LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 45

Phẩm thứ mười ba
Kim Cang

KINH:

Lúc bấy giờ ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát được gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ, nên được gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Thế nào là Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát, từ khi sơ phát tâm quyết ở trong chúng tu tứ quả Thanh Văn, tu quả Bích Chi Phật, dẫn đến vào được bất thối chuyển địa thì gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi: Bạch Thế Tôn ! Do nhân duyên gì mà Bồ Tát có thể phát được đại quyết tâm như vậy ?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát Ma Ha Tát từ khi sơ phát tâm dẫn đến khi vào bất thối chuyển địa, chẳng sanh tâm sân si, chẳng sanh tâm phiền não, chẳng trú tâm Thanh Văn, chẳng trú tâm Bích Chi Phật, nên phát được đại quyết tâm ở trong chúng làm bậc thượng thủ.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát phát đại tâm kiên cố bất hoại như kim cang, quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ.

Thế nào là đại tâm bất hoại như kim cang ?

Này Tu Bồ Đề ! Trải qua vô lượng đời, Bồ Tát phát đại thệ nguyện xả bỏ hết thảy các vật sở hữu của mình, bình đẳng đối với hết thảy chúng sanh, dạy chúng sanh tu tam thừa pháp, dẫn dắt họ vào Vô Dư Niết Bàn, dùng tâm Bát Bà Nhã để thật hành sáu pháp Ba La Mật, dùng trí huệ để biết rõ thật tướng của hết thảy các pháp v.v…

Như vậy, là Bồ Tát phát đại tâm bất hoại như kim cang. An trú trong đại tâm ấy, Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng chủ. Vì dụng pháp vô sở đắc vậy.

Lại nữa, Bồ Tát thường giữ tâm bất động.

Thế nào là tâm bất động ?

Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát thường niệm nhất thiết chủng trí, mà chẳng hề dấy niệm mình có tâm bất động như vậy.

Như vậy là Bồ Tát thường giữ tâm bất động. An trú trong tâm ấy, Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ. Vì dụng pháp vô sở đắc vậy.

Lại nữa, Bồ Tát thường sanh tâm làm việc lợi ích an lạc cho chúng sanh.

Thế nào là tâm làm lợi ích an lạc cho chúng sanh ?

Này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát sẵn sàng cứu độ hết thảy chúng sanh, chẳng rời bỏ chúng sanh, thường làm các việc lợi ích nhằm an lạc chúng sanh, mà chẳng dấy niệm mình có tâm lợi ích an lạc chúng sanh như vậy.

Như vậy là Bồ Tát thường sanh tâm làm việc lợi ích an lạc cho chúng sanh. An trú trong tâm ấy, Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ. Vì dụng tâm vô sở đắc vậy.

Lại nữa, Bồ Tát thường phát tâm dục pháp, hủ pháp và lạc pháp. Thế nào là tâm dục pháp, hỷ pháp và lạc pháp ?

Này Tu Bồ Đề ! Pháp nói đây chính là thật tướng pháp, nơi thật tướng pháp thường tin, thường nhẫn thọ, thì gọi là dục pháp và hỷ pháp. Khi tu hành thật tướng pháp mà thường vui, thì gọi là lạc pháp.

Như vậy, là Bồ Tát thường phát tâm dục pháp, hỷ pháp và lạc pháp. An trú trong tâm ấy, Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ. Vì dụng pháp vô sở đắc vậy.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát an trú trong nội không… dẫn đến trong vô pháp hữu pháp không, an trú trong tứ niệm xứ… dẫn đến trong thập bát bất cộng pháp, quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ. Vì dụng pháp vô sở đắc vậy.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát an trú trong Kim Cang tam muội… dẫn đến trong Ly Chấp Hư Không Bất Nhiễm tam muội, cũng quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ. Vì dụng pháp vô sở đắc vậy.

Như vậy, này Tu Bồ Đề ! Bồ Tát Ma Ha Tát dùng Vô Sở Đắc an trú trong hết thảy các pháp, mà quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ.

Bởi nhân duyên vậy, nên gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát.

LUẬN:

Hỏi: Nghĩa Ma Ha Tát là như thế nào ?

Đáp: Ma Ha là đại, là lớn.

Tát Đỏa là chúng sanh.

Bồ Tát Ma Ha Tát là bậc đại Bồ Tát, tối tôn, tối trọng trong chúng sanh, phát tâm rộng lớn nguyện :

– Trên, cầu đạo vô thượng.

– Dưới, hóa độ hết thảy chúng sanh.

–oOo–

Nên biết, chúng sanh có ba hướng đi. Đó là :

– Hạng chúng sanh có chánh định, quyết định vào Niết Bàn.

– Hạng chúng sanh có tà định, quyết định đọa vào ba đường ác.

– Hạng chúng sanh bất định.

Ngoại trừ Phật ra, thì trong các loài chúng sanh, chư vị Bồ Tát Ma Ha Tát là những bậc chánh định tối đại, xếp vào bậc nhất trong Thánh chúng. Thánh chúng nơi đây, bao gồm cả chư Hiền Thánh và chư Đại Bồ Tát thập địa.

Vì Bồ Tát tu thập địa nhiếp trong Thánh tánh, nên Thập địa cũng được gọi là Thánh địa.

Ví như đứa trẻ sanh trong gia định quyền quý, tuy nay còn nhỏ, nhưng quyết định về sau sẽ thành tựu được đại sự nghiệp.

Lại, ví như tu theo Thanh Văn Thừa, vào thời kỳ Kiến Đạo, hành giả lần lượt tu bốn pháp là Noãn, Đảnh, Nhẫn và Thế Đệ Nhất. Do tỉnh ngộ, mà thấy được đạo, vào được Kiến Đạo. Do Kiến Đạo, mà vào được Tu Đạo. Do Tu Đạo, mà được Vô Học Đạo, chứng các quả vị A La Hán, hay quả vị Bích Chi Phật.

Bồ Tát, khi đã được Vô Sanh Pháp Nhẫn, tùy theo Vô Thượng Bồ Đề mà phát tâm, thì gọi là chân phát tâm. Do biết rõ thật tướng các pháp, biết rõ tâm hành của chúng sanh, nên Bồ Tát tận phá được các phiền não; lại do thường tùy theo Vô Thượng Bồ Đề, nên Bồ Tát chẳng còn khởi các tâm điên đảo. Bồ Tát an trú trong Kim Cang tâm, ra vào sanh tử để cứu độ chúng sanh, mãi cho đến khi được Vô Thượng Bồ Đề, được thành Phật.

–oOo–

Có thuyết nói : Người tu, tuy còn nhiều kiết sử, nhưng nếu phát tâm đại bi thương xót chúng sanh, nguyện sẽ làm Phật để cứu độ chúng sanh, thì tuy còn ở trong phiền não, mà cũng đã xứng đáng được tôn quí, khiến các hàng Trời Người đều cung kính.

Có thuyết nói : Ví như vị Thái Tử của vị Chuyển Luân Thánh Vương, tuy chưa lên ngôi, mà đã được thần dân tôn quí. Người phát tâm Bồ Tát cũng như vậy, tuy còn ở trong phiền não, mà đã thắng hơn hàng Chư Thiên rồi.

Lại có thuyết nói : Bồ Tát, tuy chưa được Vô Thượng Bồ Đề, nhưng nếu đã được vô sanh pháp nhẫn, đã vào được bất thối chuyển địa, thì cũng được Phật thọ ký, nên cũng được gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát.

–oOo–

Bồ Tát Ma Ha Tát, ở trong chúng quyết định làm bậc thượng thủ, nên phát đại tâm thọ các khổ thay cho chúng sanh, mà được tâm bất động, kiên cố như kim cang. Bồ Tát được Kim Cang tâm rồi, chẳng còn bị lay động bởi các phiền não, chẳng còn tín thọ các ác pháp nữa. Nếu có ác ma đến đòi lấy đầu, tủy, não… Bồ Tát vẫn sẵn sàng cho hết. Nếu có bị mắng nhiếc, bị hành hung,… tâm Bồ Tát cũng vẫn chẳng lay động. Tâm Bồ Tát kiên cố như kim cang nên gọi là Kim Cang tâm.

Phật nói về tướng của Kim Cang tâm, khiến Bồ Tát tự nghĩ rằng : Chẳng phải một tháng, một năm, một đời,… mà đến vô lượng kiếp tu, ta vẫn phải phát đại thệ trang nghiêm pháp thân. Ta nguyện:

1. Trải qua vô lượng kiếp, ta phải ở trong sanh tử, để làm lợi ích cho chúng sanh.

2. Ta phải xả hết thảy các vật quí của nội và ngoại thân ta.

3. Ta phải xem hết thảy chúng sanh bình đẳng; chẳng phân biệt thương ghét, bạn thù.

4. Ta phải ở trong tam thừa đạo để độ chúng sanh vào Phật đạo.

5. Ta phải độ thoát hết thảy chúng sanh như vậy, mà vẫn chẳng thấy có chúng sanh nào được độ thoát cả.

6. Ta phải biết rõ hết thảy các pháp đều bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, và đều bình đẳng tướng.

7. Ta phải đem tâm thanh tịnh, vô nhiễm, mà hành Bát Nhã Ba La Mật; rồi hồi hướng công đức về Vô Thượng Bồ Đề.

8. Ta phải thông đạt hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian.

9. Ta phải biết rõ hết thảy các pháp đều là nhất tướng, là vô tướng. Ta phải biết rõ hết thảy các pháp đều là không; phải xa lìa các ức tưởng phân biệt.

10. Ta phải biết rõ nhị tướng,…, dẫn đến vô lượng tướng đều bình đẳng, vô phân biệt. Ta phải thông đạt hết thảy các pháp môn, từ hai môn (như : hữu – vô, sanh diệt, sắc – vô sắc), ba môn (như : thiện – ác – vô ký,..)… dẫn đến vô lượng môn. Ta phải diệt sạch các phiền não, diệt sạch cá nghiệp quả báo, khiến hết thảy các chướng ngại đều tán hoại.

Như kim cang có công năng phá tan hết thảy các vật, mà bản chất của kim can lại kiên cố, bất hoại; Bồ Tát quyết định ở trong chúng làm bậc thượng thủ, mà vẫn ở nơi bất khả đắc không, vẫn thường giữa tâm kiên cố, bất động như kim cang.

Nếu Bồ Tát đã phát đại tâm như vậy, mà còn sanh kiêu mạn, thì nghiệp tội sẽ lớn vô cùng. Vì sao ? Vì đối với Bồ Tát, thì hết thảy các pháp đều là bất khả đắc. Bồ Tát, ở nơi vô sở đắc, thấy các pháp đều là như mộng, như huyễn, như hóa; chẳng thấy có pháp nào có định tướng cả.

Tâm Bồ Tát kiên cố như kim cang, nên dù vào trong ác đạo, mã vẫn cam chịu các khổ, miễn sao độ thoát chúng sanh ra khổi các ác đạo, để rồi dạy họ tu tập các thiện pháp, dẫn dắt họ vào Niết Bàn an lạc. Bồ Tát cứu độ các chúng sanh như vậy, rồi vì chúng sanh mà tu tập các công đức, dù trải qua vô lượng kiếp cũng chẳng hề thối tâm. mãi cho đến khi thành tựu quả Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát nguyện thay chúng sanh chịu khổ, nên dù phải trải qua vô lượng kiếp trong các nẻo đường sanh tử, mà tâm Bồ Tát chẳng hề thối thất; gánh vác cả ba nghìn thế giới, mà tâm vẫn chẳng lay động.

Tâm Bồ Tát kiên cố bất động như vậy, nên gọi là Kim Cang tâm.

Bồ Tát ở trong chúng sanh mà vẫn giữ tâm bình đẳng, chẳng sanh dục nhiễm. Vì sao ? Vì nếu mống tâm thương ghét, phân biệt, thiên vị, thì liền bị giặc ái phá hoại tâm bình đẳng. Tâm bình đẳng là gốc của Phật đạo vậy.

Lại nữa, Bồ Tát thường hành từ bi tâm, nên chẳng có sân tâm. Lại thường quán hết thảy các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, mà tự tánh vốn là không, nên chẳng sanh si tâm; lại thường ái niệm chúng sanh, nên chẳng sanh não tâm; lại thường chẳng xả chúng sanh, thường tôn quí Phật đạo, nên chẳng sanh Nhị Thừa tâm.

Hỏi: Nói tâm kiên cố như kim cang là đủ rồi. Như vậy còn nói tâm bất động làm gì nữa ?

Đáp: Tâm kiên cố cũng có thể nhiều, ít, tăng, giảm. Cây lớn còn có thể bị gió lay động; nếu tâm Bồ Tát chưa thật sự kiên cố, thì vẫn có thể bị các nội ngoại duyên làm chao động. Vì sao ? Vì hễ còn có tà kiến, còn có nghi kiến,… thì tâm vẫn còn bị chao động. Bởi vậy nên phải có thật trí huệ, mới có thể được tâm kiên cố, bất động được vậy.

Lại nữa, Bồ Tát, vì lợi ích chúng sanh, thường chẳng xả chúng sanh nên thường được tâm an lạc. Trú trong tâm ấy, mà Bồ Tát chẳng chấp tâm ấy. Vì sao ? Vì đối với Bồ Tát, thì lạc pháp là hơn hết. Thế nhưng chẳng phải vì vậy, mà phá hoại các pháp tướng, nên Bồ Tát chẳng thấy có pháp để chấp, chẳng thấy có pháp để thọ. Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là bất khả đắc, biết rõ vô sở đắc là tướng Niết Bàn. Bồ Tát thường tín thọ ba giải thoát môn, nên thường được lạc pháp.

Lại nữa, Bồ Tát an trú trong thập bát không, chẳng tùy ý hành, nên chẳng khởi sanh nghiệp tội; an trú trong tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp, diệt các phiền não, tu tập các thiện pháp, nên thường ở trong đại chúng làm bậc thượng thủ Bồ Tát vào Kim Cang tam muội được bình đẳng tâm, được an lạc hạnh, khiến tăng trưởng thiện căng, được đầy đủ trí huệ.

Do có đầy đủ các lực phương tiên như vậy, nên Bồ Tát quyết định ở trong Thánh chúng thường làm bậc thượng thủ.

Bởi các nhân duyên vậy, nên gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát.

***

 Phẩm thứ mười bốn
Đoạn Chư Kiến
(Đoạn Trừ Các Kiến)

KINH:

Lúc bấy giờ ngài huệ mạng Xá Lợi Phất bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Con nay cũng muốn được nói về chỗ sở hành của Bồ Tát Ma Ha Tát.

Phật dạy : Này Xá Lợi Phất ! Ông hãy cứ nói đi.

Ngài Xá Lợi Phất thưa : Bạch Thế Tôn ! Theo chỗ con nghĩ thì Bồ Tát phải đoạn sắc kiến,…, dẫn đến thức kiến, ngã kiến, mạng kiến, sanh kiến, dưỡng dục kiến, nhân kiến, thọ kiến, sử tác kiến, khởi kiến, sử khởi kiến, thọ kiến, sử thọ kiến, tri giả kiến, kiến giải kiến, đoạn kiến, thường kiến, hữu kiến, vô kiến, ấm kiến, nhập kiến, giới kiến, đế kiến, nhân duyên kiến, niệm xứ kiến,…, dẫn đến bất cộng pháp kiến, Phật đạo kiến, thành tựu chúng sanh kiến, tịnh Phật độ kiến, Phật kiến, chuyển pháp luân kiến.

Bồ Tát phải đoạn sạch hết thảy các kiến, mới có thể vì người thuyết pháp, mới có thể được gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ngài Tu Bồ Đề hỏi ngài Xá Lợi Phất : Vì nhân duyên gì mà ngài nói sắc kiến là vọng kiến; thọ, tưởng, hành, thức kiến… dẫn đến chuyển pháp luân kiến đều là vọng kiến ?

Ngài Xá Lợi Phất đáp : Nếu Bồ Tát chẳng có các lực phương tiện, thì ở nơi sắc sẽ sanh kiến chấp; ở nơi thọ, tưởng, hành, thức,…, dẫn đến ở nơi chuyển pháp luân cũng sẽ sanh kiến chấp. Vì sao ? Vì dụng pháp hữu sở đắc vậy.

Trái lại, nếu Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà có đầy đủ các lực phương tiện, thì sẽ đoạn được các lưới chấp. Vì sao ? Vì đó là dụng pháp vô sở đắc vậy. Do Bồ Tát ở nơi vô sở đắc, mà thuyết pháp, nên được vô ngại thuyết.

LUẬN:

Trong kinh có chép mẩu chuyện sau đây:

Phật dẫn năm trăm đệ tử đến hồ A Nậu Đạt thuyết về các bản nguyện nhân duyên, khiến tự thân Phật được viễn ly lạc.

Lúc bấy giờ, ngài Xá Lợi Phất vắng mặt ở chúng hội. Phật bảo ngài Mục Kiền Liên đi mời ngài Xá Lợi Phất về.

Ngài Mục Kiền Liên dùng thần thông đến tịnh xá Kỳ Hoàn để gặp ngài Xá Lợi Phất. Ngài Xá Lợi Phất đang may y, nói với ngài Mục Kiền Liên chờ ngài may y xong, rồi sẽ đi. Ngài Mục Kiền Liên hối thúc phải đi gấp, nhưng thấy y chưa may xong, nên bèn lấy tay xong lên chiếc y, khiến chiếc y liền được hoàn thành.

Ngài Xá Lợi Phất thấy ngài Mục Kiền Liên dụng thần thông, bèn thả một sợi chỉ xuống đất, rồi nhờ ngài Mục Kiền Liên lấy lên giùm. Ngài Mục Kiền Liên dùng cả hai tay kéo sợi chỉ, mà sợi chỉ vẫn cứ ở tại chỗ. Tức thì ngài Mục Kiền Liên liền nhập vào định, đập tay xuống đất, khiến mặt đất liền rung động, nhưng sợi chỉ vẫn ở yên vị trí cũ.

Lúc bấy giờ ở nơi hồ A Nậu Đạt, ngài Kiều Trần Như hỏi Phật : “Bạch Thế Tôn ! Vì nhân duyên gì mà mặt đất rung động ?”

Phật dạy : “Ông Mục Kiền Liên dùng cả hai tay để kéo sợi chỉ của ông Xá Lợi Phất, mà chẳng sao kéo lên được. Ông bèn nhập định, đập mạnh tay xuống đất, khiến mặt đất rung động, mà vẫn chẳng sao kéo sợi chỉ lên được”. Rồi Phật dạy : “Này các Tỳ Kheo ! Ông Xá Lợi Phất nhập định mà ông Mục Kiền Liên còn chẳng biết được đó là định gì. Cũng vậy khi Phật nhập định, ông Xá Lợi Phất cũng chẳng biết được Phật vào định gì. Trí huệ của Phật thâm diệu, đến như ông Xá Lợi Phất cũng chẳng sao lường được”.

–oOo–

Bởi nhân duyên vậy, nên ngài Xá Lợi Phất chẳng muốn phô bày trí huệ cao rộng của mình, mà chỉ muốn theo Phật chuyển pháp luân. Ngài muốn nói lên chỗ hành của chư Bồ Tát Ma Ha Tát, để Phật vin vào đó giảng rộng thêm về nghĩa Ma Ha Tát.

–oOo–

Chư đại Bồ Tát, từ vô lượng kiếp, đã phát Bồ Đề tâm, lại có đại bi tâm, đã tận trừ phiền não, đã diệt sạch các tập khí, đã đoạn hết ái kiết rồi. Cho nên khi các ngài vừa nghe ngài Xá Lợi Phất nhắc đến sắc kiến, ngã kiến, thọ kiến, mạng kiến… dẫn đến Phật kiến, chuyển pháp luân kiến, là các ngài liền đoạn ngay được các kiến chấp câu sanh, đã có từ đời vô thỉ đến nay.

–oOo–

Ngài Tu Bồ Đề tự nghĩ “tu ngũ ấm… dẫn đến tu các Phật pháp cũng đều là Bồ Tát hạnh cả”, nên mới hỏi ngài Xá Lợi Phất rằng : “Vì sao Bồ Tát phải đoạn các kiến ?”.

Ngài Xá Lợi Phất đáp :”Nếu Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà chẳng có các lực phương tiện, thì khi quán sắc liền thủ sắc tướng, khởi sanh sắc kiến. Như vậy là vọng kiến.

Trái lại, nếu Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật mà có các lực phương tiện, thì khi quán sắc chẳng thủ sắc tướng, chẳng khởi sanh sắc kiến. Như vậy là chân kiến.

Đối với các tà kiến chấp khác cũng đều là như vậy cả.

KINH:

Lúc bấy giờ ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Con cũng muốn nói thêm về nghĩa Ma Ha Tát…

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề ! Ông hãy cứ nói đi.

Ngài Tu Bồ Đề thưa : Bạch Thế Tôn ! Vô Thượng Bồ Đề tâm, vô đẳng đẳng tâm chẳng đồng với Thanh Văn tâm và Bích Chi Phật tâm. Vì sao ? Vì chư đại Bồ Tát dụng tâm ấy, chẳng chấp hết thảy trí tâm vô lậu, nên chẳng bị hết thảy trí tâm vô lậu trói buộc. Bởi vậy nên được gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi ngài Tu Bồ Đề : Vì sao vô đẳng đẳng tâm của chư đại Bồ Tát chẳng đồng với Thanh Văn tâm và Bích Chi Phật tâm ?

Ngài Tu Bồ Đề đáp : Bồ Tát Ma Ha Tát, từ khi sơ phát tâm chẳng thấy các pháp có sanh, có diệt, có cấu, có tịnh. Do vì chẳng thấy các pháp có sanh, có diệt, có cấu, có tịnh, nên chẳng thấy trong đó có Thanh Văn tâm, có Bích Chi Phật tâm, có Vô Thượng Bồ Đề tâm, có Phật tâm. Bởi vậy nên vô đẳng đẳng tâm của Bồ Tát chẳng đồng với Thanh Văn tâm và Bích Chi Phật tâm.

Ngài Xá Lợi Phất nói: Đúng như lời ngài nói. Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng chấp hết thảy trí tâm vô lậu; chẳng chấp sắc, chẳng chấp thọ, tưởng, hành, thức; chẳng chấp tứ niệm xứ,…, dẫn đến chẳng chấp thập bát bất cộng pháp. Vì sao ? Vì Bồ Tát nói đến tâm, mà chẳng chấp tâm.

Ngài Tu Bồ Đề nói: Đúng vậy, đúng vậy. Bồ Tát chẳng chấp sắc,… dẫn đến chẳng chấp thập bát bất cộng pháp.

Ngài Xá Lợi Phất nói: Tâm phàm phu cũng vô lậu, chẳng có trói buộc, vì là tánh không, Thanh Văn tâm, Bích Chi Phật tâm, dẫn đến Phật tâm cũng vô lậu, chẳng có trói buộc, vì là tánh không.

Ngài Tu Bồ Đề nói : Đúng vậy, đúng vậy.

Ngài Xá Lợi Phất nói : Sắc cũng vô lậu, chẳng có trói buộc, vì là tánh không. Thọ, tưởng, hành, thức,…, dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ cũng vô lậu, chẳng có trói buộc, vì là tánh không, tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp cũng vô lậu, chẳng có trói buộc, vì là tánh không.

Ngài Tu Bồ Đề nói : Đúng như lời ngài nói, sắc… dẫn đến thập bát bất cộng pháp đều vô lậu, chẳng có trói buộc, vì đều là tánh không.

Ngài Xá Lợi Phất nói : Vì sắc là không, nên chẳng chấp trước. Vì thọ, tưởng, hành, thức,…, dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là không, nên chẳng nên chấp trước. Vì tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp là không, nên chẳng nên chấp trước.

Ngài Tu Bồ Đề nói : Đúng vậy, đúng vậy. Bồ Tát Ma Ha Tát dụng Vô Thượng Bồ Đề tâm, vô đẳng đẳng tâm hành Bát Nhã Ba La Mật, nên chẳng đồng với Thanh Văn tâm và Bích Chi Phật tâm. Bồ Tát Ma Ha Tát dụng tâm như vậy, mà cũng chẳng có chấp tâm, vì dụng pháp vô sở hữu vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát.

LUẬN:

Ngài Tu Bồ Đề dụng vô đẳng đẳng tâm, mà chẳng chấp tâm ấy, nên biết rõ các pháp đều chẳng có định tướng, chẳng có sanh diệt, chẳng có cấu tịnh. Vì sao ? Vì tâm đã là rốt ráo không, thì chẳng còn sanh các tướng tâm, nên là rốt ráo thanh tịnh. Do vậy mà Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng còn thấy có Thanh Văn tâm, Bích Chi Phật tâm, dẫn đến chẳng còn thấy có Bồ Tát tâm, Phật tâm, Bồ Tát Ma Ha Tát dụng vô đẳng đẳng tâm như vậy, nên chẳng đồng với Thanh Văn và Bích Chi Phật.

–oOo–

Thế nhưng, chẳng phải vì được hết thảy trí tâm vô lậu, mà Bồ Tát sanh  cao tâm. Vì sao ? Vì biết rõ rằng Thanh Văn, Bích Chi Phật cũng như phàm phu, khi đã ly được các chấp, thì cũng đều được tâm vô lậu.

Vì sao ? Vì đều là tánh không cả. Đã là tánh không, thì đều là rốt ráo thanh tịnh cả. Ví như mây mù có thể che ánh sáng mặt trời, mặt trăng, mà chẳng có thể làm ô nhiễm mặt trời, mặt trăng được vậy.

Lại nữa, thật tướng của phiền não cũng là tánh không, cùng với tướng tâm chẳng có gì sai khác cả. Có khác chăng, là ở chỗ phàm phu, do vọng chấp, mà thấy có sanh, có diệt, có cấu, có tịnh…; trái lại chư Thánh Hiền, do tu vô tướng trí huệ, nên chẳng khởi tâm phân biệt nữa.

Chỉ vì thương xót chúng sanh, mà chư Bồ Tát, chư Thánh Hiền hành các pháp, nhưng vẫn thường giữ tâm vô sở trước. Cho nên, phải biết rằng chẳng phải chỉ có tâm các bậc Thánh là vô lậu, chẳng trói buộc, mà tâm phàm phu, khi chẳng còn bị các nghiệp dẫn nữa, thì cũng là vô lậu, chẳng có trói buộc. Sắc, thọ, tưởng, hành, thức,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp cũng đều là như vậy cả.

–oOo–

Ngài Xá Lợi Phất nói rằng : Tâm chẳng có tướng (vô tướng), là không.

Bởi vậy nên Bồ Tát chẳng chấp ngũ ấm, dẫn đến chẳng chấp hết thảy các pháp, vì biết rõ hết thảy đều là tự tướng không.

Ngài Tu Bồ Đề tán thán ngài Xá Lợi Phất, và nói rằng Bồ Tát quán hết thảy các pháp đều là không, là bất khả đắc, là rốt ráo thanh tịnh.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói “Vô Thượng Bồ Đề tâm, vô đẳng đẳng tâm của Bồ Tát chẳng đồng với Thanh Văn tâm và Bích Chi Phật tâm”. Lại nữa, khi dụng tâm ấy, mà chẳng niệm, chẳng chấp, mới mau đến được Vô Thượng Bồ Đề.

***

Phẩm thứ mười lăm
Phú Lâu Na

KINH:

Lúc bấy giờ,  ngài Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Con cũng muốn nói thêm về nghĩa Ma Ha Tát.

Phật dạy: Này Phú Lâu Na ! Ông hãy cứ nói đi.

Ngài Phú Lâu Na thưa : Bồ Tát Ma Ha Tát là Bồ Tát :

– Phát đại thệ trang nghiêm.

– Phát thứ Đại Thừa.

– Thừa Đại Thừa.

Ngài Xá Lợi Phất hỏi: Thế nào gọi là phát đại thệ trang nghiêm ?

Ngài Phú Lâu Na đáp : Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát trú Đàn Ba La Mật, mà chẳng phân biệt có hành Đàn Ba La Mật; chỉ vì hết thảy chúng sanh mà trú Đàn Ba La Mật… dẫn đến trú Bát Nhã Ba La Mật, mà chẳng phân biệt có hành Bát Nhã Ba La Mật; chỉ vì chúng sanh mà trú Bát Nhã Ba La Mật.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành sáu pháp Ba La Mật, phát đại thệ trang nghiêm.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm chẳng có hạn cuộc trong một số giới hạn chúng sanh. Bồ Tát Ma Ha Tát tự nguyện ở khắp các cõi, trong khắp các loài, để độ thoát hết thảy chúng sanh; nghĩ rằng “khi ta hành sáu pháp Ba La Mật, đúng theo tâm Tát Bà Nhã, ta phải nguyện cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành sáu pháp Ba La Mật, phát đại thệ trang nghiêm.

* Thế nào là hành Đàn Ba La Mật đại thệ trang nghiêm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm ?

– Khi hành bố thí, Bồ Tát được bao nhiêu công đức cũng đều cùng với hết thảy chúng sanh, đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề cả. Đây là đại thệ trang nghiêm Đàn Ba La Mật, khi hành Đàn Ba La Mật.

– Khi hành bố thí, Bồ Tát thường trì giới thanh tịnh, chẳng hướng đến quả Thanh Văn và quả Bích Chi Phật. Đây là đại thệ trang nghiêm Thi La Ba La Mật, khi hành Đàn Ba La Mật.

– Khi hành bố thí, Bồ Tát thường tín nhẫn nơi pháp bố thí. Đây là đại thệ trang nghiêm Sẵn Đề Ba La Mật, khi hành Đàn Ba La Mật.

– Khi hành bố thí, Bồ Tát thường siêng năng, tinh tấn, chẳng hề ngưng nghỉ. Đây là đại thệ trang nghiêm Tỳ Lê Gia Ba La Mật, khi hành Đàn Ba La Mật.

– Khi hành bố thí, Bồ Tát thường nhiếp tâm, chẳng để mống tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật. Đây là đại thệ trang nghiêm Thiền Na Ba La Mật., khi hành Đàn Ba La Mật.

– Khi hành bố thí, Bồ Tát thường quán các pháp như huyễn, chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có vật thí, cũng chẳng thấy có người thọ thí. Đây là đại thệ trang nghiêm Bát Nhã Ba La Mật, khi hành Đàn Ba La Mật.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy là Bồ Tát, y theo Tát Bà Nhã tâm, được đầy đủ cả sáu pháp Ba La Mật, khi hành Đàn Ba La Mật, mà chẳng có chấp, chẳng có đắc các tướng Ba La Mật, nên gọi là hành Đàn Ba La Mật đại thệ trang nghiêm.

* Thế nào là hành Thi La Ba La Mật đại thệ trang nghiêm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm ?

– Khi trì giới, Bồ Tát dụng tâm bố thí, đem công đức trì giới để cùng với hết thảy chúng sanh, đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề. Đây là đại thệ trang nghiêm Đàn Ba La Mật, khi hành Thi La Ba La Mật.

– Khi trì giới, Bồ Tát thường tín nhẫn nơi pháp trì giới. Đây là đại thệ trang nghiêm Sẵn Đề Ba La Mật, khi hành Thi La Ba La Mật.

– Khi trì giới, Bồ Tát thường siêng năng, tinh tấn, chẳng hề ngưng nghỉ. Đây là đại thệ trang nghiêm Tỳ Lê Gia Ba La Mật, khi hành Thi La Ba La Mật.

– Khi trì giới, Bồ Tát thường nhiếp tâm, chẳng để mống tâm Thanh Văn và tâm Bích Chi Phật. Đây là đại thệ trang nghiêm Thiền Na Ba La Mật, khi hành Thi La Ba La Mật.

– Khi trì giới, Bồ Tát thường quán các pháp như huyễn, chẳng chấp có hành trì giới, chẳng niệm có sáu pháp Ba La Mật, vì dụng pháp vô sở đắc vậy. Đây là đại thệ trang nghiêm Bát Nhã Ba La Mật, khi hành Thi La Ba La Mật.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy là Bồ Tát y theo Tát Bà Nhã tâm hành Thi La Ba La Mật mà nhiếp cả năm pháp Ba La Mật kia, nên gọi là hành Thi La Ba La Mật đại thệ trang nghiêm.

* Thế nào là hành Sẵn Đề Ba La Mật đại thệ trang nghiêm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm ?

– Khi hành nhẫn nhục, Bồ Tát dụng tâm bố thí, đem công đức nhẫn nhục để cùng với hết thảy chúng sanh, đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề. Đây là đại thệ trang nghiêm Đàn Ba La Mật khi hành Sẵn Đề Ba La Mật.

– Khi hành nhẫn nhục, Bồ Tát thường trì giới thanh tịnh, chẳng hướng đến quả Thanh Văn và quả Bích Chi Phật. Đây là đại thệ trang nghiêm Thi La Ba La Mật, khi hành Sẵn Đề Ba La Mật.

– Khi hành nhẫn nhục, Bồ Tát siêng năng, tinh tấn, chẳng hề nghưng nghỉ. Đây là đại thệ trang nghiêm Tỳ Lê Gia Ba La Mật, khi hành Sẵn Đề Ba La Mật.

– Khi hành nhẫn nhục, Bồ Tát thường nhiếp tâm cho nên dù phải chịu đau khổ cũng vẫn giữ tâm bất động, chẳng có bị tán loạn. Đây là đại thệ trang nghiêm Thiền Na Ba La Mật, khi hành Sẵn Đề Ba La Mật.

– Khi hành nhẫn nhục, Bồ Tát thường quán các pháp là không, chẳng có tác giả, chẳng có thọ giả, cho nên dù có bị người đến mắng nhiếc, đánh đập, đâm chém, cũng vẫn xem các pháp đó đều như mộng, như huyễn. Đây là đại thệ trang nghiêm Bát Nhã Ba La Mật, khi hành Sẵn Đề Ba La Mật.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy là Bồ Tát y theo Tát Bà Nhã tâm hành Sẵn Đề Ba La Mật, mà nhiếp cả năm pháp Ba La Mật kia, nên gọi là Sẵn Đề Ba La Mật đại thệ trang nghiêm.

* Thế nào là hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật đại thệ trang nghiêm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm ?

– Khi hành tinh tấn, Bồ Tát vẫn thường hành bố thí, chẳng để thân tâm giải đãi. Đây là đại thệ trang nghiêm Đàn Ba La Mật, khi hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

– Khi hành tinh tấn, Bồ Tát thường trì giới thanh tịnh đầy đủ, chẳng hề thối tâm Đại Thừa. Đây là đại thệ trang nghiêm Thi La Ba La Mật, khi hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

– Khi hành tinh tấn, Bồ Tát hành nhẫn nhục đầy đủ, thân tâm cam chịu mọi khổ đau. Đây là đại thệ trang nghiêm Sẵn Đề Ba La Mật, khi hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

– Khi hành tinh tấn, Bồ Tát vẫn nhiếp tâm bất động vào các thiền định. Đây là đại thệ trang nghiêm Thiền Na Ba La Mật, khi hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

– Khi hành tinh tấn, Bồ Tát chẳng chấp các pháp, chẳng chấp các pháp tướng, cũng chẳng chấp danh tướng. Đây là đại thệ trang nghiêm Bát Nhã Ba La Mật, khi hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy là Bồ Tát y theo Tát Bà Nhã tâm, hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật, mà nhiếp cả năm pháp Ba La Mật kia, nên gọi là hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật đại thệ trang nghiêm.

* Thế nào là hành Thiền Na Ba La Mật đại thệ trang nghiêm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm ?

– Khi hành thiền, Bồ Tát vẫn định tâm hành bố thí, chẳng để thân tâm tán loạn. Đây là đại thệ trang nghiêm Đàn Ba La Mật, khi hành Thiền Na Ba La Mật.

– Khi hành thiền, Bồ Tát vẫn thường trì giới thanh tịnh, lại dùng sức thiền định ngăn chặn các pháp phá giới, khiên các pháp ấy chẳng xen vào được. Đây là đại thệ trang nghiêm Thi La Ba La Mật, khi hành Thiền Na Ba La Mật.

– Khi hành thiền, Bồ Tát dùng sức từ bi tam muội, nhẫn thọ mọi sự khổ đau. Đây là đại thệ trang nghiêm Sẵn Đề Ba La Mật, khi hành Thiền Na Ba La Mật.

– Khi hành thiền, Bồ Tát chẳng chấp đắm các thiền vị, cần cầu thăng tiến lần lượt vào các thiền vị. Đây là đại thệ trang nghiêm Tỳ Lê Gia Ba La Mật, khi hành Thiền Na Ba La Mật.

– Khi hành thiền, Bồ Tát chẳng y nơi các pháp, chẳng tùy theo thiền mà sanh các thiền cảnh. Đây là đại thệ trang nghiêm Bát Nhã Ba La Mật, khi hành Thiền Na Ba La Mật.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy là Bồ Tát y theo Tát Bà Nhã tâm hành Thiền Na Ba La Mật, mà nhiếp cả năm pháp Ba La Mật kia, nên gọi là hành Thiền Na Ba La Mật đại thệ trang nghiêm.

* Thế nào là hành Bát Nhã Ba La Mật đại thệ trang nghiêm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm ?

 – Bồ Tát dùng trí huệ Bát Nhã khi bố thí, sẵn sàng xả bỏ nội ngoại vật sở hữu của mình, chẳng hề luyến tiếc, cũng chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có vật thí, chẳng thấy có người thọ thí. Đây là đại thệ trang nghiêm Đàn Ba La Mật, khi hành Bát Nhã Ba La Mật.

– Bồ Tát dùng trí huệ Bát Nhã khi trì giới, dùng trí quán chiếu nên chẳng thấy có phân biệt giữa trì giới và phá giới. Đây là đại thệ trang nghiêm Thi La Ba La Mật, khi hành Bát Nhã Ba La Mật.

– Bồ Tát dùng trí huệ Bát Nhã, quán chiếu các pháp đều là không, nên chẳng thấy có người đến mắng nhiếc, đánh đập, sát hại mình, cũng chẳng thấy có pháp nhẫn nhục. Đây là đại thệ trang nghiêm Sẵn Đề Ba La Mật, khi hành Bát Nhã Ba La Mật.

– Bồ Tát dùng trí huệ Bát Nhã, quán chiếu các pháp đều là không, nên được tự tại khởi đại bi tâm, tinh cần hành các thiện pháp. Đây là đại thệ trang nghiêm Tỳ Lê Gia Ba La Mật, khi hành Bát Nhã Ba La Mật.

– Bồ Tát dùng trí huệ Bát Nhã, mà nhập vào các thiền định, quán các thiền định đều là ly tướng, là vô tướng tướng, và vô tác tướng. Đây là đại thệ trang nghiêm Thiền Na Ba La Mật, khi hành Bát Nhã Ba La Mật.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Như vậy là Bồ Tát y theo Tát Bà Nhã tâm, hành Bát Nhã Ba La Mật, mà nhiếp cả năm pháp Ba La Mật kia, nên gọi là hành Bát Nhã Ba La Mật đại thệ trang nghiêm.

Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát đại thệ trang nghiêm như vậy được chư Phật khắp mười phương hoan hỷ xưng danh và tán thán giữa đại chúng rằng “ở cõi nước đó có vị Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm, thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ”.

LUẬN:

Ngài Phú Lâu Na là vị đệ nhất pháp sư trong hàng đại đệ tử của Phật. Sau khi nghe hai ngài Tu Bồ Đề và Xá Lợi Phất nói về nghĩa Ma Ha Tát, và đều được Phật ca ngợi, ngài bèn bạch Phật xin được nói tiếp về nghĩa Ma Ha Tát. Phật liền chấp thuận.

Hỏi: Ngài Tu Bồ Đề là vị chủ thuyết về Bát Nhã Ba La Mật trong chúng hội, nên ngài Xá Lợi Phất mới phải hỏi. Nay vì sao ngài Xá Lợi Phất còn phải hỏi ngài Phú Lâu Na nữa ?

Đáp: Nên biết rằng ngài Xá Lợi Phất và ngài Phú Lâu Na trước kia đều là Bà La Môn. Cả hai ngài đều được đặt theo tên của mẹ. Ngài Xá Lợi Phất được gọi là Xá Lợi Tử, còn ngài Phú Lâu Na được gọi là Di Đa Na Ni Tử.

Cả hai vị đều là đại đệ tử của Phật. Ngài Xá Lợi Phất là bậc trí huệ đệ nhất, còn ngài Phú Lâu Na là bậc thuyết pháp đệ nhất. Cả hai vị đều có biện tài vô ngại, làm cho người nghe pháp say mê tín thọ.

Bởi vậy chúng hội tôn kính hai ngài bình đẳng như nhau.

Lại nữa, trong kinh “Thí Dụ bảy xe” có cho biết là ngài Phú Lâu Na rất thân thiết và rất muốn luận nghị với ngài Xá Lợi Phất.

Riêng đối với ngài Tu Bồ Đề thì ngài Phú Lâu Na có rất ít dịp để luận nghị. Nay nhân dịp ngài Tu Bồ Đề thuyết về Bát Nhã Ba La Mật, ngài Phú Lâu Na muốn tham gia luận nghị nên ngài mới xin Phật cho phép ngài bàn luận thêm về nghĩa Ma Ha Tát.

Hỏi :Đại trang nghiêm có nghĩa như là người đi đường xa phải gánh nặng lương thực theo mình chăng ?

Đáp : Vị chủ tướng muốn chống phá quân giặc, phải chuẩn bị đầy đủ binh lính và khí giới, cũng như vậy, Bồ Tát Ma Ha Tát muốn đánh phá ma quân, dẹp giặc phiền não phải hành sáu pháp Ba La Mật, để tự trang nghiêm.

Bồ Tát trong vô lượng kiếp đã tu tập các công đức trí huệ để làm hành trang vào Phật đạo, nên mới cưỡi cỗ xe Đại Thừa, hành sáu pháp Ba La Mật.

Hỏi :  Vì sao Thanh Văn và Bích Chi Phật cũng hành đạo, mà lại chẳng được gọi là đại thệ trang nghiêm ?

Đáp : Nhị Thừa tâm có hạn lượng, vì còn có chứng, có đắc, lại nặng về phần tự độ, nhẹ về phần tha độ.

Đối với Bồ Tát thì tự độ và tha độ đều bình đẳng như nhau, chẳng có gì phân biệt cả. Bồ Tát Ma Ha Tát tự trang nghiêm bằng cách dùng cỗ xe Đại Thừa đưa hết thảy chúng sanh vào Phật đạo, bình đẳng như nhau. Bồ Tát Ma Ha Tát tự trang nghiêm là để trang nghiêm Phật độ, nên thường hành sáu pháp Ba La Mật, và cũng dìu dắt chúng sanh cùng hành sáu pháp Ba La Mật.

Hỏi : Vì sao Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm ?

Đáp : Vì muốn độ hết thảy chúng sanh, muôn cùng với hết thảy chúng sanh đồng đến Vô Thượng Bồ Đề, nên Bồ Tát Ma Ha Tát tu sáu pháp Ba La Mật.

Như ngài Phú Lâu Na nói : Bồ Tát vì hết thảy trí huệ mà tu tập các công đức, để cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát chẳng mong cầu phước báo nhân thiên, mà chỉ phát đại nguyện cùng với hết thảy chúng sanh, đồng đến Niết Bàn an lạc, đồng thành Phật đạo. Như vậy là đại thệ trang nghiêm.

Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng tham đắm thần thông, mà chỉ nhất tâm hành Phật đạo, cho nên dù bị người đến mắng nhiếc, đánh đập, hay đến đe dọa giết chết, Bồ Tát vẫn nhẫn thọ, vẫn an nhiên tự tại hành bố thí, nhẫn nhục, cùng các pháp Ba La Mật khác. Vì sao ? Vì Bồ Tát biết rõ các pháp đều là rốt ráo không, nên trước mọi sự đe dọa, áp bức… cũng vẫn giữ tâm bất động, chẳng hề nao núng. Vì Bồ Tát biết rõ các pháp đều do duyên hòa hợp sanh, mà tự tánh vốn là không, biết rõ các pháp đều như huyễn, như hóa, nên thường nhất tâm, niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, thường nhập vào các thiền định. Lại vì Bồ Tát cầu nhất thiết chủng trí, nên tu tập đầy đủ sáu pháp Ba La Mật, mà chẳng chấp Ba La Mật tướng. Như vậy ở nơi một pháp Ba La Mật, mà nhiếp cả năm pháp Ba La Mật kia, nên được gọi là đại trang nghiêm.

Trong các kinh có nói nhiều về bố thí Ba La Mật, nhưng vì nghĩa lý của Ba La Mật này quá thậm thâm, xưa nay ít có ai thấu triệt được, nên nay khai luận để giải rõ hơn về nghĩa lý của bố thí Ba La Mật, cũng như về nghĩa lý của năm pháp Ba La Mật kia.

Hỏi : Vì sao nói Đàn Ba La Mật nhiếp luôn cả năm pháp Ba La Mật kia ?

Đáp : Nói một pháp Ba La Mật nhiếp luôn cả năm pháp Ba La Mật kia cũng chẳng có lỗi gì. Vì sao ? Vì chẳng phải ở trong một đời mà Bồ Tát có thể hành đầy đủ cả sáu pháp Ba La Mật, mà phải trải qua vô lượng kiếp, tu tập vô lượng công đức hòa hợp, mới được đầy đủ cả sáu pháp Ba La Mật.

Khi hành một pháp Ba La Mật, thì cả năm pháp Ba La Mật kia cũng đồng sanh.

Lại nữa, chư Phật trong khắp mười phương, khi thuyết pháp thường lấy bố thí làm cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo.

Trong kinh thường dạy rằng, bố thí và trì giới được phước đức sanh lên cõi trời.

Hỏi : Vì sao nói bố thí là cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo ?

Đáp : Vì đem pháp môn bố thí dạy cho chúng sanh, thì từ lớn đến nhỏ, từ sang đến hèn v.v… ai cũng đều có thể tu được cả.

Ví như nói :

– Bố thí cho người ghét mình sẽ làm cho sự oán hận của họ tiêu tan, biến ác thành thiện, biến thù thành bạn.

– Do hành bố thí Ba La Mật mà chư Phật có được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, được đầy đủ các công đức.

– Do hành bố thí Ba La Mật mà ngài Bồ Tát Bảo Thủ luôn luôn có bảy báu đầy đủ để cấp thí cho chúng sanh.

– v.v…

Nghe nói như vậy chúng sanh hoan hỷ tín thọ, tinh tấn tu bố thí và tụ năm độ khác, dẫn đến vào được đạo Niết Bàn.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói : bố thí là cửa ban đầu dẫn vào Phật đạo.

Hỏi : Vì sao ngài Phú Lâu na nói “một pháp Ba La Mật nhiếp cả năm pháp Ba La Mật kia là đại trang nghiêm” ?

Đáp : Nếu hành riêng rẽ từng Ba La Mật, thì thế lực rất yếu. Nếu tập hội đủ cả sáu pháp Ba La Mật, thì thế lực sẽ tăng lên gấp bội. Ví như khi chưa tập hợp đầy đủ quân sĩ, khí giới, lương thực thì khả năng chiến đấu còn hạn chế. Ngược lại nếu tập hợpđầy đủ quân sĩ, khí giới lương thực, cùng các phương tiện hành quân khác, thì sự chống phá giặc ắt sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều.

Bồ Tát cũng như vậy, do hành đầy đủ cả sáu pháp Ba La Mật, nên có lực phương tiện hùng mạnh phá hết ma quân, dẹp sạch phiền não để thẳng tiến đến Vô Thượng Bồ Đề. Cho nên hành một pháp Ba La Mật, mà nhiếp được cả năm pháp Ba La Mật kia mới là đại trang nghiêm vậy.

Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm như vậy, được chư Phật khắp trong mười phương hoan hỷ xưng danh, tán thán rằng : ở cõi đó, có vị Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, thành tựu chúng sanh và tịnh Phật quốc độ.

KINH :

Ngài Xá Lợi Phất hỏi : Thế nào gọi là phát thú Đại Thừa ?

Ngài Phú Lâu Na đáp : Thưa ngài Xá Lợi Phất ! Khi hành sáu pháp Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát ly các dục, ly các bất thiện pháp, có giác, có quán, ly sanh hỷ lạc vào Sơ thiền,…, dẫn đến xả niệm thanh tịnh vào Đệ Tứ Thiền. Bồ Tát lại đem tâm đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, vô lượng, vô biên, vô oán, vô não… trải rộng khắp các thế giới, từ một phương đến cả mười phương.

Lúc nào thiền, Bồ Tát Ma Ha Tát khởi tứ vô lượng tâm, đem các thiện công đức cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Nhất Thiết Chủng Trí.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát phát thú Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất !

– Có Bồ Tát đúng theo Tát Bà Nhã tâm, an trú trong tứ thiền, khởi tứ vô lượng tâm và nghĩ rằng : Khi ta được Nhất Thiết Chủng Trí, ta sẽ đoạn sạch phiền não cho hết thảy chúng sanh, và ta sẽ vì họ thuyết pháp. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Thiền Ba La Mật, mà có nhiếp Đàn Ba La Mật.

– Có Bồ Tát đúng theo Tát Bà Nhã tâm, an trú trong tứ thiền, nghĩ rằng : Vì phải đoạn sạch phiền não nơi hết thảy chúng sanh, nên khi thuyết pháp ta phải nhẫn thọ mọi sự ưa thích của họ. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Thiền Ba La Mật, mà có nhiếp Sẵn Đề Ba La Mật.

– Có Bồ Tát đúng theo Tát Bà Nhã tâm, an trú trong tứ thiền, thường tinh tấn tu tập, chẳng hề ngưng nghỉ, lại đem các công đức cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Nhất Thiết Chủng Trí. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Thiền Ba La Mật, mà có nhiếp Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

– Có Bồ Tát đúng theo Tát Bà Nhã tâm, an trú trong tứ thiền, quán các pháp đều là vô thường tướng, là khổ tướng, là vô ngã tướng, là không tướng, là vô tướng tướng, là vô tác tướng, rồi cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Nhất Thiết Chủng Trí. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Thiền Ba La Mật, mà có nhiếp Bát Nhã Ba La Mật.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát phát thú Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất !

– Có Bồ Tát hành từ tâm, nguyện an lạc hết thảy chúng sanh, hành bi tâm, nguyện cứu tế hết thảy chúng sanh, hành hỷ tâm, nguyện độ giải thoát hết thảy chúng sanh, hành xả tâm, nguyện làm cho hết thảy chúng sanh được lậu tận. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát dùng tứ vô lượng tâm hành Đàn Ba La Mật.

– Có Bồ Tát tu tứ vô lượng tâm, hành trì tịnh giới, chẳng hướng về Thanh Văn và Bích Chi Phật địa, mà chỉ hướng về Nhất Thiết Chủng Trí. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát dùng tứ vô lượng tâm hành Thi La Ba La Mật.

 – Có Bồ Tát tu tứ vô lượng tâm, chẳng tham đắm các quả Thanh Văn và Bích Chi Phật, mà chỉ nhẫn thọ các khổ của chúng sanh, nhất tâm hướng về Nhất Thiết Chủng Trí. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát dùng tứ vô lượng tâm, hành Sẵn Đề Ba La Mật.

 – Có Bồ Tát tu tứ vô lượng tâm, tinh tấn hành các tịnh hạnh. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát dùng tứ vô lượng tâm, hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật.

– Có Bồ Tát tu tứ vô lượng tâm, vào các thiền định mà chẳng hề đắm trước thiền vị. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát dùng tứ vô lượng tâm, hành Thiền Na Ba La Mật, với lực phương tiện của Bát Nhã Ba La Mật.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát phát thú Đại thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất !

 – Có Bồ Tát đúng theo Tát Bà Nhã tâm mà tu tứ niệm xứ,…, dẫn đến bát Thánh đạo, tu tam giải thoát môn,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp, lại quán các pháp đó đều là bất khả đắc.

– Có Bồ Tát dùng trí huệ quán nội không,…, dẫn đến vô pháp hữu pháp không đều là bất khả đắc.

– Có Bồ Tát dùng trí huệ quán các pháp chẳng loạn, chẳng định, vì đều là bất khả đắc.

– Có Bồ Tát dùng trí huệ quán các pháp chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, chẳng phải lạc, chẳng phải khổ, chẳng phải ngã, chẳng phải vô ngã, vì đều là bất khả đắc.

– Có Bồ Tát dùng trí huệ quán ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai đều chẳng phải có, mà cũng chẳng phải chẳng có, vì đều là bất khả đắc.

 – Có Bồ Tát dùng trí huệ quán ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc đều chẳng phải có, mà cũng chẳng phải chẳng có, vì đều là bất khả đắc.

– Có Bồ Tát dùng trí huệ quán hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian, hữu lậu, vô lậu, hữu vi, vô vi… đều chẳng phải có, mà cũng chẳng phải chẳng có, vì đều là bất khả đắc.

Như vậy gọi Bồ Tát Ma Ha Tát dụng pháp vô sở đắc để phát thú Đại Thừa.

LUẬN :

Hỏi : Trong sáu pháp Ba La Mật, nếu thuyết theo chiều nghịch thì phải thuyết Bát Nhã Ba La Mật trước, nếu thuyết theo chiều thuận thì phải thuyết Đàn Ba La Mật trước. Nay vì sao vừa mở đầu đã thuyết về Thiền Ba La Mật ?

Đáp : Người đã phát đại thệ trang nghiêm, trước hết phải vào thiền định. Vì sao ? Vì nếu Bồ Tát chưa có lực thiền định thì chưa có thể ly dục tâm. Do còn dục tâm nên chưa có thể hành các Ba La Mật khác được, ngoài ra còn rất dễ bị thối tâm. Ngược lại, nếu Bồ Tát vào Thiền Ba La Mật mà hành từ tâm, thì từ tâm sẽ được kiên cố, bất động.

Bồ Tát hành từ tâm, nhập vào từ tâm tam muội thì dao chẳng có thể chém được, lửa chẳng có thể thiêu được, v.v… Ngoài ra còn có được nhiều thần thông biến hóa. Bởi vậy nên muốn phát đại thệ trang nghiêm, thì trước hết Bồ Tát phải vào thâm thiền định.

Phật dạy rằng: Chim phải có đầy đủ đôi cánh mới có thể bay xa được.

Cũng như vậy, người tu hành trước hết phải tu Thiền Ba La Mật, rồi sau đó mới có thể tinh tấn, dõng mãnh tu các Ba La Mật khác được.

Hỏi: Trong tứ thiền đã có nhiều công đức dẫn tu sáu pháp Ba La Mật rồi. Nay vì sao còn nói phải tu tứ vô lượng tâm nữa ?

Đáp: Bồ Tát Ma Ha Tát khi hành Bồ Tát đạo, dùng tứ vô lượng tâm để duyên các tướng tâm của chúng sanh, nhằm cứu độ họ.

Lại nữa, trong tứ vô lượng tâm có từ bi tâm. Bồ Tát thường dùng từ bi tâm để ban vui cho chúng sanh, và cứu họ thoát khổ.

Hỏi: Bồ Tát trú trong ngũ thần thông cũng làm lợi ích cho chúng sanh. Như vậy vì sao chẳng nói đến ?

Đáp: Đại bi là căn bản của Bồ Tát hạnh. Bởi vậy nên nói dùng tứ vô lượng tâm mà hành sáu pháp Ba La Mật mới là phát thú Đại Thừa. Vì sao ? Vì từ, bi, hỷ, xả dẫn sanh sáu pháp Ba La Mật.

–oOo–

Trên đây, các nhân duyên phát thú Đại thừa đã được nêu đầy đủ.

Hỏi: Vì sao phải tu tứ niệm xứ,…, dẫn đến phải tu thập bát bất cộng pháp để được Nhất Thiết Chủng Trí ?

Đáp: Hành pháp có hai nghĩa. Đó là:

– Tín hành.

– Pháp tánh hành.

* Tín hành là quán về tánh vô thường, khổ, không, vô ngã.

* Pháp tánh hành là quán về các hành vô thường, khổ, không, vô ngã, hoặc chỉ quán vô thường, chỉ quán khổ, chỉ quán không, chỉ quán vô ngã, mà thấu rõ được thật tướng các pháp.

Bồ Tát Ma Ha Tát vì muốn độ hết thảy chúng sanh, nên phải tu học hết thảy các pháp môn.

Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát phát Đại Thừa tâm, dùng thập bát không để phá thập bát chướng pháp, rồi lại chuyển thập bát không thành đại trí huệ.

– Dùng trí huệ quán các pháp là thường định, mà chẳng có định tướng. Như vậy là dùng trí huệ quan các pháp chẳng phải định mà cũng chẳng phải loạn.

– Dùng trí huệ quán các pháp chẳng phải thường, chẳng phải lạc, chẳng phải ngã, chẳng phải tịnh, nên chẳng rơi về tứ chấp điên đảo “thường, lạc, ngã, tịnh”.

– Dùng trí huệ quán ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai, quán ba cõi Dục, Sắc và Vô Sắc, đều chẳng phải có, cũng chẳng phải chẳng có. Vì biết rõ ba thời, ba cõi đều là bất khả đắc, nên chẳng rơi vào vô minh, mà được đại trí huệ.

– Dùng trí huệ quán thế gian trí và xuất thế gian trí là chẳng phải trí, cũng chẳng phải chẳng phải trí (phi trí). Vì biết rõ trí và phi trí đều là không, là bất khả đắc cả, nên được rốt ráo thanh tịnh, chẳng trú nơi bất cứ một định tướng nào cả.

–oOo–

Lại nữa, Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng hành “không”, nhằm phá chấp về đoạn diệt, cũng chẳng hành pháp ái nhằm ly y chỉ.

Bởi vậy nên nói Bồ Tát Ma Ha Tát chẳng phải hành trí, mà cũng chẳng phải chẳng hành trí (phi hành trí).

Hỏi : Thế nào gọi là phi trí ?

Đáp : Xả ly các pháp, mà cũng chẳng y chi nơi trí huệ, chẳng khởi tâm phân biệt.

Như vậy là được “quyết định trí”, tức là được “phi trí” vậy.

(Hết quyển 45)