LUẬN CHÚNG SỰ PHẦN A TỲ ĐÀM
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Đà La và Bồ Đề Da Xá
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 5

Phẩm 6: PHÂN BIỆT THÂU TÓM, phần 2

Thế nào là pháp thiện? Là năm ấm thiện và số diệt.

Thế nào là pháp bất thiện? Là năm ấm bất thiện.

Thế nào là pháp vô ký? Là năm ấm vô ký và hư không, phi số diệt.

*

Thế nào là pháp học? Là năm ấm học.

Thế nào là pháp vô học? Là năm ấm vô học.

Thế nào là pháp phi học phi vô học? Là năm ấm hữu lậu và vô vi. *

Thế nào là pháp do kiến đoạn? Là như pháp nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành, nhẫn vô gián cùng đoạn. Người ấy đoạn thế nào? Là bậc kiến đạo đoạn trừ tám mươi tám sử, do tương ưng với pháp, đã khởi tâm bất tương ưng hành.

Thế nào là pháp do tu đoạn? Là như pháp học, thấy dấu đạo, tu đoạn. Người kia đoạn thế nào? Là bậc tu đạo đoạn trừ mười sử, do tương ưng với pháp, đã dấy khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành và pháp hữu lậu không cấu uế.

Thế nào là pháp không đoạn? Là pháp vô lậu.

*

Thế nào là pháp do kiến đoạn nhân? Là pháp cấu uế, như báo của pháp do kiến đã đoạn.

Thế nào là pháp do tu đoạn nhân? Là pháp do tu đạo đoạn trừ, là đoạn trừ pháp như vậy.

Thế nào là pháp không đoạn nhân? Là pháp hữu vi vô lậu.

*

Thế nào là pháp có thể thấy có đối? Là một nhập.

Thế nào là pháp không thể thấy có đối? Là chín nhập.

Thế nào là pháp không thể thấy không đối? Là hai nhập.

*

Thế nào là pháp báo? Là như báo được phần ít của mười một nhập, trừ thanh nhập.

Thế nào là pháp không báo? Là pháp hữu lậu thiện, bất thiện, và thanh nhập.

Thế nào là pháp phi báo phi phi báo? Là trừ pháp báo vô ký, như còn lại là vô ký và pháp vô lậu.

*

Thế nào là pháp hạ? Là pháp bất thiện, pháp ẩn một (hữu phú) vô ký.

Thế nào là pháp trung? Là pháp hữu lậu thiện và pháp không ẩn một (vô phú) vô ký.

Thế nào là pháp thượng? Là pháp hữu vi vô lậu và số diệt.

*

Thế nào là pháp nhỏ? Là tin ít, mong muốn ít, ý hiểu ít, là pháp tương ưng, là pháp cùng có các thứ ấy, là pháp sắc, là ít, là mỏng, không nhiều, không rộng. Đó gọi là pháp nhỏ.

Thế nào là pháp lớn? Là tin lớn, mong muốn lớn, hiểu biết lớn, là pháp tương ưng, là pháp cùng có các thứ ấy, là pháp sắc, là nhiều, là rộng, là vô lượng, vô biên, không bờ bến, cùng hư không, phi số diệt. Đó gọi là pháp lớn.

Thế nào là pháp vô lượng? Là tin vô lượng, mong muốn vô lượng, hiểu biết vô lượng, là pháp tương ưng, là pháp cùng có các thứ ấy, là pháp sắc, là nhiều, là rộng, là vô lượng, vô biên, không bờ bến, cùng hư không, số diệt, phi số diệt. Đó gọi là pháp vô lượng

*

Thế nào là pháp ý lạc? Là pháp được ý ưa thích.

Thế nào là pháp không ý lạc? Là pháp không được ý ưa thích.

Thế nào là pháp phi ý lạc phi phi ý lạc? Là ý đối với pháp xả.

*

Thế nào là pháp lạc kết hợp? Là pháp tương ưng với lạc thọ.

Thế nào là pháp khổ kết hợp? Là pháp tương ưng với khổ thọ.

Thế nào là pháp không khổ không lạc kết hợp? Là pháp tương ưng với thọ không khổ, không vui.

*

Thế nào là pháp cùng khởi? Là hết thảy tướng sinh của pháp hữu vi.

Thế nào là pháp cùng trụ? Là hết thảy tướng trụ của pháp hữu vi.

Thế nào là pháp cùng diệt? Là hết thảy tướng diệt của pháp hữu vi.

*

Thế nào là pháp không cùng khởi? Là pháp vô vi không có tướng sinh.

Thế nào là pháp không cùng trụ? Là pháp vô vi không có tướng trụ.

Thế nào là pháp không cùng diệt? Là pháp vô vi không có tướng diệt.

*

Thế nào là pháp tâm cùng khởi? Là như tâm cùng khởi phần ít của mười một nhập, trừ ý nhập.

Thế nào là pháp tâm cùng trụ? Là như pháp tâm tùy chuyển.

Thế nào là pháp tâm cùng diệt? Là như tâm cùng diệt nơi phần ít của mười nhập, trừ thanh nhập và ý nhập.

*

Thế nào là pháp không phải tâm cùng khởi? Là ý nhập, như không phải tâm cùng khởi phần ít của mười một nhập.

Thế nào là pháp không phải tâm cùng trụ? Là như pháp không phải là tâm tùy chuyển.

Thế nào là pháp không phải tâm cùng diệt? Là thanh nhập, ý nhập, như không phải tâm cùng diệt nơi phần ít của mười nhập.

*

Thế nào là cảnh giới dục? Là dục tham tương ưng với dục tham. Như thọ tưởng hành thức đã phát khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành.

Thế nào là cảnh giới sân? Là giận dữ tương ưng với giận dữ. Như thọ tưởng hành thức đã dấy khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành.

Thế nào là cảnh giới hại? Là hại tương ưng với hại. Như thọ tưởng hành thức đã dấy khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành.

*

Thế nào là cảnh giới xuất yếu? Là xuất yếu tương ưng với xuất yếu. Như thọ tưởng hành thức đã dấy khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành và số diệt.

Thế nào là cảnh giới không sân? Là không giận dữ tương ưng với không giận dữ. Như thọ tưởng hành thức đã khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành.

Thế nào là cảnh giới không hại? Là không hại tương ưng với không hại. Như thọ tưởng hành thức đã khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành.

*

Thế nào là cõi Dục? Là như chốn sai khiến của pháp sử dục tham.

Thế nào là cõi Sắc? Là như chốn sai khiến của pháp sử sắc tham.

Thế nào là cõi Vô sắc? Là như chốn sai khiến của pháp sử vô sắc tham.

*

Thế nào là cảnh giới sắc? Là cảnh giới của sắc nơi cõi Dục. Đó gọi là cảnh giới của sắc.

Thế nào là cảnh giới vô sắc? Là bốn vô sắc. Đó gọi là cảnh giới của vô sắc.

Thế nào là cảnh giới diệt? Là số diệt và phi số diệt. Đó gọi là cảnh giới của diệt.

Lại nữa, hết thảy sắc pháp, đó gọi là sắc giới. Trừ số diệt, phi số diệt, hết thảy không phải là sắc pháp còn, đó gọi là vô sắc giới. Số diệt và phi số diệt, đó gọi là diệt giới.

*

Thế nào là dục hữu? Là như nghiệp thuộc cõi Dục, nhận duyên chuyển khởi nghiệp báo kia vào đời vị lai.

Thế nào là sắc hữu? Là như nghiệp thuộc cõi Sắc, nhận duyên chuyển khởi nghiệp báo kia vào đời vị lai.

Thế nào là vô sắc hữu? Là như nghiệp thuộc cõi Vô sắc, nhận duyên chuyển khởi nghiệp báo kia vào đời vị lai.

*

Thế nào là dục lậu? Là trừ vô minh thuộc cõi Dục, còn lại là phiền não triền tương ưng với kiết sử trói buộc thuộc cõi Dục. Đó gọi là dục lậu.

Thế nào là hữu lậu? Là trừ vô minh thuộc cõi Sắc, Vô sắc, còn lại là phiền não triền tương ưng với kiết sử trói buộc thuộc cõi Sắc, Vô sắc. Đó gọi là hữu lậu.

Thế nào là vô minh lậu? Là ngu tối không biết gì trong ba cõi. Đó gọi là vô minh lậu.

*

Thế nào là đời quá khứ? Là như hành đã khởi, cùng khởi, sinh, cùng sinh, chuyển, đã chuyển, đã có, đã đi qua, đã biến chuyển, đi qua hết, hoàn toàn là quá khứ, thuộc về quá khứ. Đó gọi là đời quá khứ.

Thế nào là đời vị lai? Là như hành chưa khởi, chưa cùng khởi, chưa sinh, chưa cùng sinh, chưa chuyển, chưa đã chuyển, chưa có, chưa hiện tại, chưa đến, hoàn toàn chưa đến, thuộc về đời vị lai. Đó gọi là đời vị lai.

Thế nào là đời hiện tại? Là như hành đang khởi, cùng khởi, sinh, cùng sinh, chuyển, đã chuyển, đã có, đã trụ trong hiện tại, chưa chuyển biến hết nơi hiện tại, hoàn toàn là hiện tại, thuộc về đời hiện tại. Đó gọi là đời hiện tại.

*

Thế nào là nói sự việc quá khứ? Là hành quá khứ.

Thế nào là nói sự việc vị lai? Là hành vị lai.

Thế nào là nói sự việc hiện tại? Là hành hiện tại.

*

Thế nào là khổ của khổ khổ, khổ của biến khổ, khổ của hành khổ? Là khổ của khổ khổ thuộc cõi Dục, khổ của biến khổ thuộc cõi Sắc, khổ của hành khổ thuộc cõi Vô sắc.

Lại nữa, khổ của khổ khổ nơi khổ thọ, khổ của biến khổ nơi lạc thọ, khổ của hành khổ nơi không khổ không lạc thọ.

Lại nữa, khổ của khổ khổ nơi không phải hành ý lạc, khổ của biến khổ nơi hành ý lạc, khổ của hành khổ nơi hành phi ý lạc phi phi ý lạc.

*

Thế nào là pháp có giác có quán? Là như giác, quán tương ưng nhau.

Thế nào là pháp không giác có quán? Là như pháp quán tương ưng nhưng giác không tương ưng.

Thế nào là pháp không giác không quán? Là như pháp giác, quán không tương ưng nhau.

*

Thế nào là địa có giác có quán? Là cõi Dục cho đến cõi Phạm thế và pháp vô lậu.

Thế nào là địa không giác có quán? Là tu thiền trung gian rồi, có thể đạt đến cõi Đại Phạm và pháp vô lậu.

Thế nào là địa không giác không quán? Là hết thảy cõi Quang âm, Biến tịnh, Quả thật, vô sắc và pháp vô lậu.

*

Thế nào là nghiệp thân? Là thân tạo tác cùng không tạo tác.

Thế nào là nghiệp miệng? Là miệng hành tác và không hành tác.

Thế nào là nghiệp ý? Là nghiệp tư duy.

*

Thế nào là nghiệp thiện? Là nghiệp thân, khẩu thiện và nghiệp tư duy thiện.

Thế nào là nghiệp bất thiện? Là nghiệp thân, khẩu bất thiện và nghiệp tư duy bất thiện.

Thế nào là nghiệp vô ký? Là nghiệp thân, khẩu vô ký và nghiệp tư duy vô ký.

*

Thế nào là nghiệp học? Là nghiệp thân, khẩu học và nghiệp tư duy học .

Thế nào là nghiệp vô học? Là nghiệp thân, khẩu vô học và nghiệp tư duy vô học.

Thế nào là nghiệp phi học phi vô học? Là nghiệp thân, khẩu hữu lậu và nghiệp tư duy hữu lậu.

*

Thế nào là nghiệp do kiến đoạn? Là như nghiệp nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành, nhẫn vô gián, cùng đoạn trừ. Đoạn trừ những gì? Là bậc kiến đạo đoạn trừ tám mươi tám sử tương ưng với nghiệp tư duy.

Thế nào là nghiệp do tu đoạn? Là như nghiệp học, thấy dấu đạo do tu đoạn. Đoạn trừ những gì? Là bậc tu đạo đoạn trừ mười sử tương ưng với nghiệp tư duy, do đã khởi nghiệp thân, khẩu và nghiệp hữu lậu không cấu uế.

Thế nào là nghiệp không đoạn? Là nghiệp thân, khẩu vô lậu và nghiệp tư duy vô lậu.

*

Thế nào là nghiệp hiện pháp thọ? Là như nghiệp nơi đời nầy hành tác, nuôi lớn, nghiệp ấy tức nơi đời nầy thọ báo hiện pháp, không phải thọ báo nơi đời khác. Đó gọi là nghiệp hiện pháp tho.

Thế nào là nghiệp sinh pháp thọ? Là như nghiệp nơi đời nầy sinh khởi, nuôi lớn, nhưng nghiệp ấy đến đời thứ hai mới nhận báo. Đó gọi là nghiệp sinh pháp thọ.

Thế nào là nghiệp hậu pháp thọ? Là như nghiệp nơi đời nầy tạo tác, nuôi lớn, nhưng nghiệp ấy đến đời thứ ba, thứ tư mới nhận báo, hoặc lại trải qua nhiều đời nữa, về sau mới nhận báo. Đó gọi là nghiệp hậu pháp thọ.

*

Thế nào là nghiệp lạc thọ? Là nghiệp thiện tương ưng với cõi Dục, cho đến nghiệp thiện của thiền thứ ba.

Thế nào là nghiệp khổ thọ? Là nghiệp bất thiện.

Thế nào là nghiệp thọ không khổ không lạc? Là nghiệp thiện thuộc địa của thiền thứ tư, cho đến nghiệp thiện tương ưng với cõi Vô sắc.

(Đã nói xong ba pháp).

**

Thế nào là thân niệm xứ? Là mười sắc nhập và sắc thuộc về pháp nhập. Đó gọi là thân niệm xứ.

Thế nào là thọ niệm xứ? Là sáu thọ thân, là thọ do nhãn xúc sinh, cũng như thọ do nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý xúc sinh. Đó gọi là thọ niệm xứ.

Thế nào là tâm niệm xứ? Là sáu thức thân, là thân nơi nhãn thức, thân nơi nhĩ, tỷ thiệt, thân, ý thức. Đó gọi là tâm niệm xứ.

Thế nào là pháp niệm xứ? Là những gì thuộc pháp nhập nhưng không phải sắc pháp và thọ không gồm thâu. Đó gọi là pháp niệm xứ.

Lại nữa, thân tăng thượng, thiện hữu lậu và vô lậu sinh từ đạo. Đó gọi là thân niệm xứ. Thọ nơi tâm pháp tăng thượng, thiện hữu lậu và vô lậu sinh từ đạo. Đó gọi là pháp niệm xứ. Lại nữa, duyên nơi tuệ của thân là thân niệm xứ. Duyên nơi tuệ của thọ tâm pháp là pháp niệm xứ.

*

Thế nào là pháp ác bất thiện đã khởi, dùng chánh cần làm phương tiện khiến chúng đoạn trừ? Là pháp ác bất thiện đã sinh, tu tập khiến chúng đoạn trừ, khiến cho thiện hữu lậu, vô lậu do đạo tăng thượng phát sinh. Đó gọi là pháp ác bất thiện đã khởi, dùng chánh cần làm phương tiện khiến chúng đoạn trừ.

Thế nào là pháp ác bất thiện chưa khởi, dùng chánh cần làm phương tiện khiến chúng không khởi? Là pháp ác bất thiện chưa khởi, tu tập khiến chúng không khởi, khiến cho thiện hữu lậu, vô lậu do đạo tăng thượng phát sinh. Đó gọi là pháp ác bất thiện chưa khởi, dùng chánh cần làm phương tiện khiến chúng không khởi.

Thế nào là pháp thiện chưa sinh, dùng chánh cần làm phương tiện khiến chúng sinh? Là pháp thiện chưa sinh, siêng năng tu tập khiến chúng sinh, khiến cho thiện hữu lậu, vô lậu do đạo tăng thượng phát sinh. Đó gọi là pháp thiện chưa sinh, dùng chánh cần làm phương tiện khiến chúng sinh.

Thế nào là pháp thiện đã sinh, dùng chánh cần làm phương tiện tu tập khiến chúng an trụ, không quên mất, tu tập đầy đủ, trí chứng thêm rộng? Là pháp thiện đã khởi, siêng tu tập khiến chúng an trụ, không quên mất, tu tập đầy đủ, trí chứng thêm rộng, khiến cho thiện hữu lậu, vô lậu do đạo tăng thượng phát sinh. Đó gọi là pháp thiện đã sinh, dùng chánh cần làm phương tiện tu tập khiến chúng an trụ, không quên mất, tu tập đầy đủ, trí chứng thêm rộng.

*

Thế nào là như ý túc dục định tịnh hành thành tựu? Là các thiện hữu lậu, vô lậu sinh khởi từ đạo do dục tăng thượng.

Thế nào là như ý túc tinh tấn, tâm, tuệ định tịnh hành thành tựu? Là các thiện hữu lậu, vô lậu sinh khởi từ đạo do tuệ tăng thượng.

*

Thế nào là thiền thứ nhất (sơ thiền)? Là năm ấm thiện thuộc về thiền thứ nhất.

Thế nào là thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư? Nghĩa là năm ấm thiện thuộc về thiền thứ hai, thiền thứ ba, thiền thứ tư.

*

Thế nào là khổ Thánh đế? Là năm thạnh ấm.

Thế nào là khổ tập Thánh đế? Là nhân hữu lậu.

Thế nào là khổ diệt Thánh đế? Là diệt của số diệt.

Thế nào là khổ diệt đạo Thánh đế? Là pháp học, pháp vô học.

*

Thế nào là Từ? Là từ tương ưng với từ. Như thọ tưởng hành thức, đã dấy khởi nghiệp thân, khẩu, cùng khởi tâm bất tương ưng hành.

Bi, Hỷ cũng như vậy.

Thế nào là Xả? Là xả tương ưng với xả. Như thọ tưởng hành thức đã dấy khởi nghiệp thân, khẩu, cùng khởi tâm bất tương ưng hành.

*

Thế nào là Không nhập xứ? Nghĩa là hư không nhập xứ có hai thứ: Là chánh thọ (định) và thọ sinh pháp tương ưng kia, như thọ tưởng hành thức.

Như Không nhập xứ, Thức nhập xứ, Vô sở hữu nhập xứ cũng như vậy.

Thế nào là Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ? Nghĩa là Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ có hai thứ: Là chánh thọ (định) và thọ sinh pháp tương ưng kia, như thọ tưởng hành thức. Đó gọi là Phi tưởng phi phi tưởng nhập xứ.

*

Thế nào là Thánh chủng biết đủ khi xin được y phục? Là nghiệp biết đủ khi xin được y phục, khiến thiện hữu lậu, vô lậu sinh khởi do đạo kia tăng thượng. Đó gọi là Thánh chủng biết đủ khi xin được y phục.

Thế nào là Thánh chủng ưa thích nơi chốn thanh vắng để tu tập, biết đủ khi xin được thức ăn, cũng như các thứ ngọa cụ ngủ nghỉ? Là nghiệp ưa thích tu tập nơi thanh vắng, biết đủ theo chỗ xin được thức ăn uống, các thứ ngọa cụ ngủ nghỉ, khiến cho các thiện hữu lậu, vô lậu được sinh khởi do đạo kia tăng thượng.

*

Thế nào là quả Sa-môn Tu-đà-hoàn? Là quả Tu-đà-hoàn có hai thứ: Hữu vi và vô vi.

Thế nào là quả Tu-đà-hoàn hữu vi? Là chứng quả Tu-đà-hoàn như pháp học đã được, nay được, sẽ được.

Thế nào là quả Tu-đà-hoàn vô vi? Là chứng quả Tu-đà-hoàn như các kiết sử đã đoạn, đã được, nay được, sẽ được.

Như quả Sa-môn Tu-đà-hoàn, quả Sa-môn Tư-đà-hàm, quả Samôn A-na-hàm cũng như vậy.

Thế nào là quả Sa-môn A-la-hán? Là quả A-la-hán có hai thứ: Hữu vi và vô vi.

Thế nào là quả A-la-hán hữu vi? Là chứng quả A-la-hán như pháp vô học đã được, nay được, sẽ được.

Thế nào là quả A-la-hán vô vi? Là chứng quả A-la-hán như các kiết sử đã đoạn, đã được, nay được, sẽ được.

*

Thế nào là pháp trí? Là trí vô lậu nhận biết các hành thuộc cõi Dục, nói rộng như trong Phẩm Năm Pháp ở trước. Cho đến vô sinh trí cũng như vậy.

*

Thế nào là nghĩa biện? Là trí bất động đối với đệ nhất nghĩa khéo có thể phân biệt.

Thế nào là pháp biện? Là trí bất động đối với danh, vị, cú thân khéo có thể phân biệt.

Thế nào là từ biện? Là trí bất động đối với mọi nẻo ngôn thuyết đều không bị trở ngại.

Thế nào là tùy ứng biện? Là trí bất động quyết định tự tại, không bị gián đoạn, không bị tán loạn.

*

Thế nào là nhân duyên? Là pháp hữu vi.

Thế nào là thứ đệ duyên? Là quá khứ, hiện tại, trừ tâm, tâm pháp của bậc A-la-hán thọ mạng tối hậu, còn lại là tâm, tâm pháp quá khứ hiện tại.

Thế nào là duyên duyên, tăng thượng duyên? Là hết thảy pháp nơi cảnh giới.

*

Thế nào là thô đoàn thực? Là tính chất của ăn từng nắm, nhân nơi ăn ấy nên các căn tăng trưởng, bốn đại thêm lớn, theo đấy mà nuôi dưỡng, che chở, sung túc, trong sáng.

Thế nào là tế xúc thực? Là duyên nơi xúc hữu lậu, khiến các căn tăng trưởng, bốn đại thêm lớn, các căn được nuôi dưỡng, theo đấy được che chở nuôi lớn, cũng như trước đã nêu.

Thế nào là ý tư thực? Là duyên nơi tư hữu lậu, khiến các căn tăng trưởng, bốn đại thêm lớn, như trước đã nói.

Thế nào là thức thực? Là duyên nơi thức hữu lậu, khiến các căn tăng trưởng, bốn đại thêm lớn, như trước đã nói.

*

Thế nào là dục lưu? Là trừ năm kiến và vô minh thuộc cõi Dục, còn lại là phiền não triền, kiết sử trói buộc thuộc cõi Dục.

Thế nào là hữu lưu? Là trừ năm kiến và vô minh thuộc cõi Sắc, Vô sắc, còn lại là phiền não triền, kiết sử trói buộc thuộc cõi Sắc, Vô sắc.

Thế nào là kiến lưu? Là năm kiến.

Thế nào là vô minh lưu? Là ngu tối, không biết gì trong ba cõi.

*

Như lưu, ách cũng vậy. (Ách dục, ách hữu, ách kiến và ách vô minh)

*

Thế nào là dục thủ? Là trừ năm kiến thuộc cõi Dục, còn lại là phiền não triền, kiết sử trói buộc thuộc cõi Dục.

Thế nào là kiến thủ? Là bốn kiến, trừ một kiến. Nghĩa là thân kiến, biên kiến, tà kiến, thủ kiến.

Thế nào là giới thủ? Là một kiến, trừ bốn kiến. Nghĩa là thủ giới kiến (giới cấm thủ). Việc nầy lại là thế nào? Là như kẻ giữ lấy tướng giới sai lầm, cho là thanh tịnh, là giải thoát, khởi kiến chấp, nhận chịu.

Thế nào là ngã thủ? Là trừ năm kiến thuộc cõi Sắc, Vô sắc, còn lại là phiền não triền, kiết sử trói buộc thuộc cõi Sắc, Vô sắc.

*

Thế nào là pháp quá khứ? Là năm ấm quá khứ.

Thế nào là pháp vị lai? Là năm ấm vị lai.

Thế nào là pháp hiện tại? Là năm ấm hiện tại.

Thế nào là pháp không phải quá khứ, vị lai, hiện tại? Là pháp vô vi.

*

Thế nào là pháp thuộc cõi Dục? Là năm ấm thuộc cõi Dục.

Thế nào là pháp thuộc cõi Sắc? Là năm ấm thuộc cõi Sắc.

Thế nào là pháp thuộc cõi Vô sắc? Là bốn ấm thuộc cõi Vô sắc.

Thế nào là pháp không hệ thuộc? Là năm ấm vô lậu và vô vi.

*

Thế nào là pháp nhân thiện? Là pháp hữu vi thiện và báo của pháp thiện.

Thế nào là pháp nhân bất thiện? Là pháp cấu uế thuộc cõi Dục và báo của pháp bất thiện.

Thế nào là pháp nhân vô ký? Là pháp hữu vi vô ký và pháp bất thiện.

Thế nào là pháp không phải nhân thiện, không phải nhân bất thiện, không phải nhân vô ký? Là pháp vô vi.

*

Thế nào là pháp có duyên duyên? Là ý thức tương ưng duyên nơi tâm, tâm pháp.

Thế nào là pháp không duyên duyên? Là năm thức tương ưng, hoặc ý thức tương ưng với sắc, vô vi duyên nơi tâm bất tương ưng hành.

Thế nào là pháp có duyên duyên không duyên duyên? Là như ý thức tương ưng, duyên nơi tâm, tâm pháp, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành duyên hợp.

Thế nào là pháp phi hữu duyên duyên phi vô duyên duyên? Là sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành. (Đã nói xong bốn pháp).

**

Thế nào là năm ấm, năm thạnh ấm? Như đã nói rộng trong Phẩm Phân Biệt Về Bảy Sự ở trước.

*

Thế nào là nẻo (thú) địa ngục? Là chúng sinh trong địa ngục, tự phần hoặc một thân, một tánh, một chủng loại, được xứ, được sự, được nhập. Nếu chúng sinh trong địa ngục sinh vào chốn đó, sắc thọ tưởng hành thức là không ẩn mất (vô phú) vô ký. Đó gọi là nẻo địa ngục.

Nẻo súc sinh, nẻo ngạ quỷ cũng như vậy.

Thế nào là nẻo trời, nẻo người? Là hoặc trời hoặc người, tự phần hoặc một thân, một tánh, một chủng loại, được xứ, được sự, được nhập. Hoặc trời hoặc người sinh vào xứ ấy, sắc thọ tưởng hành thức là không ẩn một (vô phú) vô ký. Đó gọi là nẻo trời, nẻo người.

*

Thế nào là thân phiền não do kiến khổ đoạn? Là thân phiền não, như nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành nhẫn khổ vô gián cùng đoạn trừ. Đoạn trừ thế nào? Là do kiến khổ đoạn hai mươi tám sử tương ưng với thân phiền não.

Thế nào là thân phiền não do kiến tập đoạn? Là thân phiền não, như nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành nhẫn tập vô gián cùng đoạn trừ. Đoạn trừ thế nào? Là do kiến tập đoạn mười chín sử tương ưng với thân phiền não.

Thế nào là thân phiền não do kiến diệt đoạn? Là thân phiền não, như nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành nhẫn diệt vô gián cùng đoạn trừ. Đoạn trừ thế nào? Là do kiến diệt đoạn mười chín sử tương ưng với thân phiền não.

Thế nào là thân phiền não do kiến đạo đoạn? Là thân phiền não, như nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành nhẫn đạo vô gián cùng đoạn trừ. Đoạn trừ thế nào? Là do kiến đạo đoạn hai mươi hai sử tương ưng với thân phiền não.

Thế nào là thân phiền não do tu đoạn? Là thân phiền não do học, thấy dấu vết đạo nên tu đoạn. Đoạn trừ thế nào? Là bậc tu đạo đoạn mười sử tương ưng với thân phiền não.

*

Thế nào là sắc pháp? Là tất cả bốn đại và những gì do bốn đại tạo ra.

Thế nào là tâm pháp? Là sáu thức thân, tức nhãn thức thân cho đến ý thức thân.

Thế nào là pháp tâm pháp? Là như tâm pháp tương ưng. Việc ấy lại như thế nào? Là thọ, tưởng, tư, xúc, ức, dục, giải thoát, niệm, định, tuệ, tín, tinh tấn, giác quán, cho đến phiền não kiết triền, như đã nói rộng nơi Phẩm Năm Pháp ở trước.

Thế nào là tâm bất tương ưng hành pháp? Là như pháp, tâm không tương ưng. Việc nầy lại là thế nào? Là các đắc cho đến danh, cú, vị, thân, như đã nói rộng nơi Phẩm Năm Pháp ở trước.

Thế nào là vô vi pháp? Là ba thứ vô vi: Hư không, số diệt, phi số diệt.

(Đã nói xong năm pháp).

**

Thế nào là địa giới? Là tướng cứng chắc.

Thế nào là thủy giới? Là tướng ẩm ướt.

Thế nào là hỏa giới? Là tướng nóng.

Thế nào là phong giới? Là tướng chuyển động.

Thế nào là hư không giới? Là biên vực sắc của không.

Thế nào là thức giới? Là năm thức thân và ý thức hữu lậu.

*

Thế nào là pháp do kiến khổ đoạn? Là như người tùy tín hành, tùy pháp hành nhẫn khổ vô gián cùng đoạn trừ, như đã nói rộng nơi phẩm Phân biệt các nhập ở trước.

Như pháp do kiến khổ đoạn, pháp do kiến tập đoạn, pháp do kiến diệt đoạn, pháp do kiến đạo đoạn, pháp do tu đoạn cũng như vậy.

Thế nào là pháp không đoạn? Là pháp vô lậu.

(Đã nói xong sáu pháp).

**

Thế nào là sử dục tham? Như đã nói trong phần dục tham.

Thế nào là sử giận dữ? Nghĩa là nhằm não hại chúng sinh.

Thế nào là sử hữu ái? Là ái nơi cõi Sắc, Vô sắc.

Thế nào là sử mạn? Là nhận lấy tâm kiêu mạn về cao, thấp.

Thế nào là sử vô minh? Là ngu tối, không biết gì trong ba cõi.

Thế nào là sử kiến? Là năm tà kiến.

Thế nào là sử nghi? Là nghi hoặc không biết rõ về sự thật (đế).

*

Thế nào là thức trụ thứ nhất? Là chúng sinh có sắc, đủ các loại thân, đủ thứ tưởng, tức là hàng trời người. Đó gọi là xứ thức trụ thứ nhất.

Thế nào là số tương tục của thứ lớp thứ nhất? Là thức trụ thứ nhất tương ưng hay không tương ưng, như sắc thọ tưởng hành thức. Đó gọi là xứ thức trụ thứ nhất.

Chúng sinh có sắc, có đủ loại thân, một thứ tưởng, là thân Phạm thiên, mới được chuyển lên. Đó gọi là xứ thức trụ thứ hai.

Thế nào là số tương tục của thứ lớp thứ hai? Là thức trụ thứ hai tương ưng hay không tương ưng, như sắc thọ tưởng hành thức. Đó gọi là thức trụ thứ hai.

Chúng sinh có sắc, một thứ thân, nhiều thứ tưởng, là cõi trời Quang âm. Đó gọi là xứ thức trụ thứ ba, cho đến đó gọi là thức trụ thứ ba, nói rộng như trên.

Chúng sinh có sắc, một thứ thân, một thứ tưởng, là cõi trời Biến tịnh. Đó gọi là xứ thức trụ thứ tư, cho đến đó gọi là thức trụ thứ tư, nói rộng như trên.

Chúng sinh không có sắc, lìa hết thảy tưởng sắc, lìa tưởng ngại, hoàn toàn không còn chút tưởng nào, tư duy về xứ vô biên không, trụ nơi xứ vô biên không nhập, gọi là cõi trời Không nhập xứ. Đó gọi là thức trụ thứ năm.

Thế nào là số tương tục của thứ lớp thứ năm? Là nơi thức trụ thứ năm hoàn toàn tương ưng, như thọ tưởng hành thức. Đó gọi là thức trụ thứ năm.

Chúng sinh vô sắc, đã lìa hết thảy xứ hư không nhập, trụ nơi vô lượng thức, vô lượng thức nhập xứ, là cõi trời Thức nhập xứ. Đó gọi là thức trụ thứ sáu, cho đến đó gọi là thức trụ thứ sáu, nói rộng như trên.

Chúng sinh không có sắc, đã lìa hết thảy xứ thức nhập, trụ vào vô sở hữu, xứ vô sở hữu nhập, gọi là cõi trời Vô sở hữu nhập xứ. Đó gọi là thức trụ thứ bảy, cho đến gọi là thức trụ thứ bảy, nói rộng như trên.

*

Thế nào là niệm giác chi? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo. Ý vô lậu tương ưng với tư duy. Như niệm, tùy niệm, niệm không quên mất, không tán loạn, luôn không phế bỏ. Đó gọi là niệm giác chi.

Thế nào là trạch pháp giác chi? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo. Ý vô lậu tương ưng với tư duy. Ở nơi pháp cần lựa chọn, xét chọn, lựa chọn về tướng, quyết định về tướng, tuệ giác thông sáng, tuệ hành quan sát. Đó gọi là trạch pháp giác chi.

Thế nào là tinh tấn giác chi? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ, cho đến đối với đạo tư duy là đạo. Ý vô lậu tương ưng với tư duy. Như muốn lấy tinh tấn làm phương tiện xuất yếu, tâm dũng mãnh thâu nhận, nhanh nhẹn không gián đoạn. Đó gọi là tinh tấn giác chi.

Thế nào là hỷ giác chi? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v… cho đến ý vô lậu tương ưng với tư duy. Như tâm hoan hỷ tột bậc, hoan hỷ tăng thượng, tâm quyết định vui thích, có thể hoan hỷ nên khả năng gánh vác mọi chuyện. Đó gọi là hỷ giác chi.

Thế nào là ỷ giác chi (Khinh an giác chi)? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v… cho đến ý vô lậu tương ưng với tư duy. Như thân khinh an, tâm khinh an, ưa thích khinh an. Đó gọi là ỷ giác chi.

Thế nào là định giác chi? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v… cho đến ý vô lậu tương ưng với tư duy. Như tâm trụ, cùng trụ, vui trụ vào nơi trụ, không tán loạn, thâu nhận về một tâm. Đó gọi là định giác chi.

Thế nào là xả giác chi? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy về khổ v.v… cho đến ý vô lậu tương ưng với tư duy. Như tâm bình đẳng, tâm cùng thâu nhận, không trụ nơi thọ dụng. Đó gọi là xả giác chi.

(Đã nói xong bảy pháp).

**

Thế nào là xứ giải thoát thứ nhất? Là trong có tưởng sắc, ngoài quán sắc. Đó gọi là xứ giải thoát thứ nhất. Thế nào là số tương tục của thứ lớp thứ nhất, thứ lớp nơi chánh thọ? Là xứ giải thoát thứ nhất, như nhập chánh thọ nơi sắc thọ tưởng hành thức thiện. Đó gọi là xứ giải thoát thứ nhất.

Trong không có tưởng sắc, ngoài quán sắc. Đó gọi là xứ giải thoát thứ hai. Thế nào là số tương tục của thứ lớp thứ hai, thứ lớp nơi chánh thọ? Là xứ giải thoát thứ hai, như nhập chánh thọ nơi sắc thọ tưởng hành thức thiện. Đó gọi là xứ giải thoát thứ hai.

Xứ tịnh giải thoát, thân chứng trụ, đó gọi là xứ giải thoát thứ ba, cho đến thứ lớp chánh thọ thứ ba, nói rộng như trên.

Lìa hết thảy tưởng sắc, tưởng ngăn ngại hoàn toàn hết sạch, tư duy nơi xứ vô biên không, nhập xứ vô biên không. Đó gọi là xứ giải thoát thứ tư. Thế nào là số tương tục của thứ lớp thứ tư, thứ lớp nơi chánh thọ? Là xứ giải thoát thứ tư, như nhập chánh thọ nơi sắc thọ tưởng hành thức thiện. Đó gọi là xứ giải thoát thứ tư.

Lìa hết thảy xứ không nhập, nhập xứ vô biên thức. Đó gọi là xứ giải thoát thứ năm, cho đến thứ lớp thứ năm nơi chánh thọ, nói rộng như trên. (không thấy thứ sáu)

Xứ vô sở hữu, xứ phi tưởng phi phi tưởng, cho đến chánh thọ thứ bảy, nói rộng như trên. Đó gọi là xứ giải thoát thứ bảy.

Lìa hết thảy xứ phi tưởng phi phi tưởng, tưởng thọ diệt, thân chứng trụ. Đó gọi là xứ giải thoát thứ tám. Thế nào là số tương tục của thứ lớp thứ tám, thứ lớp nơi chánh thọ? Là xứ giải thoát thứ tám, như nhập chánh thọ, như chứng đạt giải thoát, như tưởng pháp, tưởng nhân vi tế, tưởng thứ đệ vi tế, không tương tục, không thành tựu. Đó gọi là xứ giải thoát thứ tám.

*

Thế nào là nhập thắng xứ thứ nhất? Là trong có tưởng sắc, ngoài quán ít sắc, hoặc sắc tốt hoặc sắc xấu, nghĩa là từ thắng xứ kia sinh quán tưởng. Đó gọi là nhập thắng xứ thứ nhất. Thế nào là theo số tương tục của thứ lớp, như thứ lớp nơi chánh thọ? Là thắng xứ thứ nhất, như nhập chánh thọ (định), sắc thọ tưởng hành thức thiện. Đó gọi là nhập thắng xứ thứ nhất.

Bên trong có tưởng sắc, ngoài quán nhiều sắc, hoặc sắc tốt, hoặc sắc xấu, tức là từ thắng xứ ấy sinh quán tưởng. Đó gọi là nhập thắng xứ thứ hai, cho đến chánh thọ thứ hai, nói rộng như trên. Cho đến chánh thọ của thắng xứ thứ bảy, nói rộng như trên. Đó gọi là nhập thắng xứ thứ bảy.

Bên trong không tưởng sắc, bên ngoài quán màu trắng, màu trắng quán trắng, ánh sáng trắng ví như sắc hoa Ưu-tư-đa-la làm thành màu áo trắng xứ Ba-la-nại. Màu trắng, quán trắng ánh sáng trắng, như vậy, Tỳ-kheo bên trong không tưởng sắc, bên ngoài quán màu trắng, là màu trắng quán trắng ánh sáng trắng sáng. Tức từ thắng xứ nầy sinh quán tưởng. Đó gọi là nhập thắng xứ thứ tám. Thế nào là theo số tương tục của thứ lớp thứ tám, là thứ lớp chánh thọ? Tức thắng xứ thứ tám như nhập chánh thọ, sắc thọ tưởng hành thức thiện.

Đó gọi là nhập thắng xứ thứ tám.

*

Thế nào là chánh kiến? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ, đối với tập tư duy là tập, đối với diệt tư duy là diệt, đối với đạo tư duy là đạo, ý vô lậu tương ưng với tư duy. Đối với pháp cần xét chọn, tuyển chọn tướng, cùng chọn tướng, quyết định tướng, tuệ giác thông sáng, tuệ hành quan sát. Đó gọi là chánh kiến.

Thế nào là chánh tư duy? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v…, cho đến đối với đạo tư duy là đạo, ý vô lậu tương ưng với tư duy. Như tâm tỉnh biết, tùy biết về sắc, biết sắc tăng thượng, biết những gì cần biết, biết do tư duy, cùng tư duy. Đó gọi là chánh tư duy.

Thế nào là chánh ngữ? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v…, cho đến đối với đạo tư duy là đạo, ý vô lậu tương ưng với tư duy. Trừ bỏ tà mạng cùng bốn lỗi của miệng và các hành ác khác nơi miệng, số vô lậu diệt, không hành, không tạo, thâu giữ luật nghi, cùng tự phòng hộ, không làm hành ác, không gây tội lỗi, như chống giữ đê ao chắc chắn, trụ vào đó, trụ vào kiên cố không phạm. Đó gọi là chánh ngữ.

Thế nào là chánh nghiệp? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v…, cho đến đối với đạo tư duy là đạo, ý vô lậu tương ưng với tư duy. Trừ bỏ tà mạng cùng ba thứ ác của thân, và các hành ác khác nơi thân, số vô lậu diệt, không hành, không tạo, cho đến trụ vào chỗ kiên cố, không phạm, như phần chánh ngữ đã nói. Đó gọi là chánh nghiệp.

Thế nào là chánh mạng? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v…, cho đến đối với đạo tư duy là đạo, ý vô lậu tương ưng với tư duy, như nói ở trước. Trừ bỏ tà mạng cùng thân, khẩu ác, số vô lậu diệt, không hành, không tạo, nói rộng như trước. Đó gọi là chánh mạng.

Thế nào là chánh phương tiện? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v…, cho đến đối với đạo tư duy là đạo, ý vô lậu tương ưng với tư duy, nói rộng như nơi phần Tinh tấn giác chi. Đó gọi là chánh phương tiện.

Chánh mạng nói rộng như nơi phần Niệm giác chi. Đó gọi là chánh niệm.

Thế nào là chánh định? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v…, cho đến đối với đạo tư duy là đạo, ý vô lậu tương ưng với tư duy, nói rộng như ở phần Định giác chi. Đó gọi là chánh định.

(Đã nói xong tám pháp).

**

Thế nào là kiết tham dục? Là tham trong ba cõi.

Thế nào là kiết giận dữ? Là gây não hại cho chúng sinh.

Thế nào là kiết mạn? Là bảy thứ mạn.

Thế nào là kiết vô minh? Là ngu tối, không biết gì trong ba cõi. Thế nào là kiết kiến? Là ba kiến: Thân kiến, Biên kiến, Tà kiến.

Thế nào là kiết tha thủ? Là hai kiến: kiến thủ, giới thủ.

Thế nào là kiết nghi? Là nghi hoặc, không hiểu rõ về chân lý (đế).

Thế nào là kiết tật? Là tâm ganh ghét tăng rộng.

Thế nào là kiết xan? Là tâm thâu nhận chấp chặt.

*

Thế nào là xứ cư trú thứ nhất của chúng sinh? Là chúng sinh có sắc, nhiều thân, nhiều tưởng, tức là hàng trời, người. Đó gọi là xứ cư trú thứ nhất của chúng sinh. Đấy gọi là số nối tiếp của thứ lớp thứ nhất.

Thế nào là xứ cư trú của chúng sinh? Là chúng sinh ở trong ấy đã dừng trụ, đã nhập vào sự thọ sinh. Đó gọi là xứ cư trú của chúng sinh.

Thế nào là xứ cư trú thứ hai, thứ ba, thứ tư của chúng sinh? Là như đã nói rộng nơi phần xứ thức trụ.

Thế nào là xứ cư trú thứ năm của chúng sinh? Là chúng sinh có sắc, không tưởng, là cõi trời Vô tưởng, là xứ cư trú thứ năm của chúng sinh. Số nối tiếp của thứ lớp thứ năm, như đã nói ở trên.

Thế nào là xứ cư trú thứ sáu của chúng sinh? Là chúng sinh vô sắc, lìa mọi tưởng sắc, tưởng ngăn ngại, hết sạch mọi tưởng, cho đến xứ cư trú thứ tám của chúng sinh, nói rộng như nơi xứ ba thức trụ sau.

Thế nào là xứ cư trú thứ chín của chúng sinh? Là chúng sinh vô sắc, lìa hết thảy xứ vô sở hữu, nhập vào xứ phi tưởng phi phi tưởng trụ, là cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng, là xứ cư trú thứ chín của chúng sinh. Số nối tiếp của thứ lớp nói rộng như trước. Đó gọi là xứ cư trú thứ chín của chúng sinh.

(Đã nói xong chín pháp).

**

Thế nào là xứ nhất thiết nhập thứ nhất? Là nhất thiết nhập của địa, một tướng sinh, các phương trên dưới, không hai, không lường. Đó gọi là xứ nhất thiết nhập thứ nhất.

Thế nào là số nối tiếp của thứ lớp nơi thứ lớp chánh thọ? Là xứ nhất thiết nhập thứ nhất, như nhập chánh thọ, sắc thọ tưởng hành thức thiện. Đó gọi là xứ nhất thiết nhập của địa.

Như xứ nhất thiết nhập của địa, xứ nhất thiết nhập của thủy, hỏa, phong, xanh, vàng, đỏ, trắng cũng như vậy.

Xứ nhất thiết nhập của không, xứ nhất thiết nhập của thức, một tướng sinh, các phương trên dưới, không hai, không lường. Đó gọi là xứ nhất thiết nhập thứ mười.

Thế nào là số thứ số thứ nối nhau của xứ nhất thiết nhập thứ mười, như thứ lớp nơi chánh thọ? Là xứ nhất thiết nhập thứ mười, như nhập chánh thọ, sắc thọ tưởng hành thức đều thiện. Đó gọi là xứ nhất thiết nhập thứ mười.

*

Chánh kiến vô học cho đến chánh định vô học, như đã nói trong phần chi đạo.

Thế nào là chánh giải thoát vô học? Là đệ tử Hiền Thánh đối với khổ tư duy là khổ v.v…, cho đến đối với đạo tư duy là đạo, ý vô học tương ưng với tư duy. Như tâm đã giải thoát, sẽ giải thoát. Đó gọi là chánh giải thoát vô học.

Thế nào là chánh tri kiến giải thoát vô học? Là tận trí, vô sinh trí.

(Đã nói xong mười pháp).

**

Thế nào là sắc hữu lậu? Là như sắc hữu lậu từ thủ sinh, là sắc quá khứ, hiện tại, vị lai ấy đã khởi dục, đang khởi, sẽ khởi. Như giận, như si, mỗi mỗi thứ tâm số, khởi lên các phiền não, đang khởi, sẽ khởi. Đó gọi là sắc hữu lậu. Như thế cho đến thức hữu lậu cũng như vậy.

Thế nào là sắc vô lậu? Là như sắc vô lậu chẳng từ thủ sinh, là sắc quá khứ, hiện tại, vị lai ấy như dục nên sinh, nhưng không sinh. Như giận, si, các tâm số phiền não khác nên sinh, nhưng không sinh.

Đó gọi là sắc vô lậu. Như thế cho đến thức vô lậu cũng như vậy.

Thế nào là pháp vô vi? Là ba thứ vô vi: hư không, số diệt, phi số diệt.

(Đã nói xong mười một pháp).

**

Thế nào là mười hai nhập? Là như đã nói rộng trong Phẩm Phân Biệt Bảy Sự ở trước.

(Đã nói xong mười hai pháp).

**

Thế nào là mười tám giới? Là như đã nói rộng trong Phẩm Phân Biệt Bảy Sự ở trước.

(Đã nói xong mười tám pháp).

**

Thế nào là Nhãn căn? Là như nhãn nhập. Như thế cho đến Thân căn như thân nhập.

Thế nào là Nữ căn? Là phần ít của thân căn. Nam căn cũng như vậy.

Thế nào là Mạng căn? Là thọ mạng trong ba cõi.

Thế nào là Ý căn? Là như tâm, ý, thức. Việc nầy lại là thế nào? Là sáu thức thân. Đó là nhãn thức cho đến ý thức.

Lạc căn, Khổ căn, Hỷ căn, Ưu căn, Xả căn đã nói rộng nơi Phẩm Phân Biệt Bảy Sự ở trước.

Thế nào là Tín căn? Là dựa vào nẻo xuất yếu tịch tĩnh, sinh tin pháp thiện. Tin tăng thượng nên chánh tư duy về vô số hành, vô số tạo tác, vô số tư duy về tâm thanh tịnh. Đó gọi là tín căn.

Thế nào là Tinh tấn căn? Là dựa vào nẻo xuất yếu tịch tĩnh sinh các pháp thiện, như dùng phương tiện tinh tấn nên dũng mãnh, thâu giữ tâm luôn không biếng nhác, từ bỏ. Đó gọi là tinh tấn căn.

Thế nào là Niệm căn? Là từ nẻo xuất yếu tịch tĩnh sinh pháp thiện, như niệm, tùy niệm. Đó gọi là niệm căn.

Thế nào là Định căn? Là từ nẻo xuất yếu tịch tĩnh sinh pháp thiện, tâm lìa hết loạn động, khéo trụ cùng trụ. Đó gọi là định căn.

Thế nào là Tuệ căn? Là từ nẻo xuất yếu tịch tĩnh sinh pháp thiện, chọn lựa pháp, xét rõ, quyết đoán kỹ. Đó gọi là tuệ căn.

Thế nào là Vị tri đương tri căn? Đó là vượt lên, lìa khỏi sinh nhân, như tuệ căn học, căn nầy nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành chưa đạt vô gián với bốn Thánh đế, nay vô gián cùng sinh. Đó gọi là vị tri đương tri căn.

Thế nào là Dĩ tri căn? Là người kiến đế không gián đoạn, như tuệ căn học, căn nầy nơi tín giải thoát, kiến chí thân chứng đã không gián đoạn nơi bốn Thánh đế, nên vô gián tăng thượng sinh khởi. Đó gọi là dĩ tri căn.

Thế nào là Cụ tri căn? Là bậc A-la-hán hết sạch các kiết lậu, như tuệ căn vô học, căn nầy là tuệ giải thoát, câu giải thoát, trụ trong hiện pháp lạc, nên vô gián tăng thượng sinh khởi. Đó gọi là cụ tri căn.

(Đã nói xong hai mươi hai pháp).

**

Thế nào là chín mươi tám sử? Là ba mươi sáu sử thuộc cõi Dục, ba mươi mốt sử thuộc cõi Sắc, ba mươi mốt sử thuộc cõi Vô sắc.

(Đã nói xong chín mươi tám pháp).

HẾT – QUYỂN 5