LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 40

Phẩm thứ 9: BIỆN VỀ ĐỊNH, phần 3

Như thế là đã biện về định của đối tượng nương dựa. Tiếp theo sẽ biện về công đức đã phát khởi do dựa nơi định. Trong các công đức, trước là biện về vô lượng. Tụng nêu:

Vô lượng có bốn thứ

Vì đối trị như sân

Từ bi, tánh không sân

Hỷ, hỷ xả không tham.

Hành tướng này như tiếp

Ban vui và cứu khổ

Ưa an ủi hữu tình

Duyên hữu tình cõi dục.

Hỷ, tĩnh lự một, hai

Khác sáu hoặc năm mười

Không thể đoạn các Hoặc

Người khởi định thành ba.

Luận nói: Vô lượng có bốn: (1) Từ. (2) Bi. (3) Hỷ. (4) Xả.

Nói vô lượng: Là vì lấy vô lượng hữu tình làm đối tượng duyên, vì bốn pháp này có thể dẫn đến vô lượng phước. Vô lượng quả ái do bốn thứ này làm nhân.

Có thuyết nói: Do vô lượng này có thể lìa bỏ vô lượng hý luận. Các Hoặc như tham v.v… đều gọi là hý luận.

Do đâu vô lượng có bốn, không tăng không giảm?

Vì bốn thứ ấy đối trị nhiều hành chướng ngại. Như Khế kinh nói: Hoặc tập, hoặc tu, hoặc nhiều tạo tác. Từ có thể dứt trừ sân. Bi có thể đoạn dứt hại. Hỷ đoạn trừ không vui thích, an ủi. Xả dứt bỏ dục tham sân. Thế nên chỉ có bốn. Sân: Nghĩa là tâm sở muốn giết hữu tình. Muốn não hại hữu tình, tâm sở ấy gọi là hại. Đắm chấp nơi cảnh giới, đối với các phẩm thiện không ưa trụ nơi nhân, gọi là không vui thích an ủi. Ở nơi cảnh của dục diệu, khởi tình nhiễm ưa thích, không biết chán đủ, gọi là dục tham. Trong đây từ bi do không sân làm tánh.

Nếu như vậy thì hai thứ này có sai biệt gì?

Tánh tuy không riêng khác, nhưng từ có thể đối trị những thứ giết hại hữu tình theo hành tướng giận vui chuyển.

Bi thì có thể đối trị những thứ bức não hữu tình theo hành tướng giận buồn chuyển. Đây gọi là sai biệt. Như khổ cùng với vui, nhận lãnh tuy đồng, nhưng tổn ích thì khác, nên Thể có khác. Thể của khổ, vui có khác như trước đã biện. Hai thứ từ, bi có sai biệt cũng như vậy.

Có thuyết cho: Bi là không hại, là đối trị gần về hại. Lý thật là như thế. Song hại giống với sân, do tên gọi vô sân nên nói về hành tướng của bi. Cũng giống với không sân, lập tên gọi vô sân, thật sự là không hại. Các Sư xưa nói: Hỷ tức là hỷ thọ. Vì sao? Vì hành giả tu quán, bấy giờ hỷ thọ sinh. Nếu duyên nơi hành ban cho vui thì so với từ không khác. Nếu duyên nơi hành cứu khổ thì nên cùng với bi là đồng.

Lại Khế kinh nói: Vì vui thích nên sinh hỷ. Hỷ tức là hỷ thọ, như trước đã biện. Hành tướng của hỷ này so với vui thích kia là đồng.

Vì hỷ nên sinh hỷ, về nghĩa có gì khác biệt? Nếu nói nghĩa dưới trên có khác, thì nghĩa khinh an so với lạc cũng nên như thế. Vì nhân duyên sai biệt nên không thể đạt được. Lại trái với Bản luận.

Thế nào gọi là hỷ?

Nghĩa là hỷ và hỷ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức v.v… Trong đây, ý nhằm làm rõ hỷ đều cùng có pháp phẩm hỷ tăng thượng, nên lập chung tên hỷ, không phải là thọ, vì thọ đều cùng có, lý ấy là quyết định.

Nếu hỷ tức là hỷ thọ, thì vì sao nói hỷ cùng với thọ là đều cùng có? Nếu nói Đối pháp dùng lý làm lượng nên như không vượt quá văn tụng nơi Bản luận. Điều này cũng không đúng. Lý làm lượng nơi luận, chủ yếu phải có kinh chứng mới có thể ấn định văn. Nếu so với kinh trái nhau, thì lý tất có thể hoại. Không nên tùy ý sửa đổi văn của luận.

Vì thế hỷ này nhất định không phải là hỷ thọ, do dùng vui thích làm Thể, hoặc tức là không tham. Nghĩa là có riêng tham là tâm sở ác, đối với loài hữu tình, tạo ra tư duy này: Làm sao sẽ khiến các thứ lạc hiện có, những hữu tình kia không thể đạt được, đều thuộc về ta. Vì hỷ có thể thể trị tham kia, nên là không tham. Không tham này cùng với hỷ căn tất đều cùng hành. Ba địa có thể đạt được, như hối, ưu đều cùng kết hợp, hỷ cũng không tham.

Tướng phân minh: Đối với sự thịnh vượng của người khác, tâm không tham đắm, nhận biết người khác đạt được thì thân sinh vui thích an ủi. Tâm đối trị nhiệt não gọi là hỷ. Nên biết hỷ này cũng là tánh không tham.

Thể của xả vô lượng chỉ là không tham. Xả này so với loại thứ ba có sai biệt. Nghĩa là lìa tướng ái giận v.v… duyên nơi hữu tình. Như người mới đi vào khu rừng, là sinh khởi nhận biết về cây cối. Nhân của hành bình đẳng gọi là xả. Nếu xả vô lượng cũng có thể đối trị sân, thì đâu thể chỉ là không tham, tức so với từ đâu có khác? Lại, thừa nhận xả này chính là đối trị dục tham, thì so với quán bất tịnh có gì sai biệt?

Về xả so với từ có sai biệt. Nghĩa là từ có thể đối trị sân, dẫn dắt đến sân, không sân làm thể. Xả có thể đối trị tham, dẫn dắt đến sân, không tham làm thể.

Há không phải như xả dùng không tham làm tánh, cũng có thể đối trị tham, dẫn dắt đến sân?

Như thế là thừa nhận từ dùng không sân làm tánh, cũng nên có thể đối trị sân, dẫn dắt đến tham.

Vấn nạn này là không hợp lý, vì trái với hành tướng. Nghĩa là hành tướng của xả là cùng trái với tham, sân. Vì xả bỏ loại người thân và không thân, về tướng là có sai biệt. Từ đây thì yêu, giận đều cùng không sinh. Tức do đấy nên xả chỉ là không tham. Chính thức có thể đối trị tham cũng gồm đối trị sân. Hành tướng của từ là trái với sân, không phải là tham, vì đối với các hữu tình thì chuyển theo hành ban cho vui. Do đấy, từ, xả tuy đều cùng trái với sân, mà từ thuận với tham, xả có thể trái với hại. Thế nên hai thứ này rất có sai biệt. Hoặc người tu xả đối trị sân phi xứ, từ đối trị sân xứ, nên có sai biệt.

Bất tịnh cùng với xả, như thứ lớp có thể đối trị dâm tham và tham khác, nên có sai biệt.

Bốn vô lượng này không tổn ích người khác, vì sao chỉ là thiện, không phải tánh vô ký.

Vì có thể đối trị gần tham sân v.v… Vì tướng ái, phi ái không thể dẫn khởi. Vì sức có thể khiến tâm tự tại chuyển.

Thể tướng của từ v.v… đã lược phân biệt. Nhưng ý lạc này có sai biệt: Quán về loài hữu tình như chính mình, gọi là từ. Vui thích vì loài hữu tình được lìa khổ, gọi là bi. Đối với sự hưng thịnh của người khác vui thích an ủi, gọi là hỷ. Đối với tướng thân, oán, không tư duy phân biệt, gọi là xả.

Lại, không quán về người khác có tổn, có ích, quán bình đẳng về tất cả như bạn, gọi là từ. Đối với kẻ gặp phải khổ nạn luôn xót thương, gọi là bi. Do sức của thắng giải, tưởng về loài hữu tình, được ích, lìa tổn, vui thích, an ủi, gọi là hỷ. Đối với tướng của các hữu tình cùng quán như nhau, gọi là xả.

Hành tướng của bốn thứ này có sai biệt. Làm sao nên khiến các loài hữu tình được an lạc như thế?

Tư duy như vậy tức nhập đẳng chí từ.

Làm sao nên khiến các loài hữu tình lìa khổ như thế?

Tư duy như vậy tức nhập đẳng chí bi.

Các loài hữu tình được an lạc, lìa khổ, há không vui thích chăng?

Tư duy như thế tức nhập đẳng chí hỷ.

Các loài hữu tình bình đẳng, bình đẳng, không có thân oán. Tư duy như thế tức nhập đẳng chí xả.

Đối tượng nguyện mong như thế, cuối cùng không có thành. Há không phải là vô ích chăng?

Do công sức tu định có thể điều phục sân v.v… đâu thể cho là vô ích?

Tức nên là điên đảo thì sao có thể điều phục Hoặc?

Nguyện được an vui v.v… đâu thể cho là điên đảo. Nghĩa là ở đây không nói là đã được an lạc v.v.., chỉ do thắng giải, nguyện mong các hữu tình sẽ được an lạc v.v… là có thể điều phục các Hoặc nên tu bốn định này, công sức không uổng.

Ở trong định uẩn nói bốn hành tướng, làm sao khiến cho cùng đủ?

Như trước đã nói: Tư duy như thế nhập đẳng chí kia. Lời nói này nếu căn cứ theo đẳng vô gián duyên thì từ v.v… tức nên không có lý vô gián sinh, vì tư duy riêng khác đã dẫn khởi. Nếu đều cùng sinh, thì nói nhập là trái nhau. Trong phần vị mới hành nghiệp, thì gia hạnh riêng dẫn đến phần vị thành mãn, tức cũng có đều cùng sinh định uẩn, căn cứ theo phần vị đầu để nói nhập là không có lỗi.

Lại từ vô lượng nguyện được an lạc nào?

Có thuyết nói: Nguyện được lạc của định thứ ba, vì lạc này là hơn hết trong các thứ thọ lạc. Nếu tự mình chưa chứng thì do nghe nên nhận biết.

Có thuyết cho: Nguyện được diệu lạc của Niết-bàn. Ở trong các lạc thì lạc này là tối thắng.

Có thuyết nêu: Nguyện được lạc của A-la-hán, vì lạc này đã giải thoát khỏi các phiền não.

Người đầu tiên tu nghiệp, chưa chứng lạc này, vì chưa hiện chứng, nên không thể vận dụng tâm, chỉ duyên nơi thân mình, tùy thuận lạc đã chứng và lạc của người khác đã chứng hiện có thể nhận biết, nguyện các hữu tình đồng chứng lạc này. Nên chỉ duyên nơi lạc không nhiễm ô hiện như lý đã sinh ra, nguyện khiến người khác đồng thọ nhận. Nếu Bí-sô đối với các chỗ thọ nhận đã xả bỏ, giả như chưa đạt được đối trị chân thật, thì cũng vẫn ở nơi chốn thanh vắng, thọ nhận lạc xa lìa, diệu lực có thể lấn át cả hỷ của Thiên Đế v.v… Như năm thứ lạc v.v… trong Già tha đã nói. Lại người trụ nơi xa lìa siêng tu thiện, thì định có thiện được niệm niệm luôn lưu hành, như nước của biển lớn đầy khắp cùng nối tiếp. Lạc của hỷ khinh an, do đấy dẫn sinh.

Do tâm không keo kiệt duyên nơi lạc như thế, nguyện cho các hàm thức, tất cả cùng thọ nhận, đều duyên nơi hữu tình của cõi dục làm cảnh. Vì chủ thể đối trị duyên nơi các chướng ngại như sân v.v… kia. Nghĩa là nơi cõi dục có các hữu tình của ba tụ trong oán, thân, có thể sinh sân v.v… ở đó có các tướng như xả bỏ oán, thân v.v…, liền có thể điều phục đoạn trừ các phiền não như sân v.v… Thế nên cảnh này chỉ là hữu tình của cõi dục, tất không thể duyên nơi cõi sắc, vô sắc.

Thể của đại bi là căn thiện không si, do sức của đại bi này có thể duyên chung nơi ba cõi.

Nếu bốn vô lượng chỉ duyên nơi hữu tình, thì vì sao kinh nói: Tư duy về một phương v.v…?

Vì đây là do thắng giải duyên chung nơi tất cả hữu tình trong khí thế giới nên không có lỗi.

Bốn vô lượng này là hệ thuộc chung nơi cõi dục, sắc. Do Khế kinh nói: Vô lượng có thể chiêu cảm quả thù thắng của Phạm, Thích, Luân vương. Luận Phẩm Loại Túc dựa nơi tu tạo thành để nói do bảy trí nhận biết, phiền não nơi cõi sắc do tu đạo đoạn cùng tùy miên biến hành tùy tăng của cõi kia.

Có Sư khác nói: Gia hạnh của bốn vô lượng này chung nơi cõi dục, vốn chỉ là cõi sắc. Bốn vô lượng này dựa nơi địa riêng khác. Nghĩa là nếu hỷ tức hỷ thì chỉ do tu tạo thành, thuyết kia tức nên nói hỷ chỉ ở nơi hai định đầu, vì ở địa khác không có hỷ căn. Nếu hỷ khác với hỷ thì chung do tư tạo thành, thuyết kia nên nói hỷ dựa chung nơi bảy địa, vì cùng với lạc, xả, thọ cũng tương ưng.

Có Sư khác cho: Hỷ chỉ là hỷ thọ đều cùng có.

Thuyết kia nên nói: Hỷ chỉ chung nơi ba địa. Hoặc nên như tụng nói chỉ hai không phải thứ khác. Ba vô lượng từ, bi, xả dựa chung nơi sáu địa. Nghĩa là bốn tĩnh lự và vị chí, trung gian. Hoặc có người muốn khiến chỉ dựa nơi năm địa. Nghĩa là trừ vị chí, là đức cùng tham dự, vì người đã lìa dục mới có thể khởi.

Có thuyết nêu: Bốn vô lượng này chỉ ở nơi cõi dục và địa thứ nhất được mang tên vô lượng. Địa khác thì không như vậy. Kinh nói: Vô lượng gọi là Phạm trụ. Lại nói: Tu vô lượng nên sinh nơi trời Phạm thế. Lại nói: Chiêu cảm quả Phạm, Thích, Luân vương.

Có thuyết nói: Tùy theo chỗ ứng hợp dựa chung nơi mười địa. Nghĩa là cõi dục, bốn tĩnh lự căn bản, bốn cận phần và trung gian.

Nếu bi cũng dựa nơi ba tĩnh lự dưới, thì vì sao được cùng với hỷ, lạc tương ưng? Bi duyên nơi hữu tình khổ, theo hành tướng buồn chuyển biến. Hành tướng này như tác ý nhàm chán thuộc vô lậu sinh, thế nên đã dựa chung nơi ba tĩnh lự dưới. Tác ý chân thật kia có thể thuận sinh vui thích, tương ưng với hỷ lạc nên có thể không có lỗi.

Tác ý thắng giải này không thuận sinh vui thích, vì sao có thể nói cùng với vui thích kia là tương tợ?

Nghi là tánh của lo buồn, không thuận sinh vui thích, vì sao thừa nhận nghi với hỷ, lạc đều cùng khởi? Tác ý thắng giải tức nên đồng với hỷ, lạc ấy. Nhưng thắng giải này đối với vui thích kia là hết sức thuận hợp nhau, vì sức có thể dẫn sinh tác ý chân thật. Còn nghi thì không như vậy, vì rất trái với chân thật.

Hỷ lạc kia hãy còn tương ưng, huống chi tác ý thắng giải này đâu thể không thừa nhận?

Tác ý thắng giải này, về lý tức nên trái với vui thích, vì có hành tướng riêng trong xứ vui vẻ lo buồn. Bi đã theo hành tướng lo buồn chuyển, nên không phải tương ưng với hỷ, lạc. Chớ cho hai hành tướng đều cùng thời chuyển.

Nếu như vậy tức nên không thừa nhận cùng với xả thọ tương ưng, vì xả thọ đã theo hành tướng ở giữa mà chuyển. Đã không phải không thừa nhận xả thọ tương ưng với hỷ lạc, đều cùng có lý nhất định nên thừa nhận. Chớ cho hoàn toàn không cùng với thọ tương ưng. Nên tuy nói bốn vô lượng này có thể đối trị sân v.v…, nhưng không thể đoạn các phiền não đắc, vì chúng tương ưng với tác ý thắng giải khởi. Tác ý chân thật thì mới có thể đoạn trừ Hoặc. Lại tác ý thắng giải chỉ duyên nơi cảnh của hữu tình, còn tác ý duyên nơi pháp mới có thể đoạn trừ Hoặc. Lại, tác ý thắng giải chỉ duyên nơi cảnh của hiện tại. Duyên chung nơi ba đời, hoặc duyên không phải đời mới có thể đoạn trừ hoặc. Lại, đạo giải thoát mới có thể chứng đắc, chủ yếu là đạo vô gián mới có thể đoạn trừ Hoặc.

Có người tạo ra thuyết này: Vì hữu lậu thuộc về tĩnh lự căn bản, nên nhân này có lỗi. Không nên nói ba là dựa nơi sáu địa, vì vị chí, trung gian, ở đây tức nên không có.

Vì sao kinh nói ở đây đoạn trừ sân v.v… cũng không trái nhau? Vì đoạn có hai. Hoặc do sức này dẫn sinh đạo đoạn. Nghĩa là điều phục sân v.v… đã dẫn đạo đoạn sinh. Thế nên trong kinh nói đoạn trừ sân v.v…

Nếu như vậy vì sao trong Khế kinh nói: Do khéo tu từ nên trụ nơi quả Bất hoàn.

Ở đây Thánh đạo dùng tên Từ để nói. Như ở xứ khác nói tên tưởng v.v… Hoặc dựa vào Thánh giả, trước được tâm từ, sau thường tu hành được lìa dục để nói. Hoặc dựa nơi từ đã được do tu tạo thành, tu hành tinh tấn được lìa dục để nói.

Có thuyết cho: Bốn vô lượng này dựa vào thân của cõi dục, cõi sắc. Vì nơi cõi vô sắc không duyên nơi oán, thân v.v… Tu bốn vô lượng, tất nên trước là duyên nơi hai cõi ấy. Về nghĩa như thật thì chỉ dựa vào thân của cõi dục. Ở trong cõi dục chỉ con người là có thể khởi. Nếu nói hỷ, không phải hỷ thành một tất gồm đủ bốn. Nếu hỷ tức hỷ thọ thành một, thì nhất định thành ba, vì sinh nơi định thứ ba v.v…, chỉ hỷ là không thành. Đầu tiên khi muốn dẫn khởi bốn vô lượng, tức trước đối với hữu tình phân làm ba phẩm, đó là thân hữu, ở giữa (không thân, không oán) và oán thù. Ba loại này đều phân làm ba là thượng, trung, hạ.

Thân hữu phẩm thượng: Nghĩa là thân sinh pháp tức nhờ nơi ân nặng của chư vị kia, xả bỏ thì khó trụ. Thân hữu phẩm trung: Nghĩa là của cải, pháp giao tiếp, tức rất cùng thân ái. Thân hữu phẩm hạ: Nghĩa là chỉ của cải thì giao tiếp, cũng cùng thân ái.

Không thân không oán phẩm thượng: Nghĩa là đối với người từ xưa nay chưa từng nghe gặp. Không thân không oán phẩm trung: Nghĩa là những người tuy thấy nghe mà không giao thiệp. Không thân không oán phẩm hạ: Nghĩa là những người tuy có giao thiệp mà lìa ân oán.

Oán thù phẩm thượng: Nghĩa là những kẻ đã cướp đoạt danh dự, mạng sống và những người chí thân. Oán thù phẩm trung: Nghĩa là các kẻ đã cướp đoạt mọi thứ duyên về của cải vật dụng nuôi sống thân mạng mình. Oán thù phẩm hạ: Nghĩa là các kẻ đã cướp đoạt các thứ duyên về của cải vật dụng nuôi sống thân mạng của bạn thân mình.

Đối với các hữu tình đã phân phẩm riêng khác xong, người đầu tiên tu từ, trước đối với loại thân hữu phẩm thượng phát khởi thắng giải thanh tịnh ban cho vui. Nếu do từ vô thủy đã thường hành tập, tạo thành ý lạc ác, khiến tâm khô cứng, gặp ít bức não, liền mang giữ hận sâu, duyên nơi hận này, trở lại dứt bỏ thắng giải ban cho vui. Lại, nên thúc đẩy cố gắng tư duy về những ân nặng kia.

Ở nơi những vị kia lại sinh ý lạc ban cho vui, do sức thường hành tập, nên ý hận vĩnh viễn mất, thắng giải ban cho vui cùng nối tiếp không thay thế. Thắng giải này thành rồi, đối với loại thân hữu phẩm, trung, hạ, cũng dần dần tu thắng giải như thế, tức đối với ba phẩm thân đã được tâm bình đẳng. Tiếp theo đối chung với ba phẩm không thân không oán và loại oán thù nơi phẩm hạ, trung thượng, tu tập dần dần ý lạc ban cho vui.

Cho đến sau cùng, đối với oán thân phẩm thượng, được tâm bình đẳng, đều không có tăng giảm. Ngang với đây gọi là tu từ thành mãn. Tu bi và hỷ, so sánh với phần này để nêu bày. Nghĩa là quán ba khổ bức bách khắp hữu tình, không nên ở đây lại tăng thêm khổ. Chỉ nên như chính mình siêng năng gia tăng cứu giúp, tu tập dần dần tâm muốn cứu giúp, cho đến oán thân đều bình đẳng, không tăng giảm. Ngang tới đây gọi là tu bi thành mãn.

Tưởng các hữu tình được vui, lìa khổ, thâm sinh vui thích, an ủi, như mình không khác. Ngang tới đây gọi là tu hỷ thành mãn. Người đầu tiên tu xả, trước xả đối với người không thân không oán, không phải trước xả bỏ oán thân, vì giận yêu khó xả bỏ. Lại, ở nơi phẩm không thân không oán thì sức của xả thuận tăng. Trong đây như trước đã nói, tức trước xả bỏ phẩm thượng, tiếp theo xả bỏ phẩm trung, hạ cùng với oán thân, từ phẩm hạ đến phẩm trung, từ trung đến thượng.

Trước xả bỏ oán: Do đối với người thân khó bỏ. Như Khế kinh nói: Tham khó đoạn không phải là sân. Như thế dần dần tu tập về xả, đến loại thân hữu phẩm thượng, bình đẳng với loại không thân không oán phẩm thượng, khắp ở nơi hữu tình xả bỏ tướng sai biệt. Ngang với đây gọi là tu xả thành mãn.

Nếu người đối với hữu tình vui thích tìm cầu công đức, thì hành giả kia đối với từ v.v… có thể nhanh chóng tu thành, không phải là người đối với hữu tình ưa tìm cầu lỗi lầm. Do người quyết đoán về thiện có đức đáng ghi chép.

Lân dụ Độc giác có mất, có thể nhận lấy, vì quả của tội phước trước hiện có thể thấy.

Đã biện về vô lượng. Tiếp theo là biện về giải thoát. Tụng nêu:

Giải thoát có tám thứ

Ba trước tánh không tham

Hai hai, một một định

Bốn định vô sắc thiện.

Diệt thọ tưởng giải thoát

Vi vi vô gián sinh

Do tự địa tâm tịnh

Cùng vô lậu hạ xuất.

Ba cảnh dục thấy được

Bốn cảnh đạo phẩm loại

Từ khổ tập diệt trên

Hư không, phi trạch diệt.

Luận nói: Giải thoát có tám: (1) Trong có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài đạt giải thoát. (2) Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài đạt giải thoát. (3) Tịnh giải thoát, thân tác chứng, trụ đầy đủ. (4, 5, 6, 7) Bốn định vô sắc là bốn giải thoát tiếp theo. (8) Định diệt thọ tưởng là giải thoát thứ tám.

Trong tám thứ thì ba thứ trước lấy không tham làm tánh, vì là đối trị gần tham. Nhưng trong Khế kinh nói người quán tưởng là vì quán tưởng tăng. Như túc trụ niệm trừ bỏ tưởng sắc.

Nơi ba thứ đầu thì giải thoát thứ nhất và thứ hai theo tướng bất tịnh chuyển, tạo ra các hành tướng như xanh bầm tím. Giải thoát thứ ba thì theo tướng thanh tịnh tạo ra hành tướng tươi sáng sạch mà chuyển. Giải thoát thứ ba và trợ bạn đều là tánh của năm uẩn.

Giải thoát thứ nhất, thứ hai, mỗi mỗi đều dựa chung nơi hai tĩnh lự đầu, vì có thể đối trị tham về hiển sắc trong cõi dục và tĩnh lự thứ nhất. Hai tĩnh lự này đã gồm thâu chung cận phần và trung gian. Tức năm địa đều có thể khởi hai tĩnh lự kia. Vì cõi dục và định thứ nhất có tham về hiển sắc, do hiện thức thân đã dẫn khởi. Vì giải thoát khỏi tham về hiển sắc kia, nên trong hai định đầu đã kiến lập giải thoát bất tịnh thứ nhất, thứ hai. Trong định thứ hai, thứ ba, vì không có nhãn thức, nên cũng không có dẫn sinh duyên nơi tham về hiển sắc. Tức trong định thứ ba, thứ tư đều là giải thoát thanh tịnh.

Giải thoát thứ nhất, thứ hai giống với căn thiện, tuy trong cõi dục cũng cùng có được, nhưng vì bị tham của cõi dục lấn áp làm lẫn lộn, nên không kiến lập danh xưng hai giải thoát. Trong định thứ ba, thứ tư tuy cũng có được, nhưng cách xa đối tượng đối trị, nên uy lực yếu kém, lại bị lạc tịnh chế ngự, nên không được mang tên. Giải thoát thứ ba dựa nơi tĩnh lự sau, vì lìa tám tai họa, nên tâm lắng sạch. Thứ tư và cận phần lập danh xưng tĩnh lự sau, giống với căn thiện nơi địa dưới tuy có, nhưng không phải tăng thượng, nên không gọi là giải thoát. Vì bị dục tham của cõi dục lấn át làm lẫn lộn, nên trong hai định đầu đã bị bất tịnh chế ngự. Trong định thứ ba thì bị lạc làm mê lầm. Lại đều bị tám tai họa nhiễu loạn. Bốn giải thoát tiếp theo như thứ lớp ấy, dùng bốn định vô sắc thiện làm tánh, không phải là nhiễm, vô ký, vì không phải là giải thoát, nên cũng không phải là thiện tán, vì tánh yếu kém. Thiện tán kia như tâm khi mạng chung.

Có thuyết nói: Thời gian khác cũng có thiện tán, chỉ vì thiện sinh đắc, không có văn, tư. Các địa cận phần, chín đạo vô gián, tám đạo giải thoát, cũng không phải là giải thoát, vì không từ bỏ địa dưới, vì duyên nơi đạo của phẩm hạ xen tạp. Lại chưa hoàn toàn thoát khỏi nhiễm của địa dưới. Khế kinh nói: Các thứ kia đã vượt qua địa dưới.

Có thuyết cho: Các đạo giải thoát của cận phần cũng gọi là giải thoát, vì đã từ bỏ địa dưới. Tuy nhiên, ở nơi xứ khác chỉ nói là căn bản, do trong cận phần không phải là hoàn toàn giải thoát. Giải thoát thứ tám tức định diệt tận, vì chán bỏ thọ, tưởng mà khởi định này. Hoặc chán bỏ chung nơi đối tượng duyên của hữu. Sau tâm vi vi thì định này hiện tiền. Trước đối với tưởng tâm đã gọi là vi tế. Ở đây lại càng vi tế, nên gọi là vi vi.

Tiếp theo tâm như thế nhập định diệt tận. Nghĩa là tâm của địa Hữu đảnh có ba phẩm, tức tưởng, vi tế và tâm vi vi. Do phẩm loại thượng, trung, hạ có riêng khác, chủ yếu là sau phẩm hạ thì định diệt hiện tiền, nên tiếp theo vi vi tức nhập định diệt tận. Từ định diệt xuất, hoặc khởi tâm định tịnh của xứ Hữu đảnh, hoặc tức có thể khởi tâm vô lậu của vô sở hữu xứ. Tâm nhập như thế chỉ là hữu lậu, từ chung nơi hữu lậu tâm vô lậu xuất.

Trong tám thứ thì ba giải thoát trước chỉ dùng sắc xứ của cõi dục làm cảnh. Có sai biệt: Hai nhận lấy tướng bất tịnh, một nhận lấy tướng tịnh, vì trái với dục tham. Tuy đảo ngược mà thiện, hoặc ít gọi cảnh, vì không phải thuộc về điên đảo. Duyên ít, tư duy nhiều, gọi là thắng giải giả, vì dẫn sinh Thánh đạo nên cũng gọi là chân thật.

Bốn giải thoát tiếp theo đều dùng khổ, tập, diệt đế của tự địa và địa trên cùng loại trí phẩm đạo của tất cả địa, phi trạch diệt kia và với hư không làm cảnh của đối tượng duyên. Vì giải thoát vô sắc đã dứt bỏ địa dưới, nên đều không duyên nơi khổ, tập của địa dưới.

Hành tướng riêng khác: Hai giải thoát đầu là bất tịnh. Giải thoát thứ ba chỉ là tịnh. Đều cùng có không phải mười sáu. Giải thoát vô sắc gồm thâu định căn bản, hành tướng đã tạo tác là mười sáu, hoặc không phải là niệm trụ đều cùng có. Nghĩa là ba giải thoát đầu đều cùng có thân niệm trụ. Bốn giải thoát tiếp theo thì chung nơi bốn niệm trụ.

Tương ưng với trí: Ba giải thoát đầu và giải thoát thứ bảy chỉ là thế tục trí. Thứ tư, năm, sáu tương ưng với tám trí.

Tương ưng với căn: Nghĩa là ba giải thoát đầu tương ưng với hỷ, xả. Năm giải thoát tiếp theo chỉ tương ưng với xả.

Về đời có sai biệt: Đều chung cho ba đời.

Duyên nơi đời có sai biệt: Nghĩa là ba giải thoát đầu đã sinh, có thể sinh, đều duyên nơi đời của mình. Không sinh thì duyên nơi ba. Bốn giải thoát tiếp theo duyên nơi ba đời và không phải đời. Ba tánh có sai biệt, đều chỉ là tánh thiện.

Duyên nơi tánh riêng khác: Ba giải thoát đầu duyên chung nơi ba tánh. Bốn giải thoát tiếp theo duyên nơi thiện, vô ký.

Học v.v… riêng khác: Ba thứ đầu và hai thứ sau chỉ là câu phi (phi học phi vô học). Ba giải thoát giữa đều chung cho ba thứ.

Duyên nơi học v.v…: Ba giải thoát đầu chỉ duyên nơi câu phi. Bốn giải thoát tiếp theo duyên nơi ba thứ.

Do kiến đạo đoạn v.v…: Ba giải thoát đầu, hai giải thoát sau, chỉ do tu đạo đoạn. Ba giải thoát giữa nếu là hữu lậu thì do tu đạo đoạn.

Pháp còn lại thì không đoạn.

Duyên nơi kiến đạo đoạn v.v…: Ba giải thoát đầu duyên nơi tu đạo đoạn. Bốn giải thoát tiếp theo đều duyên chung nơi ba thứ.

Duyên nơi tự thân v.v…: Giải thoát đầu duyên nơi tự thân và thân người khác. Hai giải thoát tiếp theo duyên nơi thân người khác. Bốn giải thoát sau duyên nơi ba thứ.

Đắc có sai biệt: Nghĩa là giải thoát thứ tám, thứ ba, chỉ là chưa từng được. Sáu giải thoát còn lại là chung cho cả hai. Chung cho hai: Nghĩa là pháp nội của Thánh và pháp ngoại của phàm phu. Phàm phu chỉ là từng được. Do nhiều nhân duyên, nên được tên gọi giải thoát. Nghĩa là đã giải thoát, nên ở phương này sinh. Hoặc do sức này có thể dẫn đến giải thoát. Hoặc là có vô số thứ tánh giải thoát. Hoặc cùng với thắng giải giải thoát đều cùng có. Các giải thoát này dựa nơi thân nam, nữ. Thánh giả, phàm phu đều có thể tu khởi. Chỉ định diệt tận thì chỉ dựa nơi thân Thánh. Ở trong thân Thánh chung nơi học, vô học.

Tám giải thoát này thì loại hữu tình nào khởi?

Nếu ở nơi đối tượng duyên luôn cầu đối trị là hành tham ái, ưa thích tu nhiều đạo, hữu tình như thế thì có thể khởi giải thoát.

Hành giả do gì tu giải thoát?

Vì khiến phiền não chuyển biến càng thêm xa. Vì ở nơi đẳng chí được tự tại. Đã được tự tại liền có thể dẫn phát các đức như vô tránh cùng thần thông Thánh. Do đấy tức có thể chuyển biến các cảnh, khởi vô số sự việc như lưu lại, xả bỏ v.v…

Đã biện về giải thoát. Tiếp theo là biện về thắng xứ. Tụng nêu:

Thắng xứ có tám loại

Hai như giải thoát đầu

Hai tiếp như thứ hai

Bốn sau như thứ ba.

Luận nói: Thắng xứ có tám: Trong có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài ít, hoặc đẹp, hoặc xấu, đối với các sắc này, biết là thù thắng, thấy là thù thắng, có tưởng như thế. Đấy gọi là thắng xứ thứ nhất.

Trong có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài nhiều, nói rộng cho đến: Đấy gọi là thắng xứ thứ hai.

Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài ít, nói rộng cho đến: Đấy gọi là thắng xứ thứ ba.

Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài nhiều, nói rộng cho đến: Đấy gọi là thắng xứ thứ tư.

Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài là màu xanh: xanh hiển bày, xanh hiện rõ, xanh sáng tỏ. Ví như hoa Ô-mạc-ca, hoặc như áo màu xanh được nhuộm đậm của xứ Bà-la-nê-tư. Đối với các sắc này có tri kiến thù thắng, có tưởng như thế. Đấy gọi là thắng xứ thứ năm.

Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài là màu vàng, vàng hiển bày, vàng hiện rõ, vàng sáng tỏ. Ví như hoa Yết-ni-ca, hoặc như áo màu vàng được nhuộm đậm của xứ Bà-la-nê-tư. Nói rộng cho đến: Đấy gọi là thắng xứ thứ sáu.

Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài là màu đỏ: đỏ hiển bày, đỏ hiện rõ, đỏ sáng tỏ. Ví như hoa Bàn-đậu-thời-phược-ca, hoặc như áo màu đỏ được nhuộm đậm của xứ Bà-la-nê-tư. Nói rộng cho đến: Đấy gọi là thắng xứ thứ bảy.

Trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài là màu trắng: trắng hiển bày, trắng hiện rõ, trắng sáng tỏ. Ví như sao Ô-sa-tư, hoặc như áo màu trắng tươi của xứ Bà-la-nê-tư. Nói rộng cho đến: Đấy gọi là thắng xứ thứ tám.

Vì có thể chế phục cảnh, nên gọi là thắng xứ. Nghĩa là tuy tất cả cảnh sắc của đối tượng duyên đầy đủ hoa tươi đẹp, ánh sáng thanh tịnh, nhưng sức của căn thiện đều có thể che át. Ví như đám nô tỳ tuy mặc y phục mang nhiều châu báu khác lạ, nhưng vẫn bị những người chủ che át. Hoặc ở nơi xứ này chuyển biến tự tại, không tùy thuộc khởi Hoặc, nên gọi là thắng xứ. Vì thắng đối với xứ, nên lập danh xưng thắng xứ. Hoặc căn thiện này gọi là xứ. Vì xứ có thể thắng, nên lập tên thắng xứ.

Bốn thắng xứ trước về tự tánh và địa v.v…, như thứ lớp là đồng với hai giải thoát trước. Nghĩa là thắng xứ thứ nhất, thứ hai là quả giải thoát đầu. Hai thắng xứ tiếp theo là quả của giải thoát thứ hai. Chúng làm tư lương để có thể nhập nơi giải thoát này. Bốn thắng xứ sau về tự tánh và địa nên biết là như giải thoát thứ ba ở trước. Do giải thoát tịnh là nhân của bốn thắng xứ này. Chúng làm tư lương để có thể nhập nơi giải thoát này.

Ba giải thoát trước ở trong các sắc chỉ có thể nhận lấy chung tướng tịnh, bất tịnh. Nay, tám thắng xứ ở trong các sắc đã phân biệt về tướng khác như màu xanh v.v… nhiều ít. Nên giải thoát trước chỉ ở trong sắc, trái bỏ dục tham và tưởng bất tịnh. Nay tám thắng xứ có thể ở nơi đối tượng duyên, phân tích, chế phục, khiến tùy theo tâm chuyển.

Do đấy chứng biết, giải thoát thứ ba vì nhận lấy chung tướng tịnh, nên lập một danh xưng. Trong tám thắng xứ thì bốn thắng xứ sau vì nhận lấy có sai biệt, nên phân làm bốn thứ. Nếu giải thoát tịnh cũng duyên có sai biệt, nhận lấy tánh tịnh, đồng lập làm một, thì bốn thắng xứ sau cũng nên lập một. Vì nhân duyên sai biệt nên không thể đạt được.

Đã biện về thắng xứ. Tiếp theo là biện về biến xứ.

Tụng nêu:

Biến xứ có mười thứ

Tám như giải thoát tịnh

Hai tịnh sau vô sắc

Duyên bốn uẩn tự địa.

Luận nói: Biến xứ có mười: Nghĩa là quán khắp về đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng, và hai vô biên xứ không và thức. Ở nơi xứ này, kinh đều nói một tưởng, trên, dưới và bên, không hai, vô lượng. Ở nơi tất cả xứ không có gián cách, không có lỗ hổng. Vì tư duy cùng khắp, nên gọi là biến xứ. Vì biến ở nơi xứ, nên lập tên biến xứ. Hoặc căn thiện này, tức gọi là xứ. Vì hành tướng hiện có khắp, nên lập danh xưng biến xứ. Trong đây, địa v.v… là hiển bày về đối tượng duyên.

Đã nói chữ khắp (Biến) là làm rõ về hành tướng. Hành tướng tuy như nhau, nhưng đối tượng duyên thì khác. Thế nên biến xứ được phân làm mười thứ. Kinh nói một, nghĩa là chỉ rõ đẳng chí này tư duy về một loại cảnh tướng hiện tiền. Nói tưởng là hiển bày về tác ý thắng giải. Nếu khác với đây thì nên nói một nhận biết.

Nói trên dưới và bên là chỉ rõ về ý lưu chuyển.

Nói không hai là hiển bày về không có kẽ hở gián cách. Nói vô lượng là nêu rõ về thắng giải vô biên. Do đẳng trì thù thắng, có sức mạnh như mài đá ngọc, khiến hành giả tu quán, tâm tự tại sinh, có thể ở nơi đối tượng duyên quán sát cùng khắp.

Vì sao chỉ mười thứ được mang tên biến xứ?

Vì ở trên đây lại không có hành tướng hiện bày khắp (biến), nên chỉ định thứ tư, không thức vô biên mới có thể nói là có hành tướng vô biên. Tám biến xứ trước như giải thoát tịnh, tự tánh đều là căn thiện không tham. Nếu cùng với trợ bạn thì đều là tánh năm uẩn. Bốn thắng xứ sau do gia hạnh dẫn sinh, nên đồng với căn thiện không tham kia, như giải thoát tịnh. Lại như giải thoát tịnh dựa nơi tĩnh lự thứ tư và duyên nơi sắc xứ của cõi dục làm cảnh.

Vì sao địa v.v… cũng gọi là sắc xứ?

Vì địa và địa giới là có sai biệt. Hiển hình gọi là địa v.v…, như trước đã nói. Nói biến xứ như địa v.v…, không nói địa giới v.v…, nên tám thứ trước chỉ duyên nơi sắc xứ.

Phong cùng với phong giới đã không có sai biệt, vì sao có thể nói cũng duyên nơi sắc xứ?

Vấn nạn này là phi lý, vì các thế gian cũng nói gió đen, gió xoay tròn v.v… Do đấy tám biến xứ trước duyên nơi sắc lý ấy là thành. Hai biến xứ sau như thứ lớp thì hai vô sắc tịnh không, thức là tự tánh, đều duyên nơi bốn uẩn của tự địa làm cảnh

Công đức của ba môn như giải thoát v.v… này là do đâu đạt được? Dựa vào thân nào khởi?

Tụng nêu:

Định diệt như trước nói

Khác, đều chung hai đắc

Vô sắc dựa ba cõi

Khác, chỉ nẻo người khởi.

Luận nói: Giải thoát thứ tám (định diệt tận) như trước đã biện, vì trước là định diệt tận ở trước. Các giải thoát còn lại v.v… thì do chung hai đắc. Nghĩa là do lìa nhiễm đắc và gia hạnh đắc. Tức do có từng hành tập, chưa từng hành tập. Tám biến xứ trước khi đầu tiên tu tập đều dùng nhãn thức làm gia hạnh. Biến xứ không xứ đầu tiên tu tập cũng như vậy. Do đầu tiên tất duyên nơi sắc của không giới. Do khi thành mãn sau sức của thắng giải, thì duyên chung nơi bốn uẩn của tự địa làm cảnh. Biến xứ thức xứ lúc đầu tiên tu tập chỉ dùng ý thức làm gia hạnh. Vì đầu tiên tất duyên nơi thức làm cảnh. Do sau sức của thắng giải khi thành mãn, cũng duyên nơi bốn uẩn của tự địa làm cảnh. Giải thoát của bốn vô sắc, biến xứ của hai vô sắc, mỗi mỗi đều dựa chung nơi thân của ba cõi khởi. Nhưng thân của ba cõi kia đầu tiên khởi, phần nhiều dựa vào địa dưới. Dựa nơi tự địa và địa dưới đều cùng khởi sau, chỉ vô sở hữu xứ thì cũng dựa nơi địa trên. Số còn lại tất cả đều dựa vào thân của cõi dục. Chỉ ở nơi ba châu trong nẻo người trừ châu Bắc. Các xứ khác vì sức của tuệ yếu kém không có Thánh giáo, vì để đối trị dục tham, nên hai cõi trên không có.

Có thuyết cho: Đầu tiên khởi chỉ dựa nơi nẻo người, chủ yếu do sức giáo pháp đã dẫn khởi. Trong nẻo người có giáo pháp, nơi nẻo trời không có. Nếu như có thì do tham chấp nơi lạc nên không thể đầu tiên khởi. Người đầu tiên khởi thoái chuyển sinh nơi trời dục, do sức tu tập của đời trước có nghĩa khởi sau.

Lại nữa, do duyên gì nơi tĩnh lự thứ ba có chung vô lượng v.v…, nhưng không có giải thoát v.v…?

Vì không có duyên của giải thoát, như trước đã biện đủ. Vì giải thoát không có, nên thắng xứ cũng không có. Vì giải thoát là cửa để đi vào thắng xứ. Vì thắng xứ không có nên biến xứ cũng không có. Vì thắng xứ là cửa để đi vào biến xứ. Lại, nơi tĩnh lự thứ ba thì tham đắm diệu lạc, vì ở trong sinh tử thì lạc này là hơn hết, nên không thể phát khởi ba thứ như giải thoát v.v… Vì ba thứ này đều muốn dứt bỏ sinh tử. Chung nơi vô lượng v.v… là tùy thuận với lạc, nên dựa vào định này cũng có thể tu khởi.

Công đức của ba môn như giải thoát v.v… này, nếu theo đấy được một là được tất cả không?

Sự việc này không đều như thế.

Nghĩa ấy là thế nào?

Được sau tất được trước, được trước không phải tất được sau. Nghĩa là được biến xứ tất được đủ ba thứ (giải thoát, thắng xứ, biến xứ). Người được thắng xứ tất được giải thoát. Biến xứ thì không nhất định. Hoặc được, hoặc không được. Nếu được giải thoát thì hai thứ còn lại không nhất định, vì nhập nơi biến xứ, hì thắng xứ làm cửa. Còn giải thoát làm cửa để nhập thắng xứ.

Ba thứ như giải thoát v.v… này có sai biệt như thế nào?

Chỉ có thể từ bỏ gọi là giải thoát. Gồm luôn phân tích về đối tượng duyên gọi là thắng xứ, thêm vô biên thắng giải thì được danh xưng biến xứ. Ba căn thiện này là tu tập dần theo thứ lớp.

Có Sư khác nói: Ba căn thiện này do phẩm hạ, trung, thượng nên có sai biệt. Nghĩa là có khả năng dứt bỏ, thù thắng chế phục các đối tượng duyên và hành tướng vô biên có hơn kém.

Có Sư khác cho: Giải thoát chỉ là nhân, biến xứ chỉ là quả, thắng xứ thì chung cho cả hai.

Nay nên xét chọn.

Nói trong hai cõi trên đã không có thì do đâu khởi định?

Tụng nêu:

Hai cõi do nhân nghiệp

Hay khởi định vô sắc

Cõi sắc khởi tĩnh lự

Cũng do lực pháp nhĩ.

Luận nói: Sinh nơi hai cõi trên gồm do ba duyên, có thể tiến đến dẫn sinh định sắc, vô sắc:

1. Do sức của nhân: Nghĩa là ở nơi thời gian trước vì gần và thường tu làm nhân khởi.

2. Do sức của nghiệp: Nghĩa là trước đã từng tạo nghiệp, chiêu cảm sinh nơi địa trên, thuận nghiệp hậu thọ là dị thục của nghiệp kia. Sắp khởi uy lực hiện tiền, tức có khả năng khiến tiến tới khởi định kia. Vì nếu chưa lìa phiền não của địa dưới, tất định không cùng sinh lên địa trên.

3. Do sức của pháp như vậy: Nghĩa là vào thời gian khí thế giới sắp sửa hủy hoại, hữu tình của địa dưới theo pháp như vậy, có thể khởi tĩnh lự của địa trên, vì đối với pháp thiện hiện có của phần vị này, do sức của pháp như vậy đều tăng thịnh.

Các hữu tình sinh nơi hai cõi trên, khởi định vô sắc, do nhân nơi sức của nghiệp, không phải sức của pháp như vậy. Các trời như Vô vân v.v… không bị ba tai họa hủy hoại. Khi sinh nơi cõi sắc, khởi tĩnh lự, do hai duyên trên và sức của pháp như vậy. Nếu sinh nơi cõi dục, lúc khởi định trên, thì mỗi mỗi nên biết đều thêm do sức của giáo. Do sức của giáo: Nghĩa là người nơi ba châu. Trời cũng nghe giáo pháp, vì ít nên không nói.

Trước nay đã phân biệt về các pháp môn thù thắng, đều vì nhằm duy trì mở rộng chánh pháp của Đức Thế Tôn. Thế nào gọi là chánh pháp? Sẽ trụ trong khoảng thời gian bao lâu?

Tụng nêu:

Chánh pháp Phật có hai

Tức giáo, chứng, làm thể

Có giữ, nói và hành

Đây liền trụ thế gian.

Luận nói: Thể chánh pháp của Đức Thế Tôn có hai thứ: (1) Giáo. (2) Chứng.

Giáo nghĩa là Khế kinh (Kinh), Điều phục (Luật), Thắng pháp (Luận). Chứng nghĩa là các đạo vô lậu của ba thừa. Nếu chứng chánh pháp trụ ở thế gian, thì giáo pháp của đối tượng duy trì, hoằng dương này cũng an trụ, lý tất nên như vậy.

Hiện nhận thấy chứng pháp ở phương Đông, suy vi, giáo phần nhiều ẩn mất. Chứng pháp của phương Bắc cũng còn tăng thịnh. Chánh pháp của Đức Thế Tôn truyền bá khắp hãy còn nhiều. Do cảnh nơi vô thượng trí của Đức Như Lai này, là nhà nghỉ của chúng Thánh, nên A-tỳ-đạt-ma không có đảo ngược về nghĩa thật, nơi nước này thịnh hành không phải ở phương Đông v.v… đã có thể truyền bá hành tập hai chánh pháp này. Dựa nơi người hành trì, người trụ trì là thế nào?

Nghĩa là nói về người hành trì, nếu giáo chánh pháp dựa vào người giảng nói mà trụ, thì chứng chánh pháp trụ, chỉ dựa nơi người hành. Nhưng không phải người hành, chỉ chứng pháp vì dựa nơi giáo pháp, tức cũng nên dựa nơi người hành. Nghĩa là có người tu hành pháp không điên đảo, có thể khiến chứng pháp trụ lâu ở thế gian. Khi chứng pháp trụ thì giáo pháp cũng trụ, nên giáo pháp trụ tức do người giảng nói, hành trì. Chỉ do người hành khiến chứng pháp trụ, nên chánh pháp của Phật tùy thuận người giảng nói, hành trì, trụ nơi từng ấy thời gian là trụ ở đời. A-tỳ-đạt-ma là đối tượng nương dựa của Luận này. Luận này gồm thâu yếu nghĩa chân thật trong A-tỳđạt-ma kia. Trong luận kia về nghĩa được giải thích có nhiều đường.

Nay trong Luận này đã dựa vào lý nào để giải thích? Tụng nêu:

Ca-thấp-di-la nghị lý thành

Tôi chỉ dựa kia giải Đối pháp

Hoặc có sai trái là lỗi tôi

Định pháp, chánh lý ở Mâu Ni.

Luận nói: Sư Tỳ-bà-sa ở nơi nước Ca-thấp-di-la đã luận nghị, lý của A-tỳ-đạt-ma khéo thành lập. Tôi chỉ dựa nơi Luận kia để giải thích Tông chỉ của Đối pháp, nên ở trong tụng đã tự thuật về bản ý. Nghĩa là dựa vào các vị con của Bậc Thiện Thệ nơi nước này, bàn luận về lý Đối pháp nơi Đại Tỳ Bà Sa, phát khởi chánh cần quán sát như lý. Vì khiến chánh pháp trụ lâu nơi thế gian, vì nhằm đem lại lợi ích cho hữu tình, nên tạo Luận này. Chỉ nói vì để hiển bày lại không có đường nào khác, nên tất cả đều dựa nơi Tỳ-bà-sa. Tuy nhiên, tánh của các pháp thì rộng lớn thâm diệu, người giảng nói như thật rất là khó gặp. Tự nghĩ về tuệ giác là hết sức yếu kém, lại biếng trễ tìm cầu khắp người thuyết giảng như thật, nên ở trong lý đã lập của luận rộng, hoặc có sai trái là lỗi lầm của tôi. Chánh lý của các pháp thì lớn rộng, sâu xa, chủ yếu là xưa kia đã từng ở nơi trụ xứ của vô lượng Phật, gần gũi tu tập tư lương của chân trí, mới ở tại cảnh của trí, tất cả không có mê lầm. Lân dụ Độc giác hãy còn đối với pháp tướng không thể phán quyết, huống chi là các Thanh văn. Vì pháp đã chứng của Thanh văn kia là tùy theo sự giáo hóa của người khác. Do đấy phán quyết về chánh lý của các pháp, chỉ ở nơi bậc Đại Mâu Ni Tôn chân thật.

Thế nên quyết định nhận biết A Tỳ Đạt Ma đích thật là do Đức Phật giảng nói, tức nên tùy thuận tín thọ, tu hành không điên đảo, siêng cầu giải thoát.

Đại giác đã hành chân diệu nghĩa

Chỉ thuận chánh lý của Đối pháp

Các vị con Thiện Thệ chứng biết

Quyết định không phải tự mê chấp.

Người muốn chứng biết nghĩa chân diệu

Cần dựa chánh lý kinh liễu nghĩa

Không chỉ chấp giáo đã gắng nhận

Tức cũng nêu tâm nơi chánh lý.

Nên thuận lời Phật, luận Chánh lý

Và thuận chánh lý A cấp ma

Đủ khả năng chứng dựa diệu nghĩa

Đâu cần cố cầu luận nạn tà.

Người trí chỉ nên nương giáo này

Không tổn hại đọa không do khác

Phán quyết nghĩa pháp chân, không chân

Chỉ Đại Giác Tôn làm định lượng.

HẾT – QUYỂN 40