LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ
Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG
TẬP III
QUYỂN 49
Phẩm thứ hai mươi
Phát Thú Thập Địa
(Hướng Đến Mười Địa)
KINH:
Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: Này Tu Bồ Đề! Ông hỏi thế nào gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát phát thú thập địa chăng?
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành lục pháp Ba La Mật, từ sơ địa dẫn đến thập địa, gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát phát thú thập địa.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn! Thế nào là Bồ Tát Ma Ha Tát hành tương tục lục pháp Ba La Mật, từ sơ địa dẫn đến thập địa?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát biết các pháp chẳng có các tướng khứ lai, cũng biết rõ chẳng có pháp khứ lai, vì pháp tướng là bất diệt vậy.
Bồ Tát Ma Ha Tát ở nơi các địa chẳng niệm, chẳng tư duy, nên tu tập “trị địa nghiệp”, mà cũng chẳng thấy các địa.
Thế nào là “trị địa nghiệp”?
Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú sơ địa tu thập pháp gồm:
- Thâm tâm kiên cố mà biết rõ tâm là bất khả đắc.
- Giữ tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh, mà biết rõ chúng sanh là bất khả đắc.
- Xả tâm hành bố thí mà biết rõ người thọ thí là bất khả đắc.
- Thân cận thiện tri thức mà chẳng sanh cao tâm.
- Thường cầu pháp mà biết rõ các pháp là bất khả đắc.
- Thường xuất gia mà biết rõ “gia” là bất khả đắc.
- Ái ngưỡng Phật, mà biết rõ các tướng tốt của Phật là bất khả đắc.
- Diễn nói pháp, mà biết rõ phân biệt nói pháp là bất khả đắc.
- Phá pháp kiêu mạn, pháp sanh trí huệ mà biết rõ trí huệ là bất khả đắc.
- Dùng thật ngữ, mà biết rõ ngôn ngữ là bất khả đắc.
Như vậy, gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát, an trú sơ địa, trì địa nghiệp đầy đủ 10 pháp.
–o0o–
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú nhị địa, thường niệm 8 pháp gồm:
- Giới thanh tịnh
- Biết ơn và báo ơn
- Nhẫn nhục
- Thọ hoan hỷ
- Chẳng xả chúng sanh
- Vào đại bi tâm
- Tin kính sư trưởng
- Siêng tu lục pháp Ba La Mật.
Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát an trú nhị địa, thường niệm đầy đủ bát pháp.
–o0o–
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát, an trú tam địa hành ngũ pháp, gồm:
- Học vấn nhiều mà chẳng nhàm chán.
- Thanh tịnh hành pháp thí, mà chẳng sanh cao tâm.
- Trang nghiêm Phật độ mà chẳng sanh cao tâm.
- Nhẫn thọ vô lượng khổ của thế gian mà chẳng nhàm chán.
- Thường trú trong tàm quý.
Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát, an trú tam địa, hành đầy đủ ngũ pháp.
–o0o–
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú tứ địa, chẳng bỏ thập pháp gồm:
- Chẳng bỏ A Lan Nhã xứ.
- Tri túc
- Thiểu dục
- Chẳng xả công đức đầu đà
- Chẳng xả giới, chẳng chấp các giới tướng
- Nhàm chán thế gian. Thuận Niết Bàn
- Ghét bỏ các dục nhiễm
- Xả bỏ các vật sở hữu
- Tâm chẳng chìm đắm
- Chẳng ôm giữ các vật.
Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát an trú tứ địa, chẳng bỏ thập pháp.
–o0o–
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú ngũ địa, xa lìa thập nhị pháp, gồm:
- Xa lìa người thân bạch y
- Xa lìa Tỷ Kheo Ni
- Xa lìa xan tham
- Xa lìa lời nói vô ích
- Xa lìa sự nóng giận
- Xa lìa sự tự cao
- Xa lìa sự khinh người
- Xa lìa thập bất thiện đạo
- Xa lìa sự tự dụng, ích kỷ
- Xa lìa điên đảo
- Xa lìa tham, sân, si.
Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát an trú ngũ địa, thường xa lìa thập nhị pháp.
–o0o–
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú lục địa, hành đầy đủ lục pháp. Đó là lục pháp Ba La Mật.
Và chẳng làm lục pháp gồm:
- Chẳng mong tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật
- Chẳng sanh ưu phiền, khi hành bố thí
- Chẳng trốn tránh trước sự cầu xin của người
- Chẳng luyến tiếc các vật sở hữu đã đem ra bố thí
- Chẳng sanh hối tâm, sau khi hành bố thí
- Chẳng khởi tâm nghi về các pháp thậm thâm.
Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát an trú lục địa, hành đầy đủ lục pháp, và chẳng hành lục pháp.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú thất địa, chẳng chấp nhị thập pháp, và hành đầy đủ nhị thập pháp.
Nhị thập pháp chẳng chấp gồm:
- Chẳng chấp ngã
- Chẳng chấp chúng sanh
- Chẳng chấp thọ giả
- Chẳng chấp chúng sanh số,… tri giả, kiến giả.
- Chẳng chấp đoạn kiến.
- Chẳng chấp thường kiến.
- Chẳng chấp tác tướng.
- Chẳng chấp tác nhân tướng.
- Chẳng chấp danh sắc
- Chẳng chấp ngũ ấm
- Chẳng chấp thập nhị nhập
- Chẳng chấp thập bát giới
- Chẳng chấp tam cõi
- Chẳng chấp trú xứ
- Chẳng chấp chỗ mong cầu
- Chẳng chấp y nghỉ
- Chẳng chấp y nơi Phật
- Chẳng chấp y nơi Pháp
- Chẳng chấp y nơi Tăng
- Chẳng chấp y nơi Giới
Nhị thập pháp hành đầy đủ, gồm:
- Đầy đủ “không”
- Chứng vô tướng
- Biết vô tác
- Tam phần thanh tịnh
- Từ bi với hết thảy chúng sanh
- Chẳng niệm tưởng về hết thảy chúng sanh
- Quán hết thảy pháp bình đẳng, mà chẳng chấp trước
- Biết thật tướng của các pháp là chẳng niệm tưởng
- Vô sanh pháp nhẫn
- Vô sanh trí
- Thuyết pháp nhất tướng
- Phá phân biệt tướng
- Chuyển ức tưởng
- Chuyển kiến
- Chuyển phiền não
- Bình đẳng huệ
- Lấy huệ điều ý
- Tâm tịch diệt
- Vô ngại trí
- Chẳng nhiễm ái.
Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát an trú thất địa, chẳng chấp nhị thập pháp và hành đầy đủ nhị thập pháp.
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú bát địa, phải hành đầy đủ ngũ pháp, và nên hành đầy đủ ngũ pháp.
Ngũ pháp phải hành đầy đủ, gồm:
- Tùy thuận chúng sanh tâm
- Du hý thần thông, quán các Phật quốc
- Quán tự trú nơi các Phật quốc
- Tự trang nghiêm Phật quốc của mình, như các Phật quốc mà mình đã thấy
- Như thật quán pháp thân, và tự trang nghiêm pháp thân.
Ngũ pháp nên đầy đủ, gồm:
- Biết căn tánh cao thấp của chúng sanh
- Thanh tịnh Phật độ
- Nhập “như huyễn tam muội”
- Tùy chúng sanh, thường nhập vào các tam muội
- Tùy theo căn tánh chúng sanh mà thị hiện thọ thân.
Như vậy, gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát an trú bát địa, phải hành đầy đủ ngũ pháp, và nên hành đầy đủ ngũ pháp.
–o0o–
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú cửu địa, phải hành đầy đủ thập nhị pháp, gồm:
- Thọ vô biên thế giới
- Được như sở nguyện
- Biết ngôn ngữ các loài
- Thành tựu sanh thai
- Thành tựu gia đình
- Thành tựu chỗ sanh
- Thành tựu dòng họ
- Thành tựu quyến thuộc
- Thành tựu xuất sanh
- Thành tựu xuất gia
- Thành tựu “Bồ Đề thọ” trang nghiêm
- Thành tựu hết thảy các thiện công đức.
Như vậy, gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát an trú cửu địa, phải hành đầy đủ thập nhị pháp.
–o0o–
Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát Ma Ha Tát an trú thập địa, là như Phật rồi vậy.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát, an trú sơ địa, trị địa nghiệp, từ thâm tâm kiên cố… dẫn đến dùng thật ngữ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Nên biết:
Nếu Bồ Tát, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, tích tập các thiện tâm, thì gọi là Bồ Tát thâm tâm kiên cố trị địa nghiệp.
Nếu Bồ Tát khởi tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) thì gọi là Bồ Tát sanh tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh.
Nếu Bồ Tát bố thí cho hết thảy chúng sanh, mà chẳng sanh tâm phân biệt, thì gọi là Bồ Tát xả tâm hành bố thí.
Nếu Bồ Tát thân cận, cúng dường các bậc cao minh đã dạy dỗ và dẫn dắt mình đến nhất thiết chủng trí, thì gọi là Bồ Tát thân cận thiện tri thức.
Nếu Bồ Tát, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, cầu pháp, mà chẳng cầu chứng quả Thanh Văn, quả Bích Chi Phật, thì gọi là Bồ Tát thường cầu pháp.
Nếu Bồ Tát đời đời chẳng sanh tạp tâm, thường ở trong Phật pháp, xuất gia mà chẳng gì chướng ngại, thì gọi là Bồ Tát xuất gia trị địa ngưỡng Phật thân.
Nếu Bồ Tát đem lời của Phật hiện tại, hoặc lời của chư Phật quá khứ, để diễn nói cho chúng sanh, làm cho họ thấy rõ các nghĩa vụ diệu thiện, cùng các lời thanh khiết thuyết giảng ở trong thập nhị bộ kinh, thì gọi là Bồ Tát diễn nói giáo pháp thanh tịnh, xuất thế gian.
Nếu Bồ Tát phá kiêu mạn, nguyện đời nào cũng thọ sanh và nhà hạ tiện, thì gọi là Bồ Tát phá kiêu mạn trị địa nghiệp.
Nếu Bồ Tát y như chỗ nói mà làm, thì gọi là Bồ Tát dùng thật ngữ trị địa nghiệp.
Trên đây,tóm lược quá trình tu tập thập sự trị địa nghiệp của hàng Bồ Tát, trú trong sơ địa.
LUẬN:
Trước đây ngài Tu Bồ Đề hỏi về Ma Ha Diễn, và đã được Phật giải đáp. Nay ngài hỏi thêm về sự phát thú của người tu theo Đại Thừa và tướng của người tu Đại Thừa.
Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn biết rõ hết thảy pháp, từ vô thỉ đến nay đều là vô khứ, vô lai, bất động, bất tĩnh, bất nhập, bất xuất,…, vì pháp tánh là thường trú.
Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát dùng đại bi tâm, tinh tấn tu lục pháp Ba La Mật, dùng các lực phương tiện trở lại trần gian, tu tập thiện pháp, để cầu các thánh địa, nhưng chẳng có chấp các địa tướng.
Hỏi: Như vậy là phát thú Đại Thừa. Vì sao nói phát thú Thập Địa?
Đáp: Đại Thừa lấy “địa” là căn bản. Quá trình tu tập của Bồ Tát Đại Thừa gồm thập Địa. Bồ Tát tu từ Sơ Địa… dần dần đến Thập Địa, nên gọi là phát thú Thập Địa.
Ví như khởi đầu tập cỡi ngựa, xong, bỏ ngựa tiến lên cỡi voi, rồi mới bỏ voi tiến lên cỡi rồng vậy.
Hỏi: Thập địa gồm những địa nào?
Đáp: Nói về “Địa” cần phân biệt rõ 2 nghĩa, đó là:
- Cộng Địa.
- Bồ Tát Địa.
Cộng Địa bao gồm các Địa từ Càn Huệ Địa đến Phật Địa.
Ở nơi đây chỉ bàn về Bồ Tát Địa, gồm thập Địa sau đây:
Hoan hỷ địa, Ly cấu địa, Phát quang địa, Tăng diệu địa, Nan thắng địa, Hiện tiền địa, Thâm nhập địa, Bất động địa, Thiện tướng địa, và Pháp vân địa.
Tướng của các “địa” được nêu rõ trong bộ Thập Địa Luận.
–o0o–
Bồ Tát vào Sơ địa phải tu tập đầy đủ thập pháp, từ thâm tâm kiên cố trị địa nghiệp, …, dẫn đến thật ngữ trí địa nghiệp.
Ngài Tu Bồ Đề tuy đã biết rõ, nhưng vì muốn đoạn nghi ngờ cho chúng sanh mà Ngài hỏi Phật: Thế nào gọi là trị địa nghiệp?
Phật dạy: Bồ Tát phải đúng theo Tát Bà Nhã tâm mà tu tập các thiện căn, mới được gọi là Bồ Tát thâm tâm kiên cố trị địa nghiệp.
Cũng nên biết, Tát Bà Nhã tâm là Vô Thượng Bồ Đề tâm.
Bồ Tát phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, phát nguyện rằng: Trong đời vị lai sẽ thành Phật để độ thoát hết thảy chúng sanh.
Nếu Bồ Tát lợi căn, có phước đức nhiều, nghiệp chướng ít, phiền não mỏng, thì ngay khi phát tâm đã liền được thâm tâm kiên cố, đã thâm nhập vào Phật đạo.
Bồ Tát ra đời cũng chỉ vì Nhất Thiết Chủng Trí, nên ở trong bất cứ trường hợp nào, Bồ Tát cũng nguyện tu hết thảy các công đức như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, thiền định… Bồ Tát tu hết thảy các công đức như vậy mà chẳng cầu phước báo ở cõi Trời, cõi Người, chẳng cầu được thọ mạng an ổn…
Hỏi: Bồ Tát chưa được vào Nhất Thiết Chủng Trí, chưa nếm được vị Nhất Thiết Chủng Trí thì làm sao có được thâm tâm?
Đáp: Trước đây đã nói rằng người thượng căn, đại trí, do phiền não mỏng, do phước đức sâu dày, nên chẳng có đắm chấp dục lạc thế gian. Hạng người này khi chưa được nghe pháp Đại Thừa mà đã được như vậy rồi, nên khi vừa được nghe pháp Đại Thừa là liền có được thâm tâm.
Ví như Ngài Ma Ha Ca Diếp có vợ xinh đẹp đoan trang mà ngài vẫn cắt ái, xuất gia theo Phật, để cầu đạo giải thoát. Lại ví như người con trai của vị trưởng giả Gia Xá đêm đêm thấy các thế nữ xinh đẹp nằm ngủ như những xác chết, đã cương quyết từ bỏ dục lạc, đem 10 vạn lạng vàng để đến bờ sông, rồi vượt qua sông tìm đến chỗ Phật xin được xuất gia.
Như vậy, ở trong thế gian cũng có vô số người, từ các bậc vua chúa đến hàng thường dân, nhàm chán dục lạc, ra đi tìm đạo.
Chư vị Bồ Tát đã đầy đủ công đức nhân duyên, nên vừa nghe thuyết pháp Đại Thừa liền được thâm nhập vào đạo vậy.
Trong phẩm “Tát Đà Bà Luân” có nêu trường hợp một người con gái của một vị trưởng giả, chỉ thoạt nghe người tán thán công đức của Phật, đã liền xin cha mẹ đến chỗ Bồ Tát Đàm Vô Yết để được nghe thuyết về Bát Nhã Ba La Mật. Do nàng đã có được thiện căn thuần thục, nên vừa nghe thuyết giảng là liền được thâm tâm. Vì sao? Vì khi ngũ căn đã được thuần thục thì phân biệt rõ được thiện ác, lúc bất giờ thập thiện đạo, …, dẫn đến pháp Thanh Văn cũng còn muốn nghe huống nữa là nghe pháp Vô Thượng.
Lại nữa, Bồ Tát sợ phát tâm Vô Thượng Bồ Đề đã là tối thượng trong thế gian rồi, huống nữa là khi Bồ Tát đã thành tựu được viên mãn Vô Thượng Bồ Đề tâm.
Bồ Tát khi hưởng được khí vị của Bát Nhã Ba La Mật rồi liền sanh thâm tâm, nên rất vui mừng. Ví như người bị giam cầm lâu ngày trong ngục tối, vừa thấy ánh sáng là liền sanh tâm hoan hỷ, Bồ Tát khi thấy ánh sáng là quang minh của Phật, liền sanh thâm tâm nên rất vui mừng. Vì sao? Vì Bồ Tát do duyên nghiệp đời trước, bị giam hãm trong thập nhị nhập vô minh, hắc ám, khiến chỗ thấy biết đều bị sai lệch. Nay được nghe Bát Nhã Ba La Mật, được hưởng khí Bát Nhã Ba La Mật, nên liền thâm tâm niệm Nhất Thiết Chủng Trí, với hy vọng ra khỏi tam cõi, lục loài, lại tự nguyện đem phương tiện quang minh độ thoát hết thảy chúng sanh cùng ra khỏi tam cõi lục loài như mình vậy.
Lại nữa, khi phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, Bồ Tát đã nguyện đem đại bi tâm, thương hết thảy chúng sanh như thương Phật.
Thâm nhập đại bi làm lợi ích cho chúng sanh, là tướng “thâm tâm” vậy. Khi vào Sơ Địa, Bồ Tát đã thường hành đại bi nên thường sanh tâm bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh, xem oán thân là một, xem bạn thù chẳng phải hai. Tình thương của Bồ Tát đối với chúng sanh bao la như biển lớn, nên chẳng mảy may phân biệt.
Phật lại nói rằng Bồ Tát thường hành tứ vô lượng tâm.
Nghĩa của tứ vô lượng tâm như sau:
1)- Thấy chúng sanh mà đem long thương xót, nên sanh từ tâm.
2)- Thấy chúng sanh khổ mà phát nguyện cứu khổ cho chúng sanh, nên sanh bi tâm.
3)- Thấy chúng sanh mà phát nguyện muốn cho hết thảy chúng sanh đều thành Phật, nên sanh hỷ tâm.
4)- Thấy hết thảy chúng sanh chẳng khổ, chẳng lạc, nên sanh xả tâm.
–oOo–
Ngoài ra cũng nên biết, xả có hai nghĩa, đó là:
- Xả tài và hành bố thí.
- Xả kiết sử.
“Xả” theo nghĩa thứ nhất là xả xan tham, còn theo nghĩa thứ hai thì đó là xả kiết sử. Bồ Tát phải tu đến Thất Địa mới hoàn toàn xả sạch kiết sử.
Hỏi : “Xả có rất nhiều nghĩa khác nhau. Trong kinh có nói đến xả pháp thế gian và xả pháp xuất thế gian. Như vậy vì sao Phật nói “vô phân biệt” và “chánh ức tưởng” nhiếp về trí xuất thế gian ?
Đáp : “Xả” có rất nhiều tướng. Nay chỉ nói theo nghĩa của pháp Đại Thừa. Là xả mà chẳng thủ chấp tướng. Đây là nhằm dạy Bồ Tát bố trí đúng như pháp, nghĩa là bố thí mà chẳng chấp tướng, chẳng chấp có tướng người thí, tướng vật đem ra bố thí, và tướng người thọ thí.
–oOo–
Người cầu pháp cần phải biết rõ ba điều sau đây :
1)- Niết Bàn là pháp vô thượng trong hết thảy các pháp.
2)- Tu bát Thánh đạo là phương tiện dẫn đến Niết Bàn.
3)- Hết thảy các thiện ngữ và thuật ngữ trợ giúp rất nhiều cho việc tu tập bát Thánh đạo.
Người cầu pháp cũng nên biết có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn tu, trình bày rác rải trong mười hai bộ kinh, thuộc bốn tạng :
- A Hàm.
- A Tỳ Đàm.
- Tỳ Ni.
- Tạp Tạng.
Người cầu pháp cũng nên biết rằng, kinh Bát Nhã Ba La Mật và các kinh Ma Ha Diễn nhiếp về pháp Đại Thừa.
Lại nữa, người cầu pháp phải học chép, diễn dịch, chánh ức niệm về các kinh điển, nhằm có được các lực phương tiện trị các tâm bệnh của chúng sanh. Vậy nên người cầu pháp phải thường tu tập “lạc pháp”, chẳng nên tiếc thân mạng của mình.
Trong kinh có chép các mẫu chuyện sau đây:
Phật Thích Ca Mưu Ni khi còn là Bồ Tát, dù sanh ra vào thời kỳ không có Phật, dù chẳng nghe được các thiện ngữ trong bốn phương, mà vẫn tầm cầu “lạc pháp”, tinh tấn chẳng hề giải đãi. Thấy vậy, Thiên Ma hiện thân làm Bà La Môn đến nói với Bồ Tát rằng: “Ta có một bài kệ của Phật, nếu ông thuận lột da làm giấy, chẻ xương làm bút, lấy máu làm mực, thì ta sẽ vì ông nói lạc pháp cho ông nghe”. Bồ Tát tự nghĩ “Ta trải qua nhiều đời, nhiều kiếp, chẳng nghe được lạc pháp, nay ta tự nguyện làm y theo lời dặn của vị Bà La Môn này, để được nghe và được ghi chép bài kệ”. Lúc bấy giờ Thiên Ma tự thân biến thành Phật, thuyết bài kệ cho Bồ Tát nghe. Vừa nghe xong bài kệ, Bồ Tát liền được Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Lại nữa, trong một kiếp trước, Phật Thích Ca Mưu Ni còn là Bồ Tát, đã tự nguyện đóng năm trăm cái đinh vào thân để cầu pháp.
Lại nữa, ví như vua Kim Cương tự cắt năm trăm chỗ trong thân mình, đốt lên làm đèn cầu pháp.
Như vậy, dù các khổ hạnh rất khó làm, nhưng Bồ Tát vì chúng sanh, vẫn nhất tâm tinh tấn cầu pháp, vẫn nhẫn thọ mọi sự đau khổ.
–oOo–
Bồ Tát nghe lời Phật dạy “cầu pháp là cầu nhất thiết chủng trí, chớ nên hướng tâm về Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa”, nên tự nghĩ rằng : Tại gia có rất nhiều tội lỗi gây trở ngại cho sự tu hành, khó có được tâm thanh tịnh. Dù ta chẳng xuất gia, thì khi chết đi, ta vẫn phải từ bỏ thân này, các bậc vua chúa, dẫn đến các vị Trời, hưởng bao nhiêu phước lạc, mà vẫn chẳng sao trốn tránh được cảnh chết, ta phải quyết tâm xuất gia cầu Phật đạo, mới mong được giải thoát.
Trên đây, Phật mật ý dạy rằng “xuất gia cầu Phật đạo phải là xuất gia với tâm thanh tịnh, chẳng có tạp nhiễm, khác hẳn với chín sáu lối xuất gia của các hang ngoại đạo.
–oOo–
Người xuất gia hành đạo phải giữ chánh kiến.
Trong Phật pháp có phân biệt hai thứ chánh kiến. Đó là :
- Chánh kiến thế gian.
- Chánh kiến xuất thế gian.
Muốn được chánh kiến xuất thế gian, phải ái ngưỡng Phật thân, và khi nghe tán than công đức của Phật, phải tự niệm rằng : Vào đời vị lai ta cũng sẽ thành Phật, nay ta nguyện đời ái ngưỡng Phật thân, gặp Phật cầu pháp, để rồi vì chúng sanh thuyết giảng Phật pháp cho họ nghe, khuyến họ khi tại gia hành tài thí, khi xuất gia hành pháp thí.
–oOo–
Người trì chánh pháp mà chẳng cầu danh lợi, thì mới có thể vì chúng sanh nói pháp cho họ nghe được, mới có thể hành trì, thuyết giảng và tán than lục pháp Ba La Mật được.
Vì sao ? Vì nếu chỉ do nhàm chán thế gian mà ly gia đình, ly các phiền não, thì đó chỉ mới là “sơ thiện”, nếu thọ trì giảng nói các pháp Nhị Thừa, thì là “trung thiện”, phải nói lên được diệu nghĩa của Phật pháp mới gọi là “hảo thuyết”. Cho nên trong kinh nói, nếu hành bát Thánh đạo thanh tịnh là hành đầy đủ Thánh giáo.
–oOo–
Trong mười hai bộ kinh đều có nói về sự phá kiêu mạn. Vì sao ? Vì khi xuất gia, trì giới, Bồ Tát phải đoạn sạch kiêu mạn. Nếu Bồ Tát còn sanh tâm kiêu mạn thì phải tự niệm rằng : Ta đã cạo đầu, nhuộm y, cầm bình bát đi khất thực là nhằm phá kiêu mạn nơi ta, nếu ta còn khởi tâm kiêu mạn thì các công đức của ta bị che lấp, khiến chúng sanh chẳng còn tin kính nơi ta nữa, do vậy mà ta phải thọ sanh vào chốn tệ ác, vào loài súc sanh, hoặc thọ sanh làm người vào nhà hạ tiện.
Kiêu mạn có nhiều tội lỗi như vậy nên dù đời nay có được phước báo sanh vào nhà giàu sang, phú quý, vẫn phải phá tâm kiêu mạn.
–oOo–
Trái lại, thuật ngữ là gốc thiện, dẫn sanh lên cõi Trời, nên người hành thật ngữ được nhiều người tín thọ, được vô lượng phước đức.
Hỏi: Thiện khẩu nghiệp có bốn. Vì sao ở đây chỉ nói đến thật ngữ mà thôi?
Đáp: Phật pháp quý thật ngữ, vì thật ngữ nhiếp được cả bốn đế. Bồ Tát, vào sơ địa, tu xả bốn khẩu nghiệp, nhưng phải lên đến nhị địa mới được xả hoàn toàn. Ở sơ địa, Bồ Tát dung thật ngữ để diễn nói các pháp, mà vẫn biết các ngôn ngữ đều là bất khả đắc.
Hỏi: Vì sao chỉ nói đến mười pháp tu ở sơ địa mà thôi?
Đáp : Vì Phật dạy rằng Bồ Tát tu đầy đủ mười pháp đó, là vào được sơ địa. Ví như ông thầy thuốc, sau khi chẩn mạch bệnh nhân xong, đã có thể biết rõ bệnh nhân cần dung những loại thuốc nào, với liều lượng bao nhiêu là đủ để chữa trừ dứt bệnh vậy.
Như vậy, chẳng nên bận tâm đến số lượng pháp tu nhiều hay ít.
KINH
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát, an trú nhị địa thường niệm tám pháp, từ trì giới thanh tịnh….dẫn đến siêng nằng tu tập lục pháp ba la mật ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:
Nếu Bồ Tát chẳng niệm Thanh Vân tâm và Bích Chi Phật tâm, chẳng niệm sự phá giới làm chướng ngại Phật đạo, thì gọi là Bồ Tát thường niệm giới thanh tịnh.
Nếu Bồ Tát, khi hành Bồ Tát đạo, chẳng quên đền đáp ơn, dù là ơn nhỏ, thì gọi là Bồ Tát thường niệm biết ơn và báo ơn.
Nếu Bồ Tát chẳng sân, chẳng não đối với hết thảy chúng sanh, thì gọi là Bồ Tát thường niệm nhẫn nhục.
Nếu Bồ Tát lấy sự thành tựu chúng sanh làm niềm vui, thì gọi là Bồ Tát thọ hoan hỷ.
Nếu Bồ Tát thường niệm cứu độ hết thảy chúng sanh, thì gọi là Bồ Tát chẳng xả chúng sanh.
Nếu Bồ Tát nhẫn thọ khổ nhục của hết thảy chúng sanh, từ chúng sanh thọ khổ trong chốn địa ngục, đến chúng sanh thọ vui ở Niết Bàn Thanh Văn, rồi lại nghĩ rằng “Ta phải phát đại bị tâm cứu tất cả chúng sanh, và vì họ mà nhẫn khổ”, thì gọi là Bồ Tát vào đại bi tâm.
Nếu Bồ Tát tin kính cầu pháp nơi các bậc sư trưởng, xem thầy như Phật, thì gọi là Bồ Tát tin kính sư trưởng.
Nếu Bồ Tát nhất tâm cầu lục pháp Ba La Mật, thì gọi là Bồ Tát cần cầu lục pháp Ba La Mật.
Như vậy gọi là Bồ Tát, trú nhị địa, thường niệm tám pháp.Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú tam địa, đầy đủ ngũ pháp, từ học vấn nhiều chẳng nhàm chán…dẫn đến trú trong tàm quý ?
Phật dạy : Này Tu Bồ Đề, nên biết:
Nếu Bồ Tát đi khắp mười phương, cầu được nghe và thọ trì chánh pháp của chư Phật, tinh tấn chẳng hề mệt mỏi, thì gọi là Bồ Tát học vấn nhiều mà chẳng hề sanh nhàm chán.
Nếu Bồ Tát hành pháp thí, mà chẳng mong cầu danh lợi, cũng chẳng mong cầu Vô Lượng Bồ
Đề, thì gọi là Bồ Tát thanh tịnh pháp thí, mà chẳng sanh cao tâm.
Nếu Bồ Tát đem tất cả thiện căn công đức hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, thì gọi là Bồ Tát trang nghiêm Phật độ.
Nếu Bồ Tát muốn được các thiện căn đầy đủ, để thành tựu chúng sanh, trang nghiêm Phật độ, dẫn để được nhất thiết chủng trí, mà cần khổ chẳng hề mệt mỏi, thì gọi là Bồ Tát nhẫn thọ vô lượng thế gian, chẳng nhàm chán.
Nếu Bồ Tát, mỗi khi móng tâm chứng quả Thanh Văn, là liền sanh tàm quý, thì gọi là Bồ Tát trú trong tàm quý.
Như vậy, gọi là Bồ Tát, trú tam địa, đầy đủ ngũ pháp.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú tứ địa, chẳng bỏ mười pháp, từ bỏ A Lan Nhã xứ… dẫn đến ôm giữ các vật?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:
Nếu Bồ Tát chẳng trú Thanh Văn địa, thì gọi là Bồ Tát chẳng bỏ A Lan Nhã xứ.
Nếu Bồ Tát chỉ nhất tâm niệm nhất thiết chủng trí, thì gọi là Bồ Tát tri túc.
Nếu Bồ Tát chẳng có ý niệm mong muốn các dục, dẫn đến chẳng có ý niệm mong muốn Vô Thượng Bồ Đề, thì gọi là Bồ Tát thiểu dục.
Nếu Bồ Tát quán thâm pháp nhẫn, thì gọi là Bồ Tát chẳng xả công đức đầu đà.
Nếu Bồ Tát chẳng chấp các giới tướng thì gọi là Bồ Tát chẳng xả giới.
Nếu Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều chẳng có tạo tác, thì gọi là Bồ Tát nhàm thế gian, thuận Niết Bàn.
Nếu Bồ Tát chẳng sanh dục tâm, thì gọi là Bồ Tát ghét bỏ các dục nhiễm.
Nếu Bồ Tát xả bỏ tất cả các nội pháp và ngoại pháp thì gọi là Bồ Tát xả bỏ tất cả vật sở hữu.
Nếu Bồ Tát chẳng khởi các thức, thì gọi là Bồ Tát giữ tâm chẳng chìm đắm.
Nếu Bồ Tát chẳng chấp, cũng chẳng nhớ nghĩ hết thảy các vật thì gọi là Bồ Tát chẳng ôm giữ các vật.
Như vậy gọi là Bồ Tát, trú tứ địa, chẳng bỏ mười pháp.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát, an trú ngũ địa, xa lìa mười hai pháp, từ xa lìa người thân bạch y… dẫn đến xa lìa tham sân si?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết:
Nếu Bồ Tát, từ Phật quốc này đến Phật quốc khác, thường xuất gia, thì gọi là Bồ Tát xa lìa người thân bạch y.
Nếu Bồ Tát chẳng ở chung một chỗ với Tỷ Kheo Ni dẫn đến móng tâm nghĩ như vậy, thì gọi là Bồ Tát xa lìa Tỷ Kheo Ni.
Nếu Bồ Tát thường niệm “Ta đã thệ nguyện an lạc hết thảy chúng sanh, ta chẳng nên tham trước các việc thế gian, thì gọi là Bồ Tát xa lìa xan tham.
Nếu Bồ Tát xa lìa các đàm thuyết vô ích dẫn đến các hạnh Thanh Văn và Bích Chi Phật, thì gọi là Bồ Tát xa lìa lời nói vô ích.
Nếu Bồ Tát chẳng để cho các tâm sân hận, não hại, đấu tranh khởi lên, thì gọi là Bồ Tát xa lìa sự nóng giận.
Nếu Bồ Tát chẳng thấy có nội pháp, khiến chẳng sanh cao tâm, thì gọi là Bồ Tát xa lìa sự tự cao.
Nếu Bồ Tát chẳng thấy có ngoại pháp, khiến chẳng thấy ai đáng khinh miệt cả, thì gọi là Bồ Tát xa lìa sự khinh miệt người.
Nếu Bồ Tát xa lìa mười bất thiện đạo làm chướng ngại bát thánh đạo, dẫn đến chướng ngại Vô Thượng Bồ Đề, thì gọi là Bồ Tát xa lìa thập bất thiện đạo.
Nếu Bồ Tát chẳng thấy có pháp “đại mạng”, thì gọi là Bồ Tát xa lìa sự đại mạng.
Nếu Bồ Tát chẳng thấy có pháp tự dụng, thì gọi là Bồ Tát xa lìa sự tự dụng ích kỷ.
Nếu Bồ Tát biết rõ điên đảo là bất khả đắc, thì gọi là Bồ Tát xa lìa sự điên đảo.
Nếu Bồ Tát chẳng nghĩ đến các pháp tham, sân, si thì gọi là Bồ Tát xa lìa tham sân si.
Như vậy gọi là Bồ Tát, trú ngũ địa, xa lìa mười hai pháp.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát, an trú lục địa, đầy đủ lục pháp ?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Đó là Bồ Tát hành đầy đủ lục pháp Ba La Mật, khiến có thể vượt qua đến bờ bên kia.
Ngài Tu Bồ Đề hỏi : Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát an trú lục địa, chẳng nên làm lục pháp, từ chẳng móng tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật… dẫn đến chẳng có nghi các pháp thậm tâm?
Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Nên biết :
Nếu Bồ Tát nghĩ rằng tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật chẳng phải là nhân tu Vô Thượng Bồ Đề, thì gọi là Bồ Tát chẳng móng tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật.
Nếu Bồ Tát biết rõ bố thí mà còn sanh ưu phiền chẳng phải là nhân tu Vô Thượng Bồ Đề, thì gọi là Bồ Tát hành bố thí mà chẳng sanh ưu tâm.
Nếu Bồ Tát biết rõ rằng thấy người đến cầu xin mà mình có ý muốn trốn tránh chẳng phải là nhân tu Vô Thượng Bồ Đề thì gọi là Bồ Tát chẳng trốn tránh trước sự cầu xin của người.
Nếu Bồ Tát sẵn sang bố thí tất cả các nội ngoại vật sở hữu của mình, chẳng thấy có vật gì mà chẳng có thể dung để bố thí cả, thì gọi là Bồ Tát chẳng luyến tiếc vật sở hữu dùng để bố thí.
Nếu Bồ Tát có đủ lực từ bi, khiến sau khi hành bố thí mà tâm chẳng mảy may hối tiếc, thì gọi là Bồ Tát chẳng sanh hối tâm sau khi hành bố thí.
Nếu Bồ Tát có đủ các lực công đức, thì gọi là Bồ Tát chẳng nghi các pháp thậm thâm.
Như vậy gọi là Bồ Tát trú lục địa phải đầy đủ lục pháp và chẳng làm nên lục pháp.
LUẬN:
Hỏi: Bồ Tát vào sơ địa đã thường hành bố thí nhằm thanh tịnh giới. Nay vì sao lại nói trì giới thắng hơn bố thí ?
Đáp: Vì trì giới nhiếp hết thảy chúng sanh; còn bố thí chẳng phổ cập cùng khắp.
Trì giới có vô lượng công đức. Ví như không sát sanh đã là gián tiếp bố thí vô uý, bố thí sanh mạng cho chúng sanh rồi vậy.
Những người phá Phật đạo đều gọi là hành giới cấu. Người tu hành phải ly các giới cấu, mới được giới thanh tịnh.
Đối với Bồ Tát thì hướng về tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật đã gọi là hành giới cấu rồi, huống nữa là gần gũi các ác tri thức.
Lại nữa, đã mang ơn người khác mà cố tình quên ơn cũng gọi là hành giới cấu. Bồ Tát biết ơn hết thảy chúng sanh, vì nghĩ rằng : Tất cả chúng sanh đều đóng góp công lao để tạo nên sự an lạc của mình. Vì sao ? Vì nếu chẳng có các nhân duyên hoà hợp, thì Bồ Tát chẳng có thể được sự an lạc. Ví như hạt lúa phải nhờ các nhân duyên hoà hợp của đất, phân, nước, công sức của người nông phu… mới có thể nảy mầm để trở thành cây mạ, thành cây lúa được vậy.
Bồ Tát biết rõ rằng sự biết ơn là gốc đại bi, khai sanh ra các thiện nghiệp.
Người có nhân cách, lúc nào cũng biết ơn và kính trọng mọi người, nên được nhiều người kính mến khiến danh dự được vang xa và khi chết sẽ sanh trở lại cõi Trời Người; về sau sẽ được viên thành Phật đạo. Trái lại, người chẳng biết ơn còn thua kém xa loài cầm thú.
–oOo–
Trong kinh Bổn Sanh có chép mẫu chuyện sau đây:
Có một người tiều phu vào rừng đốn củi, chẳng may bị lạc đường, gặp lúc trời mưa to. Ông vừa đói khát, vừa lạnh lẽo, lại bị các ác trùng độc thú hăm he sát hại. Trong tình huống đó, ông bèn bước vào một hang đá để ẩn núp.
Ngay khi vừa mới bước vào, ông liền thấy một con gấu thật to đang nằm trong đó. Sợ quá, ông quay mình tháo chạy.
Thế nhưng gấu cất tiếng bảo, ông đừng có sợ. Nhà tôi ấm áp, ông cứ vào bên trong nằm ngủ cho đỡ mệt.
Thế rồi, suốt bảy ngày mưa lớn, gấu thường đem quả ngon nước mát đến cho người tiều phu dùng.
Sau bảy ngày, mưa dứt hẳn, trời trở lại quang đãng, gấu bèn dẫn người tiều phu đến ven rừng, và căn dặn rằng : Tôi là người phạm tội, nên phải làm thân gấu. Nếu có ai hỏi, xin ông đừng nói đã có gặp tôi. Người tiều phu vâng lời cảm ơn gấu, rồi từ giã ra đi.
Dọc đường ông gặp mấy người thợ săn gạn hỏi : Ông có thấy có con thú nào trong rừng chăng ?
Người tiều phu vẫn làm thinh, tự nghĩ rằng : Gấu kia là vị ân nhân của ta, nhờ gấu mà ta được tránh mưa, được ăn uống no đủ, được sống bình an cho đến ngày hôm nay.
Nghĩ như vậy, nên ông quyết định không chỉ gấu cho các thợ săn.
Một thời gian sau, các thợ săn bắn được gấu, mổ thịt rồi đem cho người tiều phu một phần. Người tiều phu dứt khoát từ chối. Mấy người thợ săn lấy làm lạ và hỏi rằng : Vì sao ngươi lại từ chối chẳng muốn nhận phần thịt gấu ?
Người tiều phu trả lời : Gấu thương tôi như cha thương con nên tôi chẳng có thể ăn thịt vị ân nhân của tôi được.
Rồi ông bèn kể chuyện gặp gấu trong hang đá, được gấu thương yêu, nuôi dưỡng suốt bảy ngày; nhờ gấu mà ông thoát khỏi tai nạn, sống an lành cho đến ngày hôm nay.
Nghe xong câu chuyện, ai nấy đều run sợ, chẳng ai dám ăn thịt gấu nữa. Họ bèn đem thịt gấu cúng dường chư Tăng.
Lúc bấy giờ, các vị Thượng Toạ đều là A La Hán, có đủ thần thông, nói với Tăng Chúng rằng : Đây là thịt của một vị Nhục Thân Bồ Tát, đời sau sẽ thành Phật, chớ nên ăn.
Sau đó, chư Tăng xây tháp cúng dường Bồ Tát.
Nhà vua nghe chuyện liền ban sắc chỉ tán than công đức của gấu và của người tiều phu, khuyên thần dân trong nước nên theo gương ban ơn và biết ơn cao thượng này. Toàn dân hết lòng tin kính.
–oOo–
Bồ Tát còn nghĩ rằng “Những người làm ác đối với ta, mà ta còn độ họ, huống nữa là những người đã ban ơn cho ta”.
Hỏi: Các duyên khởi ra tướng nhẫn nhục như thế nào ?
Đáp: Do trước chẳng nén được sân, mà sau đó sân mới dấy khởi, thể hiện bằng các ác hạnh ở thân, ở khẩu làm não loạn người khác. Nếu nhẫn được các việc như vậy, thì gọi là “sơ nhẫn”. Đây mới là giai đoạn “chúng sanh nhẫn”.
Bồ Tát hành đầy đủ “chúng sanh nhẫn” và “pháp nhẫn”. Do hành pháp nhẫn, mà Bồ Tát sanh tâm hoan hỷ. Vì sao ? Vì do trì giới, hành nhẫn nhục, mà được thân tâm thanh tịnh. Do được thân tâm thanh tịnh, mà liền sanh hoan hỷ.
Ví như người tắm nước hoa thơm, mặc áo sang trọng, đeo chỗi anh lạc trang nghiêm, thấy hình ảnh của mình trong gương, liền sanh hoan hỷ. Bồ Tát cũng như vậy, do đã được giới định huệ trang nghiêm, do biết mình có được vô lượng công đức, nên sanh tâm hoan hỷ.
Bồ Tát, an trú trong giới nhẫn, giáo hoá chúng sanh, khiến họ được an lạc, được Thanh Văn thừa, hoặc được Phật thừa.
Bồ Tát vui mừng, khi thấy chúng sanh vui mừng; cũng như ông trưởng giả vui mừng, khi thấy con mình ra khỏi “nhà lửa” vậy.
Nếu Bồ Tát đã phát đại bi tâm, đã thệ nguyện độ chúng sanh, và kiên quyết giữ vững tâm ấy, thì phải biết vị Bồ Tát ấy được chư Phật, chư Bồ Tát và chư Thánh Hiền gia bị. Trái lại nếu Bồ Tát đã phát nguyện mà chẳng muốn độ chúng sanh, thì sẽ mang tội nói dối với chúng sanh. Do vậy mà nói rằng Bồ Tát nào chẳng xả chúng sanh là đã vào đại bi tâm rồi vậy.
Như trước đây đã nói, Phật cũng như chư vị đại Bồ Tát phát nguyện trải qua vô lượng kiếp ở trong địa ngục, thay cho chúng sanh thọ khổ, lại dạy cho họ tu các công đức, dẫn dắt họ vào Phật đạo, vào Vô Dư Niết Bàn.
Hỏi: Bồ Tát làm sao có thể thay đổi chúng sanh thọ khổ được ?
Đáp: Bồ Tát phát đại tâm cứu độ chúng sanh, thâm ái chúng sanh, bênh vực chúng sanh gọi là thay chúng sanh thọ khổ.
Bồ Tát phát đại tâm thệ nguyện rằng: Ta phải sanh tâm cung kính, tôn trọng chúng sanh, vì tất cả chúng sanh đều đóng góp nên công lao để tạo nên sự an lạc của ta. Ta phải hết long cung kính cúng dường sư trưởng, vì nhờ đức trí cao minh của thầy, ta mới có thiện duyên học kinh, nghe pháp, mới được các sự lợi ích. Ví như nước từ trên cao chảy xuống thấp, nếu ta sanh cao tâm, kiêu mạn, thì mưa pháp sẽ chẳng thấm nhuần vào ta được.
Phật dạy: Người tu hành phải kính sư như kính Phật, phải y chỉ nơi sư trưởng, thì trì giới, thiền định, giải thoát, giải thoát tri kiến mới mau được tăng trưởng.
Hỏi: Đối với các ác sư, thì làm sao có thể cung kính được ?
Đáp: Bồ Tát chẳng nên thuận theo pháp thế gian.
Người thế gian thấy người thiện thì thường gần gũi, tôn kính, thấy người ác thì thường ghét bỏ, xa lìa. Bồ Tát chẳng làm như vậy được. Vì sao ? Vì tất cả những ai đã khai mở nghi kiết cho ta đều đem lại sự lợi ích cho ta. Bởi vậy nên Bồ Tát cung kính tất cả chúng sanh, chẳng nghĩ đến việc làm ác của họ. Ví như người đi trong đêm tối, lần bước theo ánh sáng đuốc của người đi trước, dù người cầm đuốc đó là người xấu, thì ánh đuốc vẫn dẫn đường cho những người khác đi theo vậy.
Bồ Tát nhờ sư trưởng mà thành tựu được các việc lớn, nên chẳng để tâm chấp các việc nhỏ.
Lại nữa, Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật, phải nên biết rằng các bậc sư trưởng có vô lượng lực phương tiện để mà truyền pháp. Có khi các ngài thị hiện làm các ác hạnh, mà các hang phàm phu chẳng sao có thể biết rõ được nguyên nhân.
Trong kinh có nêu trường hợp Bồ Tát Tát Đà Bà Luân nghe tiếng vọng giữa hư không rằng : Đối với pháp sư, ông chớ nên để tâm tìm kiếm những chỗ xấu của thầy mà sanh tâm lo sợ cho thầy.
Bồ Tát nghĩ rằng : Việc tốt cũng như việc xấu của thầy chẳng phải là việc của ta, ta phải nhất tâm tinh tấn cầu pháp nơi thầy, phải lắng nghe những lời thầy truyền dạy mới có được nhiều lợi ích. Ví như các tượng đất, tượng đá, tượng gỗ… chẳng có thật công đức, thế nhưng do lễ bái, chiêm ngưỡng tượng Phật, mà ta phát được tâm tưởng Phật, tin Phật, nhờ vậy mà được vô lượng công đức. Lại nữa, các pháp sư dùng nhiều lực phương tiện, tuỳ theo căn trí của chúng sanh mà nói pháp, có trường hợp các ngài phải dùng đến các ác hạnh vậy. Bởi vậy cho nên đối với bậc sư trưởng, ta phải một long cung kính, cúng dường, chẳng bao giờ mống tâm khinh mạn mà mang tội.
Bồ Tát quán các pháp rốt ráo là “không”, quán hết thảy chúng sanh đều có Phật tánh.
Đối với các bậc pháp sư, Bồ Tát lại nghĩ rằng : Các ngài dùng trí huệ Bát Nhã làm các Phật sự, chỉ vì lợi ích cho chúng sanh, ta phải kính thầy như kính Phật, ta phải đến với thầy để cầu tu học 6 pháp Ba La Mật.
Bồ Tát lại nghĩ rằng: 6 pháp Ba La Mật là chánh nhân dẫn dắt ta vào đạo, nên ta phải nhất tâm tinh tấn hành 6 pháp Ba La Mật. Ví như người làm ruộng phải biết chọn giống, chọn phân bón, phải biết cày bừa đất đúng theo thời vụ. Rồi sau khi gieo giống lại còn phải siêng năng bón phân, làm cỏ tưới nước… mới mong thành tựu mùa gặt hái tốt được. Lại ví như đời nay bố thí, đời sau được nhiều phước đức, đời nay trì giới, đời sau được tôn quý, đời nay tu thiền định, đời sau được trí huệ, đời nay tu 6 pháp Ba La Mật, đời sau sẽ được thành Phật.
Trong kinh dạy : Bồ Tát trú nhị địa, phải tinh cần, chớ nên giải đãi, lên đến tam địa phải học vấn nhiều, chớ nên nhàm chán.
Vì sao ? Vì càng được học nhiều thì trí huệ càng được mở rộng, ví như mắt càng sáng thì càng thấy rõ đường đi, càng dễ tránh các chướng ngại vật.
Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát phát nguyện rằng, chỗ nào có Phật đang thuyết pháp, là đều đến nghe. Nhờ nghe pháp, nhờ thọ trì các đà la ni mà được thiên nhãn.
Giống như biển lớn dung nạp hết các nguồn nước của các sông lạch từ khắp nơi chảy về, Bồ Tát thọ trì pháp Phật từ khắp 10 phương cũng là như vậy.
Bồ Tát khi hành pháp thí chẳng cầu danh lợi, mà chỉ vì lợi ích cho chúng sanh, chẳng cầu pháp Tiểu Thừa mà chỉ cầu Nhất Thiết Chủng Trí. Bồ Tát dùng đại bi tâm, vì chúng sanh hành pháp thí, lấy trí huệ để trang nghiêm Phật quốc, thọ vô lượng khổ của thế gian, trú nơi tàm quý, chẳng xả bỏ A Lan Nhã xứ, trú nơi tri túc và thiểu dục.
Hỏi: Vì sao nói Bồ Tát có nhiều nhân duyên, vào trong các nẻo đường sanh tử mà chẳng hề nhàm chán ?
Đáp: Phải có đầy đủ thiện căn mới có thể tự tại ra vào trong sanh tử, lại nữa, phải mỏng phiền não thì mới chẳng còn bị các khổ làm loạn não vậy. Ví như người có vết thương nhẹ, mà lại dùng thuốc tốt đắp lên, thì ắt được mau lành vậy.Bồ Tát đã đầy đủ thiện căn thanh tịnh, nên các ưu sầu tật đố cùng các ác hạnh đều đã tiêu sạch. Do có đầy đủ thiện căn, do thọ quả báo phước lạc, nên Bồ Tát có nhiều nhân duyên làm lợi ích chúng sanh, tuỳ theo chỗ nguyện mà trang nghiêm Phật độ, ra vào sanh tử mà chẳng nhàm chán.
Trong các nhân duyên thành tựu thiện tâm, đáng kể nhất là “tàm” và “quý”. Do có tàm quý nên khi phát nguyện rộng độ chúng sanh, Bồ Tát tự nghĩ rằng : Sự mong muốn được ít khổ, được chứng Niết Bàn đều đáng hổ thẹn cả.
Tàm và quý là tướng của tam địa. Vào địa này, Bồ Tát biết rõ hết thảy chúng sanh đều là vô sở đắc, đều là vô tướng, nên chẳng chấp vô tướng, dẫn đến chẳng chấp Vô Thượng Bồ Đề.
Bồ Tát phải thường tu tập các công đức chẳng hề nhàm chán mới vào được Vô Thượng Đạo.
Bồ Tát phải biết tri túc, từ ăn uống, thuốc men, y áo,… đến các đồ dùng khác, chỉ cần có đủ dùng, cho đó là các thiện pháp nhân duyên, chẳng cần phải quan tâm đến.
Trong phẩm “Giác Ma” có nói Vô Sanh Pháp Nhẫn là hạnh Đầu Đà. Bồ Tát trú trong Thuận Nhẫn, được Vô Sanh Pháp Nhẫn là đầy đủ 12 pháp Đầu Đà, là đã trì giới thanh tịnh, và sẽ dẫn đến được thiền định và trí huệ.
Được Vô Sanh Pháp Nhẫn là được chân trí huệ. Đây là quả báo của hạnh Đầu Đà. Cho nên nói nhẫn mà chẳng xả giới, mà cũng chẳng chấp giới tướng mới gọi là Vô Sanh Pháp Nhẫn.
Bồ Tát biết rõ thật tướng pháp là vô sanh, nên chẳng thấy có trì giới, cũng chẳng thấy có phá giới. Do chẳng phá giới, chẳng mất giới nên vào được Vô Tướng giải thoát môn, khiến các uế dục và ác hạnh đều tiêu diệt.
Lại nữa, Phật dạy rằng Bồ Tát do biết tri túc nên tâm chẳng điên đảo, chẳng sanh dục tâm, nhàm chán thế gian vì biết rõ ở trong thế gian chẳng có gì vui. Do vậy mà vào được Vô Tác giải thoát môn.
Lại nữa, Bồ Tát xả hết sở hữu tâm, nên chẳng sanh tâm sợ hãi, chẳng sanh tâm chìm đắm. Bồ Tát biết rõ do nhãn duyên sắc mà sanh ra có nhãn thức,… dẫn đến có ý duyên pháp mà sanh ra ý thức. Bồ Tát trú trong “bất nhị pháp môn” quán 6 thức đều là hư dối, chẳng thật có. Do vậy mà phát thệ nguyện độ hết thảy chúng sanh, cũng đều được trú trong “bất nhị pháp môn”, ly 6 thức, chẳng luyến tiếc hết thảy các vật. Đấy là duyên “đại xả” vậy.
Lại nữa, Bồ Tát biết rõ hết thảy pháp đều là rốt ráo không, nên diệt hết thảy các chấp về pháp tướng, khi hành bố thí, Bồ Tát chẳng cầu ân huệ, cũng chẳng sanh cao tâm.
Được như vậy là đầy đủ Đàn Ba La Mật, vào tứ địa.
Khi vào ngũ địa, Bồ Tát lại phải lìa người thân bạch y, tránh các tạp nhiễm thế tục, giữ gìn đạo tâm để trước độ mình và sau độ người. Vì sao ? Vì nếu chưa tự độ được, thì cũng ví như người bơi chưa được giỏi mà liều lĩnh cứu người đang bị dòng nước cuốn trôi, khiến cả mình lẫn người đều cùng bị chết chìm cả.
Bồ Tát xa lìa người thân bạch y, nhằm tu tập các công đức. Vì sao ? Vì đã cạo đều đắp y, xuất gia trì giới thì chẳng nên gần gũi các Tỷ Kheo Ni.
Hỏi: Bồ Tát quán hết thảy chúng sanh đều bình đẳng. Như vậy vì sao nói chẳng nên cùng với người bạch y cộng trú ?
Đáp: Vì Bồ Tát ở các địa này chưa được bất thối chuyển, chưa được lâu tận, nên chẳng được cộng trú với hang bạch y.
Lại nữa, phải tránh cho người đời tội phỉ bang Tăng Ni. Vì sao ? Vì phỉ báng Tăng Ni sẽ phải đoạ vào địa ngục.
Bồ Tát nghĩ rằng : Ta đã xa lìa gia đình, xa lìa người thân, rời bỏ nhà cửa ra đi tìm đạo giải thoát, lẽ nào ta lại còn tham đắm nhà người, ta lại còn gần gũi họ nữa.
Tuy nhiên, vì muốn hết thảy chúng sanh được vui, nên Bồ Tát thọ nhận sự cúng dường của họ.
Hỏi: Vì sao nói Bồ Tát muốn thọ sự cúng dường của chúng sanh, mà lại phải xa lìa các lời nói vô ích ?
Đáp: Nói để làm vừa lòng người, như nói giải sầu, bàn việc thời sự, bàn về giặc giã, bàn về phép quan lệ làng, bàn về thời tiết, …, đều là những lời nói chẳng đem lại sự lợi ích gì cho sự tu tâm cả.
Bồ Tát vì thương xót chúng sanh đang chìm đắm trong “nhà lửa”, tự nghĩ rằng : Ta phải gấp rút cứu thoát chúng sanh ra khỏi nhà lửa của ba cõi. Lửa đã thiêu rụi cả bốn bên, sao ta còn an nhiên nói những chuyện vô ích. Nói chuyện về pháp Nhị thừa còn chẳng nên, huống nữa là bàn về những chuyện vô ích khác.
–oOo–
Bồ Tát xa lìa sân nhuế và ác khẩu, vì biết rõ phỉ bang, kiện tụng, đánh đập… đều là những hình thức đấu tranh cả.
Bồ Tát hành đại bi, nên đối với hết thảy chúng sanh chẳng sanh ác tâm, chẳng sanh tâm khinh miệt cũng chẳng sanh tâm tự cao, tự đại. Bồ Tát biết rõ nội ngoại pháp đều bất khả đắc, nên xa lìa mười bất thiện đạo. Vì các bất thiện pháp phá sự giải thoát thanh tịnh của hang Trời Người. Người tu Tiểu Thừa còn xa lìa mười bất thiện đạo huống nữa là người tu theo pháp Đại Thừa.
Bồ Tát xa lìa “đại mạn”, tu “pháp không” nên chẳng thấy có tướng Đại Thừa hay Tiểu Thừa, xa lìa sự tự dụng ích kỷ, xa lìa bảy thứ kiêu mạn căn bản, xa lìa điên đảo, xa lìa ba độc tham, sân, si. Vì sao ? Vì Bồ Tát thâm lạc thiện pháp, biết rõ các tướng “thường, lạc, ngã, tịnh” đều là bất khả đắc, biết rõ chỗ duyên của ba độc đều chẳng có định tướng.
Đầy đủ như vậy là vào ngũ địa.
–oOo–
Phật dạy : Cả ba thừa đều phải tu tập lục pháp Ba La Mật, mới đến được bờ bên kia.
Bồ Tát trú lục địa phải tu tập đầy đủ lục pháp Ba La Mật.
Hỏi: Lục pháp Ba La Mật là pháp tu của Bồ Tát. Như vậy vì sao nói hang Nhị Thừa cũng phải tu tập lục pháp Ba La Mật để đến bờ bên kia ?
Đáp: Phật dạy rằng tu đầy đủ lục pháp Ba La Mật là được đầy đủ công năng Đại Thừa, mà Đại Thừa bao gồm luôn cả Tiểu Thừa.
Tuy hang Tiểu Thừa chẳng được như Đại Thừa, nhưng Tiểu Thừa cũng quán “pháp không”.
Do quán “pháp không” mà chưa tu được mười lực và bốn vô sở uý, nên chưa có đầy đủ các lực phương tiện, khiến phải hướng về Thanh Văn địa và Bích Chi Phật địa.
Bởi vậy nên Phật thường hộ niệm chư Bồ Tát, khuyên chẳng nên sanh tâm Nhị Thừa.
–oOo–
Bồ Tát thệ nguyện rộng độ chúng sanh, biết hết thảy pháp đều rốt ráo không, nên khi hành bố thí chẳng sanh tâm hối tiếc, khi chúng sanh cầu các việc chướng cũng chẳng sanh sân, khi bố thí chẳng tiếc các nội ngoại vật sở hữu của mình.
Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát được phước đức sâu dày, được tín tâm kiên cố, được đầy đủ lục pháp Ba La Mật, thâm kính chư Phật. Dù chưa được Vô Sanh Pháp Nhẫn, dù chưa có được đầy đủ các lực phương tiện mà Bồ Tát vẫn chẳng khởi nghi tâm đối với các pháp thâm diệu.
Phật dạy: Phải dùng trí huệ diệt các hý luận, phải chẳng còn có lỗi lầm mới có thể dùng các lực phương tiện mà tu các thiện pháp.
Như vậy nên chẳng khởi nghi tâm là tướng của lục địa vậy.
(Hết quyển 49)