LUẬN CHÚNG SỰ PHẦN A TỲ ĐÀM
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Lưu Tống, Đại sư Cầu Na Bạt Đà La và Bồ Đề Da Xá
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 9

Phẩm 7: THIÊN VẤN LUẬN, phần 2

Những gì là bốn niệm xứ?

Đáp: Là Thân niệm xứ, Thọ niệm xứ, Tâm niệm xứ, Pháp niệm xứ.

*

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc v.v…?

Đáp: Một thứ là sắc, ba thứ là không phải sắc.

Ba thứ là không thể thấy, một thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc có thể thấy, hoặc không thể thấy. Thế nào là có thể thấy? Là một nhập. Thế nào là không thể thấy? Là chín nhập và phần ít của một nhập.

Ba thứ là không đối, một thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc có đối, hoặc không đối. Thế nào là có đối? Là mười nhập. Thế nào là không đối? Là phần ít của một nhập.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là hữu lậu, hoặc là vô lậu. Thế nào là hữu lậu? Là mười nhập và phần ít của một nhập. Thế nào là vô lậu? Là phần ít của một nhập.

Thọ niệm xứ hoặc là hữu lậu, hoặc là hữu lậu. Thế nào là hữu lậu? Là ý hữu lậu tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là vô lậu? Là ý vô lậu tư duy tương ưng với thọ niệm xứ.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là hữu lậu, hoặc là hữu lậu. Thế nào là hữu lậu? Là tưởng ấm, hành ấm hữu lậu. Thế nào là vô lậu? Là tưởng ấm, hành ấm vô lậu và vô vi.

Ba thứ là hữu vi, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ hoặc là hữu vi, hoặc là vô vi. Thế nào là hữu vi? Là tưởng ấm, hành ấm. Thế nào là vô vi? Là hư không, số diệt, phi số diệt.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là có báo, bao nhiêu thứ là không báo v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là có báo, hoặc là không báo. Thế nào là có báo? Là thân niệm xứ bất thiện và thiện hữu lậu. Thế nào là không báo? Là thân niệm xứ vô ký, vô lậu.

Như thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ cũng như vậy.

Ba thứ từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ nếu là hữu vi là từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian. Nếu là vô vi thì không từ nhân duyên sinh không thuộc về thế gian.

Một thứ thuộc về sắc, ba thứ thuộc về danh.

Một thứ thuộc về nội nhập, hai thứ thuộc về ngoại nhập, một thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc thuộc về nội nhập, hoặc thuộc về ngoại nhập. Thế nào là thuộc về nội nhập? Là năm nội nhập. Thế nào là thuộc về ngoại nhập? Là năm ngoại nhập và phần ít của một ngoại nhập.

Hết thảy là trí nhận biết.

*

* Bốn niệm xứ nầy: Nếu là hữu lậu thì đoạn tri nhận biết và đoạn. Nếu là vô lậu thì không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là nên tu, bao nhiêu thứ là không nên tu?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc nên tu, hoặc không nên tu. Thế nào là nên tu? Là thân niệm xứ thiện. Thế nào là không nên tu? Là thân niệm xứ bất thiện, vô ký.

Như thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc nên tu, hoặc không nên tu. Thế nào là nên tu? Là pháp niệm xứ thiện, hữu vi. Thế nào là không nên tu? Là pháp niệm xứ bất thiện, vô ký và hư không, số diệt, phi số diệt.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là cấu uế, bao nhiêu thứ là không cấu uế v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là cấu uế, hoặc là không cấu uế. Thế nào là cấu uế? Là ẩn mất (hữu phú). Thế nào là không cấu uế? Là không ẩn mất (vô phú).

Như thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ, pháp niệm xứ cũng như vậy.

Ba thứ là quả cũng là có quả, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ hoặc là quả, hoặc không có quả, có ba trường hợp: 1. Là quả không phải là có quả: Là số diệt. 2. Là quả cũng là có quả: Là pháp niệm xứ hữu vi. 3. Không phải là quả cũng không phải là có quả: Là hư không và phi số diệt.

Ba thứ là không thọ, một thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là thọ, hoặc là không thọ. Thế nào là thọ? Là tự tánh thọ nội nhập. Thế nào là không thọ? Là không phải tự tánh thọ.

Ba thứ không phải do bốn đại tạo, một thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là do bốn đại tạo, hoặc là không phải do bốn đại tạo. Thế nào là do bốn đại tạo? Là chín nhập và phần ít của hai nhập. Thế nào là không phải do bốn đại tạo? Là phần ít của một nhập.

Ba thứ là hữu thượng, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ hoặc là hữu thượng, hoặc là vô thượng. Thế nào là hữu thượng? Là tưởng ấm, hành ấm, hư không, phi số diệt. Thế nào là vô thượng? Là số diệt.

Nếu là hữu lậu là hữu, nếu là vô lậu là không phải hữu.

Hai thứ là nhân tương ưng, một thứ là nhân không tương ưng, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ nếu là tâm pháp là nhân tương ưng, nếu không phải là tâm pháp thì không phải là nhân tương ưng.

*

* Bốn niệm xứ nầy: Phần ít của xứ thiện gồm thâu phần ít của bốn niệm xứ, phần ít của bốn niệm xứ cũng gồm thâu phần ít của xứ thiện.

Phần ít của xứ bất thiện gồm thâu phần ít của bốn niệm xứ, phần ít của bốn niệm xứ cũng gồm thâu phần ít của xứ bất thiện.

Phần ít của xứ vô ký gồm thâu phần ít của bốn niệm xứ, phần ít của bốn niệm xứ cũng gồm thâu phần ít của xứ vô ký.

Phần ít của xứ lậu gồm thâu phần ít của một niệm xứ, phần ít của một niệm xứ cũng gồm thâu phần ít của xứ lậu.

Phần ít của xứ hữu lậu gồm thâu phần ít của bốn niệm xứ, phần ít của bốn niệm xứ cũng gồm thâu phần ít của xứ hữu lậu.

Phần ít của xứ vô lậu gồm thâu phần ít của bốn niệm xứ, phần ít của bốn niệm xứ cũng gồm thâu phần ít của xứ vô lậu.

Ba thứ hoặc là quá khứ, hiện tại vị lai, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ nếu là hữu vi thì hoặc là quá khứ, vị lai, hiện tại, nếu là vô vi thì không phải là quá khứ, vị lai, hiện tại.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Thế nào là thiện? Là phần ít của ba nhập. Thế nào là bất thiện? Là phần ít của ba nhập. Thế nào là vô ký? Là tám nhập và phần ít của ba nhập.

Thọ niệm xứ hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Thế nào là thiện? Là ý thiện tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là bất thiện? Là ý bất thiện tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là vô ký? Là ý vô ký tư duy tương ưng với thọ niệm xứ.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Thế nào là thiện? Là tưởng ấm, hành ấm thiện và số diệt. Thế nào là bất thiện? Là tưởng ấm, hành ấm bất thiện. Thế nào là vô ký? Là tưởng ấm, hành ấm vô ký, hư không, phi số diệt.

Hỏi: Bốn niệm xứ thuộc về bao nhiêu cõi?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc thuộc cõi

Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc không hệ thuộc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là hai nhập và phần ít của chín nhập. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là phần ít của chín nhập. Thế nào là không hệ thuộc? Là phần ít của một nhập.

Thọ niệm xứ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Thế nào là thuộc cõi Dục?

Là ý tư duy tương ưng với thọ niệm xứ thuộc cõi Dục. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là ý tư duy tương ưng với thọ niệm xứ thuộc cõi Sắc. Thế nào là thuộc cõi Vô sắc? Là ý tư duy tương ưng với thọ niệm xứ thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là không hệ thuộc? Là ý vô lậu tư duy tương ưng với thọ niệm xứ.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc, hoặc không hệ thuộc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là tưởng ấm, hành ấm thuộc cõi Dục. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là tưởng ấm, hành ấm thuộc cõi Sắc. Thế nào là thuộc cõi Vô sắc? Là tưởng ấm, hành ấm thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là không hệ thuộc? Là tưởng ấm, hành ấm vô lậu và vô vi.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là học, bao nhiêu thứ là vô học, bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Thế nào là học? Là phần ít của một xứ nhập. Thế nào là vô học? Là phần ít của một xứ nhập. Thế nào là phi học phi vô học? Là mười nhập và phần ít của một nhập.

Thọ niệm xứ hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Thế nào là học? Là ý học tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là vô học? Là ý vô học tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là phi học phi vô học? Là ý hữu lậu tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là học, hoặc là vô học, hoặc là phi học phi vô học. Thế nào là học? Là tưởng ấm, hành ấm học. Thế nào là vô học? Là tưởng ấm, hành ấm vô học. Thế nào là phi học phi vô học? Là tưởng ấm, hành ấm hữu lậu và vô vi.

*

* Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ do kiến đoạn, bao nhiêu thứ do tu đoạn, bao nhiêu thứ không đoạn v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do tu đoạn? Là mười nhập và phần ít của một nhập. Thế nào là không đoạn? Là phần ít của một nhập.

Thọ niệm xứ hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là thọ niệm xứ nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn trừ. Đoạn như thế nào? Là bậc kiến đạo đoạn tám mươi tám sử tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là do tu đoạn? Là thọ niệm xứ nơi bậc học kiến tích, tu đoạn. Đoạn trừ như thế nào? Là bậc tu đạo đoạn mười sử tương ưng với thọ niệm xứ và thọ niệm xứ hữu lậu không cấu uế. Thế nào là không đoạn? Là thọ niệm xứ vô lậu.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc do kiến đoạn, hoặc do tu đoạn, hoặc không đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là pháp niệm xứ nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn. Đoạn trừ như thế nào? Là bậc kiến đạo đoạn tám mươi tám sử tương ưng với pháp niệm xứ, nên đã khởi tâm bất tương ưng hành. Thế nào là do tu đoạn? Là pháp niệm xứ nơi người học kiến tích, tu đoạn. Đoạn trừ như thế nào? Là đoạn mười sử tương ưng với pháp niệm xứ, nên đã khởi thân, khẩu nghiệp, đã khởi tâm bất tương ưng hành, là pháp niệm xứ hữu lậu không cấu uế. Thế nào là không đoạn? Là pháp niệm xứ vô lậu.

Một thứ là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Một thứ là tâm pháp, tâm tương ưng. Một thứ chỉ là tâm. Một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ nếu có duyên hợp tức là tâm pháp và tâm tương ưng, nếu không duyên hợp tức là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng.

Một thứ là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, một thứ là thọ tương tưng không phải là tâm tùy chuyển, hai thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, hoặc không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ. Tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, ngoài ra không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ.

Pháp niệm xứ hoặc là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, có ba trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành. 2. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 3. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, còn lại là tâm bất tương ưng hành và vô vi.

Như thọ, các thứ tưởng, hành cũng như vậy, trừ tự tánh của nó.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là giác tùy chuyển không tương ưng với quán v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, hoặc không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán. Giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, ngoài ra không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán.

Thọ niệm xứ hoặc là có giác có quán, hoặc là không giác có quán, hoặc là không giác không quán. Thế nào là có giác có quán? Là ý có giác có quán tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là không giác có quán? Là ý không giác có quán tư duy tương ưng với thọ niệm xứ. Thế nào là không giác không quán? Là ý không giác không quán tư duy tương ưng với thọ niệm xứ.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: 1. Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và giác tương ưng với quán. 2. Là quán tương ưng không phải là giác tùy chuyển: Là giác. Như giác không tương ưng với quán mà tương ưng với tâm pháp nơi pháp niệm xứ. 3. Là giác tùy chuyển cũng tương ưng với quán: Là giác quán tương ưng với tâm pháp nơi pháp niệm xứ. 4. Không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán: Là trừ giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại, cùng giác không tương ưng với quán và không phải là giác quán tương ưng với tâm pháp nơi pháp niệm xứ và vô vi.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là kiến không phải là xứ kiến?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là kiến không phải là xứ kiến, có ba trường hợp: 1. Là xứ kiến không phải là kiến: Là chín nhập và phần ít của một nhập. 2. Là kiến cũng là xứ kiến: Là một nhập. 3. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là phần ít của một nhập.

Thọ niệm xứ nếu là hữu lậu tức là xứ kiến không phải là kiến. Nếu là vô lậu tức không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là kiến không phải là xứ kiến, có bốn trường hợp: 1. Là kiến không phải là xứ kiến: Là tận trí, vô sinh trí không gồm thâu tuệ vô lậu. 2. Là xứ kiến không phải là kiến: Là kiến không gồm thâu pháp niệm xứ hữu lậu. 3. Là kiến cũng là xứ kiến: Là năm kiến của chánh kiến thế tục. 4. Không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến: Là kiến không gồm thâu pháp niệm xứ vô lậu.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là thân kiến nhân của chúng và chúng không phải là nhân của thân kiến?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ nếu là cấu uế thì thân kiến là nhân của nó, chứ nó không phải là nhân của thân kiến. Nếu không cấu uế thì thân kiến không phải là nhân của nó, nó cũng không phải là nhân của thân kiến.

Thọ niệm xứ hoặc thân kiến là nhân của nó, nó không phải là nhân của thân kiến. Hoặc thân kiến là nhân của nó, nó cũng là nhân của thân kiến. Hoặc thân kiến không phải là nhân của nó, nó cũng không phải là nhân của thân kiến.

Thân kiến là nhân của nó, nó không phải là nhân của thân kiến: Là trừ do kiến khổ đoạn sử tương ưng với thọ niệm xứ ở quá khứ, hiện tại. Trừ do kiến tập đoạn trừ sử hiện bày khắp tương ưng với thọ niệm xứ ở quá khứ, hiện tại. Trừ thân kiến tương ưng với thọ niệm xứ ở vị lai. Trừ thân kiến sinh trụ dị diệt và nó tương ưng với pháp sinh trụ dị diệt. Còn lại là những thọ niệm xứ cấu uế.

Thân kiến là nhân của nó (thọ niệm xứ), nó (thọ niệm xứ) cũng là nhân của thân kiến: Là những pháp như thế, trước đã trừ rồi.

Thân kiến không phải là nhân của nó, nó cũng không phải là nhân của thân kiến: Là thọ niệm xứ không cấu uế.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc thân kiến là nhân của nó, nó không phải là nhân của thân kiến, có ba trường hợp: Thân kiến là nhân của nó, nó không phải là nhân của thân kiến: Trừ do kiến khổ đoạn sử tương ưng với pháp niệm xứ ở quá khứ, hiện tại. Trừ do kiến tập đoạn sử hiện bày khắp tất cả tương ưng với pháp niệm xứ ở quá khứ, hiện tại. Trừ thân kiến tương ưng với pháp niệm xứ ở vị lai. Trừ thân kiến sinh trụ dị diệt và tương ưng với pháp sinh trụ dị diệt. Còn lại là những pháp niệm xứ cấu uế.

Thân kiến là nhân của nó (pháp niệm xứ), nó cũng là nhân của thân kiến: Là những pháp như vậy, trước đã trừ rồi.

Thân kiến không phải là nhân của nó, nó cũng không phải là nhân của thân kiến: Là pháp niệm xứ không cấu uế.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là nghiệp không phải là nghiệp báo v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là nghiệp không phải là nghiệp báo, có ba trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp báo: Là nghiệp thân, khẩu. 2. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là thân niệm xứ của báo sinh. 3. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo: Là trừ nghiệp và nghiệp báo nơi thân niệm xứ, là thân niệm xứ còn lại.

Thọ niệm xứ hoặc là nghiệp báo không phải là nghiệp, hoặc không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là thọ niệm xứ của báo sinh, còn lại không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là nghiệp không phải là nghiệp báo, có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp báo: Là báo không gồm thâu nghiệp tư (nghiệp ý). 2. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là như tư không gồm thâu báo sinh nơi pháp niệm xứ. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp báo: Là nghiệp tư của báo sinh. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo: Là trừ nghiệp và nghiệp báo nơi pháp niệm xứ, là pháp niệm xứ còn lại.

Hai thứ là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp, hai thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển, có ba trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại. 2. Là nghiệp cũng là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu. 3. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ không phải là nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu và nghiệp tùy chuyển nơi thân niệm xứ, là thân niệm xứ còn lại.

Pháp niệm xứ hoặc là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển, có ba trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tư. 2. Là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp: Là tưởng ấm, hoặc tư không gồm thâu hành ấm của nghiệp tùy chuyển. 3. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp và nghiệp tùy chuyển nơi pháp niệm xứ, là pháp niệm xứ còn lại.

Ba thứ không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy, một thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy, có ba trường hợp: 1. Là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy: Là tám nhập và phần ít của hai nhập. 2. Là sắc tạo sắc cũng là sắc có thể thấy: Là một nhập. 3. Không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy: Là phần ít của một nhập.

*

* Bốn niệm xứ nầy: Ba thứ không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối, một thứ cần phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối, có ba trường hợp: 1. Là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối: Là phần ít của một nhập. 2. Là sắc có đối không phải là sắc tạo sắc: Là phần ít của một nhập. 3. Là sắc tạo sắc cũng là sắc có đối: Là chín nhập và phần ít của một nhập.

Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là nhân thiện không phải là thiện v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là nhân thiện không phải là thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân thiện không phải là thiện: Là thiện báo sinh nơi thân niệm xứ. 2. Là thiện cũng là nhân thiện: Là thân niệm xứ thiện. 3. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là trừ báo thiện sinh nơi thân niệm xứ, như vô ký còn lại cùng thân niệm xứ bất thiện.

Như thân niệm xứ, thọ niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là thiện không phải là nhân thiện, có bốn trường hợp: 1. Là thiện không phải là nhân thiện: Là số diệt. 2. Là nhân thiện không phải là thiện: Là báo thiện sinh nơi pháp niệm xứ. 3. Là thiện cũng là nhân thiện: Là thiện hữu vi nơi pháp niệm xứ. 4. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là trừ báo thiện sinh nơi pháp niệm xứ, là vô ký còn lại và pháp niệm xứ bất thiện.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là bất thiện không phải là nhân bất thiện v.v…?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi thân niệm xứ. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là thân niệm xứ bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là trừ báo bất thiện sinh nơi thân niệm xứ, là vô ký còn lại và thân niệm xứ thiện.

Thọ niệm xứ hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi thọ niệm xứ và thân kiến, biên kiến tương ưng với thọ niệm xứ nơi cõi Dục. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là thọ niệm xứ bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là trừ báo bất thiện sinh nơi thọ niệm xứ và trừ thân kiến, biên kiến tương ưng với thọ niệm xứ nơi cõi Dục, là vô ký còn lại và thọ niệm xứ thiện.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi pháp niệm xứ và thân kiến, biên kiến tương ưng với pháp niệm xứ nơi cõi Dục. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là pháp niệm xứ bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là trừ báo bất thiện sinh nơi pháp niệm xứ và trừ thân kiến, biên kiến tương ưng với pháp niệm xứ nơi cõi Dục, là vô ký còn lại và pháp niệm xứ.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là vô ký không phải là nhân vô ký?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ hoặc là nhân vô ký không phải là vô ký, có ba trường hợp: 1. Là nhân vô ký không phải là vô ký: Là thân niệm xứ bất thiện. 2. Là vô ký cũng là nhân vô ký: Là thân niệm xứ vô ký. 3. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là thân niệm xứ thiện.

Như thân niệm xứ, thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là vô ký không phải là nhân vô ký, có bốn trường hợp: 1. Là vô ký không phải là nhân vô ký: Là hư không, phi số diệt. 2. Là nhân vô ký không phải là vô ký: Là pháp niệm xứ bất thiện. 3. Là vô ký cũng là nhân vô ký: Là pháp niệm xứ hữu vi vô ký. 4. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là pháp niệm xứ thiện.

Ba thứ là duyên của nhân duyên cùng có nhân, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ nếu là hữu vi là duyên của nhân duyên cùng có nhân. Nếu là vô vi thì không phải là duyên của nhân duyên cũng không có nhân.

Một thứ không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên, ba thứ cần phân biệt: Thọ niệm xứ hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là hiện tiền, vị lai tất khởi thọ niệm xứ, là thọ niệm xứ nơi thọ mạng tối hậu của A-la-hán quá khứ, hiện tại. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ thọ niệm xứ nơi mạng sống tối hậu của A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, còn lại là thọ niệm xứ ở quá khứ và hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ hiện tiền, vị lai tất khởi thọ niệm xứ, còn lại là thọ niệm xứ vị lai.

Như thọ niệm xứ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là pháp niệm xứ của tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, là pháp niệm xứ của tâm pháp nơi mạng sống tối hậu của A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, và chánh thọ (định) vô tưởng, chánh thọ diệt tận, đã khởi, đang khởi. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ pháp niệm xứ của tâm pháp nơi mạng sống tối hậu của A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, còn lại là pháp niệm xứ của tâm pháp ở quá khứ và hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ pháp niệm xứ của tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là pháp niệm xứ của tâm pháp ở vị lai, trừ thứ lớp nơi tâm bất tương ưng hành, còn lại là tâm bất tương ưng hành và vô vi.

Một thứ là duyên của duyên duyên không có duyên, hai thứ là duyên của duyên duyên cùng có duyên, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ nếu là tâm pháp là duyên của duyên duyên cùng có duyên. Nếu không phải là tâm pháp là duyên của duyên duyên không có duyên.

Ba thứ là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng, một thứ cần phân biệt: Pháp niệm xứ nếu là hữu vi là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng, nếu là vô vi là duyên của tăng thượng duyên không có tăng thượng.

Hỏi: Bốn niệm xứ nầy: Bao nhiêu thứ là lưu, tùy lưu?

Đáp: Hết thảy nên phân biệt: Thân niệm xứ nếu là hữu vi là tùy lưu không phải là lưu. Nếu là vô vi thì không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu.

Như thân niệm xứ, thọ, tâm niệm xứ cũng như vậy.

Pháp niệm xứ hoặc là tùy lưu không phải là lưu, có ba trường hợp: 1. Là tùy lưu không phải là lưu: Là lưu không gồm thâu pháp niệm xứ hữu lậu. 2. Là lưu cũng là tùy lưu: Là bốn lưu. 3. Không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu: Là pháp niệm xứ vô lậu.

**

9. Đế: Là bốn Thánh đế.

Hỏi: Những gì là bốn?

Đáp: (1) Khổ Thánh đế. (2) Tập Thánh đế. (3) Diệt Thánh đế.

(4) Đạo Thánh đế.

*

Hỏi: Bốn Thánh đế nầy: Bao nhiêu thứ là sắc, bao nhiêu thứ là không phải sắc v.v…?

Đáp: Một thứ là không phải sắc, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là sắc, hoặc là không phải sắc. Thế nào là sắc? Là mười nhập và phần ít của một nhập. Thế nào là không phải sắc? Là một nhập và phần ít của một nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc, ngoài ra là không phải sắc.

Hai thứ là không thể thấy, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là có thể thấy, hoặc là không thể thấy. Thế nào là có thể thấy? Là một nhập. Thế nào là không thể thấy? Là mười một nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Hai thứ là không đối, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là có đối, hoặc là không đối. Thế nào là có đối? Là mười nhập. Thế nào là không đối? Là hai nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Hai thứ là hữu lậu, hai thứ là vô lậu.

Ba thứ là hữu vi, một thứ là vô vi.

Hai thứ là không báo, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc có báo, hoặc không báo. Thế nào là có báo? Là khổ đế thiện, bất thiện. Thế nào là không báo? Là khổ đế vô ký.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Ba thứ từ nhân duyên sinh thuộc về thế gian, một thứ không từ nhân duyên sinh không thuộc về thế gian.

Một thứ thuộc về danh, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc thuộc về sắc, hoặc thuộc về danh. Thế nào là thuộc về sắc? Là mười nhập và phần ít của một nhập. Thế nào là thuộc về danh? Là một nhập và phần ít của một nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu là thuộc về sắc, ngoài ra là thuộc về danh.

Một thứ thuộc về ngoại nhập, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc thuộc về nội nhập, hoặc thuộc về ngoại nhập. Thế nào là thuộc về nội nhập? Là sáu nội nhập. Thế nào là thuộc về ngoại nhập? Là sáu ngoại nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu tâm, ý, thức là thuộc về nội nhập, ngoài ra là thuộc về ngoại nhập.

Hết thảy là trí nhận biết.

*

* Bốn Thánh đế nầy: Hai thứ đoạn tri nhận biết và đoạn, hai thứ không phải đoạn tri nhận biết và không đoạn.

Một thứ nên tu, một thứ không nên tu, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là nên tu, hoặc là không nên tu. Thế nào là nên tu? Là khổ đế thiện. Thế nào là không nên tu? Là khổ đế bất thiện, vô ký.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Hai thứ là không cấu uế, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là cấu uế, hoặc là không cấu uế. Thế nào là cấu uế? Là ẩn mất (hữu phú). Thế nào là không cấu uế? Là không ẩn mất (vô phú).

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Một thứ là quả không phải là có quả, ba thứ là quả cũng là có quả.

Hai thứ là không thọ, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là thọ, hoặc là không thọ. Thế nào là thọ? Là tự tánh thọ nhận. Thế nào là không thọ? Là không phải tự tánh thọ nhận.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Một thứ là không phải do bốn đại tạo, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là do bốn đại tạo, hoặc là không phải do bốn đại tạo. Thế nào là do bốn đại tạo? Là chín nhập và phần ít của hai nhập. Thế nào là không phải do bốn đại tạo? Là một nhập và phần ít của hai nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu là do bốn đại tạo, còn lại là không phải do bốn đại tạo.

Ba thứ là hữu thượng, một thứ là vô thượng.

Hai thứ là hữu, hai thứ là không phải hữu.

Một thứ là nhân không tương ưng, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế gồm thâu sắc, tâm bất tương ưng hành là nhân không tương ưng, còn là nhân tương ưng.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu, tâm bất tương ưng hành, là nhân không tương ưng, ngoài ra là nhân tương ưng.

*

* Bốn Thánh đế nầy: Xứ thiện gồm thâu hai đế và phần ít của hai đế, hai đế và phần ít của hai đế cũng gồm thâu xứ thiện.

Xứ bất thiện gồm thâu phần ít của hai đế, phần ít của hai đế cũng gồm thâu xứ bất thiện.

Xứ vô ký hoặc gồm thâu không phải là đế, có bốn trường hợp:

1. Là xứ vô ký gồm thâu không phải là đế: Là hư không, phi số diệt. 2. Là đế gồm thâu không phải là xứ vô ký: Là hai đế và phần ít của hai đế. 3. Là xứ vô ký gồm thâu cũng là đế: Là phần ít của hai đế. 4. Không phải là xứ vô ký gồm thâu cũng không phải là đế: Là việc không thể có được.

Xứ lậu gồm thâu phần ít của hai đế, phần ít của hai đế cũng gồm thâu xứ lậu.

Xứ hữu lậu gồm thâu hai đế, hai đế cũng gồm thâu xứ hữu lậu.

Xứ vô lậu hoặc gồm thâu không phải là đế, có bốn trường hợp: 1. Là xứ vô lậu gồm thâu không phải là đế: Là hư không và phi số diệt. 2. Là đế gồm thâu không phải là xứ vô lậu: Là hai đế. 3. Là xứ vô lậu gồm thâu cũng là đế: Là hai đế. 4. Không phải là xứ vô lậu gồm thâu cũng không phải là đế: Là việc không thể có được.

Ba thứ hoặc là quá khứ, vị lai hay hiện tại, một thứ không phải là quá khứ, không phải là vị lai, không phải là hiện tại.

Hai thứ là thiện, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký. Thế nào là thiện? Là khổ đế gồm thâu năm ấm thiện. Thế nào là bất thiện? Là khổ đế gồm thâu năm ấm bất thiện. Thế nào là vô ký là khổ đế gồm thâu năm ấm vô ký.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Hai thứ không hệ thuộc, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc thuộc cõi Dục, hoặc thuộc cõi Sắc, hoặc thuộc cõi Vô sắc. Thế nào là thuộc cõi Dục? Là khổ đế gồm thâu năm ấm thuộc cõi Dục. Thế nào là thuộc cõi Sắc? Là khổ đế gồm thâu năm ấm thuộc cõi Sắc. Thế nào là thuộc cõi Vô sắc? Là khổ đế gồm thâu bốn ấm thuộc cõi Vô sắc.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Ba thứ là phi học phi vô học, một thứ cần phân biệt: Đạo đế hoặc là học, hoặc là vô học. Thế nào là học? Là năm ấm học. Thế nào là vô học? Là năm ấm vô học.

*

* Bốn Thánh đế nầy: Hai thứ là không đoạn, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là do kiến đoạn, hoặc là do tu đoạn. Thế nào là do kiến đoạn? Là như khổ đế nơi người tùy tín hành, tùy pháp hành tạo nhẫn vô gián cùng đoạn. Đoạn trừ những gì? Là kiến đạo đoạn trừ tám mươi tám sử tương ưng với khổ đế đã khởi tâm bất tương ưng hành. Thế nào là do tu đoạn? Là khổ đế nơi bậc học kiến tích tu đoạn. Đoạn trừ như thế nào? Là tu đạo đoạn trừ mười sử tương ưng với khổ đế đã khởi nghiệp thân, khẩu, đã khởi tâm bất tương ưng hành và khổ đế không cấu uế.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Một thứ là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Ba thứ cần phân biệt: Khổ đế gồm thâu sắc, tâm bất tương ưng hành là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Khổ đế gồm thâu thọ ấm, tưởng ấm, tương ưng với hành ấm, là tâm pháp, tâm tương ưng. Tâm, ý, thức tức là tâm.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu, tâm bất tương ưng hành, là không phải tâm, không phải tâm pháp, không phải tâm tương ưng. Đạo đế gồm thâu thọ ấm, tưởng ấm, tương ưng với hành ấm là tâm pháp, tâm tương ưng. Tâm, ý, thức tức là tâm.

Một thứ không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ. Ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, có bốn trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển: Là tâm, ý, thức. 3. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 4. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là sắc còn lại, trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế hoặc là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ, có bốn trường hợp: 1. Là tâm tùy chuyển không tương ưng với thọ: Là tâm tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và thọ. 2. Là tương ưng với thọ không phải là tâm tùy chuyển: Là tâm, ý, thức. 3. Là tâm tùy chuyển cũng tương ưng với thọ: Là tưởng ấm tương ưng với hành ấm. 4. Không phải là tâm tùy chuyển cũng không tương ưng với thọ: Là trừ tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.

Như thọ, tưởng, hành cũng như vậy, trừ tự tánh của nó.

Một thứ không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: 1. Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và giác tương ưng với quán.

2. Là quán tương ưng không phải là giác tùy chuyển: Là giác, như giác không tương ưng với quán, vì tương ưng với tâm, tâm pháp nơi khổ đế. 3. Là giác tùy chuyển cũng tương ưng với quán: Là giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp nơi khổ đế. 4. Không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán: Là trừ giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, còn lại là sắc, trừ giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại, và giác không tương ưng với quán cùng không phải giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp nơi khổ đế.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế hoặc là giác tùy chuyển không tương ưng với quán, có bốn trường hợp: 1. Là giác tùy chuyển không tương ưng với quán: Là giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành và giác tương ưng với quán. 2. Là quán tương ưng không phải là giác tùy chuyển: Là giác, như giác không tương ưng với quán, vì tương ưng với tâm, tâm pháp. 3. Là giác tùy chuyển cũng tương ưng với quán: Là giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp. 4. Không phải là giác tùy chuyển cũng không tương ưng với quán: Là trừ giác tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại. Trừ giác tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại và giác không tương ưng với quán cùng không phải giác quán tương ưng với tâm, tâm pháp.

Một thứ không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là kiến cũng là xứ kiến, hoặc là xứ kiến không phải là kiến. Kiến cũng là xứ kiến: Là nhãn căn và năm kiến, chánh kiến thế tục, còn lại là xứ kiến không phải là kiến.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu tận trí, vô sinh trí, không gồm thâu tuệ vô lậu, là kiến không phải là xứ kiến. Ngoài ra không phải là kiến cũng không phải là xứ kiến.

Hai thứ là thân kiến không phải là nhân của đế, đế cũng không phải là nhân của thân kiến. Hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc thân kiến là nhân của nó, nó không phải làm nhân của thân kiến. Hoặc thân kiến là nhân của nó, nó cũng là nhân của thân kiến. Hoặc thân kiến không phải là nhân của nó, nó cũng không phải là nhân của thân kiến.

Thân kiến là nhân của nó, nó không phải là nhân của thân kiến: Là trừ do kiến khổ, kiến tập đoạn trừ sử tương ưng với khổ đế ở quá khứ, hiện tại. Trừ do kiến tập đoạn trừ sử hiện bày khắp hết thảy tương ưng với khổ đế thuộc quá khứ, hiện tại. Trừ thân kiến tương ưng với khổ đế ở vị lai. Trừ thân kiến sinh trụ dị diệt và tương ưng với pháp sinh trụ dị diệt, còn lại là các khổ đế cấu uế.

Thân kiến là nhân của nó, nó cũng là nhân của thân kiến: Là những pháp trước đã trừ rồi.

Thân kiến không phải là nhân của nó, nó cũng không phải là nhân của thân kiến: Là khổ đế không cấu uế.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Một thứ không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là nghiệp không phải là nghiệp báo, có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp báo: Là nghiệp thân, khẩu và báo không gồm thâu nghiệp tư. 2. Là nghiệp báo không phải là nghiệp: Là như tư không gồm thâu báo sinh nơi khổ đế. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp báo: Là báo sinh nơi nghiệp tư. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo: Là trừ nghiệp và nghiệp báo nơi khổ đế, là khổ đế còn lại.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu và tư, là nghiệp không phải là nghiệp báo. Ngoài ra là không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp báo.

Một thứ không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển, có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu, là nghiệp thân, khẩu còn lại và nghiệp tư. 2. Là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp: Là thọ ấm, tưởng ấm, thức ấm. Như tư không gồm thâu hành ấm của nghiệp tùy chuyển. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp và nghiệp tùy chuyển nơi khổ đế, là khổ đế còn lại.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế hoặc là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển, có bốn trường hợp: 1. Là nghiệp không phải là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tư. 2. Là nghiệp tùy chuyển không phải là nghiệp: Là thọ ấm, tưởng ấm, thức ấm. Như tư không gồm thâu hành ấm của nghiệp tùy chuyển. 3. Là nghiệp cũng là nghiệp tùy chuyển: Là nghiệp tùy chuyển nơi nghiệp thân, khẩu. 4. Không phải là nghiệp cũng không phải là nghiệp tùy chuyển: Là trừ nghiệp tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành, là tâm bất tương ưng hành còn lại.

Một thứ không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy, có ba trường hợp: 1. Là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy: Là tám nhập và phần ít của hai nhập. 2. Là sắc tạo sắc cũng là sắc có thể thấy: Là một nhập. 3. Không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy: Là một nhập và phần ít của hai nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc không phải là sắc có thể thấy. Ngoài ra không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có thể thấy.

*

* Bốn Thánh đế nầy: Một thứ không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối, có bốn trường hợp: 1. Là sắc tạo sắc không phải là sắc có đối: Là phần ít của một nhập. 2. Là sắc có đối không phải là sắc tạo sắc: Là phần ít của một nhập. 3. Là sắc tạo sắc cũng là sắc có đối: Là chín nhập và phần ít của một nhập. 4. Không phải là sắc tạo sắc cũng không phải là sắc có đối: Là một nhập và phần ít của một nhập.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu là sắc tạo sắc, không phải sắc có đối. Ngoài ra là không phải sắc tạo sắc cũng không phải sắc có đối.

Hết thảy là rất thâm diệu khó hiểu rõ, khó hiểu rõ vì rất thâm diệu.

Một thứ là thiện không phải là nhân thiện, một thứ là thiện cũng là nhân thiện, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là nhân thiện không phải là thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân thiện không phải là thiện: Là báo thiện sinh nơi khổ đế. 2. Là thiện cũng là nhân thiện: Là khổ đế thiện. 3. Không phải là thiện cũng không phải là nhân thiện: Là trừ báo thiện sinh nơi khổ đế, còn lại là vô ký và khổ đế bất thiện.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Hai thứ không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là nhân bất thiện không phải là bất thiện, có ba trường hợp: 1. Là nhân bất thiện không phải là bất thiện: Là báo bất thiện sinh nơi khổ đế và thân kiến, biên kiến tương ưng với khổ đế nơi cõi Dục. 2. Là bất thiện cũng là nhân bất thiện: Là khổ đế bất thiện. 3. Không phải là bất thiện cũng không phải là nhân bất thiện: Là trừ báo bất thiện sinh nơi khổ đế, trừ thân kiến, biên kiến tương ưng với khổ đế nơi cõi Dục, còn lại là vô ký và khổ đế thiện.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Hai thứ không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là nhân vô ký không phải là vô ký, có ba trường hợp: 1. Là nhân vô ký không phải là vô ký: Là khổ đế bất thiện. 2. Là vô ký cũng là nhân vô ký: Là khổ đế vô ký. 3. Không phải là vô ký cũng không phải là nhân vô ký: Là khổ đế thiện.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Một thứ không phải là duyên của nhân duyên cũng không phải có nhân, ba thứ là duyên của nhân duyên cùng có nhân.

Một thứ không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là khổ đế của tâm, tâm pháp tất khởi nơi hiện tiền, vị lai. Là khổ đế của tâm tâm pháp nơi mạng sống tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ và hiện tại cùng chánh thọ (định) vô tưởng, chánh thọ diệt tận, đã khởi, sẽ khởi. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ khổ đế của tâm tâm pháp nơi mạng sống tối hậu của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, còn lại là khổ đế của tâm, tâm pháp ở quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ khổ đế của tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là khổ đế của tâm, tâm pháp ở vị lai, trừ thứ lớp nơi tâm bất tương ưng hành, còn lại là tâm bất tương ưng hành và sắc.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế hoặc là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên, có ba trường hợp: 1. Là thứ đệ không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là đạo đế của tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai. 2. Là thứ đệ cũng là duyên của thứ đệ duyên: Là đạo đế của tâm, tâm pháp ở quá khứ, hiện tại. 3. Không phải là thứ đệ cũng không phải là duyên của thứ đệ duyên: Là trừ đạo đế của tâm, tâm pháp tất khởi ở hiện tiền, vị lai, còn lại là đạo đế của tâm, tâm pháp ở vị lai, cùng nghiệp thân, khẩu, tâm tùy chuyển nơi tâm bất tương ưng hành.

Một thứ là duyên của duyên duyên không có duyên, ba thứ cần phân biệt: Khổ đế gồm thâu sắc, tâm bất tương ưng hành, là duyên của duyên duyên không có duyên, còn lại là duyên của duyên duyên cùng có duyên.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

Đạo đế gồm thâu nghiệp thân, khẩu, là duyên của duyên duyên không có duyên, còn lại là duyên của duyên duyên cũng có duyên.

Ba thứ là duyên của tăng thượng duyên cùng có tăng thượng, một thứ là duyên của tăng thượng duyên không có tăng thượng,

Hai thứ không phải là lưu cũng không phải là tùy lưu, hai thứ cần phân biệt: Khổ đế hoặc là lưu cũng là tùy lưu, hoặc là tùy lưu không phải là lưu. Là lưu cũng là tùy lưu: Là bốn lưu, còn lại là tùy lưu không phải là lưu.

Như khổ đế, tập đế cũng như vậy.

HẾT – QUYỂN 9