LUẬN A TỲ ĐẠT MA THỨC THÂN TÚC
Tác giả: A la hán Đề Bà Thiết Ma
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 4

Uẩn thứ 3: NHÂN DUYÊN, phần 1

* Tụng nêu tổng quát:

Các nhân như quá khứ cùng thiện

Tùy tăng bao nhiêu nhân và duyên

Mười, mười lăm tâm không phải nhân

Kiết phược tùy miên cùng tương ưng.

* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu thức thân như thế, hoặc ở quá khứ, hoặc ở vị lai, hoặc ở hiện tại.

Nhãn thức ở quá khứ: Từng có quá khứ làm nhân, không phải là vị lai làm nhân, không phải là hiện tại làm nhân chăng? Từng có vị lai làm nhân, không phải là quá khứ làm nhân, không phải là hiện tại làm nhân chăng? Từng có hiện tại làm nhân, không phải là quá khứ làm nhân, không phải là vị lai làm nhân chăng? Từng có quá khứ, hiện tại làm nhân, không phải là vị lai làm nhân chăng? Từng có vị lai, hiện tại làm nhân, không phải là quá khứ làm nhân chăng? Từng có quá khứ, vị lai làm nhân, không phải là hiện tại làm nhân chăng? Từng có quá khứ, vị lai, hiện tại làm nhân chăng?

Như nhãn thức ở quá khứ, nhãn thức ở vị lai, hiện tại cũng như vậy.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.

Trả lời:

Nhãn thức của quá khứ: Tất cả đều dùng quá khứ làm nhân, các thứ khác đều không thể được.

Nhãn thức của vị lai: Hoặc dùng quá khứ, vị lai làm nhân, không phải là hiện tại làm nhân. Những gì là nhân của vị lai? Nghĩa là ở đây cùng có các pháp như tương ưng v.v… Những gì là nhân của quá khứ? Nghĩa là các pháp quá khứ cùng với nhãn thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục, không phải là pháp hiện tại cùng với nhãn thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục.

Hoặc dùng quá khứ, vị lai, hiện tại làm nhân. Những gì là nhân của vị lai? Nghĩa là ở đây cùng có các pháp như tương ưng v.v… Những gì là nhân của quá khứ, hiện tại? Nghĩa là các pháp quá khứ, hiện tại cùng với nhãn thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục.

Nhãn thức của hiện tại: Tất cả đều dùng quá khứ, hiện tại làm nhân, các thứ khác đều không thể được. Những gì là nhân của hiện tại? Nghĩa là ở đây cùng có các pháp như tương ưng v.v… Những gì là nhân của quá khứ? Nghĩa là các pháp quá khứ cùng với nhãn thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy.

Ý thức của quá khứ: Tất cả đều dùng quá khứ làm nhân, các thứ khác đều không thể được.

Ý thức của vị lai: Hoặc dùng vị lai làm nhân, không phải là quá khứ, hiện tại làm nhân. Nghĩa là Bổ-đặc-già-la chưa chứng nhập chánh tánh ly sinh, là ý thức vô lậu đầu tiên ở vị lai. Những gì là nhân của vị lai? Nghĩa là ở đây cùng có các pháp tương ưng.

Hoặc dùng vị lai, hiện tại làm nhân, không phải là quá khứ làm nhân. Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn lúc hiện tiền cùng ý thức vô lậu ở vị lai hiện có. Những gì là nhân của vị lai? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của hiện tại? Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn và pháp tương ưng cùng có kia.

Hoặc dùng quá khứ, vị lai làm nhân, không phải là hiện tại làm nhân. Những gì là nhân của vị lai? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của quá khứ? Nghĩa là các pháp quá khứ cùng với ý thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục, không phải là pháp hiện tại cùng với ý thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục.

Hoặc dùng quá khứ, vị lai, hiện tại làm nhân. Những gì là nhân của vị lai? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của quá khứ, hiện tại? Nghĩa là các pháp quá khứ, hiện tại cùng với ý thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục nơi ý thức hiện tại.

Ý thức của hiện tại: Hoặc dùng hiện tại làm nhân, không phải là quá khứ làm nhân, không phải là vị lai làm nhân: Nghĩa là khổ pháp trí nhẫn lúc hiện tiền cùng với ý thức tương ưng cùng có kia. Những gì là nhân của hiện tại? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Hoặc dùng quá khứ, hiện tại làm nhân, không phải là vị lai làm nhân. Những gì là nhân của hiện tại? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của quá khứ? Nghĩa là các pháp quá khứ cùng với ý thức nầy hoặc là đồng loại, hoặc là dị thục v.v…

*

* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu thức thân như thế hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là vô ký.

Nhãn thức thiện: Từng có do pháp thiện làm nhân, không phải là pháp bất thiện và vô ký làm nhân chăng? Từng có do pháp bất thiện làm nhân, không phải là pháp thiện và vô ký làm nhân chăng? Từng có do pháp vô ký làm nhân, không phải là pháp thiện và bất thiện làm nhân chăng? Từng có do pháp thiện và vô ký làm nhân, không phải là pháp bất thiện làm nhân chăng? Từng có do pháp bất thiện và vô ký làm nhân, không phải là pháp thiện làm nhân chăng? Từng có do pháp thiện và bất thiện làm nhân, không phải là pháp vô ký làm nhân chăng? Từng có do pháp thiện, bất thiện và vô ký cùng làm nhân chăng?

Như nhãn thức thiện, nhãn thức bất thiện và vô ký cũng như vậy.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.

Trả lời:

Nhãn thức thiện: Tất cả đều dùng pháp thiện làm nhân, các thứ khác đều không thể được.

Nhãn thức bất thiện: Tất cả đều dùng pháp bất thiện và vô ký làm nhân, các thứ khác đều không thể được.

Nhãn thức vô ký: Hoặc có vô ký làm nhân, không phải là thiện và bất thiện làm nhân: Nghĩa là nhãn thức có đường oai nghi và xứ công xảo cùng nhãn thức nhiễm ô thuộc cõi Phạm thế.

Hoặc có thiện và vô ký làm nhân, không phải là bất thiện làm nhân: Nghĩa là nhãn thức do dị thục thiện sinh ra. Những gì là nhân của vô ký? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của thiện? Nghĩa là pháp thiện kia có thể chiêu cảm dị thục của nhãn thức nầy.

Hoặc có bất thiện và vô ký làm nhân, không phải là thiện làm nhân: Nghĩa là nhãn thức do dị thục bất thiện sinh ra. Những gì là nhân của vô ký? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của bất thiện? Nghĩa là pháp bất thiện kia có thể chiêu cảm dị thục của nhãn thức nầy.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Đối với tỷ thức và thiệt thức không nên nói là có thuộc cõi Phạm thế.

Ý thức thiện: Tất cả đều dùng pháp thiện làm nhân, các thứ khác đều không thể được.

Ý thức bất thiện: Tất cả đều dùng pháp bất thiện và vô ký làm nhân, các thứ khác đều không thể được.

Ý thức vô ký: Hoặc có vô ký làm nhân, không phải là thiện và bất thiện làm nhân: Nghĩa là ý thức có đường oai nghi và xứ công xảo cùng ý thức nhiễm ô thuộc cõi Sắc và cõi Vô sắc.

Hoặc có thiện và vô ký làm nhân, không phải là bất thiện làm nhân: Nghĩa là ý thức do dị thục thiện sinh ra. Những gì là nhân của vô ký? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của thiện? Nghĩa là pháp thiện kia có thể chiêu cảm dị thục của ý thức nầy.

Hoặc có bất thiện và vô ký làm nhân, không phải là thiện làm nhân: Nghĩa là ở cõi Dục, hữu thân kiến và biên chấp kiến tương ưng với ý thức. Những gì là nhân của vô ký? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân của bất thiện? Nghĩa là ở cõi Dục do kiến khổ đoạn trừ tám thứ tùy miên, cùng do kiến tập đoạn trừ tùy miên biến hành.

*

* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu thức thân như thế hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là hữu phú vô ký, hoặc là vô phú vô ký.

Đối với nhãn thức thiện: Có bao nhiêu thứ tùy miên đã tùy tăng?

Đối với nhãn thức bất thiện, hữu phú vô ký và vô phú vô ký: Có bao nhiêu thứ tùy miên đã tùy tăng?

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.

Trả lời:

Đối với nhãn thức thiện có tùy miên biến hành của dục triền (sự ràng buộc của cõi Dục), sắc triền (sự ràng buộc của cõi Sắc) và các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.

Đối với nhãn thức bất thiện có tùy miên biến hành của dục triền và các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.

Đối với nhãn thức hữu phú vô ký có tùy miên biến hành của sắc triền và các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.

Đối với nhãn thức vô phú vô ký có tùy miên biến hành của dục triền, sắc triền và các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Đối với tỷ thức và thiệt thức không nên nói là có hữu phú vô ký.

Đối với ý thức thiện có tùy miên biến hành của ba cõi và các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.

Đối với ý thức bất thiện có tất cả các tùy miên tùy tăng của dục triền.

Đối với ý thức hữu phú vô ký có tất cả các tùy miên của sắc triền và vô sắc triền cùng tất cả các tùy miên của dục triền do kiến khổ đoạn trừ, cùng tùy miên biến hành tùy tăng do kiến tập đoạn trừ.

Đối với ý thức vô phú vô ký có tùy miên biến hành của ba cõi và các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.

*

* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu thức thân như thế hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là hữu phú vô ký, hoặc là vô phú vô ký.

Đối với nhãn thức thiện: Có bao nhiêu thứ tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên nên nói là duyên không nên nói là nhân?

Đối với nhãn thức bất thiện, hữu phú vô ký và vô phú vô ký: Có bao nhiêu thứ tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên? Có bao nhiêu thứ tùy miên nên nói là duyên không nên nói là nhân?

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.

Trả lời:

Đối với nhãn thức thiện, tất cả các tùy miên đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức bất thiện có mười lăm tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức hữu phú vô ký có mười bốn tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức vô phú vô ký, trừ nhãn thức của tùy miên dị thục, nhãn thức vô phú vô ký còn lại, tất cả các tùy miên nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục có ba mươi bốn tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Là nhất tâm chăng? Đáp: Không đúng.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến khổ đoạn trừ tà kiến có hai tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Như do kiến khổ đoạn trừ tà kiến, các thứ kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến khổ đoạn trừ vô minh không chung có một tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến tập đoạn trừ tà kiến có hai tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Như do kiến tập đoạn trừ tà kiến, các thứ kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến tập đoạn trừ vô minh không chung có một tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến diệt đoạn trừ tà kiến có hai tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Như do kiến diệt đoạn trừ tà kiến, các thứ kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến diệt đoạn trừ vô minh không chung có một tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến đạo đoạn trừ tà kiến có hai tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Như do kiến đạo đoạn trừ tà kiến, các thứ kiến thủ, giới cấm thủ, nghi, tham, giận, mạn v.v… cũng như vậy.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do kiến đạo đoạn trừ vô minh không chung có một tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do tu đạo đoạn trừ tham có hai tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Như do tu đạo đoạn trừ tham, các thứ giận, mạn v.v… cũng như vậy.

Đối với nhãn thức của tùy miên dị thục do tu đạo đoạn trừ vô minh không chung có một tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Đối với tỷ thức và thiệt thức không nên nói là có hữu phú vô ký.

Đối với ý thức thiện, tất cả tùy miên đều nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức bất thiện có ba mươi sáu tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Là nhất tâm chăng? Đáp: Không đúng.

Đối với ý thức bất thiện do kiến khổ đoạn trừ có mười bốn tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức bất thiện do kiến tập đoạn trừ có mười bốn tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức bất thiện do kiến diệt đoạn trừ có mười tám tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức bất thiện do kiến đạo đoạn trừ có mười chín tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức bất thiện do tu đạo đoạn trừ có mười lăm tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức hữu phú vô ký có bảy mươi sáu tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Là nhất tâm chăng? Đáp: Không đúng.

Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Dục có mười bốn tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến khổ đoạn trừ có mười ba tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ có mười ba tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến diệt đoạn trừ có mười bảy tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do kiến đạo đoạn trừ có mười tám tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Đối với ý thức hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc do tu đạo đoạn trừ có mười bốn tùy miên nên nói là nhân nên nói là duyên, các tùy miên còn lại nên nói là duyên không nên nói là nhân.

Như thuộc cõi Sắc, thuộc cõi Vô sắc cũng như vậy.

Đối với ý thức vô phú vô ký tất cả tùy miên nên nói là duyên không nên nói là nhân.

*

* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý. Sáu thức thân như thế hoặc ở các thời quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là hữu phú vô ký, hoặc là vô phú vô ký.

Đối với nhãn thức thiện ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu là tùy tăng cũng có thể làm nhân chăng? Nếu như đối với tâm nầy có thể làm nhân cũng là tùy tăng chăng?

Như nhãn thức thiện ở quá khứ, nhãn thức thiện ở vị lai, ở hiện tại cũng như vậy.

Như nhãn thức thiện, các nhãn thức bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký cũng như vậy.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.

Trả lời:

Đối với nhãn thức thiện ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy có tùy tăng tức không làm nhân. Nếu đối với tâm nầy có thể làm nhân thì chúng không phải là tùy miên cũng không phải là tùy tăng.

Như nhãn thức thiện ở quá khứ, nhãn thức thiện ở vị lai, hiện tại cũng như vậy.

Đối với nhãn thức bất thiện ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, hoặc có thể làm nhân không phải là tùy tăng. Hoặc là tùy tăng không phải có thể làm nhân. Hoặc có thể làm nhân cũng là tùy tăng. Hoặc không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng.

Có thể làm nhân không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc là không duyên với đây, hoặc là có duyên rồi nhưng đã đoạn dứt, cùng tùy miên tương ưng ấy đã đoạn dứt.

Là đã tùy tăng không phải có thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt.

Có thể làm nhân cũng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt cùng các tùy miên tương ưng ấy chưa đoạn dứt.

Không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc là không duyên với đây, hoặc có duyên rồi nhưng đã đoạn dứt, hoặc là duyên với chỗ khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Như nhãn thức bất thiện ở quá khứ, nhãn thức bất thiện ở vị lai cũng như vậy.

Đối với nhãn thức bất thiện ở hiện tại hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc có thể làm nhân không phải là tùy tăng. Hoặc là tùy tăng không phải có thể làm nhân. Hoặc có thể làm nhân cũng là tùy tăng. Hoặc không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng.

Có thể làm nhân không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt.

Là đã tùy tăng không phải có thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt.

Có thể làm nhân cũng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt, cùng các tùy miên hiện có tương ưng ấy.

Không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc là không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt, hoặc duyên với chỗ khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Như nhãn thức bất thiện, nhãn thức hữu phú vô ký cũng như vậy.

Đối với nhãn thức vô phú vô ký ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy là tùy tăng cũng là làm nhân chăng? Nghĩa là trừ nhãn thức của các tùy miên dị thục, đối với nhãn thức vô phú vô ký ở quá khứ còn lại hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, hoặc là tùy tăng không thể làm nhân. Hoặc đối với tâm nầy có thể làm nhân, tức không phải là tùy miên cũng không phải tùy tăng. Nếu nhãn thức của các tùy miên dị thục hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc có thể làm nhân không phải là tùy tăng. Hoặc là tùy tăng không phải có thể làm nhân. Hoặc có thể làm nhân cũng là tùy tăng. Hoặc không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng.

Có thể làm nhân không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt.

Là đã tùy tăng không phải có thể làm nhân: Nghĩa là các tùy miên không làm nhân để chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt.

Có thể làm nhân cũng là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia duyên với đây chưa đoạn dứt.

Không phải có thể làm nhân cũng không phải là tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên không làm nhân để chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt, hoặc duyên với chỗ khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Như nhãn thức vô phú vô ký ở quá khứ, nhãn thức vô phú vô ký ở vị lai và hiện tại cũng như vậy.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Đối với tỷ thức và thiệt thức không nên nói là có hữu phú vô ký và không nên nói là có tùy miên đã chiêu cảm ý thức dị thục.

*

* Có sáu thức thân: Là các thức nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân và ý. Sáu thức thân như thế hoặc ở các thời quá khứ, vị lai, hiện tại, hoặc là thiện, hoặc là bất thiện, hoặc là hữu phú vô ký, hoặc là vô phú vô ký.

Đối với nhãn thức thiện ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, nếu không tùy tăng, cũng không thể làm nhân chăng? Nếu như đối với tâm nầy không thể làm nhân, cũng không tùy tăng chăng?

Như nhãn thức thiện ở quá khứ, nhãn thức thiện ở vị lai, ở hiện tại cũng như vậy.

Như nhãn thức thiện, các nhãn thức bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký cũng như vậy.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy.

Trả lời:

Đối với nhãn thức thiện ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc không tùy tăng cũng không làm nhân. Hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên duyên với đây chưa đoạn dứt.

Như nhãn thức thiện ở quá khứ, nhãn thức thiện ở vị lai, ở hiện tại cũng như vậy.

Đối với nhãn thức bất thiện ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng. Hoặc không tùy tăng không phải là không làm nhân. Hoặc không làm nhân cũng không tùy tăng. Hoặc không phải không làm nhân cũng không phải không tùy tăng.

Không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn dứt.

Không tùy tăng không phải là không làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt, cùng các tùy miên tương ưng ấy đã đoạn dứt.

Không làm nhân cũng không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt, hoặc duyên nơi khác, hoặc tùy miên khác, hoặc tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Không phải không làm nhân cũng không phải không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn cùng tùy miên tương ưng ấy chưa đoạn dứt.

Như nhãn thức bất thiện ở quá khứ, nhãn thức bất thiện ở vị lai cũng như vậy.

Đối với nhãn thức bất thiện ở hiện tại hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng. Hoặc không tùy tăng không phải là không làm nhân. Hoặc không làm nhân cũng không tùy tăng. Hoặc không phải không làm nhân cũng không phải không tùy tăng.

Không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn dứt.

Không tùy tăng không phải là không làm nhân: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt.

Không làm nhân cũng không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở sau tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt, hoặc duyên nơi khác, hoặc tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Không phải không làm nhân cũng không phải không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên ở trước tâm nầy, đồng loại biến hành, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn, cùng các tùy miên hiện có tương ưng ấy.

Như nhãn thức thiện, nhãn thức hữu phú vô ký cũng như vậy.

Đối với nhãn thức vô phú vô ký ở quá khứ hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc không tùy tăng cũng không làm nhân chăng? Nghĩa là trừ nhãn thức của tùy miên dị thục, đối với nhãn thức vô phú vô ký còn lại hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy, hoặc không tùy tăng cũng không làm nhân, hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên còn duyên với đây chưa đoạn dứt. Nếu các nhãn thức của tùy miên dị thục hiện có các tùy miên, chúng đối với tâm nầy hoặc không làm nhân không phải là không tùy tăng. Hoặc không tùy tăng không phải là không làm nhân. Hoặc không làm nhân cũng không tùy tăng. Hoặc không phải không làm nhân cũng không phải không tùy tăng.

Không làm nhân không phải là không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên không làm nhân để chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn dứt.

Không tùy tăng không phải là không làm nhân: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt.

Không làm nhân cũng không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên không làm nhân để chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia hoặc không duyên với đây, hoặc có duyên rồi đã đoạn dứt, hoặc duyên nơi khác, hoặc là tùy miên khác, hoặc là tùy miên biến hành không đồng cảnh giới.

Không phải không làm nhân cũng không phải không tùy tăng: Nghĩa là các tùy miên làm nhân có thể chiêu cảm dị thục của tâm nầy, tức các tùy miên kia còn duyên với đây chưa đoạn dứt.

Như nhãn thức vô phú vô ký ở quá khứ, nhãn thức vô phú vô ký ở vị lai và hiện tại cũng như vậy.

Như nhãn thức, các thức nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý cũng như vậy. Ở đây có sai khác: Đối với tỷ thức và thiệt thức không nên nói có hữu phú vô ký, cũng không nên nói có tùy miên chiêu cảm dị thục cho ý thức.

*

* Có mười tâm: Thuộc cõi Dục có 4: 1. Tâm thiện. 2. Tâm bất thiện. 3. Tâm hữu phú vô ký. 4. Tâm vô phú vô ký. Thuộc cõi Sắc có 3: 1. Tâm thiện. 2. Tâm hữu phú vô ký. 3. Tâm vô phú vô ký. Thuộc cõi Vô sắc có 3: 1. Tâm thiện. 2. Tâm hữu phú vô ký. 3. Tâm vô phú vô ký.

Các tâm thiện thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng? Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng? v.v… Cho đến các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng? Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Trả lời:

Các tâm thiện thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Các tâm bất thiện thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Hoặc là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là các Bổ-đặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc. Các tâm bất thiện tự thể chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân. Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham ở cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có (câu hữu) ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Dục do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng, diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Dục, do tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng.

Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Hoặc do chưa đoạn làm nhân thể của nó cũng chưa đoạn. Hoặc do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn. Hoặc do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Do chưa đoạn làm nhân thể của nó cũng chưa đoạn: Nghĩa là các Bổ-đặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc và các tâm bất thiện. Đó gọi là do chưa đoạn làm nhân thể của nó cũng chưa đoạn.

Do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, chưa lìa tham nơi cõi Dục do tu đạo đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Dục cùng các pháp tương ưng với chúng.

Đó gọi là do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.

Do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn trừ các tâm bất thiện.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Dục, do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng.

Đó gọi là do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Hoặc do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn. Hoặc do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là các Bổđặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc, có các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục. Đó gọi là do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.

Do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Dục.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Dục, do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Dục: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng? Nghĩa là trừ các tùy miên đã chiêu cảm dị thục, các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Dục còn lại, nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Nếu các tùy miên đã chiêu cảm dị thục, hoặc là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là các Bổ-đặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc và các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Nếu chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến tập diệt đạo và tu đạo đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Dục, do tu đạo đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Dục, khổ trí đã sinh, tập trí chưa sinh, do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế. Tập trí đã sinh, diệt trí chưa sinh, do kiến khổ, tập đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ, tập đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế. Diệt trí đã sinh, đạo trí chưa sinh, do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Dục, do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn nhưng chưa lìa tham nơi cõi Dục, do kiến đạo đoạn các tùy miên đã chiêu cảm các tâm dị thục. Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy. Những gì là nhân đã đoạn? Là kiến đạo đoạn dứt các tùy miên có thể chiêu cảm các tâm dị thục như thế.

Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Các tâm thiện thuộc cõi Sắc: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Hoặc là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là các

Bổ-đặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc và tâm hữu phú vô ký ở cõi Sắc, đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí chưa sinh có các tâm hữu phú vô ký ở cõi Sắc. Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc, do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến diệt, đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc, các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc, các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Sắc, là các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Sắc cùng các pháp tương ưng với chúng.

Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Hoặc do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn. Hoặc do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn. Hoặc do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là các Bổđặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc và các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc, đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí chưa sinh, có các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Sắc. Đó gọi là do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.

Do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, thuộc cõi Sắc do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến diệt, đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh, ở cõi Sắc do kiến đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Sắc, tức ở cõi Sắc do tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Sắc cùng các pháp tương ưng với chúng.

Đó gọi là do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.

Do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh. Ở cõi Sắc do kiến khổ chưa đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Sắc: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Các tâm thiện thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Hoặc là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân. Hoặc là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là các Bổ-đặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc và các tâm hữu phú vô ký thuộc cõi Vô sắc, đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc các tâm hữu phú vô ký đã lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc có tâm hữu phú vô ký. Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân.

Thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân: Nghĩa là khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến tập, diệt, đạo và tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến diệt, đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh. Ở cõi Vô sắc do kiến đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham nơi cõi Vô sắc, là các tâm hữu phú vô ký ở cõi Vô sắc.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng.

Đó gọi là thể của nó chưa đoạn là do đã đoạn và chưa đoạn làm nhân.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Hoặc do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn. Hoặc do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn. Hoặc do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là các Bổđặc-già-la có đủ mọi thứ trói buộc. Là tâm hữu phú vô ký ở cõi Vô sắc, đã lìa tham nơi cõi Dục, chưa lìa tham nơi cõi Sắc. Khổ loại trí chưa sinh, là các tâm hữu phú vô ký ở cõi Vô sắc, đã lìa tham nơi cõi Sắc, khổ loại trí chưa sinh, là các tâm hữu phú vô ký ở cõi Vô sắc. Đó gọi là do chưa đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.

Do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn: Nghĩa là khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh. Ở cõi Vô sắc do kiến tập, diệt, đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là ở cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Khi đó, tập loại trí đã sinh, diệt loại trí chưa sinh, ở cõi Vô sắc do kiến diệt, đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Khi ấy, diệt loại trí đã sinh, đạo loại trí chưa sinh. Ở cõi Vô sắc do kiến đạo cùng tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng. Nếu đệ tử của Đức Thế Tôn có kiến giải viên mãn, nhưng chưa lìa tham ở cõi Vô sắc, tức ở cõi Vô sắc do tu đạo đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các tùy miên biến hành ở cõi Vô sắc cùng các pháp tương ưng với chúng.

Đó gọi là do chưa đoạn làm nhân và đã đoạn làm nhân thể của nó chưa đoạn.

Do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn: Nghĩa là khổ loại trí đã sinh, tập loại trí chưa sinh. Ở cõi Vô sắc do kiến khổ đoạn trừ các tâm hữu phú vô ký.

Những gì là nhân đã đoạn? Nghĩa là các pháp tương ưng, cùng có ấy.

Những gì là nhân chưa đoạn? Nghĩa là ở cõi Vô sắc do kiến tập đoạn trừ các tùy miên biến hành cùng các pháp tương ưng với chúng. Đó gọi là do chưa đoạn và đã đoạn làm nhân thể của nó đã đoạn.

Các tâm vô phú vô ký thuộc cõi Vô sắc: Nếu thể của nó chưa đoạn là do chưa đoạn làm nhân chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như do chưa đoạn làm nhân là thể của nó chưa đoạn chăng?

Đáp: Đúng vậy.

HẾT – QUYỂN 4