LUẬN CHÚNG SỰ PHẦN A TỲ ĐÀM
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Đà La và Bồ Đề Da Xá
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 10
Phẩm 7: THIÊN VẤN LUẬN, phần 3
B. Gồm có: 1. Thiền. 2. Vô lượng. 3. Vô sắc. 4. Tam ma-đề định. 5. Bồ-đề phẩm. 6. Căn. 7. Nhập. 8. Ấm. 9. Giới.
**
1. Thiền: Là bốn thiền.
Hỏi: Những gì là bốn?
Đáp: Là thiền thứ nhất (Sơ thiền), thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư.
*
Hỏi: Bốn thiền nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc v.v…?
Đáp: Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu, đó là sắc, còn lại là không phải sắc.
Hết thảy là không thể thấy.
Hết thảy là không đối.
Hỏi: Bốn thiền nầy: Bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thiền hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Là thiền gồm thâu năm ấm hữu lậu. Thế nào là vô lậu? Là thiền gồm thâu năm ấm vô lậu.
Hết thảy là hữu vi.
Thiền nếu hữu lậu là có báo, nếu vô lậu là không báo.
Hết thảy là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian.
Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu, là thuộc về sắc, ngoài ra là thuộc về danh.
Thiền gồm thâu tâm, ý, thức, là thuộc về nội nhập, còn lại là thuộc về ngoại nhập.
Hết thảy là trí nhận biết.
*
* Bốn thiền nầy: Thiền nếu hữu lậu là đoạn tri nhận biết và đoạn, nếu vô lậu là không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.
Hết thảy là nên tu.
Hết thảy là không cấu uế.
Hết thảy là quả cùng có quả.
Hết thảy là không thọ.
Thiền thâu nhận nghiệp thân, khẩu là do bốn đại tạo, còn lại là không phải do bốn đại tạo.
Hết thảy là hữu thượng.
Thiền nếu hữu lậu là hữu, nếu vô lậu là không phải hữu.
Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tâm bất tương ưng hành, là nhân không tương ưng, ngoài ra là nhân tương ưng.
*
* Bốn thiền nầy: Phần ít của năm xứ thiện gồm thâu bốn thiền, bốn thiền cũng gồm thâu phần ít của năm xứ thiện.
Không gồm thâu xứ bất thiện.
Không gồm thâu xứ vô ký.
Không gồm thâu xứ lậu.
Hoặc là xứ hữu lậu gồm thâu không phải là thiền, có bốn trường hợp: 1. Là xứ hữu lậu gồm thâu không phải là thiền: Là thiền không gồm thâu năm ấm hữu lậu. 2. Là thiền gồm thâu không phải là xứ hữu lậu: Là bốn thiền vô lậu. 3. Là xứ hữu lậu gồm thâu cũng là thiền: Là bốn thiền hữu lậu. 4. Không phải là xứ hữu lậu gồm thâu cũng không phải là thiền: Là thiền không gồm thâu năm ấm vô lậu và vô vi.
Hoặc là xứ vô lậu gồm thâu không phải là thiền, có bốn trường hợp: 1. Là xứ vô lậu gồm thâu không phải là thiền: Là thiền không gồm thâu năm ấm vô lậu và vô vi. 2. Là thiền gồm thâu không phải là xứ vô lậu: Là bốn thiền hữu lậu. 3. Là xứ vô lậu gồm thâu cũng là thiền: Là bốn thiền vô lậu. 4. Không phải là xứ vô lậu gồm thâu cũng không phải là thiền: Là thiền không gồm thâu năm ấm hữu lậu.
Hết thảy hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại.
Hết thảy nếu hữu lậu là thuộc cõi Sắc, nếu vô lậu là không hệ thuộc.
Hỏi: Bốn thiền nầy: Bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thiền hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc phi học phi vô học. Thế nào là học? Là thiền gồm thâu năm ấm học. Thế nào là vô học? Là thiền gồm thâu năm ấm vô học. Thế nào là phi học phi vô học? Là thiền gồm thâu năm ấm hữu lậu.
*
* Bốn thiền nầy: Thiền nếu hữu lậu là do tu đoạn, nếu vô lậu là không đoạn.
Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tâm bất tương ưng hành, là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Thiền gồm thâu thọ ấm, tưởng ấm, tương ưng với hành ấm, là tâm pháp, tâm tương ưng. Tâm ý thức tức là tâm.
Hỏi: Bốn thiền nầy: Bao nhiêu thứ là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ v.v…?
Đáp: Có bốn trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển: Là tâm ý thức. 3. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 4. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, còn lại là tâm bất tương ưng hành.
Như thọ, các thứ tưởng, hành cũng như vậy, trừ tự tánh của nó.
Ba thứ không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán, một thứ cần phân biệt: Sơ thiền hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: 1. Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và giác tương ưng với quán.
2. Là tương ưng với quán không phải là giác tùy chuyển: Là giác. 3. Là giác tùy chuyển cũng tương ưng với quán: Là giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp. 4. Không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán: Là trừ giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Hỏi: Bốn thiền nầy: Bao nhiêu thứ là kiến không phải là xứ kiến v.v…?
Đáp: Có bốn trường hợp: 1. Là kiến không phải là xứ kiến: Là thiền gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ vô lậu. 2. Là xứ kiến không phải là kiến: Là kiến không gồm thâu bốn thiền hữu lậu. 3. Là kiến cũng là xứ kiến: Là chánh kiến thế tục. 4. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là kiến không gồm thâu bốn thiền vô lậu.
Hết thảy không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của thiền.
Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tư, là nghiệp không phải là nghiệp báo, còn lại không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.
Hỏi: Bốn thiền nầy: Bao nhiêu thứ là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển v.v…?
Đáp: Có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tư. 2. Là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp: Là thọ ấm, tưởng ấm, thức ấm. Hoặc tư không gồm thâu hành ấm của nghiệp tùy chuyển. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy, ngoài ra không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy.
*
* Bốn thiền nầy: Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối, ngoài ra không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối.
Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.
Hết thảy là thiện cũng là nhân thiện.
Hết thảy không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.
Hết thảy không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký.
Hết thảy là duyên của nhân duyên cũng có nhân.
Hỏi: Bốn thiền nầy: Bao nhiêu thứ là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Sơ thiền hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp nơi quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là tâm, tâm pháp vị lai và nghiệp thân, khẩu nơi tâm bất tương ưng hành.
Như sơ thiền, thiền thứ hai, thiền thứ ba cũng như vậy.
Thiền thứ tư hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, cùng chánh thọ vô tưởng, đã khởi, sẽ khởi. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp nơi quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là tâm, tâm pháp nơi vị lai. Trừ thứ lớp nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại, cùng nghiệp thân, khẩu.
Thiền gồm thâu nghiệp thân, khẩu, tâm bất tương ưng hành, là duyên của duyên duyên không có duyên, ngoài ra là duyên của duyên duyên cũng có duyên.
Hết thảy là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng.
Thiền nếu hữu lậu là tùy lưu không phải là lưu, nếu vô lậu thì không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu.
**
2. Vô lượng: Là bốn vô lượng.
Hỏi: Những gì là bốn?
Đáp: Từ, bi, hỷ, xả.
*
Hỏi: Bốn vô lượng nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc?
Đáp: Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc, ngoài ra là không phải sắc.
Hết thảy là không thể thấy.
Hết thảy là không đối.
Hết thảy là hữu lậu.
Hết thảy là hữu vi.
Hết thảy là có báo.
Hết thảy là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian.
Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu là thuộc về sắc, ngoài ra là thuộc về danh.
Vô lượng gồm thâu tâm ý thức là thuộc về nội nhập, ngoài ra là thuộc về ngoại nhập.
Hết thảy là trí nhận biết.
*
* Bốn vô lượng nầy: Hết thảy là đoạn tri nhận biết và đoạn.
Hết thảy là nên tu.
Hết thảy là không cấu uế.
Hết thảy là quả cùng có quả.
Hết thảy là hữu thượng.
Hết thảy là không thọ.
Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu là do bốn đại tạo, ngoài ra là không phải do bốn đại tạo.
Hết thảy là hữu.
Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tâm bất tương ưng hành là nhân không tương ưng, ngoài ra là nhân tương ưng.
*
* Bốn vô lượng nầy: Phần ít của năm xứ thiện gồm thâu bốn vô lượng, bốn vô lượng cũng gồm thâu phần ít của năm xứ thiện.
Không gồm thâu xứ bất thiện.
Không gồm thâu xứ vô ký.
Không gồm thâu xứ lậu.
Không gồm thâu xứ vô lậu.
Phần ít của năm xứ hữu lậu gồm thâu bốn vô lượng, bốn vô lượng cũng gồm thâu phần ít của năm xứ hữu lậu.
Hết thảy hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại.
Hết thảy đều là thiện.
Hết thảy là thuộc cõi Sắc.
Hết thảy là phi học phi vô học.
*
* Bốn vô lượng nầy: Hết thảy là do tu đoạn.
Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu, tâm bất tương ưng hành là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Vô lượng gồm thâu thọ ấm, tưởng ấm, tương ưng với hành ấm là tâm pháp, tâm tương ưng. Tâm ý thức tức là tâm.
Hỏi: Bốn vô lượng nầy: Bao nhiêu thứ là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Từ hoặc là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, có bốn trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển: Là tâm ý thức. 3. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 4. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Như Từ, các thứ Bi, Hỷ, Xả cũng như thế.
Như thọ, các thứ tưởng, hành cũng như vậy, trừ tự tánh của nó.
Hỏi: Bốn vô lượng nầy: Bao nhiêu thứ là giác tùy chuyển không tương ưng với quán v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Từ hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: 1. Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và giác tương ưng với quán. 2. Là tương ưng với quán không phải là giác tùy chuyển: Là giác. Như giác không tương ưng với quán vì tương ưng với tâm, tâm pháp. 3. Là giác tùy chuyển cũng tương ưng với quán: Là giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp. 4. Không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán: Là trừ giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại. Trừ giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại, và giác không tương ưng với quán cùng không phải giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp.
Như Từ, các thứ Bi, Xả cũng như vậy.
Hỷ hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: 1. Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và giác tương ưng với quán. 2. Là tương ưng với quán không phải là giác tùy chuyển: Là giác. 3. Là giác tùy chuyển cũng tương ưng với quán: Là giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp. 4. Không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán: Là trừ giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại. Trừ giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại, cùng không phải giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp.
Vô lượng hoặc là kiến cũng là xứ kiến, hoặc là xứ kiến không phải là kiến. Là kiến cũng là xứ kiến: Là chánh kiến thế tục, còn lại là xứ kiến không phải là kiến.
Hết thảy không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của vô lượng.
Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tư là nghiệp không phải là nghiệp báo, ngoài ra không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.
Hỏi: Bốn vô lượng nầy: Bao nhiêu thứ là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển?
Đáp: Có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tư. 2. Là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp: Là thọ ấm, tưởng ấm, thức ấm. Tư không gồm thâu hành ấm của nghiệp tùy chuyển. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy, ngoài ra không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy.
*
* Bốn vô lượng nầy: Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối, ngoài ra không phải là sắc tạo tác cũng không phải là sắc có đối.
Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.
Hết thảy là thiện cũng là nhân thiện.
Hết thảy không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.
Hết thảy không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký.
Hết thảy là duyên của nhân duyên cũng có nhân.
Hỏi: Bốn vô lượng nầy: Bao nhiêu thứ là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên v.v…?
Đáp: Có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp nơi quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, là tâm, tâm pháp còn lại ở vị lai, là nghiệp thân, khẩu nơi tâm bất tương ưng hành.
Vô lượng gồm thâu nghiệp thân, khẩu, tâm bất tương ưng hành là duyên của duyên duyên không có duyên, còn lại là duyên của duyên duyên cũng có duyên.
Hết thảy là duyên của tăng thượng duyên cũng có tăng thượng.
Hết thảy là tùy lưu không phải là lưu.
**
3. Vô sắc: Là bốn vô sắc.
Hỏi: Những gì là bốn?
Đáp: Không nhập xứ, Thức nhập xứ, Vô sở hữu nhập xứ, Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ.
*
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc v.v…?
Đáp: Hết thảy là không phải sắc.
Hết thảy là không thể thấy.
Hết thảy là không đối.
Một thứ là hữu lậu, ba thứ cần phân biệt: Không xứ hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Là không xứ gồm thâu bốn ấm hữu lậu. Thế nào là vô lậu? Là không xứ gồm thâu bốn ấm vô lậu.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy.
Hết thảy là hữu vi.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không báo v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Không xứ hoặc là có báo, hoặc là không báo. Thế nào là có báo? Là không xứ hữu lậu thiện. Thế nào là không báo? Là không xứ vô lậu, vô ký.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy.
Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc là có báo, hoặc là không báo. Thế nào là có báo? Là Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiện. Thế nào là không báo? Là Phi tưởng phi phi tưởng xứ vô ký.
Hết thảy là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian.
Hết thảy là thuộc về danh.
Vô sắc gồm thâu tâm, ý, thức là thuộc về nội nhập, ngoài ra là thuộc về ngoại nhập.
Hết thảy là trí nhận biết.
*
* Bốn vô sắc nầy: Một thứ là đoạn tri nhận biết và đoạn, ba thứ cần phân biệt: Ba thứ nếu hữu lậu là đoạn tri nhận biết và đoạn, nếu vô lậu là không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là nên tu, bao nhiêu thứ là không nên tu v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Không xứ hoặc nên tu, hoặc không nên tu. Thế nào là nên tu? Là không xứ thiện. Thế nào là không nên tu? Là không xứ vô ký.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng như vậy.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là cấu uế, bao nhiêu thứ là không cấu uế?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Vô sắc hoặc là cấu uế, hoặc là không cấu uế. Thế nào là cấu uế? Là ẩn mất (hữu phú). Thế nào là không cấu uế? Là không ẩn mất (vô phú).
Hết thảy là quả cùng có quả.
Hết thảy là không thọ.
Hết thảy là không phải do bốn đại tạo.
Hết thảy là hữu thượng.
Một thứ là hữu, ba thứ cần phân biệt: Ba thứ nếu hữu lậu là hữu, nếu vô lậu là không phải hữu.
Vô sắc gồm thâu tâm bất tương ưng hành là nhân không tương ưng, ngoài ra là nhân tương ưng.
*
* Bốn vô sắc nầy: Hoặc xứ thiện gồm thâu không phải là vô sắc, có bốn trường hợp: 1. Là xứ thiện gồm thâu không phải là vô sắc: Là sắc ấm thiện. Vô sắc không gồm thâu bốn ấm thiện và số diệt. 2. Là vô sắc gồm thâu không phải là xứ thiện: Là bốn vô sắc vô ký. 3. Là xứ thiện gồm thâu cũng là vô sắc: Là bốn vô sắc thiện. 4. Không phải là xứ thiện gồm thâu cũng không phải là vô sắc: Là năm ấm bất thiện, sắc ấm vô ký, và vô sắc không gồm thâu bốn ấm vô ký và hư không, phi số diệt.
Không gồm thâu xứ bất thiện.
Hoặc xứ vô ký gồm thâu không phải là vô sắc, có bốn trường hợp: 1. Là xứ vô ký gồm thâu không phải là vô sắc: Là sắc ấm vô ký. Vô sắc không gồm thâu bốn ấm vô ký, hư không, phi số diệt. 2. Là vô sắc gồm thâu không phải là xứ vô ký: Là bốn vô sắc thiện. 3. Là xứ vô ký gồm thâu cũng là vô sắc: Là bốn vô sắc vô ký. 4. Không phải là xứ vô ký gồm thâu cũng không phải là vô sắc: Là năm ấm thiện và phi số diệt.
Hoặc xứ lậu gồm thâu không phải là vô sắc, có bốn trường hợp: 1. Là xứ lậu gồm thâu không phải là vô sắc: Là một xứ lậu và phần ít của hai xứ lậu. 2. Là vô sắc gồm thâu không phải là xứ lậu:
Là xứ lậu không gồm thâu bốn vô sắc. 3. Là xứ lậu gồm thâu cũng là vô sắc: Là phần ít nơi hai xứ lậu. 4. Không phải là xứ lậu gồm thâu cũng không phải là vô sắc: Là sắc ấm và xứ lậu không gồm thâu bốn ấm và vô vi.
Hoặc xứ hữu lậu gồm thâu không phải là vô sắc, có bốn trường hợp: 1. Là xứ hữu lậu gồm thâu không phải là vô sắc: Là sắc ấm hữu lậu. Vô sắc không gồm thâu bốn ấm hữu lậu. 2. Là vô sắc gồm thâu không phải là xứ hữu lậu: Là phần ít của ba vô sắc. 3. Là xứ hữu lậu gồm thâu cũng là vô sắc: Là một vô sắc và phần ít của ba vô sắc. 4. Không phải là xứ hữu lậu gồm thâu cũng không phải là vô sắc: Là sắc ấm vô lậu và vô sắc không gồm thâu bốn ấm vô lậu và vô vi.
Hoặc xứ vô lậu gồm thâu không phải là vô sắc, có bốn trường hợp: 1. Là xứ vô lậu gồm thâu không phải là vô sắc: Là sắc ấm vô lậu. Vô lậu không gồm thâu bốn sắc vô lậu và vô vi. 2. Là vô sắc gồm thâu không phải là xứ vô lậu: Là một vô sắc và phần ít của ba vô sắc. 3. Là xứ vô lậu gồm thâu cũng là vô sắc: Là phần ít của ba vô sắc. 4. Không phải là xứ vô lậu gồm thâu cũng không phải là vô sắc: Là sắc ấm hữu lậu và vô sắc không gồm thâu bốn ấm hữu lậu.
Hết thảy hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là vô ký v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Vô sắc hoặc là thiện, hoặc là vô ký. Thế nào là thiện? Là vô sắc gồm thâu bốn ấm thiện. Thế nào là vô ký? Là vô sắc gồm thâu bốn ấm vô ký.
Một thứ thuộc cõi Vô sắc, ba thứ cần phân biệt: Ba thứ nếu hữu lậu là thuộc cõi Vô sắc, nếu vô lậu là không hệ thuộc.
Một thứ là phi học phi vô học, ba thứ cần phân biệt: Không xứ hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Thế nào là học? Là không xứ gồm thâu bốn ấm học. Thế nào là vô học? Là không xứ gồm thâu bốn ấm vô học. Thế nào là phi học phi vô học? Là không xứ gồm thâu bốn ấm hữu lậu.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy.
*
* Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là do kiến đoạn, bao nhiêu thứ là do tu đoạn, bao nhiêu thứ là không đoạn v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Không xứ hoặc là do kiến đoạn, hoặc là do tu đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là không xứ nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn. Đoạn trừ những gì? Là kiến đạo đoạn trừ hai mươi tám sử tương ưng với không xứ, đã khởi tâm bất tương ưng hành. Thế nào là do tu đoạn? Là không xứ nơi bậc học kiến tích tu đoạn. Đoạn trừ những gì? Là tu đạo đoạn trừ ba sử tương ưng với không xứ, đã khởi tâm bất tương ưng hành và không xứ hữu lậu không cấu uế. Thế nào là không đoạn? Là không xứ vô lậu.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy.
Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc là do kiến đoạn, hoặc là do tu đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là phi tưởng phi phi tưởng xứ nơi người tùy tín hanh, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn. Đoạn trừ như thế nào? Là kiến đạo đoạn trừ hai mươi tám sử tương ưng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã khởi tâm bất tương ưng hành. Thế nào là do tu đoạn? Là phi tưởng phi phi tưởng xứ nơi bậc học kiến tích tu đoạn. Đoạn trừ như thế nào? Là tu đạo đoạn trừ ba sử tương ưng với Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đã khởi tâm bất tương ưng hành, và Phi tưởng phi phi tưởng xứ hữu lậu không cấu uế.
Vô sắc gồm thâu tâm bất tương ưng hành là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Vô sắc gồm thâu thọ ấm, tưởng ấm, tương ưng với hành ấm là tâm pháp, tâm tương ưng. Tâm ý thức tức là tâm.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ v.v…?
Đáp: Có bốn trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển: Là tâm ý thức. 3. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 4. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Như thọ, các thứ tưởng, hành cũng như vậy, trừ tự tánh của nó.
Hết thảy không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là kiến không phải là xứ kiến v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Không xứ hoặc là kiến không phải là xứ kiến, có bốn trường hợp: 1. Là kiến không phải là xứ kiến: Là không xứ gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ vô lậu. 2. Là xứ kiến không phải là kiến: Là kiến không gồm thâu không xứ hữu lậu. 3. Là kiến cũng là xứ kiến: Là chánh kiến thế tục của năm kiến. 4. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là kiến không gồm thâu không xứ vô lậu.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy.
Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc là kiến cũng là xứ kiến, hoặc là xứ kiến không phải là kiến. Là kiến cũng là xứ kiến: Là chánh kiến thế tục của năm kiến, ngoài ra là xứ kiến không phải là kiến.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là nhân của thân kiến v.v…, nói rộng như nơi khổ tập đế.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là nghiệp không phải là nghiệp báo v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Không xứ hoặc là nghiệp không phải là nghiệp báo, có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp báo: Là báo không gồm thâu nghiệp tư. 2. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là tư không gồm thâu báo sinh nơi không xứ. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp báo: Là báo sinh nơi nghiệp tư. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo: Là trừ nghiệp, nghiệp báo nơi không xứ, là không xứ còn lại.
Như Không xứ, thức xứ, vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ cũng như vậy.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển v.v…?
Đáp: Có ba trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tư. 2. Là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp: Là thọ ấm, tưởng ấm, thức ấm. Tư không gồm thâu hành ấm của nghiệp tùy chuyển. 3. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Hết thảy không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy.
*
* Bốn vô sắc nầy: Hết thảy không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối.
Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là nhân thiện không phải là thiện v.v…?
Đáp: Có ba trường hợp: 1. Là nhân thiện không phải là thiện: Là báo thiện sinh nơi bốn vô sắc. 2. Là thiện cũng là nhân thiện: Là bốn vô sắc thiện. 3. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là trừ báo thiện sinh nơi bốn vô sắc, còn lại là bốn vô sắc vô ký.
Hết thảy không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là vô ký không phải là nhân vô ký v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Vô sắc hoặc là vô ký cũng là nhân vô ký, hoặc không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký. Là vô ký cũng là nhân vô ký: Là bốn vô sắc vô ký. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là bốn vô sắc thiện.
Hết thảy là duyên của nhân duyên cũng có nhân.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Không xứ hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là không xứ của tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, là không xứ của tâm, tâm pháp nơi mạng sống tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ không xứ của tâm, tâm pháp nơi mạng sống tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, còn lại là không xứ của tâm, tâm pháp nơi quá khứ hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ không xứ của tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là không xứ của tâm, tâm pháp ở vị lai và tâm bất tương ưng hành.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy.
Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là Phi tưởng phi phi tưởng xứ của tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, là Phi tưởng phi phi tưởng xứ của tâm, tâm pháp nơi đời sống tối hậu của bậc A-la-hán, và chánh thọ (định) diệt tận, đã khởi, sẽ khởi. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ Phi tưởng phi phi tưởng xứ của tâm, tâm pháp nơi đời sống tối hậu của bậc A-la-hán nơi quá khứ, hiện tại, còn lại là Phi tưởng phi phi tưởng nơi quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ Phi tưởng phi phi tưởng xứ của tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là Phi tưởng phi phi tưởng xứ của tâm, tâm pháp ở vị lai. Trừ thứ lớp nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Vô sắc không gồm thâu tâm bất tương ưng hành là duyên của duyên duyên không có duyên, còn lại là duyên của duyên duyên cùng có duyên.
Hết thảy là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng.
Hỏi: Bốn vô sắc nầy: Bao nhiêu thứ là lưu, bao nhiêu thứ là tùy lưu?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Không xứ hoặc là tùy lưu không phải là lưu, có ba trường hợp: 1. Là tùy lưu không phải là lưu: Là trừ lưu, còn lại là không xứ hữu lậu. 2. Là lưu cũng là tùy lưu: Là phần ít của ba lưu. 3. Không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu: Là không xứ vô lậu.
Như Không xứ, Thức xứ, Vô sở hữu xứ cũng như vậy.
Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc là lưu cũng là tùy lưu, hoặc là tùy lưu không phải là lưu. Là lưu cũng là tùy lưu: Là phần ít của ba lưu. Đây là lưu cũng là tùy lưu, còn lại là tùy lưu không phải là lưu.
**
4. Tam-ma-đề định: Là bốn Tam-muội tu.
Hỏi: Những gì là bốn?
Đáp: Nghĩa là: Có Tam-muội tu rộng tu tập trụ nơi hiện pháp lạc chuyển. Có Tam-muội tu rộng tu tập tri kiến chuyển. Có Tammuội tu rộng tu tập tuệ phân biệt chuyển. Có Tam-muội tu rộng tu tập lậu tận chuyển.
*
Hỏi: Bốn Tam-muội tu nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc?
Đáp: Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc, còn lại là không phải sắc.
Hết thảy là không thể thấy.
Hết thảy là không đối.
Một thứ là hữu lậu, một thứ là vô lậu, hai thứ cần phân biệt: Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? là Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc gồm thâu năm ấm hữu lậu. Thế nào là vô lậu? Là Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc gồm thâu năm ấm vô lậu.
Tam-muội tu tuệ phân biệt hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm hữu lậu. Thế nào là vô lậu? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm vô lậu.
Hết thảy là hữu vi.
Một thứ là có báo, một thứ là không báo, hai thứ cần phân biệt: Hai thứ nếu hữu lậu là có báo, nếu vô lậu là không báo.
Hết thảy là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian.
Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu là thuộc về sắc, còn lại là thuộc về danh.
Tam-muội tu gồm thâu tâm, ý, thức là thuộc về nội nhập, còn lại là thuộc về ngoại nhập.
Hết thảy là trí nhận biết.
*
* Bốn Tam-muội tu nầy: Một thứ là đoạn tri nhận biết và đoạn, một thứ không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn, hai thứ cần phân biệt: Hai thứ nếu hữu lậu là đoạn tri nhận biết và đoạn, nếu vô lậu là không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.
Hết thảy là nên tu.
Hết thảy là không cấu uế.
Hết thảy là quả cùng có quả.
Hết thảy là không thọ.
Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu là do bốn đại tạo, ngoài ra là không phải do bốn đại tạo.
Hết thảy là hữu thượng.
Một thứ là hữu, một thứ không phải là hữu, hai thứ cần phân biệt: Hai thứ nếu hữu lậu là hữu, nếu vô lậu là không phải hữu.
Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tâm bất tương ưng hành là nhân không tương ưng, còn lại là nhân tương ưng.
*
* Bốn Tam-muội tu nầy: Phần ít của năm xứ thiện gồm thâu bốn Tam-muội tu, bốn Tam-muội tu cũng gồm thâu phần ít của năm xứ thiện.
Không gồm thâu xứ bất thiện.
Không gồm thâu xứ vô ký.
Không gồm thâu xứ lậu.
Hoặc xứ hữu lậu gồm thâu không phải là Tam-muội tu, có bốn trường hợp: 1. Là xứ hữu lậu gồm thâu không phải là Tam-muội tu: Là Tam-muội tu không gồm thâu năm ấm hữu lậu. 2. Là Tam-muội tu gồm thâu không phải là xứ hữu lậu: Là một Tam-muội tu và phần ít của hai Tam-muội tu. 3. Là xứ hữu lậu gồm thâu cũng là Tam-muội tu: Là một Tam-muội tu và phần ít của hai Tam-muội tu. 4. Không phải là xứ hữu lậu gồm thâu cũng không phải là Tam-muội tu: Là hư không và số diệt, phi số diệt.
Hoặc xứ vô lậu gồm thâu không phải là Tam-muội tu, có bốn trường hợp: 1. Là xứ vô lậu gồm thâu không phải là Tam-muội tu: Là hư không và số diệt, phi số diệt. 2. Là Tam-muội tu gồm thâu không phải là xứ vô lậu: Là một Tam-muội tu và phần ít của hai Tam-muội tu. 3. Là xứ vô lậu gồm thâu cũng là Tam-muội tu: Là một Tam-muội tu và phần ít của hai Tam-muội tu. 4. Không phải là xứ vô lậu gồm thâu cũng không phải là Tam-muội tu: Là Tam-muội tu không gồm thâu năm ấm hữu lậu.
Hết thảy hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại.
Hết thảy đều là thiện.
Một thứ là thuộc cõi Sắc, một thứ là không hệ thuộc, hai thứ cần phân biệt: Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc nếu là hữu lậu thì thuộc cõi Sắc, nếu là vô lậu thì không hệ thuộc.
Tam-muội tu tuệ phân biệt hoặc là thuộc cõi Dục, hoặc là thuộc cõi Sắc, hoặc là thuộc cõi Vô sắc, hoặc là không hệ thuộc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm thuộc cõi Dục. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm thuộc cõi Sắc. Thế nào là thuộc cõi Vô sắc? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là không hệ thuộc? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm vô lậu.
Một thứ là vô học, một thứ là phi học phi vô học, hai thứ cần phân biệt: Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Thế nào là học? Là Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc gồm thâu năm ấm học. Thế nào là vô học? Là Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc gồm thâu năm ấm vô học. Thế nào là phi học phi vô học? Là Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc gồm thâu năm ấm hữu lậu.
Tam-muội tu tuệ phân biệt hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Thế nào là học? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm học. Thế nào là vô học? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm vô học. Thế nào là phi học phi vô học? Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu năm ấm hữu lậu.
*
* Bốn Tam-muội tu nầy: Một thứ là do tu đoạn, một thứ là không đoạn, hai thứ cần phân biệt: Hai thứ nếu hữu lậu là do tu đoạn, nếu vô lậu là không đoạn.
Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tâm bất tương ưng hành là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Tam-muội tu gồm thâu thọ ấm, tưởng ấm, tương ưng với hành ấm là tâm pháp, tâm tương ưng. Tâm ý thức tức là tâm.
Hỏi: Bốn Tam-muội tu nầy: Bao nhiêu thứ là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc hoặc là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ, có bốn trường hợp:
1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển: Là tâm ý thức. 3. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 4. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Như Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc, Tam-muội tu tri kiến, Tammuội tu lậu tận cũng như vậy.
Tam-muội tu tuệ phân biệt hoặc là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, có bốn trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển: Là tâm ý thức. 3. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 4. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại, trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.
Như thọ, các thứ tưởng, hành cũng như vậy, trừ tự tánh của nó.
Một thứ là không giác không quán, ba thứ cần phân biệt: Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là như đã nói rộng ở phần Tâm hỷ. Tam-muội tu tri kiến cũng như vậy. Tam-muội tu tuệ phân biệt nói rộng như ở phần Tâm từ.
Hỏi: Bốn Tam-muội tu nầy: Bao nhiêu thứ là kiến không phải là xứ kiến v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc hoặc là kiến không phải là xứ kiến, có bốn trường hợp: 1. Là kiến không phải là xứ kiến: Là Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ vô lậu. 2. Là xứ kiến không phải là kiến: Là kiến không gồm thâu Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc hữu lậu. 3. Là kiến cũng là xứ kiến: Là chánh kiến thế tục. 4. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là kiến không gồm thâu Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc vô lậu.
Tam-muội tu tri kiến hoặc là kiến cũng là xứ kiến, hoặc là xứ kiến không phải là kiến. Là kiến cũng là xứ kiến: Là Tam-muội tu tri kiến gồm thâu chánh kiến thế tục, còn lại là xứ kiến không phải là kiến.
Tam-muội tu tuệ phân biệt hoặc là kiến không phải là xứ kiến, có bốn trường hợp: 1. Là kiến không phải là xứ kiến: Là Tam-muội tu tuệ phân biệt gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ vô lậu. 2. Là xứ kiến không phải là kiến: Là kiến không gồm thâu Tammuội tu tuệ phân biệt hữu lậu. 3. Là kiến cũng là xứ kiến: Là chánh kiến thế tục. 4. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là kiến không gồm thâu Tam-muội tu tuệ phân biệt vô lậu.
Tam-muội tu lậu tận gồm thâu tuệ là kiến không phải là xứ kiến, còn lại không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến.
Hết thảy không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của Tam-muội tu.
Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tư, là nghiệp không phải là nghiệp báo, còn lại không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.
Hỏi: Bốn Tam-muội tu nầy: Bao nhiêu thứ là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Tam-muội tu trụ hiện pháp lạc, Tam-muội tu tri kiến, Tam-muội tu lậu tận đã nói rộng nơi bốn trường hợp, như trong Tu-đa-la Thiền đã phân biệt. Tam-muội tu tuệ phân biệt đã nói rộng nơi bốn trường hợp, như trong Tu-đa-la Thánh chủng đã phân biệt.
Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy, ngoài ra không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy.
*
* Bốn Tam-muội tu nầy: Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối, ngoài ra không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối.
Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.
Hết thảy là thiện cũng là nhân thiện.
Hết thảy không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.
Hết thảy không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký.
Hết thảy là duyên của nhân duyên cùng có nhân.
Hỏi: Bốn Tam-muội tu nầy: Bao nhiêu thứ là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Tam-muội tu hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là tâm, tâm pháp nơi quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, là tâm, tâm pháp vị lai còn lại, cùng nghiệp thân, khẩu, tâm bất tương ưng hành.
Tam-muội tu gồm thâu nghiệp thân, khẩu là duyên của duyên duyên không có duyên, còn lại là duyên của duyên duyên cùng có duyên.
Hết thảy là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng.
Một thứ là tùy lưu không phải là lưu, một thứ không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu, hai thứ cần phân biệt: Hai thứ nếu hữu lậu là tùy lưu không phải là lưu, nếu vô lậu không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu.
**
5. Bồ-đề phẩm: Là bảy giác chi.
Hỏi: Những gì là bảy?
Đáp: Niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, ỷ (khinh an) giác chi, định giác chi, hỷ giác chi, xả giác chi.
*
Hỏi: Bảy giác chi nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc v.v…?
Đáp: Hết thảy là không phải sắc.
Hết thảy là không thể thấy.
Hết thảy là không đối.
Hết thảy là vô lậu.
Hết thảy là hữu vi.
Hết thảy là không báo.
Hết thảy là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian.
Hết thảy là thuộc về danh.
Hết thảy là thuộc về ngoại nhập.
Hết thảy là trí nhận biết.
*
* Bảy giác chi nầy: Hết thảy là không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.
Hết thảy là nên tu.
Hết thảy là không cấu uế.
Hết thảy là quả cùng có quả.
Hết thảy là không thọ.
Hết thảy là không phải do bốn đại tạo.
Hết thảy là hữu thượng.
Hết thảy là không phải hữu.
Hết thảy là nhân tương ưng.
*
* Bảy giác chi nầy: Phần ít của hai xứ thiện gồm thâu bảy giác chi, bảy giác chi cũng gồm thâu phần ít của hai xứ thiện.
Không gồm thâu xứ bất thiện.
Không gồm thâu xứ vô ký.
Không gồm thâu xứ lậu.
Không gồm thâu xứ hữu lậu.
Phần ít của hai xứ vô lậu gồm thâu bảy giác chi, bảy giác chi cũng gồm thâu phần ít của hai xứ vô lậu.
Hết thảy hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại.
Hết thảy đều là thiện.
Hết thảy là không hệ thuộc.
Hỏi: Bảy giác chi nầy: Bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Niệm giác chi hoặc là học, hoặc là vô học. Thế nào là học? Là ý học tư duy tương ưng với niệm giác chi. Thế nào là vô học? Là ý vô học tư duy tương ưng với niệm giác chi.
Như niệm giác chi, các giác chi khác cũng như vậy.
*
* Bảy giác chi nầy: Hết thảy là không đoạn.
Hết thảy là tâm pháp, tâm tương ưng.
Một thứ là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, sáu thứ là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ.
Hết thảy là tâm tùy chuyển tương ưng với tưởng, hành, trừ tự tánh của nó.
Hỏi: Bảy giác chi nầy: Bao nhiêu thứ là giác tùy chuyển không tương ưng với quán v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Niệm giác chi hoặc là có giác có quán, hoặc là không giác có quán, hoặc là không giác không quán. Thế nào là có giác có quán? Là ý có giác có quán tư duy tương ưng với niệm giác chi. Thế nào là không giác có quán? Là ý không giác có quán tư duy tương ưng với niệm giác chi. Thế nào là không giác không quán? Là ý không giác không quán tư duy tương ưng với niệm giác chi.
Như niệm giác chi, trạch pháp giác chi, tinh tấn giác chi, ỷ (khinh an) giác chi, định giác chi, xả giác chi cũng như vậy.
Hỷ giác chi hoặc là có giác có quán, hoặc là không giác không quán. Thế nào là có giác có quán? Là ý có giác có quán tư duy tương ưng với hỷ giác chi. Thế nào là không giác không quán? Là ý không giác không quán tư duy tương ưng với hỷ giác chi.
Sáu thứ không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến, một thứ cần phân biệt: Trạch pháp giác chi gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ vô lậu, là kiến không phải là xứ kiến, còn lại không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến.
Hết thảy không phải là nhân của thân kiến, thân kiến cũng không phải là nhân của giác chi.
Hết thảy không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo. Hết thảy là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp.
Hết thảy không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy.
*
* Bảy giác chi nầy: Hết thảy không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối.
Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.
Hết thảy là thiện cũng là nhân thiện.
Hết thảy không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện.
Hết thảy không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký.
Hết thảy là duyên của nhân duyên cũng có nhân.
Hỏi: Bảy giác chi nầy: Bao nhiêu thứ là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên v.v…?
Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Niệm giác chi hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là niệm giác chi tất khởi ở hiện tiền, vị lai. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là niệm giác chi ở quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ niệm giác chi tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là niệm giác chi ở vị lai.
Như niệm giác chi, các giác chi còn lại cũng như vậy.
Hết thảy là duyên của duyên duyên cũng có duyên.
Hết thảy là duyên của tăng thượng duyên cũng có tăng thượng.
Hết thảy không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu.
HẾT – QUYỂN 10