quý báu khác để cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán Phật, thì phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có nhiều chăng?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba la Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Sauk hi Phật nhập Niết Bàn, nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ, chẳng những xây 1 tháp 7 báu mà xây rất nhiều tháp 7 báu, mỗi tháp cao 1 do tuần đầy khắp cõi Diêm Phù Đề, rồi dùng hương hoa, anh lạc, tràng phan bảo cái và các vật quý báu khác, để cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán Phật, thì phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có nhiều chẳng?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy được phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ, chẳng những xây 7 báu đầy khắp cả 4 châu thiên hạ mà xây tháp 7 báu đầy khắp cả Tiểu Thiên thế giới, rồi dùng hương hoa, anh lạc, tràng phan bảo cái và các vật quý khác để cung kính, cúng dường, tôn trọng, tán thán Phật, thì phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có nhiều chăng?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ, chẳng những xây tháp 7 báu đầy khắp cả Tiểu Thiên thế giới, mà xây tháp 7 báu đầy khắp cả Trung Thiên thế giới, rồi dùng hoa hương, anh lạc, tràng phan bảo cái, tán thán Phật, thì phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có nhiều chăng?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Ý ông nghĩ sao? Sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu có Thiện Nam, Thiện Nữ, chẳng những xây tháp 7 báu đầy khắp cả Tiểu Thiên thế giới, mà xây tháp 7 báu đầy khắp cả Trung Thiên thế giới, rồi dùng hoa hương, anh lạc, tràng phan bảo cái, tán thán Phật, thì phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có nhiều chăng?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn đáp: Bạch Thế Tôn! Thiện Nam, Thiện Nữ ấy có phước đức rất nhiều.

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Phước đức ấy chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm.

Lại nữa, này Kiều Thi Ca! Sau khi Phật nhập Niết Bàn, nếu ở khắp cả Đại thiên thế giới, mỗi mỗi chúng sanh  đều xây 7 tháp báu để trọn đời cúng dường Phật, thì phước đức ấy của tất cả chúng sanh ấy góp lại cũng chẳng sao bằng được phước đức của Thiện Nam, Thiện Nữ nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm. Như vậy, ý ông nghĩ sao?

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: Bạch Thế Tôn! Đúng như vậy, đúng như vậy! Vì cung kính, tôn trọng, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật là cúng dường chư Phật trong 3 đời rồi vậy.

Bạch Thế Tôn! Nếu trong hằng sa thế giới, ở khắp trong 10 phương, mỗi mỗi chúng sanh đều xây tháp 7 báu để cúng dường Phật, hoặc trong 1 kiếp hoặc dưới 1 kiếp, thì phước đức ấy có nhiều chẳng?

Phật dạy: Này Kiều Thi Ca! Phước đức ấy rất nhiều.

Ngài Thích Đề Hoàn Nhơn thưa: Bạch Thế Tôn! Theo như lời Thế Tôn dạy, thì Thiện Nam, Thiện Nữ nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm có phước đức thù thắng hơn nhiều. Vì sao? Vì hết thảy các thiện pháp như 10 thiện đạo, 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, 37 Phẩm Trợ Đạo, 3 giải thoát môn, 4 thánh đế, 6 thần thông, 8 bối xả, 9 thứ đệ định, 6 pháp Ba La Mật, 18 không, các tam muội, các đà la ni, 10 lực, 4 vô sở úy, 4 vô ngại trí, đại từ, đại bi, 18 bất cộng pháp, nhất thiết trí đều từ Bát Nhã Ba La Mật xuất sanh ra cả.

Bạch Thế Tôn! Bát Nhã Ba La Mật là pháp ấn của 3 đời chư Phật. Tất cả Thanh Văn, Bích Chi Phật, Bồ Tát va Phật đều y nơi pháp ấn này mà qua được “bờ bên kia” vậy.

LUẬN:

Người nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm, tôn trọng, cung kính, cúng dường, tán thán Bát Nhã Ba La Mật, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm mà tu tập, được vô lượng phước đức. Bởi vậy nên Phật dùng tháp 7 báu để làm dụ.

Hỏi: Bảo tháp mà Phật lấy làm dụ trên đây là “thật dụ” hay “giả dụ”?

Đáp: Phật muốn cho chúng sanh được trí giải về phước đức, nên đã dùng “tháp 7 báu” để làm dụ.

Như vậy, dụ này cũng vừa là thật dụ, mà cũng vừa là giả dụ.Vì sao? Ví như, khi Phật Ca Diếp vừa nhập Niết Bàn, có vị quốc vương, tên là Cát Ly Chiêm, xây 500 bảo tháp cao đến 50 do tuần, để cúng dường Xá Lợi của Phật. Lại nữa, trong đời quá khứ có vị chuyển luân thánh vương, tên là Đức Chủng, trong một ngày đã xây 500 bảo tháp, để cúng dường Phật. Đây là thật dụ.

Còn nói xây bảo tháp đầy khắp cả cõi Diêm Phù Đề, đầy khắp cả 4 châu thiên hạ, đầy khắp cả Tiểu Thiên thế giới, đầy khắp cả Trung Thiên thế giới, đầy khắp cả Đại Thiên thế giới… là giả dụ, để nói lên phước đức của việc xây tháp cúng dường Phật vậy. Thế nhưng, đây cũng là thật dụ.Vì sao? Ví như Phạm Thiên Vương là vương chủ của cả Đại Thiên thế giới, và cũng là đệ tử của Phật, có thần lực biến hóa, dựng tháp khắp cả đại thiên thế giới, để cúng dường xá lợi của Phật. Đây cũng là thật dụ vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật lấy “tháp 7 báu” làm dụ, để cho chúng hội thấy rõ là hết thảy các thiện pháp, từ 10 thiện đạo… dẫn đến nhất thiết chủng trí, đều xuất sanh từ Bát Nhã Ba La Mật cả.

—o0o—

Cũng nên biết rằng Xá lợi Phật chỉ là vô ký pháp.

Cúng dường xá lợi Phật chỉ là thiện pháp.Y chỉ nơi thiện pháp này mà đời sau được các quả báo lành. Nhưng nếu nghe Bát Nhã Ba La Mật, rồi thọ trì, đọc tụng, thân cận, chánh ức niệm, trọn chẳng ly Tát Bà Nhã tâm, mà tu tập Bát Nhã Ba La Mật, thì đời này và cả ở đời sau, đều được quả báo lành, dẫn đến được quả Vô Thượng Bồ Đề.

***

Phẩm thứ ba mươi ba
Thuật Thành
(Thuật Lại Sự Thành Tựu)

KINH:

Lúc bấy giờ, Phật bảo ngài Thích Đề Hoàn Nhơn: Này Kiều Thi Ca! Đúng như vậy, đúng như vậy! Các Thiện Nam, Thiện Nữ biên chép, thọ trì, đọc tụng, thuyết giảng, chánh ức niệm và cúng dường Bát Nhã Ba La Mật, sẽ được vô lượng, vô biên, bất khả tư nghì phước đức.

Vì sao?

Vì nhất trí, nhât thiết chủng trí, dẫn đến chư Phật đều từ Bát Nhã Ba La Mật sanh ra cả. Vì Đàn Ba La Mật… dẫn đến Thiền Ba La Mật, 4 niệm xứ…dẫn đến 18 bất cộng pháp, nội không… dẫn đến vô pháp hữu pháp không đều từ Bát Nhã Ba La Mật sanh. Vì thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ, thành tựu đạo chủng trí, thành tựu nhất thiết trí, thành tựu nhất thiết chủng trí đều từ Bát Nhã Ba La Mật sanh. Vì Thanh Văn Thừa, Bích Chi Phật thừa… dẫn đến Phật thừa đều từ Bát Nhã Ba La Mật sanh ra cả.

Này Kiều Thi Ca! Bởi nhân duyên vậy, nên phước đức của người biên chép, thọ trì, thuyết giảng, chánh ức niệm… dẫn đến cúng dường Bát Nhã Ba La Mật thù thắng hơn phước đức của người xây bảo tháp cúng dường xá lợi Phật rất nhiều, gấp cả trăm, ngàn ngàn, muôn, ức lần… dẫn đến chẳng có toán số thí dụ nào có thể dùng để so lường được.

Vì sao?

Vì nếu Bát Nhã Ba La Mật còn tồn tại ở trên thế gian này thì Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo chẳng đoạn diệt vậy.

Vì nếu Bát Nhã Ba La Mật còn tồn tại ở trên thế gian này, thì 10 thiện đạo, 4 thiền, 4 vô lượng tâm, 4 vô sắc định, 6 pháp Ba La Mật, 4 niệm xứ…dẫn đến 18 bất cộng pháp, nhất thiết trí, nhất thiết chủng trí đều hiện ra ở đời.

Vì nếu Bát Nhã Ba La Mật còn tồn tại ở trên thế gian này, thì các đại gia, đại tộc, các cõi trời Tứ Thiên Vương… dẫn đến Sắc Cứu Cánh Thiên, các quả Tu Đà Hoàn… dẫn đến các A La Hán, Bích Chi Phật đạo… dẫn đến Phật đạo, chuyển pháp luân, thành tựu chúng sanh, thanh tịnh Phật độ đều hiện ra ở đời.

LUẬN:

Trước đây, vị Đế Thích đã bạch với Phật rằng người biên chép…cúng dường Bát Nhã Ba La Mật được vô lượng, vô biên phước đức. Lời phát biểu của vị Đế Thích được Phật ấn chứng, và tán thán: Đúng như vậy, đúng như vậy!

Hỏi: Bát Nhã Ba La Mật là bất sanh, bất diệt, là như hư không; ở nơi Bát Nhã Ba La Mật thì tất cả ngôn ngữ đều đoạn, tất cả tâm hành đều diệt. Như vậy, vì sao lại nói có Bát Nhã Ba La Mật ở đời, thì 3 ngôi Tam Bảo chẳng có đoạn diệt.

Đáp: Bát Nhã Ba La Mật là thể tánh nhất như. Dù có Phật, hay chẳng có Phật, thì Bát Nhã Ba La Mật vẫn thường  trú.

Trên đây nói “nếu Bát Nhã Ba La Mật còn tồn tại ở thế gian” là mật ý nói rằng “nếu kinh Bát Nhã Ba La Mật còn lưu bố ở đời”. Nếu còn có người biên chép, thọ trì, đọc tụng, chánh ức niệm,…, dẫn đến cúng dường Bát Nhã Ba La Mật, chỉ chủng tử Bát Nhã Ba La Mật được gieo trồng trong thế gian, khiến chúng sanh có thể nương vào đó tu hành… dẫn đến được quả Bát Nhã Ba La Mật.

Bát Nhã Ba La Mật ví như nước ở dưới giếng sâu, kinh Bát Nhã Ba La Mật ví như cái gàu để múc nước.

Người muốn múc nước ở giếng sâu cần phải buộc gàu vào sợi dây thật dài và kiên cố, thì mới mong múc được nước. Cũng như vậy, dù có kinh Bát Nhã Ba La Mật lưu bố, mà chẳng có người biên chép, thọ trì, đọc tụng… dẫn đến cúng dường Bát Nhã Ba La Mật chẳng sao có thể hiện lộ ra được. Ngược lại, nếu có người biên chép, thọ trì, đọc tụng… dẫn đến cúng dường Bát Nhã Ba La Mật, thì thể tánh Bát Nhã Ba La Mật mới hiển lộ, và hết thảy các Phật pháp mới hiện ra ở đời được.

Hỏi: Khi nói đến Tam Bảo là đã nhiếp trọn các thiện pháp rồi. Như vậy vì sao lại có Bát Nhã Ba La Mật ở đời, thì mới có 10 thiện đạo… dẫn đến nhất thiết chủng trí.

Đáp: Các thiện pháp, các thiện đạo đều nhiếp trọn trong Tam Bảo. Tất cả các thiện pháp, các thiện đạo đều từ Bát Nhã Ba La Mật sanh ra cả.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói có Bát Nhã Ba La Mật ở đời, thì mới có các thiện pháp, các thiện đạo hiện ra ở đời vậy.

(Hết quyển 57)