LUẬN A TỲ ĐẠT MA THỨC THÂN TÚC
Tác giả: A la hán Đề Bà Thiết Ma
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 5
Uẩn thứ 3: NHÂN DUYÊN, phần 2
* Có mười tâm: Thuộc cõi Dục có 4: 1. Tâm thiện. 2. Tâm bất thiện. 3. Tâm hữu phú vô ký. 4. Tâm vô phú vô ký. Thuộc cõi Sắc có 3: 1. Tâm thiện. 2. Tâm hữu phú vô ký. 3. Tâm vô phú vô ký. Thuộc cõi Vô sắc có 3: 1. Tâm thiện. 2. Tâm hữu phú vô ký. 3. Tâm vô phú vô ký.
Các tâm thiện thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng? Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng? v.v… Cho đến các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng? Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Trả lời:
Các tâm thiện thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Các tâm bất thiện thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến khổ, tập đoạn trừ tâm bất thiện. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến khổ tập diệt đoạn trừ tâm bất thiện. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Dục, do kiến đạo đoạn trừ tâm bất thiện. Đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc và các tâm bất thiện. Đã lìa tham nơi cõi Sắc, chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc và các tâm bất thiện. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc và các tâm bất thiện. Đó gọi là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn trừ các tâm bất thiện.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Hoặc do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn. Hoặc do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn. Hoặc do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến khổ, tập đoạn trừ các tâm bất thiện. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tâm bất thiện. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, chưa lìa tham nơi cõi Dục, do kiến đạo đoạn trừ các tâm bất thiện. Đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc và các tâm bất thiện. Đã lìa tham nơi cõi Sắc, chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc và các tâm bất thiện. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc và các tâm bất thiện. Đó gọi là do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.
Do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn trừ các tâm bất thiện.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.
Do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Khi ấy tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng. Khi đó diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Dục, do tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng.
Đó gọi là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, chưa lìa tham nơi cõi Dục, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục. Đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục. Đã lìa tham nơi cõi Sắc, chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục. Đó gọi là thể của nó đã đoạn, do đã đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục do kiến khổ đoạn trừ.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Dục do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng? Nghĩa là trừ các tùy miên đã chiêu cảm dị thục, các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Dục còn lại, do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục, hoặc do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn. Hoặc do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc, và các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Đã lìa tham nơi cõi Sắc, chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc và các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Đó gọi là do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.
Do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến khổ, tập đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ, tập đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Dục, do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến đạo đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế.
Đó gọi là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Các tâm thiện thuộc cõi Sắc: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Sắc, tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, chưa lìa tham nơi cõi Sắc, tức ở cõi Sắc do kiến đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Đã lìa tham nơi cõi Sắc, chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc. Đó gọi là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là đã lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến khổ đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân. Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Hoặc do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn. Hoặc do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn. Hoặc do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Sắc, tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, chưa lìa tham nơi cõi Sắc, tức ở cõi Sắc do kiến đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Đã lìa tham nơi cõi Sắc, chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc. Đó gọi là do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.
Do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến khổ đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.
Do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Sắc, tức ở cõi Sắc do tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Sắc cùng các pháp tương ưng với chúng.
Đó gọi là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Sắc: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Các tâm thiện thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân: Nghĩa là tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tâm vô phú vô ký. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc, tức ở cõi Vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Vô sắc. Đó gọi là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân.
Thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là thể của nó đã đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân. Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Hoặc do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn. Hoặc do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn. Hoặc do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến khổ, tập đoạn trừ tâm hữu phú vô ký. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Sắc, tức ở cõi Vô sắc do kiến đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký. Đã lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Vô sắc. Đó gọi là do đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.
Do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.
Do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc, tức ở cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.
Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.
Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng.
Đó gọi là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.
Các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó đã đoạn là do đã đoạn làm nhân chăng?
Đáp: Đúng vậy.
Hỏi: Nếu như do đã đoạn làm nhân là thể của nó đã đoạn chăng?
Đáp: Đúng vậy.
*
* Có mười lăm tâm: Nghĩa là thuộc cõi Dục có năm tâm, thuộc cõi Sắc có năm tâm, thuộc cõi Vô sắc có năm tâm. Mười lăm tâm như thế hoặc ở quá khứ, hoặc ở vị lai, hoặc ở hiện tại.
Thế nào là thuộc cõi Dục có năm tâm? Nghĩa là ở cõi Dục có tâm do kiến khổ đoạn trừ, có tâm do kiến tập, diệt, đạo cùng do tu đạo đoạn trừ.
Như thuộc cõi Dục, thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.
Các tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ do kiến khổ đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu là tùy tăng cũng có thể làm nhân chăng? Nếu như có thể làm nhân cũng là tùy tăng chăng? v.v… Cho đến các tâm thuộc cõi Vô sắc ở quá khứ do tu đạo đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu là tùy tăng cũng có thể làm nhân chăng? Nếu như có thể làm nhân cũng là tùy tăng chăng?
Các tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ do kiến khổ đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu là tùy tăng cũng có thể làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc là có thể làm nhân không phải là tùy tăng. Hoặc là tùy tăng không phải có thể làm nhân. Hoặc là có thể làm nhân cũng là tùy tăng. Hoặc không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng.
Có thể làm nhân không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt cùng các tùy miên tương ưng ấy đã đoạn.
Là đã tùy tăng không phải có thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn.
Có thể làm nhân cũng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn cùng các tùy miên tương ưng ấy chưa đoạn.
Không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt, hoặc là duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.
Như các tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ do kiến khổ đoạn trừ, các tâm thuộc cõi Dục ở vị lai do kiến khổ đoạn trừ cũng như vậy.
Các tâm thuộc cõi Dục ở hiện tại do kiến khổ đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu là tùy tăng cũng có thể làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc là có thể làm nhân không phải là tùy tăng. Hoặc là đã tùy tăng không phải có thể làm nhân. Hoặc có thể làm nhân cũng là tùy tăng. Hoặc không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng.
Có thể làm nhân không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên mà đã đoạn dứt.
Là đã tùy tăng không phải có thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt.
Có thể làm nhân cũng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt cùng các tùy miên hiện có tương ưng ấy.
Không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên mà đã đoạn dứt, hoặc là duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.
Như tâm do kiến khổ đoạn trừ, tâm nhiễm ô do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ cũng như vậy.
Các tâm không nhiễm ô thuộc cõi Dục ở quá khứ do tu đạo đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu là tùy tăng cũng có thể làm nhân chăng?
Đáp: Nghĩa là trừ các tùy miên đã chiêu cảm dị thục, còn lại là tâm không nhiễm ô thuộc cõi Dục ở quá khứ do tu đạo đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc là tùy tăng không phải có thể làm nhân. Hoặc đối với tâm nầy có thể làm nhân, tức không phải là tùy miên cũng không phải là tùy tăng. Đối với các tùy miên đã chiêu cảm tâm dị thục: Hoặc có thể làm nhân không phải là tùy tăng. Hoặc là đã tùy tăng không phải có thể làm nhân. Hoặc có thể làm nhân cũng là tùy tăng. Hoặc không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng.
Có thể làm nhân không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia hoặc là không duyên với đây, hoặc là có duyên mà đã đoạn dứt.
Là tùy tăng không phải có thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên không thể làm nhân để chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia đã duyên với đây chưa đoạn dứt.
Có thể làm nhân cũng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia vẫn còn duyên với đây chưa đoạn dứt.
Không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên không thể làm nhân để chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia hoặc là không duyên với đây, hoặc có duyên mà đã đoạn dứt, hoặc là duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.
Như quá khứ, vị lai, hiện tại cũng như thế.
Như tâm thuộc cõi Dục, tâm thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Là tâm thuộc cõi Sắc và thuộc cõi Vô sắc không nên nói là có tùy miên dị thục.
*
* Có mười lăm tâm: Nghĩa là thuộc cõi Dục có năm tâm, thuộc cõi Sắc có năm tâm, thuộc cõi Vô sắc có năm tâm. Mười lăm tâm như thế hoặc ở quá khứ, hoặc ở vị lai, hoặc ở hiện tại.
Thế nào là thuộc cõi Dục có năm tâm? Nghĩa là ở cõi Dục có tâm do kiến khổ đoạn trừ, có tâm do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ.
Như thuộc cõi Dục, thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy.
Các tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ do kiến khổ đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu không là tùy tăng cũng không làm nhân chăng? Nếu như không làm nhân cũng không là tùy tăng chăng? v.v… Cho đến các tâm thuộc cõi Vô sắc ở hiện tại do tu đạo đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu không là tùy tăng cũng không làm nhân chăng? Nếu như không làm nhân cũng không là tùy tăng chăng?
Các tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ do kiến khổ đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu không là tùy tăng cũng không làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng. Hoặc không tùy tăng không phải là không làm nhân. Hoặc không làm nhân cũng không tùy tăng. Hoặc cùng là làm nhân cũng cùng là tùy tăng.
Không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt
Không tùy tăng không phải là không làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại với biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên mà đã đoạn dứt, cùng các tùy miên tương ưng ấy đã đoạn dứt.
Không thể làm nhân cũng không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại với biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên mà đã đoạn dứt, hoặc duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.
Cùng là làm nhân cũng cùng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại với biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt cùng các tùy miên tương ưng ấy chưa đoạn dứt.
Như các tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ do kiến khổ đoạn trừ, các tâm thuộc cõi Dục ở vị lai do kiến khổ đoạn trừ cũng như vậy.
Các tâm thuộc cõi Dục ở hiện tại do kiến khổ đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu không là tùy tăng cũng không làm nhân chăng?
Đáp: Hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng. Hoặc không tùy tăng không phải là không làm nhân. Hoặc không làm nhân cũng không tùy tăng. Hoặc cùng là làm nhân cũng cùng là tùy tăng.
Không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại với biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt.
Không tùy tăng không phải là không làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại với biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên nhưng đã đoạn dứt.
Không thể làm nhân cũng không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại với biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên nhưng đã đoạn dứt, hoặc là duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.
Cùng là làm nhân cũng cùng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại với biến hành, tức các tùy miên kia hoặc duyên với đây chưa đoạn dứt cùng các tùy miên hiện có tương ưng ấy.
Như tâm do kiến khổ đoạn trừ, tâm nhiễm ô do kiến tập, diệt, đạo và do tu đạo đoạn trừ cũng như vậy.
Các tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ không nhiễm ô do tu đạo đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu không tùy tăng cũng không làm nhân chăng?
Đáp: Nghĩa là trừ các tùy miên đã chiêu cảm dị thục, còn lại là tâm không nhiễm ô, ở cõi Dục do tu đạo đoạn trừ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, hoặc không tùy tăng cũng không làm nhân. Hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên duyên với đây chưa đoạn dứt. Nếu các tùy miên đã chiêu cảm dị thục: Hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng. Hoặc không tùy tăng không phải là không làm nhân. Hoặc không làm nhân cũng không tùy tăng. Hoặc cùng là làm nhân cũng cùng là tùy tăng.
Không thể làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên không làm nhân để chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn dứt
Không tùy tăng không phải là không làm nhân: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia hoặc là không duyên với đây, hoặc là có duyên nhưng đã đoạn dứt.
Không thể làm nhân cũng không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên không làm nhân để chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên nhưng đã đoạn dứt, hoặc là duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.
Cùng là làm nhân cũng cùng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm tâm dị thục nầy, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt.
Như tâm thuộc cõi Dục ở quá khứ không nhiễm ô do tu đạo đoạn trừ, ở vị lai và hiện tại cũng như vậy.
Như tâm thuộc cõi Dục, tâm thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Là tâm thuộc cõi Sắc và thuộc cõi Vô sắc không nên nói là có tùy miên dị thục.
*
* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu thức thân như thế hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là hữu phú vô ký, hoặc là vô phú vô ký.
Đối với nhãn thức thiện hiện có các thứ kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền, trong đó bao nhiêu thứ nên nói là nhân nên nói là duyên? Bao nhiêu thứ nên nói là duyên không nên nói là nhân?
Đối với nhãn thức bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký hiện có các thứ kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền, trong đó bao nhiêu thứ nên nói là nhân nên nói là duyên? Bao nhiêu thứ nên nói là duyên không nên nói là nhân?
Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.
Trả lời:
Đối với nhãn thức thiện, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức bất thiện có bảy kiết, bảy phược, mười lăm tùy miên, hai mươi tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức hữu phú vô ký có sáu kiết, sáu phược, mười bốn tùy miên, mười sáu tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức vô phú vô ký trừ các tùy miên dị thục, còn lại là nhãn thức vô phú vô ký khác, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục có bảy kiết, bảy phược, ba mươi bốn tùy miên, ba mươi chín tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Là nhất tâm chăng? Đáp: Không phải.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến khổ đoạn trừ tà kiến có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bảy tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Như nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến khổ đoạn trừ tà kiến, các nhãn thức của tùy miên dị thục về kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến khổ đoạn trừ vô minh không chung có một kiết, một phược, một tùy miên, sáu tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến tập đoạn trừ tà kiến có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bảy tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Như nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến tập đoạn trừ tà kiến, các nhãn thức của tùy miên dị thục về kiến thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến tập đoạn trừ vô minh không chung có một kiết, một phược, một tùy miên, sáu tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến diệt đoạn trừ tà kiến có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bảy tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Như nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến diệt đoạn trừ tà kiến, các nhãn thức của tùy miên dị thục về kiến thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến diệt đoạn trừ vô minh không chung có một kiết, một phược, một tùy miên, sáu tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến đạo đoạn trừ tà kiến có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bảy tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Như nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến đạo đoạn trừ tà kiến, các nhãn thức của tùy miên dị thục về kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến đạo đoạn trừ vô minh không chung có một kiết, một phược, một tùy miên, sáu tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do tu đạo đoạn trừ tham có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bảy tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Như nhãn thức của tùy miên dị thục do tu đạo đoạn trừ tham, các nhãn thức của tùy miên dị thục về giận, mạn cũng như vậy.
Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do tu đạo đoạn trừ vô minh không chung có một kiết, một phược, một tùy miên, sáu tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Là đối với tỷ thức và thiệt thức không nên nói là có hữu phú vô ký.
Đối với ý thức thiện, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức bất thiện có bảy kiết, bảy phược, ba mươi sáu tùy miên, bốn mươi mốt tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Là nhất tâm chăng? Đáp: Không phải.
Đối với ý thức bất thiện do kiến khổ đoạn trừ có bảy kiết, bảy phược, mười bốn tùy miên, mười chín tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức bất thiện do kiến tập đoạn trừ có bảy kiết, bảy phược, mười bốn tùy miên, mười chín tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức bất thiện do kiến diệt đoạn trừ có bảy kiết, bảy phược, mười tám tùy miên, hai mươi ba tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức bất thiện do kiến đạo đoạn trừ có bảy kiết, bảy phược, mười chín tùy miên, hai mươi bốn tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức bất thiện do tu đạo đoạn trừ có bảy kiết, bảy phược, mười lăm tùy miên, hai mươi tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức hữu phú vô ký có bảy kiết, bảy phược, bảy mươi sáu tùy miên, tám mươi mốt tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Là nhất tâm chăng? Đáp: Không phải.
Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Dục có bảy kiết, bảy phược, mười bốn tùy miên, mười chín tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến khổ đoạn trừ có sáu kiết, sáu phược, mười ba tùy miên, mười lăm tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ có sáu kiết, sáu phược, mười ba tùy miên, mười lăm tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ có sáu kiết, sáu phược, mười bảy tùy miên, mười chín tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến đạo đoạn trừ có sáu kiết, sáu phược, mười tám tùy miên, hai mươi tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do tu đạo đoạn trừ có sáu kiết, sáu phược, mười bốn tùy miên, mười sáu tùy phiền não triền nên nói là nhân nên nói là duyên, tất cả các thứ còn lại đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
Đối với ý thức vô phú vô ký, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.
*
* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu thức thân như thế hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là hữu phú vô ký, hoặc là vô phú vô ký.
Đối với nhãn thức thiện hiện có các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền, nên nói: Có bao nhiêu thứ cùng tương ưng? Có bao nhiêu thứ không tương ưng?
Đối với nhãn thức bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký hiện có các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền, nên nói: Có bao nhiêu thứ cùng tương ưng? Có bao nhiêu thứ không tương ưng?
Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.
Trả lời:
Đối với nhãn thức thiện, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền nên nói đều không tương ưng.
Đối với nhãn thức bất thiện có ba kiết, ba phược, ba tùy miên, bảy tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Là nhất tâm chăng? Đáp: Không phải.
Đối với nhãn thức bất thiện tương ưng với tham có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, sáu tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Như nhãn thức bất thiện tương ưng với tham, nhãn thức bất thiện tương ưng với sân cũng như vậy.
Đối với nhãn thức hữu phú vô ký có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bốn tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Đối với nhãn thức vô phú vô ký, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền nên nói đều không tương ưng.
Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Đối với tỷ thức và thiệt thức không nên nói là có hữu phú vô ký.
Đối với ý thức thiện, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền nên nói đều không tương ưng.
Đối với ý thức bất thiện có bảy kiết, bảy phược, ba mươi bốn tùy miên, ba mươi chín tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Là nhất tâm chăng? Đáp: Không phải.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến khổ đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có sáu tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ bảy.
Như ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến khổ đoạn trừ, đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên vô minh không chung do kiến khổ đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có năm tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ sáu.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến tập đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có sáu tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ bảy.
Như ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến tập đoạn trừ, đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên kiến thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên vô minh không chung do kiến tập đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có năm tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ sáu.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến diệt đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có sáu tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ bảy.
Như ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến diệt đoạn trừ, đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên kiến thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên vô minh không chung do kiến diệt đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có năm tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ sáu.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến đạo đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có sáu tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ bảy.
Như ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tà kiến do kiến đạo đoạn trừ, đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên vô minh không chung do kiến đạo đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có năm tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ sáu.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tham do tu đạo đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có sáu tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ bảy.
Như ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên tham do tu đạo đoạn trừ, đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên giận, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức bất thiện tương ưng với tùy miên vô minh không chung do tu đạo đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có năm tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ sáu.
Đối với ý thức hữu phú vô ký có sáu kiết, sáu phược, sáu mươi lăm tùy miên, sáu mươi tám tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Là nhất tâm chăng? Đáp: Không phải.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với Tát-ca-da kiến (Thân kiến) ở cõi Dục có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, nếu ở phần vị tỉnh giác thì có bốn tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng, nếu ở phần vị thùy miên thì có thêm tùy miên thứ năm.
Như ý thức hữu phú vô ký tương ưng với Tát-ca-da kiến ở cõi Dục, đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với biên chấp kiến cũng như vậy.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên Tát-ca-da kiến ở cõi Sắc có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bốn tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng.
Như ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên Tát-ca-da kiến ở cõi Sắc, đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên biên chấp kiến do kiến khổ đoạn trừ các tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên vô minh không chung ở cõi Sắc do kiến khổ đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, ba tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bốn tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng.
Như ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ thì ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên kiến thủ, nghi, tham, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên vô minh không chung ở cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, ba tùy phiền não triền, nên nói là tương ưng.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bốn tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Như ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ, đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên kiến thủ, nghi, tham, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên vô minh không chung ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, ba tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Vô sắc do kiến diệt đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bốn tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Như ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ, đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên kiến thủ, nghi, tham, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên vô minh không chung ở cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, ba tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Sắc do kiến đạo đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bốn tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Như ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tà kiến ở cõi Sắc do kiến đạo đoạn trừ, đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, mạn v.v… cũng như vậy.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên vô minh không chung ở cõi Sắc do kiến đạo đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, ba tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tham ở cõi Sắc do tu đạo đoạn trừ có hai kiết, hai phược, hai tùy miên, bốn tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Như ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên tham ở cõi Sắc do tu đạo đoạn trừ, đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên mạn cũng như vậy.
Đối với ý thức hữu phú vô ký tương ưng với tùy miên vô minh không chung ở cõi Sắc do tu đạo đoạn trừ có một kiết, một phược, một tùy miên, ba tùy phiền não triền nên nói là tương ưng.
Như ý thức hữu phú vô ký ở cõi Sắc tương ưng với tùy miên, ở cõi Vô sắc các ý thức hữu phú vô ký cũng như vậy.
Đối với ý thức vô phú vô ký, tất cả các kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não triền đều nên nói là không tương ưng.
HẾT – QUYỂN 5