LUẬN
ĐẠI TRÍ ĐỘ

Nguyên tác: Bồ tát Long Thọ
Hán dịch: Pháp sư Cưu Ma La Thập
Việt dịch: Tỳ kheo ni THÍCH NỮ DIỆU KHÔNG

 

TẬP III
QUYỂN 46

Phẩm thứ mười sáu
Thừa Đại Thừa
(Ngồi Xe Đại Thừa)

KINH:

Ngài Xá Lợi Phất hỏi : Thế nào gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa ?

Ngài Phú Lâu Na đáp : Khi thật hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát dụng pháp vô sở đắc, trú trong Đàn Ba La Mật,…, dẫn đến trú trong Bát Nhã Ba La Mật nên chẳng thấy có Bồ Tát, chẳng thấy có Đàn Ba La Mật,…, dẫn đến chẳng thấy có Bát Nhã Ba La Mật.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát nhất tâm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, tu tứ niệm xứ,…, dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp mà chẳng chấp trước, vì biết rõ các pháp ấy chỉ là danh tự, là bất khả đắc cả.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát nhất tâm, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, tu tứ niệm xứ,…, dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp mà chẳng chấp trước, vì biết rõ các pháp ấy chỉ là danh tự, là bất khả đắc cả.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát nghĩ rằng Bồ Tát chỉ là danh tự, vì chúng sanh là bất khả đắc.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát nghĩ rằng sắc,…, dẫn đến thức, sắc,…, dẫn đến pháp, nhãn,…, dẫn đến ý, nhãn thức,…, dẫn đến ý thức, nhãn xúc,…, dẫn đến ý xúc, nhãn xúc nhân duyên sanh thọ,…, dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ cũng đều chỉ là danh tự, vì đều là bất khả đắc. Rồi lại nghĩ rằng tứ niệm xứ, bát thánh đạo,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp, nội không,…, dẫn đến vô pháp hữu pháp không đều chỉ là danh tự, vì đều là bất khả đắc. Rồi lại nghĩ rằng pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế đều chỉ là danh tự, vì đều là bất khả đắc. Rồi lại nghĩ rằng Vô Thượng Bồ Đề và Phật đều chỉ là danh tự, vì đều là bất khả đắc.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát, đầy đủ thần thông, thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ, đi từ quốc độ này đến quốc độ khác để cúng dường, tôn kính, tán thán chư Phật và để nghe chư Phật dạy pháp Đại Thừa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát đầy đủ thần thông, thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ mà chẳng sanh tưởng về chúng sanh, tưởng về quốc độ. Bồ Tát Ma Ha Tát an trú trong “pháp môn bất nhị”, vì chúng sanh mà thị hiện thọ thân để giáo hóa chúng sanh, tùy theo chỗ chúng sanh đáng được độ mà thị hiện thân hình thích nghi để thuyết pháp, như vậy mãi cho đến khi được Nhất Thiết Chủng Trí mà vẫn chẳng hề ly pháp Đại Thừa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, thưa ngài Xá Lợi Phất ! Bồ Tát Ma Ha Tát được Nhất Thiết Chủng Trí, chuyển pháp luân mà tất cả các người ở thế gian, chư Thanh Văn và Bích Chi Phật, dẫn đến chư Thiên Long Bát Bộ đều chẳng có thể chuyển được. Lúc bấy giờ chư Phật khắp mười phương đều hoan hỷ xưng danh hiệu vị Bồ Tát ấy và tán thán rằng “Ở cõi nước đó có vị Bồ Tát Ma Ha Tát được Nhất Thiết Chủng Trí, chuyển pháp luân”.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

LUẬN:

Ngài Phú Lâu Na nêu lên ba vấn đề:

1- Phát đại thệ trang nghiêm
2- Phát thú Đại Thừa
3- Thừa Đại Thừa

Các vấn đề 1 và 2 đã được giảng luận rồi, nay nói đến vấn đề 3 là thừa Đại Thừa.

Bồ Tát sẵn sàng bố thí nội ngoại vật sở hữu của mình mà chẳng phá ngã tướng, gọi là Bồ Tát đại thệ trang nghiêm. Vì sao ? Vì chẳng chấp ngã tướng, mà chẳng phá ngã tướng mới vào được chúng sanh không và pháp không, mới gọi là đại trang nghiêm.

–oOo–

Bồ Tát từ nơi chúng sanh không mà vào được pháp không, nên khi hành bố thí chẳng thấy có người thí, chẳng thấy có vật thí và cũng chẳng thấy có người thọ thí. Hành các Ba La Mật khác cũng đều như vậy cả. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, Bồ Tát dùng tâm chẳng có tạp niệm, ly các phiền não. Chẳng hướng về Nhị Thừa địa, chỉ hướng về Nhất Thiết Chủng Trí mà tu tứ niệm xứ,…, dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp, biết rõ hết thảy các pháp ấy đều là rốt ráo thanh tịnh, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp thế gian và xuất thế gian đều chỉ là danh tự, đều là bất khả đắc. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

Lại nữa, Bồ Tát phát đại thệ trang nghiêm thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ, đi từ quốc độ này đến quốc độ khác, đem hoa sen bảy báu để cúng dường, tôn kính chư Phật, và để nghe chư Phật thuyết pháp Đại Thừa. Bồ Tát thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ như vậy mà chẳng sanh tưởng về chúng sanh, chẳng sanh tưởng về quốc độ, lại an trú trong “pháp môn bất nhị”, vì chúng sanh mà thọ thân, tùy tâm chúng sanh mà phương tiện thuyết pháp nhằm hóa độ họ. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa.

–oOo–

Bồ Tát thừa Đại Thừa nguyện thành Phật, chuyển pháp luân nên được chư Phật khắp mười phương xưng danh và tán thán.

–oOo–

Đại Thừa là rốt ráo thanh tịnh, nên Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa dùng các thần thông để tự trang nghiêm. Trú trong thừa ấy, Bồ Tát Ma Ha Tát một thời biến hóa vô biên thân, đi khắp mười phương, cúng dường chư Phật, như vậy mãi cho đến khi được Nhất Thiết Chủng Trí vẫn chẳng hề ly Đại Thừa, chẳng hề ly chư Phật.

***

Phẩm thứ mười bảy
Trang Nghiêm

KINH:

Lúc bấy giờ ngài Tu Bồ Đề bạch Phật : Bạch Thế Tôn ! Thế nào gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát đại trang nghiêm ?

Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Đại trang nghiêm là hết thảy đều trang nghiêm. Đàn Ba La Mật,…, dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật trang nghiêm, tứ niệm xứ,…, dẫn đến bát thánh đạo trang nghiêm, nội không,…, dẫn đến vô pháp hữu pháp không trang nghiêm, thập lực,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp trang nghiêm, nhất thiết chủng trí cũng trang nghiêm.

Có Bồ Tát Ma Ha Tát biến thân trang nghiêm như thân Phật, phóng quang minh chiếu khắp 3000 đại thiên thế giới; cũng chiếu khắp hằng sa thế giới trong khắp mười phương.

Có Bồ Tát Ma Ha Tát an trú trong Đàn Ba La Mật trang nghiêm, biến 3000 đại thiên thế giới thành lưu ly; lại hóa thân làm vị chuyển luân thánh vương, tùy chúng sanh cần gì đều cung cấp đầy đủ như đói thì cho ăn, khát thì cho uống, rét thì cho áo quần, bệnh thì cho thuốc men v.v… rồi sau đó, vì chúng sanh, thuyết pháp, khiến họ tu được sáu pháp Ba La Mật, dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát Thừa Đại Thừa Đại trang nghiêm.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Ví như ông huyễn sư, ở giữa ngã tư đường biến hóa ra đại chúng, rồi cung cấp đầy đủ các thức ăn uống, các thứ thuốc men v.v… ý ông nghĩ sao ? Thật sự có đại chúng để ông huyễn sư cho ăn uống, cấp thuốc men… chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề thưa : Bạch Thế Tôn ! Chẳng thật có vậy. Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Cũng như vậy, Bồ Tát tự hóa thân làm vị chuyển luân thánh vương, lại biến hóa ra đầy đủ các vật dụng cung cấp cho chúng sanh. Tuy có hành bố thí mà thật chẳng có bố thí gì cả. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát Ma Ha Tát, an trú trong Thi La Ba La Mật trang nghiêm, hóa thân làm vị chuyển luân thánh vương, đem thập thiện nghiệp đạo,tứ thiền, tứ vô lượng tâm, tứ vô sắc định, tứ niệm xứ… dẫn đến đem thập bát bất cộng pháp để giáo hóa chúng sanh, dẫn họ đến Vô Thượng Bồ Đề. Ví như ông huyễn sư, ở ngã tư đường biến hóa ra đại chúng, rồi đem mười thiện đạo,…dẫn đến đem thập bát bất cộng pháp để giáo hóa họ. Ý ông nghĩ sao ? Thật sự có chúng sanh để ông huyễn sư giáo hóa chăng ?

Ngài Tu Bồ Đề thưa : Bạch Thế Tôn ! Chẳng thật có vậy.

Phật dạy : Này Tu Bồ Đề ! Cũng như vậy, Bồ Tát đem thập thiện nghiệp đạo, dẫn đến đem thập bát bất cộng pháp để giáo hóa chúng sanh. Tuy có giáo hóa chúng sanh, nhưng thật chẳng có chúng sanh nào được giáo hóa cả. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát Thừa Đại Thừa đại trang nghiêm.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát Ma Ha Tát, từ sơ phát tâm đến nay, an trú trong Sẵn Đề Ba La Mật trang nghiêm nên dù bị người đến mắng nhiếc, đánh đập, đâm chém v.v… cũng vẫn giữ tâm bất động, chẳng hề sanh sân hận. Bồ Tát hành nhẫn nhục, và dạy cho chúng sanh hành nhẫn nhục như vậy, nhưng thật chẳng có chúng sanh nào học và hành nhẫn nhục cả. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát Thừa Đại Thừa đại trang nghiêm.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát Ma Ha Tát, an trú trong Tỳ Lê Gia Ba La Mật trang nghiêm hành tinh tấn và dạy cho chúng sanh hành tinh tấn. Bồ Tát, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, hành tinh tấn và dạy cho chúng sanh hành tinh tấn như vậy, nhưng thật chẳng có chúng sanh nào học và hành tinh tấn cả. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát Thừa Đại Thừa đại trang nghiêm.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát Ma Ha Tát an trú trong Thiền Ba La Mật trang nghiêm, hành các thiền định và dạy cho chúng sanh hành các thiền định. Bồ Tát an trú nơi bình đẳng pháp, nên chẳng thấy các pháp loạn hay định. Bồ Tát hành các thiền định và dạy cho chúng sanh hành các thiền định như vậy, nhưng thật chẳng có chúng sanh nào học và hành các thiền định cả. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát Thừa Đại Thừa đại trang nghiêm.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát Ma Ha Tát an trú trong Bát Nhã Ba La Mật trang nghiêm, hành trí huệ Bát Nhã và dạy cho chúng sanh hành trí huệ Bát Nhã. Bồ Tát, an trú trong Bát Nhã Ba La Mật, chẳng thấy có hai bờ mê giác, hành trí huệ Bát Nhã và dạy cho chúng sanh hành trí huệ Bát Nhã như vậy, nhưng thật chẳng có chúng sanh nào học và hành trí huệ Bát Nhã cả. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát Thừa Đại Thừa đại trang nghiêm.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát Ma Ha Tát tự hóa thân khắp mười phương thế giới, an trú trong sáu pháp Ba La Mật và tùy theo tâm niệm của chúng sanh mà dạy cho họ hành sáu pháp Ba La Mật, dẫn dắt họ đến Vô Thượng Bồ Đề, trọn chẳng rời sáu pháp Ba La Mật. Bồ Tát hành sáu pháp Ba La Mật, và dạy chúng sanh hành sáu pháp Ba La Mật như vậy, nhưng thật chẳng có chúng sanh nào học và hành sáu pháp Ba La Mật cả. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát Thừa Đại Thừa đại trang nghiêm.

Lại nữa, này Tu Bồ Đề ! Có Bồ Tát Ma Ha Tát, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, chẳng nghĩ rằng ta đã giáo hóa chúng sanh, đã dạy cho chúng sanh tu tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp; ta đã dạy cho chúng sanh tu sáu pháp Ba La Mật; ta đã độ vô lượng chúng sanh, khiến họ được tứ quả Thanh Văn… dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề. Vì sao ? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa, chẳng có tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp; chẳng có sáu pháp Ba La Mật; chẳng có tứ quả Thanh Văn,… dẫn đến chẳng có Vô Thượng Bồ Đề.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại Thừa đại trang nghiêm.

LUẬN :

Trước đây ngài Phú Lâu Na đã nói về trang nghiêm và đại thệ trang nghiêm rồi.

–oOo–

Ngài Tu Bồ Đề nghĩ rằng ngài Phú Lâu Na chưa được Nhất Thiết Chủng Trí, ắt còn có chỗ thiếu sót. Bởi vậy nên ngài mới hỏi Phật, để được Phật giải rõ thêm.

Phật dạy : Bồ Tát hành Đàn Ba La Mật,… dẫn đến hành Bát Nhã Ba La Mật, hành tứ niệm xứ,…, dẫn đến hành thập bát bất cộng pháp, được nhất thiết chủng trí, được các quả báo thần thông, tự hóa làm thân Phật phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương thế giới, khiến chúng sanh phát tâm hành các thiện pháp. Bồ Tát lại tùy tâm chúng sanh nói pháp, khiến họ vào được tam thừa đạo, được các quả báo thần thông, Bồ Tát lại tự hóa thân vị chuyển luân thánh vương, biến 3000 đại thiên thế giới thành lưu ly, làm mưa bảo vật, để tùy theo nhu cầu của chúng sanh mà bố thí cho họ được đầy đủ, rồi vì họ mà nói pháp v.v…

Như vậy là Bồ Tát Ma Ha Tát trú trong pháp Đại Thừa, dùng pháp thí và tài thí làm lợi ích cho chúng sanh, lại dạy cho chúng sanh hành các thiện pháp, tu sáu pháp Ba La Mật, dìu dắt chúng sanh đến Vô Thượng Bồ Đề. Bồ Tát Ma Ha Tát, an trú trong pháp Đại Thừa, dùng thần thông biến hóa để hiển bày các pháp, mà chẳng sanh chấp trước cũng chẳng sanh tự cao, tự mãn. Đây là Bồ Tát Ma Ha Tát đại trang nghiêm.

Để chứng tỏ rằng Bồ Tát Ma Ha Tát dù chưa được lậu tận, cũng đã chẳng còn chấp pháp, chẳng sanh cao tâm, Phật ví Bồ Tát với ông huyễn sư biến hóa ra các vật và người để làm việc bố thí.

Sau đó, Phật hỏi Ngài Tu Bồ Đề: Thật sự có đại chúng để ông huyễn sư cho ăn uống, cung cấp áo quần, thuốc men chăng?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: chẳng thật có vậy.

Phật dạy: Bồ Tát cũng là như vậy. Tuy Bồ Tát có thần thông, tự hóa làm thân Phật, làm thân chuyển luân thánh vương… lại hóa hiện ra các vật dụng để bố thí cho chúng sanh, nhưng thật chẳng có chúng sanh nào được độ cả. Vì sao? Vì các pháp tướng đều là như huyễn, như hóa, đều là rốt ráo không, đều là vô sở hữu cả.

Dẫn đến năm Ba La Mật kia cũng đều là như vậy cả.

Hỏi: Ngoài sáu Ba La Mật ra, còn có pháp nào nữa để trang nghiêm chăng?

Đáp: hết thảy các công đức đều nhiếp vào trong sáu pháp Ba La Mật.

Lại nữa, tùy theo tâm chúng sanh, mà Bồ Tát thi thiết ra các nhân duyên để thuyết pháp, khiến chúng sanh được an trú trong sáu pháp Ba La Mật.

Lại nữa, ngay khi Bồ Tát phát đại thệ nguyện là đã quyết tâm đại trang nghiêm rồi. Vì đã quyết tâm, nên Bồ Tát chẳng dấy niệm rằng ta đã giáo hóa chúng sanh, đã dạy chúng sanh tu tứ niệm xứ… dẫn đến tu thập bát bất cộng pháp, đã độ chúng sanh được tứ quả Thanh Văn…dẫn đến được Vô Thượng Bồ Đề.

Bồ Tát tự xem mình như ông huyễn sư, làm ra các huyễn sự nên chẳng chấp trước cũng chẳng sanh cao tâm.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm.

KINH:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Theo nghĩa mà con được nghe Phật nói, thì trang nghiêm mà chẳng trang nghiêm tức là đại trang nghiêm. Vì sao? Vì các pháp đều là tự tướng không.

Sắc, … dẫn đến thức là tự tướng không; sắc,… dẫn đến pháp là tự tướng không; nhãn,… dẫn đến ý là tự tướng không; nhãn thức, … dẫn đến ý thức là tự tướng không; nhãn xúc,… dẫn đến ý xúc là tự tướng không; nhãn xúc nhân duyên sanh thọ,… dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là tự tướng không; Đàn Ba La Mật,… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật là tự tướng không; nội không,… dẫn đến vô pháp hữu pháp không là tự tướng không; tứ niệm xứ,… dẫn đến thập bát bất cộng pháp là tự tướng không.

Bạch Thế Tôn! Bởi nhân duyên vậy nên nói Bồ Tát chẳng trang nghiêm tức là đại trang nghiêm.

Phật dạy: đúng như vậy, đúng như vậy. Này Tu Bồ Đề! Vì nhất thiết chủng trí chẳng phái là tác pháp, chẳng do ai làm ra, vì chúng sanh chẳng phải là tác pháp, chẳng do ai làm ra, nên Bồ Tát vì chúng sanh mà đại trang nghiêm.

Vì sao? Vì tác giả là bất khả đắc, nên nhất thiết chủng trí chẳng phải là tác pháp, chúng sanh này cũng chẳng phải là tác pháp.

Này Tu Bồ Đề! Sắc,… dẫn đến thức là phi tác (chẳng phải do ai làm ra cả), phi bất tác (chẳng phải chẳng làm ra); sắc,… dẫn đến pháp là phi tác, phi bất tác; nhãn,… dẫn đến ý là phi tác, phi bất tác; nhãn thức,… dẫn đến ý thức là phi tác, phi bất tác; nhãn xúc,… dẫn đến ý xúc là phi tác, phi bất tác; nhãn xúc nhân duyên sanh thọ,… dẫn đến ý xúc nhân duyên sanh thọ là phi tác, phi bất tác. Vì đều là rốt ráo bất khả đắc.

Này Tu Bồ Đề! Ngã cũng phi tác, phi bất tác, …dẫn đến tri giả, kiến giả cũng là phi tác, phi bất tác, vì đều là rốt ráo bất khả đắc.

Này Tu Bồ Đề! Mộng, huyễn, hóa…cũng là phi tác, phi bất tác, vì là rốt ráo bất khả đắc.

Này Tu Bồ Đề ! Nội không,…dẫn đến vô pháp hữu pháp không cũng là phi tác, phi bất tác, vì đều là rốt ráo bất khả đắc.

Này Tu Bồ Đề! 4 niệm xứ… dẫn đến thập bát bất cộng pháp cũng là phi tác, phi bất tác. Vì đều là rốt ráo bất khả đắc.

Này Tu Bồ Đề! Pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế cũng là phi tác, phi bất tác. Vì đều là rốt ráo bất khả đắc.

Bởi nhân duyên vậy, nên nói Nhất Thiết Chủng Trí chẳng phải là tác pháp; chúng sanh chẳng phải là tác pháp; lại nói Bồ Tát vì chúng sanh mà đại thệ trang nghiêm.

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Theo chỗ con quan sát, nương theo nghĩa Phật dạy, thì sắc là vô phược (chẳng có trói buộc) vô thoát (chẳng cởi mở); thọ, tưởng, hành, thức cũng vô phược, vô thoát.

Lúc bấy giờ, ngài Phú Lâu Na hỏi: thưa Ngài Tu Bồ Đề! Vì sao nói sắc là vô phược, vô thoát? Vì sao nói thọ, tưởng, hành, thức cũng vô phược, vô thoát?

Ngài Tu Bồ Đề đáp: thưa Ngài Phú Lâu Na, sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều là như mộng, như ảnh, như hưởng, như huyễn, như diệm, như hóa nên là vô phược, vô thoát.

Thưa ngài Phú Lâu Na! sắc hiện tại, sắc quá khư, sắc vị lai,… dẫn đến thức hiện tại, thức quá khứ, thức vị lai đều là như mộng, như ảnh, như hưởng, như huyễn, như diệm, như hóa, nên đều là vô phược, vô thoát.

Vì sao? Vì sắc,…dẫn đến thức đều là vô sở hữu, đều là ly, là tịch diệt, là bất sanh, nên đều là vô phược, vô thoát.

Thưa ngài Phú Lâu Na! Sắc thiện, sắc bất thiện, sắc vô ký,… dẫn đến thức thiện, thức bất thiện, thức vô ký cũng đều là vô phược, vô thoát.

Sắc thế gian, sắc xuất thế gian, sắc hữu lậu, sắc vô lậu,… dẫn đến thức thế gian, thức xuất thế gian, thức hữu lậu, thức vô lậu cũng đều là vô phược, vô thoát.

Vì sao? Vì đều là vô sở hữu, đều là ly, là tịch diệt, là bất sanh, nên đều là vô phược, vô thoát.

Thưa ngài Phú Lâu Na! Đàn Ba La Mật,… dẫn đến Bát Nhã Ba La Mật cũng là vô phược, vô thoát.

Vì sao? Vì đều là vô sở hữu, đều là ly, là tịch diệt, là bất sanh, nên đều là vô phược, vô thoát.

Thưa ngài Phú Lâu Na! Nội không,… dẫn đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ,… dẫn đến thập bát bất cộng pháp, Vô Thượng Bồ Đề, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng đều là vô phược, vô thoát. Vì sao? Vì đều là vô sở hữu, đều là ly, là tịch diệt, là bất sanh, nên đều là vô phược, vô thoát.

Thưa ngài Phú Lâu Na! Pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế cũng đều là vô phược, vô thoát.

Vì sao? Vì đều là vô sở hữu, đều là ly, là tịch diệt, là bất sanh, nên đều là vô phược, vô thoát.

Thưa ngài Phú Lâu Na! Bồ Tát trú trong Đàn Ba La Mật,… dẫn đến trú trong Bát Nhã Ba La Mật, trú trong tứ niệm xứ,… dẫn đến trú trong thập bát bất cộng pháp, được nhất thiết chủng trí, thành tựu chúng sanh, tịnh Phật quốc độ, cúng dường chư Phật, nghe chánh pháp,… cũng đều là vô phược, vô thoát.

Bồ Tát trọn chẳng ly các đức Phật, trọn chẳng ly các thần thông, trọn chẳng ly các đà la ni và các tam muội, sanh đạo chủng trí được nhất thiết chủng trí, chuyển pháp luân, an lạc chúng sanh trong tam thừa đạo,… cũng đều là vô phược, vô thoát.

Thưa ngài Phú Lâu Na! khi hành Bát Nhã Ba La Mật, Bồ Tát Ma Ha Tát, ở nơi hết thảy các pháp đều vô phược, vô thoát, vì biết rõ các pháp đều là vô sở hữu, đều là ly, là tịch diệt, là bất sanh.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát thừa Đại thừa đại trang nghiêm…

LUẬN:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: theo nghĩa mà con được nghe Phật nói thì chẳng trang nghiêm mới là đại trang nghiêm. Vì sao? Vì các pháp đều là tự tướng không.

Hỏi: Vì sao ngài Tu Bồ Đề lại hỏi Phật như vậy?

Đáp: Theo nghĩa Phật dạy thì “phát đại trang nghiêm” hàm súc ý nghĩa qua thậm thâm, khó biết khó giải, nên chúng sanh ở trong chúng hội khởi tâm nghi, khi nghe nói trang nghiêm là rốt ráo không. Họ dấy niệm nghĩ rằng việc dùng thần thông đi khắp mười phương thế giới là việc làm của chư Phật và chư Bồ Tát, họ chẳng làm sao có thể biết được.

   Do biết rõ tâm niệm của chúng sanh trong chúng hội như vậy, nên ngài Tu Bồ Đề mới chỉ cho họ biết rằng ý nghĩa “đại trang nghiêm” chẳng phải quá thậm thâm, chẳng phải quá khó biết, khó giải. Ngài nói rằng vì “đại trang nghiêm” là tự tướng không, nên dễ thành, dễ được vậy.

Vì sao? Vì sắc,… dẫn đến thức chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, tứ niệm xứ,… dẫn đến thập bát  bất cộng pháp chẳng có định tướng, nên là bất khả đắc, Vô Thượng Bồ Đề, Nhất Thiết Trí, Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng chẳng có định tướng, nên đều là bất khả đắc cả.

Nếu có Bồ Tát biết rõ được các pháp đều là tự tướng không, đều là tịch diệt tướng mà chẳng sợ hãi, chẳng bỏ mất bản nguyện của mình, vẫn thường tinh tấn hành đạo, thì phải biết đó là vị Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm.

Vậy nên, phát đại thệ trang nghiêm chẳng phải là việc khó làm, khó được.

–o0o–

Phật ấn chứng lời nói của ngài Tu Bồ Đề, và dạy rằng: đúng như vậy, đúng như vậy. Vì Nhất Thiết Chủng Trí chẳng phải là tác pháp (phi tác pháp), chúng sanh cũng chẳng phải là tác pháp, nên Bồ Tát vì chúng sanh phát đại thệ trang nghiêm. Vì sao? Vì tác giả là bất khả đắc, nên Nhất Thiết Chủng Trí cũng như chúng sanh đều chẳng phải là tác pháp. Hết thảy các pháp đều chẳng do ai làm ra (phi tác), và đều chẳng phải chẳng làm ra (phi bất tác), đều là như huyễn, như hóa, đều là bất khả đắc cả.

–o0o–

Trong chúng hội, có người nghe Phật dạy rằng các pháp đều là như huyễn, như hóa, lại dấy niệm nghĩ rằng: thập bát không nhằm phá các pháp tướng là có thật dụng. Như vậy vì sao lại nói các pháp đều chẳng được làm ra, là phi tác?

Phật dạy: Nội không,…, dẫn đến vô pháp hữu pháp không, tứ niệm xứ,…, dẫn đến thập bát bất cộng pháp v.v.. đều là vô sở tác cả. Vậy nên biết rằng thập bát không cũng là hư dối, chẳng thật có, là vô sở tác vậy.

Dẫn đến pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế đều là chân thật pháp, nhưng bản thể vốn là vô tác.

Tùy theo nghiệp nhân duyên mà trở thành hữu tác, thành ra có pháp hữu vị; mỗi mỗi đều do cộng nhân mà có vậy. Còn pháp vô vi là do đối đãi với pháp hữu vi mà có.

Bởi nhân duyên vậy, nên Phật nói pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế cũng đều là vô sở tác, đều là rốt ráo bất khả đắc. Dẫn đến Nhất Thiết Chủng Trí, Bồ Tát, Phật cũng đều là như vậy.

Lại nữa, các pháp đều là vô thược, vô thoát; mà chúng sanh chấp các pháp tướng nên ở nơi khổ xứ khó giải thoát, mới nghĩ rằng: Phật pháp rất khó làm, rất khó được.

Ngài Tu Bồ Đề thấu rõ tâm niệm của chúng sanh nên bạch Phật: theo nghĩa là con nghe được Phật nói, thì ngũ ấm là vô phược, vô thoát, là rốt ráo không, là bất khả đắc. Như vậy chẳng có tác giả, nên chẳng có trói buộc (vô phược) chẳng có cở mở (vô thoát).

Phật dạy: Phàm phu chấp các pháp mà chẳng biết các pháp đều là hư dối, là bất khả đắc, là vô phược, vô thoát. Còn các bậc Thánh, thấy rõ các pháp đều là rốt ráo không, đều là vô phược, vô thoát. Bồ Tát thấy rõ ngũ ấm cùng các pháp thiện, bất thiện, vô ký trong 3 đời đều là như mộng, như huyễn, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc. Dẫn đến như pháp tánh, thật tế cũng là như vậy.

Bồ Tát biết rõ các pháp đều là tự tánh ly, tự tánh tịch diệt, tự tánh bất sanh, đều là vô sở hữu, là bất khả đắc, nên được vô phược, vô thoát.

Bồ Tát trú nơi Trung Đạo, dẫn dắt chúng sanh thoát ly phiền não, nên nói là vô phược, vô thoát, lại chẳng dùng vô lậu để phá các pháp tướng nên nói là vô thoát.

Bồ Tát được giáo hóa chúng sanh, tịnh Phật độ quốc, dẫn đến được đầy đủ các thần thông, đầy đủ năm nhãn, các đà la ni và các tam muội mà vẫn chẳng rời Phật, an lạc chúng sanh trong tam thừa đạo, mà vẫn vô phược, vô thoát. Vì sao? Vì Bồ Tát biết rõ hết thảy các pháp đều là vô sở hữu, là ly, là tịch diệt, là bất sanh, là rốt ráo không vậy.

Bồ Tát Ma Ha Tát phát đại thệ trang nghiêm, với đầy đủ các nhãn duyên như vậy, nên được vô phược, vô thoát.

***

Phẩm thứ mười tám
Tác Vấn Thừa
(Hỏi về Đại Thừa)

KINH:

Ngài Tu Bồ Đề bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn? làm thế nào để biết được Bồ Tát phát thú Đại Thừa? Phát từ đâu, đi đến đâu, và an trú ở chỗ nào?

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành sáu pháp Ba La Mật là Bồ Tát hành Ma Ha Diễn.

Thế nào gọi là Bồ Tát hành Đàn Ba La Mật?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dụng pháp vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, bố thí nội ngoại vật sở hữu của mình, rồi cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề.

Thế nào gọi là Bồ Tát hành Thi La Ba La Mật?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dụng pháp vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, tự mình hành mười thiện đạo, và cũng dạy người khác hành mười thiện đạo.

Thế nào gọi là Bồ Tát hành Sẵn Đề Ba La Mật?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dụng pháp vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, tự mình hành nhẫn nhục, và cũng dạy người khác hành nhẫn nhục.

Thế nào gọi là Bồ Tát hành Tỳ Lê Gia Ba La Mật?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dụng pháp vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, tự mình siêng năng tinh tấn hành ngũ pháp Ba La Mật kia, chẳng hề ngưng nghỉ và cũng dạy người khác siêng năng tinh tấn hành các Ba La Mật.

Thế nào gọi là Bồ Tát hành Thiền Na Ba La Mật?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dụng pháp vô sở đắc, đúng theo Tát Bà Nhã tâm, tự mình dùng các phương tiện vào các thiền định, mà chẳng chấp trước các thiền vị và cũng dạy người khác hành các thiền định.

Thế nào gọi là Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật?

Này Tu Bồ Đề! Bồ Tát dụng pháp vô sở đắc đúng theo Tát Bà Nhã tâm, chẳng chấp các pháp tướng, quán hết thảy các pháp đều là tự tánh không, đều là bất khả đắc, và cũng dạy người khác hành như vậy.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn.

***

Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Bồ Tát hành thập bát không, là Bồ Tát hành Ma Ha Diễn.

Những gì là thập bát không?

Này Tu Bồ Đề! Đó là: Nội không, ngoại không, nội ngoại không, không không, đại không, đệ nhất nghĩa không, hữu vi không, vô vi không, tất cánh không, vô thỉ không, tán không, tánh không, tự tướng không, chư pháp không, bất khả đắc không, vô pháp không, hữu pháp không, vô pháp hữu pháp không.

Thế nào gọi là nội không?

Này Tu Bồ Đề! Nội pháp gồm: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Thế nhưng nhãn,…, dẫn đến đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của nội pháp tự như vậy, nên gọi là nội không.

Thế nào gọi là ngoại không?

Này Tu Bồ Đề! Ngoại pháp gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp. Thế nhưng sắc,…, dẫn đến pháp đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của ngoại pháp tự như vậy, nên gọi là ngoại không.

Thế nào gọi là nội ngoại không?

Này Tu Bồ Đề! Nội ngoại pháp gồm: thập nhị nhập, trong đó có sáu nội nhập là sáu căn và sáu ngoại nhập là sáu trần. Thế nhưng sáu nội nhập và sáu ngoại nhập đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của nội ngoại pháp tự như vậy, nên gọi là nội ngoại không.

Thế nào gọi là không không?

Này Tu Bồ Đề! Không là hết thảy các pháp đều là không, mà không đó cũng là không, cũng chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của “không” tự như vậy nên gọi là không không.

Thế nào gọi là đại không?

Này Tu Bồ Đề! mười phương gồm phương Đông, phương Tây, phương Bắc, phương Nam, bốn phương chéo, phương trên, phương dưới đều là không, đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của mười phương tự như vậy, nên gọi là đại không.

Thế nào gọi là đệ nhất nghĩa không?

Này Tu Bồ Đề! Đây là nói về Niết Bàn. Niết Bàn cũng là không, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của Niết Bàn tự như vậy, nên gọi là đệ nhất nghĩa không.

Thế nào gọi là hữu vi không?

Này Tu Bồ Đề! Pháp hữu vi gồm những pháp có sanh, có trú, có diệt ở trong 3 cõi. Thế nhưng cả 3 cõi Dục, Sắc và Vô Sắc đều là không, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của 3 cõi tự như vậy nên gọi là hữu vi không.

Thế nào gọi là vô vi không?

Này Tu Bồ Đề! Pháp vô vi gồm các pháp chẳng có các tướng sanh, trú, diệt. Thế nhưng pháp vô vi cũng là không, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của pháp vô vi tự như vậy, nên gọi là vô vi không.

Thế nào gọi là tất cánh không?

Này Tu Bồ Đề! Nói tất tánh không là nói về hết thảy các pháp đều là rốt ráo không, rốt ráo bất khả đắc, đều là chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của hết thảy pháp tự như vậy, nên gọi là tất cánh không.

Thế nào gọi là vô thỉ không?

Này Tu Bồ Đề! Chỗ khởi đầu của hết thảy pháp là không, là bất khả đắc, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của chỗ khở đầu tự như vậy nên gọi là vô thỉ không.

Thế nào gọi là tán không?

Này Tu Bồ Đề! Nói tán là nói về sự tán hoại, sự hủy diệt của các pháp. Thế nhưng tán cũng là không, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của sự tán hoại như vậy, nên gọi là tán không.

Thế nào gọi là tánh không?

Này Tu Bồ Đề! Các pháp tánh, dù là hữu vi pháp tánh, dù là vô vi pháp tánh, chẳng phải do Phật làm ra, chẳng phải do chư Thánh Hiền làm ra, chẳng phải do ai làm ra cả. Các pháp tánh đều là không, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì pháp tánh tự như vậy, nên gọi là tánh không.

Thế nào gọi là tự tướng không?

Này Tu Bồ Đề! Tự tướng của sắc là tướng biến hoại, tự tướng của thọ là tướng lãnh nạp, tự tướng của tưởng là tướng suy diễn, tự tướng của hành là tướng tạo tác, tự tướng của thức là tướng liễu biệt. Thế nhưng các tự tướng ấy đều là không, là bất khả đắc. Vì tánh của tự tướng tự như vậy, nên gọi là tự tướng không.

Thế nào gọi là chư Pháp không?

Này Tu Bồ Đề! Nói chư pháp là nói về hết thảy các pháp gồm: ngũ ấm, thập nhị nhập, thập bát giới,v.v… Thế gian chấp có từng pháp riêng rẽ, nhưng các pháp đều là không, là bất khả đắc, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của  chư pháp tự như vậy, nên gọi là chư pháp không.

Thế nào gọi là bất khả đắc không?

Này Tu Bồ Đề! Tâm cầu các pháp đều là bất khả đắc, mà bất khả đắc đó cũng là không, cũng chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của bất khả đắc tự như vậy, nên gọi là bất khả đắc không.

Thế nào gọi là vô pháp không?

Này Tu Bồ Đề! Đối đãi với hữu pháp là vô pháp. Thế nhưng vô pháp là không, là bất khả đắc, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh của vô pháp tự như vậy, nên gọi là vô pháp không.

Thế nào gọi là hữu pháp không?

Này Tu Bồ Đề! Hữu pháp do duyên hòa hợp mà có. Thế nhưng thật sự cũng là không, là bất khả đắc, đều là bất khả đắc, chẳng phải thường, chẳng phải diệt. Vì tánh hữu pháp tự như vậy, nên gọi là vô pháp hữu pháp không.

Thế nào gọi là vô pháp hữu pháp không?

Này Tu Bồ Đề! Vô pháp và hữu pháp đều là không, đêu là bất khả đắc đều chẳng phải thường, chẳng phải diệt nên gọi là vô pháp hữu pháp không.

***

 Lại nữa, này Tu Bồ Đề! Còn có:

Pháp, pháp tướng không.

Pháp nói đây là ngũ ấm. Cả ngũ ấm pháp tướng đều là không.

Vô pháp, vô pháp tướng không.

Vô pháp ở đây là vô vi pháp. Vô vi pháp tướng là không.

Tự pháp, tự pháp tướng không.

Ở nơi mỗi pháp, tự tướng là vô tướng, chẳng phải do trí làm ra, cũng chẳng phải do kiến làm ra.

Tha pháp, tha pháp tướng không.

Dù cho Phật xuất thế, dù chưa có Phật xuất thế, thì các pháp vẫn trú trong pháp như, pháp tướng, pháp tánh, pháp vị, thật tế Bồ Tát quán hết thảy các pháp tướng đều là không.

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn.

LUẬN:

Hỏi:  Đây là hội thuyết về Bát Nhã Ba La Mật, ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật về Bát Nhã Ba La Mật, và được Phật giải đáp rồi. Nay vì sao ngài Tu Bồ Đề lại hỏi thêm về Ma Ha Diễn, và lại cũng được Phật giải đáp nữa?

Đáp: Bát Nhã Ba La Mật và Ma Ha Diễn có cùng nghĩa, chỉ khác nhau về danh tự mà thôi.

Ma Ha Diễn được phiên âm từ chữ Phạn Mahayâna. Phiên âm đầy đủ là Ma Ha Diễn Na.

Ma Ha là đại, là lớn; Diễn (Diễn Na) là thừa, là cỗ xe. Ma Ha Diễn là Đại thừa pháp. Tu hành pháp ấy, thì vào được Phật đạo.

Trong sáu pháp Ba La Mật thì Bát Nhã Ba La Mật là trên hết, dẫn đạo các Ba La Mật kia, Được Bát Nhã Ba La Mật là nhiếp đủ cả sáu Ba La Mật, là hành đầy đủ sáu Ba La Mật, là hành Bồ Tát đạo viên mãn, từ sơ phát tâm cho đến khi chứng thành Phật quả vậy.

Ví như nhà vua ngự trên long xa, có các quan theo hầu, Bồ Tát muốn làm Phật, phải cỡi cỗ xe Đại Thừa, hành sáu pháp Ba La Mật, đi thẳng vào đất Phật.

–o0o–

Trong nhiều kinh có nói đến sáu pháp Ba La Mật, như các kinh Hoa Thủ, Pháp Hoa, Đại Vân, Pháp Vân, Di Lặc, v.v..

Nên biết rằng sáu pháp Ba La Mật được nói trong rất nhiều kinh, hoặc do Phật nói, hoặc do chư Đại Bồ Tát nói, hoặc do chư Thanh Văn nói, hoặc do chư Thiên đắc đạo nói.

 Hòa hợp được các nghĩa trong các kinh thì gọi là Ma Ha Diễn. trong các kinh ấy, thì Bát Nhã Ba La Mật được xem là pháp tối thượng. Bởi vậy nên hễ nói đến Ma Ha Diễn là biết có Bát Nhã Ba La Mật rồi.

Các trợ đạo pháp khác, nếu chẳng được Bát Nhã Ba La Mật soi chiếu, hòa hợp thì chẳng có thể được đến Phật đạo được. Cho nên Phật bảo ngài Tu Bồ Đề rằng: Ma Ha Diễn chẳng khác Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi: Như vậy vì sao chẳng nói Ma Ha Diễn trước.

Đáp: Vì Bát Nhã Ba La Mật quá quan trọng nên phải nói trước. Phật muốn thuyết Bát Nhã Ba La Mật nên đã phóng đại quang minh, khiến chúng sanh khắp 10 phương thế giới đều tự hỏi: Nay vì đại sự nhân duyên gì mà có quang minh chiếu khắp như vậy?

Các đức Phật ở các cõi nước đều nói rằng: Ở thế giới Ta Bà có Đức Phật Thích Ca Mâu Ni muốn thuyết Bát Nhã Ba La Mật.

Thế rồi các Bồ Tát cũng các chư Thiên đều hoan hỷ đến nghe.

–o0o–

Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Vì sao Bồ Tát Ma Ha Tát muốn học Bát Nhã Ba La Mật?

Phật tán thán công đức của Bát Nhã Ba La Mật nên nói: Những ai muốn thành Phật đều phải học Bát Nhã Ba La Mật.

 Bởi nhân duyên vậy, nên Bát Nhã Ba La Mật phải được thuyết giảng trước.

–o0o–

Phật bảo ngài Tu Bồ Đề: Ông nên vì các Bồ Tát, nói về Bát Nhã Ba La Mật.

Tuân theo lời Phật dạy, ngài Tu Bồ Đề nói: Bồ Tát chỉ là danh tự, Bát Nhã Ba La Mật cũng chỉ là danh tự. Cho nên Bồ Tát, Bồ Tát danh tự, Bát Nhã Ba La Mật, Bát Nhã Ba La Mật danh tự đều là không. Là bất khả đắc, dẫn đến Bồ Tát hành Bát Nhã Ba La Mật cũng là bất khả đắc.

Kế sau đó, ngài Tu Bồ Đề lại hỏi về Bồ Tát cú nghĩa và về nghĩa của Ma Ha Tát.

Trong nghĩa Ma Ha Tát có bao gồm nghĩa đại trang nghiêm và nghĩa Ma Ha Diễn.

Ví như vị dõng tướng phải có đầy đủ binh sĩ, khí giới trang nghiêm, mới xông vào trận, đánh dẹp quân giặc được, Bồ Tát Ma Ha Tát phải hành Bát Nhã Ba La Mật trang nghiêm mới phá được ma quân, dẹp sạch các phiền não kiết sử để thẳng  tiến đến Phật đạo.

 Lại nữa, Bát Nhã Ba La Mật và Ma Ha Diễn đều có công năng đoạn pháp ái. Do vậy mà ngài Tu Bồ Đề đã dựa vào những điểm tương đồng giữa Bát Nhã Ba La Mật và Ma Ha Diễn, để hỏi thêm về ý nghĩa của Ma Ha Diễn.

Hỏi: Có phải Ma Ha Diễn có hàm ý nói về Bồ Tát từ sơ phát tâm đến khi thành Phật đạo, thường hằng tu tập các thiện pháp chăng?

Có phải hành đúng theo Bát Nhã Ba La Mật là hành Ma Ha Diễn chăng? Có phải hành sáu pháp Ba La Mật là hành Ma Ha Diễn chăng?

Đáp: Trước đây đã nói rằng sáu pháp Ba La Mật nhiếp hết thảy các thiện pháp. Như vậy chẳng cần nói thêm nữa.

Có vô lượng thiện pháp nhưng chỉ cần nói đến sáu pháp Ba La Mật là đầy đủ rồi vậy. Lại nữa, Ma Ha Diễn cũng có hàm ý nói về Bồ Tát từ sơ phát tâm đến khi thành tựu đầy đủ các lực phương tiện, luôn luôn giữ tâm bình đẳng.

Nên biết rằng tu sáu pháp Ba La Mật là tu đầy đủ hết thảy các thiện pháp rồi. Vì sao? Vì các thiện pháp dù chẳng sánh được với Bát Nhã Ba La Mật, nhưng nghĩa của thiện pháp cũng đã nhiếp trong nghĩa của sáu pháp Ba La Mật rồi vậy.

Ví như ngay từ khi sơ phát tâm, người tu phải phát nguyện tu đại bi, phải có tâm bình đẳng mới có được các các lực phương tiện, lại nữa, khi tu bố thí phải bỏ lợi nhỏ hướng về lợi lớn, mới là tu Đại Thừa.

Lại nữa, tu hành để thành tựu các lực phương tiện là tu trí huệ. Khi trí huệ đã được thuần thục rồi, thì người tu hành phải dùng các lực phương tiện để giáo hóa chúng sanh, và tịnh Phật quốc độ mới là tu Đại Thừa.

Tất cả các hạnh nêu trên đây đều nhiếp trong sáu pháp Ba La Mật.

Hỏi: Như vậy vì sao còn nói hành 108 tam muội cũng gọi là hành Ma Ha Diễn?

Đáp: Nói về sáu pháp Ba La Mật là nói về thể của Ma Ha Diễn, còn nói về các đà la ni, các tam muội, v.v.. là nói về dụng của Ma Ha Diễn. Cho nên trước nói đến thể rồi sau nói đến dụng vậy.

Hỏi: Vì sao chỉ nói đến sáu pháp Ba La Mật, mà chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, chẳng thêm chẳng bớt?

Đáp: Phật là đấng pháp vương, tùy theo căn cơ, tùy theo ý nguyện của chúng sanh, mà phương tiện nói pháp. Có khi Phật chỉ nói một pháp, có khi nói hai pháp, ba pháp, bốn pháp, … Lại có khi nói rất nhiều pháp. Ví như trong kinh Hiền Kiếp có nói đến 8400 Ba La Mật.

Lại nữa, chúng sanh đã thọ thân là có thọ khổ, khiến phải lên xuống mãi trong sáu nẻo đường sanh tử, chịu bao nhiêu cực hình đau khổ. Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát khởi đại bi tâm muốn cứu độ chúng sanh thoát khỏi sáu đường sanh tử, mà phát nguyện tu sáu pháp Ba La Mật, chẳng có nhiều hơn, cũng chẳng có ít hơn. Vì các Ba La mật đều là rốt ráo không, đều là bất khả đắc.

Hỏi: Bố thí Ba La Mật có rất nhiều tướng. Vì sao Phật chỉ nói đến năm tướng sau đây mà thôi?

Năm tướng đó là:

  1. Xả nội vật sở hữu
  2. Xả ngoại vật sở hữu
  3. Tương ưng với tâm Tát Bà Nhã
  4. Dụng pháp vô sở đắc
  5. Cùng với hết thảy chúng sanh, đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề.

Vì sao chẳng nói về tâm đại bi, về cúng dường chư Phật, về dụng thần thông khi hành bố thí Ba La Mật?

Đáp: Vì năm tướng nêu trên đây đã nhiếp hết thảy các tướng khác rồi vậy.

Ví như bố thí mà tương ưng với tâm Tát Bà Nhã, xả nội ngoại vật sở hữu của mình, cùng với chúng sanh đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề là đã có đại bi tâm. Lại nữa, hồi hướng mà chẳng cầu đắc quả Thanh Văn và quả Bích Chi Phật, chỉ dụng pháp vô sở đắc, là đã vào được nơi thật tướng pháp, nơi thật tướng Bát Nhã Ba La Mật rồi vậy.

 Hỏi: Nếu như vậy, thì chỉ cần nói tương ưng với tâm Tát Bà Nhã là đủ rồi. Cần gì phải nói đầy đủ cả năm tướng.

 Đáp: Nói như vậy là rất đúng, thế nhưng vì chúng sanh đa số chẳng hiểu rõ được, nên cần phải nói rõ rằng: muốn được tâm bố thí tương ưng với Tát Bà Nhã, thì hành giả phải xả bỏ nội ngoại vật sở hữu của mình, phải dụng pháp vô sở đắc, phải cùng với hết thảy chúng sanh đồng hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề.

Lại nữa, muốn được tương ưng với tâm Tát Bà nhã, muốn được Nhất Thiết Chủng Trí, thì hành giả chẳng nên cầu danh lợi ở đời này, chẳng nên cầu phước báo cõi Người và cõi Trời ở đời sau, chẳng nên cầu Niết Bàn Thanh Văn, mà chỉ nên cầu Nhất Thiết Chủng Trí, cầu được đầy đủ hết thảy Phật Pháp, để có đầy đủ các lực phương tiện, nhằm tận độ hết thảy chúng sanh thoát khỏi các khổ.

Như vậy mới gọi là tương ưng với tâm Tát Bà Nhã.

–o0o–

 Nên biết rằng xả bỏ nội vật sở hữu là xả các thứ ở nơi thân mình như đầu, mắt, chân, tay, tủy, não, v.v.. Xả ngoại vật sở hữu là xả các vật sở hữu ngoài thân của mình, như ruộng, vườn, nhà, cửa, tiền, bạc, … dẫn đến vợ, chồng, con cái, v.v.. đến cả sự mong cầu phước đức quả báo cũng phải xả nữa, để cùng với hết thảy chúng sanh đồng thọ hưởng.

Bồ Tát vì lợi tha mà tu sáu pháp Ba La Mật, chỉ cầu Vô Thượng Bồ Đề nên hồi hướng hết thảy các phước đức quả báo để hết thảy chúng sanh đều được lợi ích. Ví như ở trên rừng, nơi nào có cây xanh, có quả ngọt là có các loài chim đến tụ tập để cùng thọ hưởng vậy.

Hỏi: Trước nói tương ưng với tâm Tát Bà Nhã, nay lại nói hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề. Như vậy có gì sai khác nhau chăng?

Đáp: Trước phải nói tương ưng với tâm Tát Bà Nhã, là nói phải khởi các phước đức nhân duyên. Nay nói hồi hướng về Vô Thượng Bồ Đề, là nói dùng tâm Tát Bà Nhã mà cầu Nhất Thiết Chủng Trí, cầu Phật đạo.  Khi đã tương ưng với tâm Tát Bà Nhã, lấy Tát Bà Nhã làm chỉ đạo thì hết thảy các công đức hợp với Tát Bà Nhã đều là Nhất Thiết Chủng Trí cả.

Nên biết “Phật trí huệ” có hai nghĩa. Đó là:

  1. Vô Thượng Bồ Đề
  2. Nhất Thiết Chủng Trí, cũng tức là Tát Bà Nhã.

Bởi nhân duyên vậy, nên khi dụng các pháp vô sở đắc, tương ưng tâm Tát Bà Nhã mà hành bố thí là thuận với thật tướng pháp rồi vậy.

Hỏi: Thi La Ba La Mật tổng nhiếp các thiện pháp, như biển lớn dung nạp các nguồn nước từ các sông chảy đến. Như vậy có vô lượng thiện pháp. Vì sao ở đây chỉ nói đến mười thiện đạo mà thôi?

Đáp: Khi nói về sáu pháp Ba La Mật, Phật chỉ nói về tổng tướng. Cũng như vậy, khi nói về mười thiện đạo là đã tổng nhiếp các giới khác rồi vậy. Hỏi như trên là thiên về biệt tướng.

Bồ Tát khởi từ bi tâm, phát Vô Thượng Bồ Đề tâm, làm các việc bố thí nhằm đem lại lợi tích cho chúng sanh, là đã trì giới thanh tịnh rồi vậy. Vì sao? Vì bố thí như vậy là chẳng còn làm não hại chúng sanh, lại thường bố thí vô úy cho chúng sanh vậy.

–o0o–

Nên biết rằng mười thiện đạo là căn bản để cầu phước. Đối với hàng cư sĩ bạch y, thì giới bất sát sanh là giới đứng đầu trên tất cả các giới khác. Vì sao? Vì giới bất sát sanh là chủ, còn các giới khác chỉ là khách.

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chuyển pháp luân suốt mười hai năm trời mà chưa vội kiết giới thì đủ biết rằng các giới tướng chỉ là khách mà thôi.

Tuy nhiên, mười thiện giới cũng hết thảy các giới khác, dù có Phật hay không có Phật, thì cũng vẫn thường có. Nếu chẳng theo mười thiện giới, mà phạm mười điều ác, ắt phải sa vào các đường ác vậy.

Bởi nhân duyên vậy, nên Bồ Tát phải tự mình hành mười thiện đạo, và dạy cho người hành mười thiện đạo. Như vậy gọi là hành Thi La Ba La Mật.

–o0o–

Trong mười thiện đạo, có tam nghiệp về thân, tứ nghiệp về khẩu và tam nghiệp về ý. Ba ý giới là vô tham, vô sân, vô si.

Đây là tùy theo nghĩa mà phân biệt ra có mười thiện giới. Thế nhưng, khi đã được Bát Nhã Ba La Mật soi sáng, thì tất cả đều trở thành Ba La Mật, đều xả ly tướng, và cũng đều là bất khả đắc cả.

Hỏi: Tu tập các thiện pháp đã là việc khó làm. Nay vì sao còn nói phải dụng pháp vô sở đắc để tu tập các thiện pháp nữa?

Đáp: Tu được trí huệ vô sở đắc, mới giữ gìn được các thiện hạnh. Vì sao? Vì có sanh tâm là chẳng có được trí huệ vô sở đắc.

Lại nữa, Phật dạy: chẳng trước tâm, chẳng thủ tướng, mới là hành các thiện đạo.

Vì sao? Vì biết thế gian là vô thường để rồi diệt ác tu thiện, thì đó là việc dễ làm. Còn muốn được “tâm không” thì lại rất khó. Người sợ phát  tâm do còn chấp tâm, còn thủ tướng, nên khi gặp các chướng duyên liền sanh tâm sân hận, phiền não, ví như cỏ khô rất dễ bắt lửa vậy. Trái lại, người tu khi đã được “tâm không” rồi, thì chẳng còn chấp tâm, thủ tướng nữa. Do chẳng còn chấp tâm, thủ tướng, nên dù gặp các chướng duyên cũng vẫn giữ tâm bất động, chẳng hề có hối tâm.

Bởi vậy nên phải ở nơi thật tướng Bát Nhã mà khởi đại bi tâm, thì mới có đầy đủ các lực phương tiện để dập tắt tất cả các lửa phiền não, tận từ sự chấp thủ các pháp tướng. Ví như nước tưới vào lửa làm cho lửa phải tắt vậy.

Trái lại, nếu rời tâm vô sở đắc mà tu các thiện hạnh thì chỉ có được các lực lượng phương tiện rất yếu kém. Phải ở nơi vô sở đắc, phải đầy đủ thập bát không, phải ly hết thảy các pháp tướng mới được đầy đủ các lực lượng phương tiện để hành sáu pháp Ba La Mật. Như lời Phật dạy Xá Lợi Phất rằng: Bồ Tát Ma Ha Tát trú trong thập bát không mà tu học Bát Nhã Ba La Mật.

Hỏi: Vì sao nói thập bát không là chẳng phải thường, chẳng phải diệt?

Đáp: Người tu hành, nếu chẳng thấu rõ thập bát không, ắt sẽ đọa về biên kiến, hoặc thường, hoặc đoạn, vì sao? Vì nếu chấp tướng của các pháp là thật có, thì đó là chấp pháp tướng chẳng diệt, như vậy là đọa về thường kiến. Trái lại nếu cho rằng chấp hữu là bệnh, mà dùng vô để phá hữu thì sẽ đọa về đoạn kiến.

Như vậy, phải nên biết rằng chấp hữu, chấp vô cũng đều là bệnh cả. Người tu phải dùng vô để phá hữu, mà cũng chẳng chấp vô mới ly được chấp hai bên (nhị biên kiến), mới vào được Trung Đạo.

Bồ Tát do liễu đạt thập bát không mà khởi đại bi tâm, rộng độ hết thảy chúng sanh. Cho nên, nói thập bát không chẳng phải thường, chẳng phải diệt (phi thường, phi diệt).

Như vậy gọi là Bồ Tát Ma Ha Tát hành Ma Ha Diễn.

Nếu trái lại với trên đây thì chỉ là hý luận. Vì sao? Vì nếu đem tâm hữu sở đắc mà hành pháp không thì chẳng sao có được chánh huệ, khiến phải lìa xa chánh pháp vậy.

Hỏi: Thập bát không đã nhiếp hết thảy các nghĩa không rồi. Vì sao còn nói thêm tứ không nữa để làm gì?

Đáp: Vẫn biết rằng thập bát không đã nhiếp hết thảy các nghĩa không rồi, nhưng chư Phật, tùy theo căn cơ chúng sanh mà nói pháp, có khi khai triển rộng thành thập bát không, có khi thu hẹp lại trong tứ không. Nên biết rằng nói rộng, nói hẹp, nói tổng, nói biệt, v.v.. đều là những phương tiện thiện xảo mà chư Phật, chư Bồ Tát tùy theo từng đối tượng chúng sanh mà nói Pháp vậy.

–o0o–

Nói ở nơi không mà chẳng sanh pháp tướng, là nói hết thảy pháp tướng đều không, tức là vô pháp. Vậy nên nói “pháp, pháp tướng không”.

Lại nữa, vô vi pháp cũng là vô pháp. Vì sao? Vì tướng vô vi là bất khả đắc.

Hỏi: Trong kinh có nói đến tam tướng vô vi. Vì sao nói vô vi pháp là vô tướng?

 Đáp: Vì nhằm phá tướng sanh mà nói vô sanh, nhằm phá tướng trú mà nói vô trú, nhằm phá tướng diệt mà nói vô diệt. Đây chỉ là nương theo các tướng sanh, tướng trú, tướng diệt, mà nói đến vô sanh, vô trú, vô diệt. Thật ra chẳng có pháp vô sanh, pháp vô trú, pháp vô diệt. Vì sao? Vì hết thảy pháp đều là vô pháp. Do đối đãi với sanh, trú, diệt mà nói vô sanh, vô trú, vô diệt. Tất cả sáu pháp đó đều là vô pháp cả.

Như vậy, “vô pháp không” tức là “vô vi không”. Vì sao? Vì “vô pháp tướng” tức là “vô vi tướng”, là không, là bất khả đắc. Vậy nên nói “vô pháp, vô pháp tướng không”.

–o0o–

Tự tướng cũng như vậy. “Tự pháp tướng” cũng là không, là bất khả đắc. Vậy nên nói “tự pháp, tự pháp tướng không”.

Tự pháp là tự tánh của các pháp. Tự tánh có hai nghĩa. Đó là:

Theo pháp thế gian, thì đó là tự tánh của tứ Đại và tứ Đại tạo sắc.

Theo pháp xuất thế gian thì đó là “như pháp thánh thật tế”.

Tuy nhiên cả hai đều là không, là bất khả đắc. Vì sao? Vì chẳng phải do trí làm ra, cũng chẳng phải do kiến làm ra vậy.

Hỏi: “Như pháp tánh thật tế” nhiếp về vô vi pháp. Vì sao còn nói ở nơi đây nữa?

Đáp: Dùng “phân biệt trí” mà quán, sẽ biết được thật tướng của ngũ ấm là “như pháp tánh thật tế”. Thế nhưng đã quán thì chẳng thể là “không” được.

Người tu phải dùng “vô phân biệt trí”, mới biết rõ “pháp tánh” vốn là “vô tánh” vậy.

Hỏi: Sắc là tự pháp, thức là tha pháp. Như vậy, vì sao lại nói hết thảy pháp đều là “như pháp tánh thật tế”? Vì sao nói dù có Phật, hay dù chưa có Phật thì các Pháp vẫn thường trú trong “như pháp tánh thật tế”?

Đáp: Ở nơi “như pháp tánh thật tế” mà chẳng chấp, thì “tha pháp” mới là “tha pháp không”.

Do “tha pháp tướng” là không, là bất khả đắc, nên nói “tha pháp, tha pháp tướng không”.

Phàm phu do chưa đoạn được các kiến chấp, nên vừa nghe nói đến “như pháp tánh thật tế” thì liền dấy niệm nghĩ rằng: Ngoài “như pháp tánh thật tế” vẫn còn các pháp khác nữa.

Nên biết rằng ngoài “như pháp tánh thật tế” chẳng còn pháp nào riêng khác nữa.

(Hết quyển 46)