LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 35
Phẩm thứ 8: BIỆN VỀ TRÍ, phần 1
Như thế là đã dựa nơi các đạo có sai biệt để kiến lập Bổ-đặcgià-la Hiền Thánh. Trong đạo của đối tượng nương dựa nói như thế này: Chánh kiến, chánh trí gọi là vô học chi. Nên ở đây cần xét chọn kỹ.
Là có tuệ là kiến không phải là trí. Và có tuệ là trí không phải là kiến, nên kiến lập riêng hai chi kiến, trí chăng?
Cũng có. Vì sao?
Tụng nêu:
Thánh tuệ nhẫn không trí
Tận vô sinh không kiến
Hai tuệ hữu lậu khác
Đều tánh trí sáu kiến.
Luận nói: Tuệ có hai thứ là hữu lậu, vô lậu. Chỉ tuệ vô lậu dùng lập danh xưng Thánh. Tám nhẫn trong Thánh tuệ này không phải là tánh của trí. Vì sao? Vì không phải là tánh quyết đoán, vì chỉ nghĩa quyết đoán là nghĩa của trí.
Vì sao tám nhẫn không thể quyết đoán?
Vì tự nghi về đối tượng đoạn tùy thuận nơi sự cùng nối tiếp sinh. Hoặc ở nơi cảnh tìm thấy, ý lạc đã dừng dứt, gia hạnh quá chậm, gọi là trí. Các nhẫn đang khởi có ý lạc suy cầu, lường xét, vì gia hạnh mạnh mẽ, nên không phải thuộc về trí. Nhưng gọi là kiến, vì tánh tìm cầu, lường xét. Hai trí tận và vô sinh không phải là tánh của kiến, vì ý lạc suy cầu lường xét hoàn toàn dừng dứt. Vì gia hạnh đã khởi là rất chậm chạp. Nhưng gọi là trí, vì tánh quyết đoán. Pháp còn lại đều chung cho hai tánh trí, kiến. Vì tánh suy cầu lường xét đã đoạn dứt tự nghi. Nghĩa là tám nhẫn trước, tận vô sinh khác, tám trí hữu học, chánh kiến vô học, mỗi mỗi đều thuộc chung nơi tánh của trí, kiến.
Há không phải là nhẫn nơi các đạo vô gián khác, cũng từ Hoặc đã đối trị được tùy sinh, đều đang khởi ý lạc suy cầu lường xét và gia hạnh mãnh liệt nên không phải thuộc về trí. Tận, vô sinh trí, các đạo giải thoát khác v.v…, so với đây là trái nhau, đều nên không phải là kiến?
Vấn nạn này là không đúng. Vì các đạo vô gián khác không có nghi về tự phẩm, vì được tùy nơi sự cùng nối tiếp sinh. Hữu lậu vô gián không hành theo lý của đế, cùng với đoạn nghi được không phải là thân trái. Lại, kiến kia chỉ thấy cảnh đã từng thấy, không phải như tám nhẫn, vì rất trái với trí. Giải thoát v.v… khác không phải hoàn toàn dứt tìm cầu. Gia hạnh đã khởi không phải là quá trì hoãn, vì về sau đều có đối tượng tạo tác. Do đấy, tất cả đều chung cho hai thứ, vì đều đủ công dụng suy xét, quyết đoán. Các tuệ hữu lậu đều thuộc về tánh của trí, trong đó chỉ sáu thứ cũng là tánh của kiến. Nghĩa là năm kiến nhiễm ô và chánh kiến thế tục là sáu.
Có Sư khác nói: Có thể phát khởi thân, ngữ nơi năm thức đã dẫn dắt và khi mạng chung, ý thức tương ưng với tuệ hữu lậu thiện, cũng không phải là tánh của kiến. Vì chuyển theo môn ngoài, vì như có thể dẫn, vì uy lực yếu kém. Điều này cũng không hợp, vì không nên thừa nhận, vì không phải quyết định. Vì Khế kinh nói, nghĩa là không nên thừa nhận, chỉ nơi môn nội chuyển mới là tánh của kiến. Chớ cho trong Thánh tuệ, ngoài thân niệm trụ, không phải thuộc về tánh của kiến. Nhưng Khế kinh nói: Đối với thân ngoài, tuần tự quán thân, là thuộc về tánh của kiến, cũng không phải quyết định. Như năm thức thân đã dẫn phát ý thức.
Tánh chuyển như thế do năm thức thiện kia đã dẫn phát ý thức, có khi cũng là bất thiện v.v… Do đấy không nên nói do ý thức đã dẫn, đồng có thể dẫn năm thức sinh là tánh không phân biệt. Như Khế kinh nói: Có khi mạng chung được chánh kiến đều cùng có tâm tâm sở thiện, nên nói tuệ thiện của ý địa hiện có đều thuộc về tánh của kiến. Về lý là tốt.
Như thế đã nói về hữu lậu Thánh tuệ đều là trạch pháp, nên đều thuộc về tánh của tuệ.
Trí có bao nhiêu thứ? Tướng riêng như thế nào?
Tụng nêu:
Trí mười gồm có hai
Hữu lậu, vô lậu khác
Hữu lậu xưng thế tục
Vô lậu gọi pháp loại.
Thế tục làm cảnh khắp
Pháp trí và loại trí
Như tiếp dục cõi trên
Đế như khổ làm cảnh.
Luận nói: Trí có mười thứ gồm thâu tất cả trí: (1) Thế tục trí. (2) Pháp trí. (3) Loại trí. (4) Khổ trí. (5) Tập trí. (6) Diệt trí. (7) Đạo trí. (8) Tha tâm trí. (9) Tận trí. (10) Vô sinh trí.
Mười trí như thế gồm chung chỉ hai thứ, vì tánh của hữu lậu, vô lậu có sai biệt, nên tướng của hai trí như thế phân biệt có ba. Nghĩa là thế tục trí, pháp trí, loại trí. Trí hữu lậu trước gọi chung là thế tục.
Tánh của các vật như chiếc bình, y phục, có thể hủy hoại, vì hiển bày ở nơi tình tục, nên gọi là thế tục. Trí này phần nhiều nhận lấy cảnh của thế tục, nên đa số thuận với sự việc tục của thế gian mà chuyển. Theo chỗ phần nhiều mà kiến lập tên gọi thế tục trí. Không phải không nhận lấy thắng nghĩa thuận với sự của thắng nghĩa để chuyển. Nhưng là cảnh của ái, vì không có công năng hơn hẳn, dứt các Hoặc bên trong, nên không phải là vô lậu. Hoặc đã che lấp xuất thế, dẫn phát thế gian, nên được tên gọi thế tục. Thể tức vô trí, trí tùy thuộc danh, được danh của trí kia, ý hiển bày danh này là nói về trí hữu lậu.
Có thuyết cho: Các nẻo gọi là thế tục. Trí này phần nhiều là nhân đi đến các nẻo, từ quả được mang tên, gọi là thế tục trí.
Có thuyết nêu: Trí này từ thời vô thủy đến nay, ở trong thân sinh tử chuyển biến hiển hiện. Do đấy nên lập tên gọi thế tục trí. Hoặc tùy thuận lưu chuyển trong các hữu không dứt, nên gọi là thế tục trí, do tất cả thời tùy thuận các hữu cùng nối tiếp chuyển biến. Hoặc lại trí này, đối với tất cả cảnh có thể phát khởi ảnh hiện khắp, nên được tên gọi thế tục, vì một mình có thể duyên khắp tất cả pháp. Trí vô lậu sau được phân làm hai thứ: Hai danh xưng pháp, loại đã nêu bày riêng khác. Về nghĩa của hai danh xưng này như trước đã giải thích. Đó gọi là tướng của hai trí phân biệt thành ba. Tâm định tương ưng hành tướng của Thánh chuyển. Hai trí hữu lậu, vô lậu có dị biệt gì? Vô lậu đối với cảnh thì hành tướng sáng rõ, nhanh nhẹn. Trí hữu lậu kia thì so với đây là trái nhau. Như than của hai loại gỗ Khiết-địa-la có khác nhau, thế dụng của chúng khi nung đốt là không đồng, mùi hương có hơn kém, nên công dụng có thể xông ướp cũng dị biệt. Thế nhiệt của lửa đốt cỏ và sắt nung đỏ có khác nhau. Hai trí cùng đối chiếu có sai biệt cũng như vậy. Hoặc thế tục trí sau khởi tăng thượng mạn. Vô lậu thì không như vậy, nên có sai biệt. Lại, thế tục trí so với pháp trí, loại trí về cảnh tức có rộng, hẹp, nên có sai biệt. Nghĩa là thế tục trí dùng khắp tất cả hữu vi, vô vi làm cảnh của đối tượng duyên. Do Khế kinh nói: Có tục trí thiện có thể nhận biết khắp về khổ. Nói rộng cho đến nhận biết khắp về hư không, phi trạch diệt. Cũng có khi dùng hành tướng vô ngã duyên chung nơi tất cả pháp làm cảnh, vì Khế kinh nói: Các hành là vô thường. Tất cả pháp là vô ngã. Niết-bàn là tịch tĩnh. Pháp trí chỉ duyên nơi bốn đế thuộc cõi dục. Loại trí thì có thể duyên chung nơi bốn đế của hai cõi trên. Do cảnh của ba trí này có sai biệt, tức ở trong ba thứ trí như thế.
Tụng nêu:
Pháp loại do cảnh riêng
Lập bốn tên như khổ
Đều chung tận vô sinh
Đầu chỉ khổ tập loại.
Luận nói: Pháp trí, loại trí do cảnh sai biệt nên phân làm bốn trí: Khổ, tập, diệt, đạo.
Do đâu thế tục trí cũng duyên nơi khổ v.v…, tạo ra hành tướng như khổ v.v…, nhưng không phải là các trí như khổ v.v…? Do hành giả kia, trước dùng hành tướng như khổ v.v… quán về khổ v.v… xong. Thời gian sau lại cùng quán các cảnh như khổ v.v… là lạc v.v… Lại được thế tục trí như thế rồi, về sau duyên nơi đế thì có nghi cùng hiện hành.
Sáu trí như thế, nếu thuộc về vô học, thì không phải là tánh của kiến, gọi là tận, vô sinh. Hai trí này khi mới sinh chỉ là khổ, tập loại, vì duyên nơi sáu thứ hành tướng của khổ, tập, vì duyên nơi uẩn của xứ Hữu đảnh làm cảnh giới. Định kim cương dụ nếu duyên nơi khổ, tập, thì so với cảnh này là đồng. Duyên nơi diệt, đạo thì khác.
Nếu như vậy thì há không phải là trái nhau với chí giáo? Như nói: Ở nơi tận có trí đầu tiên sinh. Từ đấy vô gián có thể tự thông đạt. Không có lỗi trái với giáo. Ở đây, câu Ở nơi tận là tiếng của hữu thứ bảy, không phải là cảnh thứ bảy. Nghĩa là có phiền não đã hoàn toàn tận, nên có trí đầu tiên sinh không phải trí này sinh, duyên với tận làm cảnh. Thì đâu có gì trái hại!
Ý của câu nói kia là làm rõ có Hoặc trong thân thì không có trí này sinh. Chủ yếu là có Hoặc tận ở trước đã nói trong chín thứ trí.
Tụng nêu:
Pháp, loại, đạo, thế tục
Có thành tha tâm trí
Đối vị, căn địa hơn
Đời khứ, lai không biết.
Pháp, loại không cùng biết
Thanh văn, Lân dụ, Phật
Thứ lớp nhận biết kiến đạo
Hai, ba niệm tất cả.
Luận nói: Có pháp, loại, đạo và thế tục trí thành tha tâm trí. Trí khác thì không như vậy.
Há không phải là đạo trí lìa pháp loại thì không có. Tức nên chỉ nói hai trí thành tha tâm trí. Lý thật là như thế. Vì hiển bày tha tâm trí chỉ nhận biết về cảnh của đồng loại, nên nói như thế. Nghĩa là vì làm rõ thành pháp, loại trí này, nhận biết tâm tâm sở pháp vô lậu của người khác, là thuộc về đạo trí, không phải khổ, tập trí. Do trí vô lậu quyết định không thể nhận biết tâm tâm sở hữu lậu của người khác. Tâm tâm sở pháp vô lậu nơi thân người khác, vì vi tế, vì hơn hẳn, nên không phải là cảnh của tha tâm trí hữu lậu của chính mình. Lý ấy có thể như vậy.
Do đâu tha tâm trí vô lậu của thân mình không thể nhận biết tâm tâm sở hữu lậu của người khác? Vì ở nơi cảnh hữu lậu, trí vô lậu sinh, hành tướng, đối tượng duyên là khác với trí này. Nghĩa là trí vô lậu khi duyên nơi hữu lậu, tất là duyên chung nơi hành tướng chán bỏ. Thế nên quyết định không thể duyên riêng nơi tâm tâm sở của người khác để thành tha tâm trí. Vì các Thánh trí khi duyên nơi hữu lậu tất đối với đối tượng duyên sinh khởi chán bỏ sâu xa, ưa từ bỏ chung, không thích quán riêng. Khi duyên nơi vô lậu thì sinh ưa thích. Đã quán chung xong, cũng ưa thích quán riêng.
Như có người thấy nghe sự việc không phải được yêu mến, duyên chung, liền bỏ, không ưa thích duyên riêng. Ở trong đối tượng được yêu mến thì không như vậy. Thấy nghe chung rồi cũng ưa duyên riêng. Vì vậy đối với tâm hữu lậu v.v… của người khác, tất không có Thánh trí mỗi mỗi quán riêng để thành tha tâm trí vô lậu duyên nơi tâm hữu lậu. Do tha tâm trí quyết định đối với tâm tâm sở pháp của người khác, phân biệt nhận biết riêng.
Há không phải là cũng có khổ, tập nhẫn trí thuộc về ba niệm trụ? Tuy có nhưng không phải chỉ duyên nơi một pháp mà là duyên nơi nhiều thể. Lại, tha tâm trí có tướng quyết định. Nghĩa là không nhận biết về hai đời quá khứ, vị lai hơn hẳn và phẩm pháp, loại không cùng nhận biết. Chỗ hơn hẳn lại có ba, là địa, căn, vị. Địa, nghĩa là ở nơi địa dưới, trí không nhận biết tâm của địa trên. Về nghĩa chỉ có thể nhận biết về tự địa và địa dưới. Căn, nghĩa là căn trí của tín giải, thời giải thoát, không nhận biết tâm của kiến chí, bất thời giải thoát. Vị, nghĩa là ứng quả Bất hoàn của Thanh văn, Độc giác, Đại giác, trí của vị trước trước không nhận biết tâm của chư vị càng về sau càng hơn hẳn. Về nghĩa chỉ có thể nhận biết phần vị căn của địa dưới mình. Nhưng tha tâm trí và cảnh của đối tượng nhận biết, căn địa đã khác, nên nhận biết cũng có khác. Tâm tâm sở pháp hữu lậu của đối tượng nhận biết từng chưa được từng được, đều có mười lăm. Nghĩa là cõi dục, bốn tĩnh lự đều có căn hạ, trung, thượng. Chủ thể nhận biết chỉ trừ ba phẩm của cõi dục, tức từng được chưa từng được, đều có mười hai. Vô lậu của đối tượng nhận biết và chủ thể nhận biết kia đều trừ ba phẩm của cõi dục, tức đều có mười hai. Lại, các hữu lậu từng được chưa từng được tha tâm trí thuộc về căn của địa dưới sinh, tùy theo đối tượng ứng hợp, có thể nhận biết phẩm tâm nơi ba căn của địa dưới và căn phẩm hạ của tự địa. Phẩm trung cũng nhận biết phẩm trung của tự địa. Phẩm thượng thì thấu rõ chung ba địa dưới của tự địa. Tha tâm trí của căn phẩm hạ vô lậu khởi, chỉ nhận biết căn phẩm hạ của địa dưới và tự địa. Trung cũng nhận biết trung. Thượng thì gồm nhận biết thượng.
Do đâu trí hữu lậu, vô lậu sinh nhận biết tâm của địa dưới nhiều ít có khác. Ba phẩm hữu lậu có thể ở nơi một thân thành. Vô lậu tùy theo căn lập Thánh có sai biệt. Hãy còn không có một thành hai phẩm căn, huống chi là có thành ba, nên có sai biệt.
Vì sao nói một Bổ-đặc-già-la thành tựu chín phẩm đạo, đoạn trừ chín phẩm Hoặc. Đạo này có sai biệt không phải căn có khác. Là do nhân lớn dần, đạo sau chuyển tăng. Như thứ lớp có thể khiến đoạn nhiều phẩm Hoặc. Hoặc các chủng tánh đều có chín phẩm, thành một nơi chín phẩm, tất không thành phẩm khác, nên lời nói trước sau là không có lỗi trái nhau. Nên dựa nơi địa trên khởi tâm của căn phẩm hạ, có tâm của căn phẩm thượng dựa nơi địa dưới khởi. Địa, căn đều cùng hơn hẳn, tất không nhận biết nhau. Vị vị nơi địa, căn đối nhau cũng như vậy. Tha tâm trí này không nhận biết quá khứ, vị lai. Gốc là nhận biết có thể duyên nơi tâm tâm sở pháp. Hai phẩm pháp, loại là không cùng nhận biết nhau.
Hai trí này như thứ lớp đã dùng sự đối trị cõi dục và toàn phần cõi trên làm đối tượng duyên. Còn tha tâm trí này trong kiến đạo thì không có quán chung về lý của đế để chuyển rất nhanh chóng, nhưng đều cùng làm cảnh của tha tâm trí. Thánh giả của ba thừa khi khởi trí này thì hai thừa trung hạ tất cần gia hạnh. Gia hạnh của Thanh văn hoặc thượng, hoặc trung. Lân dụ chỉ cần gia hạnh phẩm hạ. Đức Phật thì không có gia hạnh, chỉ tùy ý muốn là hiện tiền. Như các hữu tình sắp nhập kiến đạo, Thanh văn, Độc giác, tham dự tu gia hạnh, vì muốn nhận biết tâm của vị kiến đạo kia. Các hữu tình ấy nhập vị kiến đạo, phần pháp Thanh văn gia hạnh, nếu mãn thì nhận biết kiến đạo kia. Tâm của hai niệm đầu nếu là lại nhận biết về tâm phần loại, nên tu riêng gia hạnh, đến gia hạnh mãn thì tâm kia đã vượt qua đến tâm thứ mười sáu. Tuy nhận biết tâm này không phải là nhận biết về kiến đạo, thế nên nói tâm kia chỉ nhận biết hai niệm. Phần pháp Lân dụ gia hạnh nếu mãn thì nhận biết tâm của hai niệm đầu nơi kiến đạo kia. Nếu là lại nhận biết về tâm phần loại, nên tu riêng gia hạnh, đến gia hạnh mãn thì nhận biết tâm của tập loại trí thứ tám.
Có Sư khác nói: Nhận biết thứ mười lăm.
Có thuyết cho: Lân dụ nhận biết bốn sát-na. Nghĩa là hai tâm đầu cùng tâm thứ tám, thứ mười bốn.
Thuyết này nói là hợp lý. Vì sao? Vì thừa nhận từ khi nhận biết tâm của hai niệm đầu xong, chỉ cách năm niệm là nhận biết tâm thứ tám. Nếu lại còn tu gia hạnh phần pháp, tức trải qua khoảnh khắc năm niệm, gia hạnh nên thành, vì sao không thừa nhận biết niệm thứ mười bốn.
Có Sư khác cũng nói nhận biết bốn sát-na. Nghĩa là hai tâm đầu và tâm thứ mười một, thứ mười hai. Đức Phật đối với tất cả công đức thù thắng, tùy nơi ý muốn thì hiện tiền, vì tâm tự tại, ở nơi mười lăm niệm có thể theo thứ lớp nhận biết. Do Đức Phật, Thế Tôn trong ba vô số kiếp luôn tinh tấn siêng năng tu tập vô lượng tư lương, nên đạt được diệu trí thù thắng khó nghĩ bàn, gồm đủ thế dụng lớn, tùy ý muốn đều có thể nhận biết. Tuy trí này sinh, cũng nhận biết tâm sở, nhưng tu gia hạnh gốc vì nhận biết tâm, như không xứ v.v… gọi là tha tâm trí.
Hiếp Tôn Giả nói: Dẫn trí này sinh, chủ yếu trước là nhận biết tâm, sau mới nhận biết tâm sở. Từ đầu chỉ lập tên gọi tha tâm trí, khi dẫn trí này thì tu gia hạnh nào? Trước nên quán sát về hiển hình của thân. Ngôn âm đã ưa thích, biểu tâm có sai biệt. Nghĩa là hành giả kia, khi mới tu nghiệp, vì muốn xét biết kỹ về tha tâm có sai biệt, trước nên quán xét đầy đủ về hiển hình của tự thân, ngôn âm đã ưa thích, nhân nơi gì mà có riêng khác? Bèn nhận biết hiển hình v.v… có sai biệt là do tâm. Tiếp theo lại quán xét kỹ về hiển hình v.v… của thân người khác, cũng do tâm dị biệt nên có sai biệt sinh.
Do đấy, thời gian sau thân ý lìa dục, điều phục nhu hòa thanh tịnh, dẫn định hơn hẳn sinh. Dựa vào định, phát sinh trí có oai đức. Trí này chân thật chiếu kiến tâm người khác. Như trong viên ngọc minh châu có vô số đường nét màu sắc, tướng sai biệt hiện rõ có thể đạt được. Đó gọi là tu gia hạnh của tha tâm trí thế tục. Nếu khi tu tha tâm trí vô lậu, dùng quán khổ trí như vô thường v.v… làm gia hạnh. Phần vị gia hạnh này duyên chung nơi sắc tâm, đến khi thành mãn, thì duyên nơi tâm không phải sắc. Lại, nơi phần vị gia hạnh duyên nơi tự tâm tha tâm, đến khi hoàn thành mãn, thì duyên nơi tha, không phải tự.
Tướng của hai trí tận, vô sinh khác biệt như thế nào?
Tụng nêu:
Trí đối bốn Thánh đế
Biết ta đã nhận biết
Không nên lại biết nữa
Thứ lớp: Tận, vô sinh.
Luận nói: Như Bản luận nói: Thế nào là tận trí? Nghĩa là vị vô học, nếu chánh tự nhận biết: Ta đã nhận biết khổ. Ta đã đoạn trừ tập. Ta đã chứng đắc diệt. Ta đã tu tập đạo. Do đấy trước quán về trí kiến, minh, giác, giải tuệ hiện có gọi là tận trí.
Thế nào là vô sinh trí?
Nghĩa là chánh tự nhận biết: Ta đã nhận biết khổ, không phải nhận biết nữa. Nói rộng cho đến: Ta đã tu tập đạo, không phải tu tập nữa, do đấy các thứ hiện có nói rộng cho đến: Đó gọi là vô sinh trí.
Do khi ý lạc gốc nơi hai trí chuyển, thì sức có thể dẫn khởi trí giải như vậy, không phải ở nơi lúc hai trí vô lậu chuyển đã tạo ra thắng giải không phân biệt như thế. Nghĩa là xuất sinh hai trí trong hậu đắc trí mới tạo ra hai loại phân biệt như vậy. Hai phân biệt này sinh sau hai trí, là do sức của tận vô sinh đã dẫn, vì hai tục trí này là quả sĩ dụng của trí kia. Nên nêu lên hai quả là biểu thị về hai trí có sai biệt. Về lý tất nên như vậy. Nói do đấy nên dựa là nghĩa này, nói tiếng do đấy tức là vì nghĩa của trí hiện có này. Không như vậy tức nên nói: Các hành giả tu quán hiện có như thế, vốn khi tu hành, nhất định khởi ý lạc trông mong như thế. Nghĩa là khi ta sẽ chứng A-la-hán, chủ yếu nên khởi trí này để tự xét kỹ. Nên nay xuất quán, trí ấy tất sinh. Vì khiến sinh này là trí đã khởi, tùy theo chỗ ứng hợp, kiến lập danh xưng tận, vô sinh. Tức là nghĩa đã nương dựa của trí sau sinh. Nên nói: Giải thích này về lý tất nên như thế.
Mười trí như vậy, hỗ tương gồm thâu. Nghĩa là thế tục trí gồm thâu một trí hoàn toàn và phần ít của một trí. Pháp, loại trí đều gồm thâu một trí hoàn toàn và phần ít của bảy trí. Khổ, tập, diệt trí đều gồm thâu một trí hoàn toàn và phần ít của bốn trí. Đạo trí gồm thâu một trí hoàn toàn và phần ít của năm trí. Tha tâm trí gồm thâu một trí hoàn toàn và phần ít của bốn trí. Tận trí, vô sinh trí đều gồm thâu một trí hoàn toàn và phần ít của sáu trí.
Do đâu hai trí kiến lập làm mười?
Tụng nêu:
Do tự tánh, đối trị
Hành tướng, cảnh hành tướng
Gia hạnh biện nhân đủ
Nên kiến lập mười trí.
Luận nói: Do bảy duyên nên lập hai làm mười: (1) Vì tự tánh nên lập thế tục trí, vì dùng thế tục trí làm tự tánh.
1. Vì đối trị nên lập pháp, loại trí, vì hoàn toàn có thể đối trị cõi dục và cõi trên.
2. Vì hành tướng nên lập khổ trí, tập trí, vì thể nơi cảnh của hai trí này không riêng khác.
3. Vì cảnh của hành tướng nên lập diệt trí, đạo trí, vì cảnh nơi hành tướng của hai trí này đều cùng có khác.
4. Vì gia hạnh nên lập tha tâm trí. Không phải trí này không nhận biết tâm sở pháp của người khác. Vì gốc tu gia hạnh là nhận biết tâm người khác, tuy khi tu thành mãn, cũng nhận biết tâm sở, nhưng căn cứ theo gia hạnh, nên lập danh xưng tha tâm trí. Gia hạnh như trước đã phân biệt đủ.
5. Vì sự đã hoàn thành nên kiến lập tận trí. Sự đã hoàn thành, trong thân nhất định đầu tiên sinh trí.
6. Vì nhân viên mãn nên lập vô sinh trí. Vì đều làm nhân sinh của tất cả Thánh đạo. Nghĩa là có tận trí nào không phải là do vô sinh trí làm nhân nên sinh. Không có vô sinh trí nào không dùng tận trí làm nhân nên khởi.
Như trên đã nói: Pháp trí, loại trí hoàn toàn có khả năng đối trị pháp của cõi dục và cõi trên, là có phần ít đối trị dục trên chăng?
Tụng nêu:
Duyên diệt, đạo pháp trí
Ở trong vị tu đạo
Gồm tu đoạn trị trên
Loại không thể trị dục.
Luận nói: Diệt đạo pháp trí thuộc về tu đạo, gồm luôn có thể đối trị cõi trên do tu đạo đoạn. Đối với bốn đế, pháp của cõi dục, pháp trí hoàn toàn có khả năng đối trị. Đối với kiến đạo đoạn của cõi dục, pháp trí cũng tạo giữ gìn đối trị, nên chủ thể đối trị, đối tượng đối trị đều được mang tên hoàn toàn. Đối với cõi trên đều cùng có thiếu, đều cùng gọi là phần ít.
Vì sao chỉ có diệt đạo pháp trí gồm luôn đối trị cõi trên không phải là khổ, tập?
Vì đối tượng duyên tịch tĩnh, xuất ly là đồng. Nghĩa là diệt của cõi dục, cõi trên và đạo có thể đối trị lần lượt cùng đối chiếu, tướng không riêng khác, vì các trạch diệt đều thiện, đều thường, tất cả Thánh đạo đều có thể xuất ly. Đối tượng duyên nơi khổ tập thì ở cõi dục, cõi trên không đồng, ít, nhiều, tế, thô, trên, dưới đều riêng khác. Lại, khổ, tập trí duyên nơi cảnh đã chán, không cùng nhàm chán cảnh kia để ở đấy lìa bỏ tham. Về lý khi nhàm chán địa này, tức đoạn trừ phiền não của địa này. Nếu thừa nhận nhàm chán khác thì lìa tham khác, tức nên lìa tham khác thì giải thoát khác. Nếu thừa nhận không nhàm chán cõi sắc, vô sắc, mà có thể lìa tham của hai cõi ấy, thì hành tập nhàm chán lìa tham, lý tức nên hoại. Hai trí diệt đạo không duyên nơi cảnh nhàm chán, duyên cõi dưới, đối trị cõi trên cũng không có lỗi.
Lại, như quán bất tịnh và ưa muốn Niết-bàn. Nghĩa là quán bất tịnh duyên nơi cảnh của cõi dục, chỉ có thể khiến tâm chán bỏ cõi dục. Còn ưa muốn Niết-bàn khi hiện ở trước, có thể khiến tâm chán bỏ khắp ba cõi.
Như thế, duyên nơi cõi dục, khổ tập trí sinh, chỉ có thể khiến tâm lìa nhiễm của cõi dục. Duyên nơi pháp của cõi dục, diệt đạo trí sinh, tức có thể khiến tâm lìa nhiễm khắp ba cõi. Cho nên thừa nhận phẩm diệt đạo pháp trí tăng cho đến được thành định kim cương dụ. Do đấy, Đại Thánh diệu khéo nhận biết rõ, dựa hoàn toàn nơi môn đối trị để lập pháp trí, loại trí. Phần ít của pháp trí có công năng đối trị cõi trên, loại trí tất không có, chỉ có thể đối trị cõi dục, chủ yếu đối với tự cõi, công việc làm đã chu toàn, mới có thể gồm luôn công việc làm của cõi khác. Không phải các loại trí, khi sự của mình đã thành, sự của người khác chưa thành, mà có nghĩa cần hỗ trợ, nên không có loại trí, là pháp đối trị cõi dục.
Há không phải là đạo loại trí thứ mười sáu sinh, nhân nơi trí này, tức thì có thể đới trị Hoặc của cõi dục? Sắp đoạn trừ Hoặc của cõi dục, loại trí không hiện hành. Nếu như thừa nhận hiện hành, thì do chướng ngại của tự cõi, nên tất không có uy lực để có thể hỗ trợ thành tựu cõi khác như pháp trí đã làm. Do đó, loại trí không có công năng đối trị ở cõi dục.
Trong mười trí này, những trí nào có hành tướng gì?
Tụng nêu:
Pháp trí và loại trí
Hành tướng đều mười sáu
Tục trí đây và khác
Trí bốn đế đều bốn.
Tha tâm trí vô lậu
Chỉ bốn tức duyên đạo
Hữu lậu tự tướng duyên
Đều chỉ duyên một sự
Tận vô sinh mười bốn
Là lìa không, vô ngã.
Luận nói: Pháp trí, loại trí mỗi mỗi đều có đủ mười sáu hành tướng, như thường, khổ v.v… Mười sáu hành tướng này nơi phần sau sẽ giải thích rộng. Thế trí có hành tướng này và lại chưa trọn vẹn, có thể duyên nơi tự tướng, cộng tướng của tất cả pháp. Nghĩa là thế tục trí, hoặc có tạo tác đủ mười sáu hành tướng, như ở trong phần vị noãn, đảnh, nhẫn. Hoặc có khi không đủ, như Tam-ma-địa trùng lặp của thế đệ nhất và thế tục trí v.v… của hiện quán biên. Hoặc có khi tạo tác riêng hành tướng phi Thánh, như quán bất tịnh, trì tức niệm, từ v.v… Các hành tướng của thế tục trí là vô biên. Bốn trí như khổ v.v…, mỗi mỗi đều có duyên với bốn thứ hành tướng, theo cảnh của tự đế. Trong tha tâm trí, nếu là vô lậu thì chỉ có duyên nơi bốn thứ hành tướng của đạo. Hành tướng này tức thuộc về một phần của đạo trí. Nếu là hữu lậu thì nhận lấy cảnh nơi tự tướng của tâm tâm sở pháp thuộc tự đối tượng duyên. Như cảnh của tự tướng thì hành tướng cũng vậy, nên hành tướng này không phải thuộc về mười sáu thứ trước.
Như thế, hai thứ ở vào tất cả thời, một niệm chỉ duyên nơi một sự làm cảnh. Nghĩa là khi duyên nơi tâm thì không duyên nơi tâm sở. Khi duyên nơi thọ v.v… thì không duyên nơi tưởng v.v…
Nếu như vậy vì sao Đức Bạc-già-phạm nói: Như thật nhận biết rõ tâm có tham v.v…, không phải đều cùng lúc nhận lấy tham v.v… và tâm. Như không cùng lúc nhận lấy y phục và vết bẩn. Vì sao tha tâm trí có hành tướng đối tượng duyên nhưng nói là không quán đối tượng duyên hành tướng? Do không quán hành tướng đối tượng duyên của tâm người khác. Nghĩa là chỉ nhận biết tâm kia có nhiễm v.v… Không nhận biết tâm kia đã nhiễm sắc v.v…, cũng không nhận biết hành tướng của chủ thể duyên kia. Không như vậy thì tha tâm trí cũng nên duyên nơi sắc v.v… Lại, cũng nên có công năng tự duyên mất vô lậu, tha tâm trí nên duyên nơi cảnh như khổ v.v…
Thế thì cũng nên thừa nhận tương ưng với không, vô tướng. Đã không thừa nhận như thế, tức nhận biết là không quán hai. Các tha tâm trí có tướng quyết định. Nghĩa là chỉ có thể nhận lấy tâm tâm sở pháp hệ thuộc cõi dục, cõi sắc và không hệ thuộc nơi đồng loại hiện tại trong sự cùng nối tiếp của người khác. Tự tướng của một thật làm cảnh của đối tượng duyên. Không, vô tướng, không tương ưng, không thuộc về tận vô sinh, không ở nơi kiến đạo, nên trong đạo vô gián pháp khác đã không ngăn chận. Như chỗ ứng hợp cùng có, tận trí vô sinh trí trừ không, vô ngã đều có đủ mười bốn hành tướng còn lại. Do cùng với tâm xuất quán chuyển biến trái nhau, nên ở trong quán không có hai hành tướng. Nghĩa là khi từ hai trí sau xuất quán, tất tự nhận biết rõ sự sinh của ta đã hết v.v… Ý trong đây nói tận trí, vô sinh trí, tuy là thắng nghĩa nhưng quan hệ với thế tục, vì sự sinh của ta đã hết là thế tục. Không, vô ngã là thắng nghĩa, tất gắn liền với thắng nghĩa. Vì sau quán này là quyết định nhận biết rõ về không, vô ngã. Do đó hai trí này lìa không, vô ngã là hữu lậu, vô lậu.
Vượt qua mười sáu hành tướng này lại là thuộc về hành tướng khác chăng?
Tụng nêu:
Tịnh không vượt mười sáu
Nên thuyết khác có luận.
Luận nói: Các Sư Đối pháp có một loại nói không có vượt qua mười sáu hành tướng vô lậu, vì lìa pháp này thì pháp còn lại không thể được.
Há không phải là có thuyết cho tận trí, vô sinh trí, tất tự nhận biết rõ sự sinh của ta đã hết v.v… Điều này là không trái nhau, vì trước đã nói. Nghĩa là trước đã nói sau quán vô lậu, thì trong thế tục trí tạo ra hành tướng này, không phải là trí vô lậu. Hành tướng này chuyển biến do tận trí, vô sinh trí, dẫn khởi tục trí, có công sức suy tìm nơi gốc. Nói tận trí, vô sinh trí kia đã nhận biết rõ, nên thừa nhận trí này lìa không, vô ngã. Do sức của ý lạc gốc khiến cho hai trí này, về sau tất dẫn sinh: Sự sinh của ta đã hết v.v…, không phải do hành tướng này chuyển biến trong quán, khiến vào thời gian sau khởi hành tướng ấy. Hành tướng như ta v.v… tuy không có trong quán, nhưng do không gặp tự chứng giải thoát, nghĩa nói ở phần vị này tất đã nên có. Thế phần của hành tướng như sự sinh của ta đã hết v.v… Do hành tướng của thế tục ở trước dẫn sinh, có thể dẫn hành tướng của thế tục nơi thời gian sau, nên lìa mười bốn không có tận trí, vô sinh trí. Nếu cho ở đây nên nói là lìa mười sáu là không có, thì điều này không hợp lý, vì trừ mười bốn thì số còn lại có tận trí, vô sinh trí, không phải là cực thành. Nghĩa là lìa mười bốn tức có dựa nơi mật thuyết, chấp sự sinh của ta đã hết v.v…, là tận trí, vô sinh trí. Vì nhằm ngăn chận chấp kia, nên nói lìa mười bốn là hoàn toàn không cực thành. Đâu thể đối với sự việc kia để ngăn chận chấp này.
Nếu như vậy đã có tha tâm trí vô lậu, tức nên vượt qua mười sáu hành tướng hữu lậu, vô lậu. Nghĩa là tha tâm trí đều dùng một tự tướng thật làm cảnh. Hành tướng của đạo v.v… đều dùng cộng tướng tụ tập làm cảnh. Tự tướng kia với cộng tướng này đã khác, nên biết lìa mười sáu thì quyết định có riêng hành tướng vô lậu, không phải nhất định thừa nhận. Vấn nạn này là không hợp lý. Nghĩa là tông của tôi đã không quyết định thừa nhận hành tướng của cộng tướng chỉ duyên nơi tụ tập. Thừa nhận có hai niệm trụ thọ, tâm, như quán thể một thọ là vô thường, khi trí này sinh, dùng hành tướng của cộng tướng để quán tự tướng của một thật làm cảnh là cực thành.
Như thế đâu thể không thừa nhận tha tâm trí vô lậu, dùng hành tướng của cộng tướng để duyên nơi tự tướng của một thật. Nghĩa là nhận biết tâm của người khác là chân đạo v.v… Tức duyên nơi thật là tướng như đạo v.v… Nếu cho nên như niệm trụ thọ tâm duyên chung nơi thọ tâm hiện có của ba đời làm hành tướng của cộng tướng như vô thường v.v… Tha tâm trí vô lậu cũng duyên chung nơi tâm vô lậu v.v… của người khác thuộc ba đời làm hành tướng như đạo v.v…, là trái với tự tông, vì tha tâm trí khởi, chỉ duyên nơi tự tướng của một thật ở hiện tại. Điều này cũng không đúng, vì gia hạnh khác. Gia hạnh của trí này là muốn nhận biết tâm hiện có thể duyên của người khác, có riêng khác như tham v.v…, tu vô thường v.v…, vì gia hạnh của niệm trụ vì chán bỏ chung các pháp hữu lậu, do uy lực của gia hạnh trước có khác, đến khi thành mãn, thì hiện duyên chung có khác. Vì thế nên không có lỗi cùng so sánh.
Nếu cho vô thường không phải là tự thể của thọ, nên khi quán thọ là vô thường, thì không phải duyên nơi tự tướng của một thật làm cảnh.
Đâu có thể dẫn điều ấy dụ cho tha tâm trí?
Tức thuyết kia nên thừa nhận thọ không phải là vô thường, không nên đối với thọ, khởi quán về vô thường. Như thọ so với tâm, thể của chúng đều riêng khác, tất định không có quán thọ là tâm. Tuy tức quán thọ cho là vô thường, nhưng không có lỗi một vật có nhiều thể, vì lãnh nạp thể của vô thường không khác, như tổn ích v.v… Không phải lìa lãnh nạp thì hành tướng còn lại, pháp khác cũng như vậy.
Nếu như thế tức nên cùng với Chí giáo là trái nhau. Như nói ở nơi thân trụ tuần tự quán thân, tức nên nói là pháp trí, cho đến nói rộng. Lại nói: Quán lão tử tức nên nói là bốn trí, đều cùng không trái nhau nhau. Lại, như đầu tiên đã nói không phải là làm rõ về pháp trí v.v…, lìa mười sáu hành tướng trụ tuần tự quán thân. Quán thân là thân, chỉ như thật quán ngã là vô thường v.v… Trước đã thừa nhận là hành tướng của cộng tướng, cũng dùng tự tướng của một thật làm cảnh, nên thuyết kia đã nói đối với ngã là không trái. Tiếng lão tử sau là nói chung về thủ uẩn. Quán năm thủ uẩn là vô thường v.v…, là thuộc về bốn trí, đâu có gì trái nhau.
Nếu như vậy, như nói: Khi thọ nhận lạc thọ thì nhận biết rõ như thật là thọ nhận lạc thọ, vì sao là thuộc về pháp, loại, thế tục, đạo trí? Ở đây nên xét chọn.
Khi thọ hiện tại tất không nhận biết rõ, vì không tự duyên. Cũng không thể nói là nhận biết rõ khứ, lai, vì quá khứ, vị lai không gọi là thời gian thọ lạc. Nhưng Khế kinh nói: Khi thọ nhận lạc thọ thì nhận biết rõ như thật là thọ nhận lạc thọ.
Nên biết kinh này nói là có mật ý riêng. Giải thích về mật ý ấy, như tận vô sinh. Nghĩa là thời gian sau xuất quán mới khởi hành tướng này, nên hành tướng vô lậu vượt ra ngoài mười sáu. Không có một loại nào nói là có vượt mười sáu. Vì Bản luận đã nói. Như Bản luận nói: Từng có không buộc giữ tâm mà có thể phân biệt nhận biết rõ pháp hệ thuộc cõi dục chăng? Đáp: Có thể phân biệt nhận biết rõ. Nghĩa là vì vô thường, vì khổ, vì không, vì vô ngã. Vì nhân, vì tập, vì sinh, vì duyên. Nên có xứ này, có sự này, như lý đã dẫn phân biệt nhận biết rõ.
Chứng ấy là không thành, vì mê ý của luận. Luận đã hiển bày về hành tướng, không hệ thuộc là rất nhiều, ở trong ấy có duyên hệ thuộc cõi dục, là dựa nơi cùng có để nói. Nói có xứ này, nói có sự này, là làm rõ không có điên đảo. Tức do sự lý ấy, pháp khác không có lời nói này. Nghĩa là trong Luận kia lại nói: Từng có tâm của kiến đạo đoạn, có thể phân biệt nhận biết rõ pháp hệ thuộc cõi dục chăng? Đáp: Có thể phân biệt nhận biết rõ. Nghĩa là vì ngã, vì ngã sở, vì đoạn, vì thường, vì không có nhân, vì không tạo tác, vì tổn giảm, vì tôn quý, vì hơn hẳn, vì trên, vì thứ nhất, vì có thể làm thanh tịnh, vì có thể đạt giải thoát, vì có thể xuất ly, vì hoặc, vì nghi, vì do dự, vì tham, vì sân, vì mạn, vì si, không như lý đã dẫn phân biệt nhận biết rõ. Trừ hành tướng này thì không cùng có hành tướng khác, do đấy không nói câu có xứ này, do đều là điên đảo chuyển biến. Không nói có sự ấy, nên hành tướng tịnh, không vượt qua mười sáu. Lý giáo không trái, không thể nghiêng động.
Nói hành tướng có mười sáu là chỉ danh xưng riêng hay thật cũng có khác?
Vì sao gọi là chủ thể hành, đối tượng hành của hành tướng?
Tụng nêu:
Hành tướng thật mười sáu
Thể ấy chỉ là tuệ
Năng hành có sở duyên
Sở hành các pháp có.
Luận nói: Có thuyết nói: Hành tướng, về danh xưng tuy là mười sáu, nhưng thật sự chỉ có bảy. Duyên nơi cảnh của khổ đế, vì đối trị bốn điên đảo, nên danh thật đều cùng có bốn. Duyên nơi cảnh của ba đế thì danh có bốn, thật chỉ có một. Nên nói như thế này: Thật cũng là mười sáu. Vì đối tượng đối trị, đối tượng hành cùng có riêng khác. Nói đối tượng đối trị nên tướng có riêng khác. Vì đối trị thường kiến, nên tu hành tướng Vô thường. Vì đối trị các hành lạc, nên tu hành tướng Khổ. Vì đối trị ngã sở kiến, nên tu hành tướng Không. Vì đối trị ngã kiến, nên tu hành tướng Vô ngã. Vì đối trị luận cho là không nhân, nên tu hành tướng Nhân. Vì đối trị Luận cho một nhân như Tự Tại, nên tu hành tướng Tập. Vì đối trị Luận cho là nhân chuyển biến, nhân thường, nên tu hành tướng Sinh. Vì đối trị Luận cho có thể sinh nhận biết là trước hết, nên tu hành tướng Duyên. Vì đối trị Luận đã quy Tự tại là Niết-bàn, nhằm làm rõ các uẩn vĩnh viễn diệt, là Niếtbàn, nên tu hành tướng Diệt. Vì đối trị chấp giải thoát hiện có của tự thể là tạp nhiễm, hoặc khổ không chánh kiến, nên tu hành tướng Tĩnh. Vì đối trị chấp Niết-bàn, như bị chú thuật v.v…, bèn dẫn đến tàn diệt, là luận tệ hoại, nên tu hành tướng Diệu. Vì đối trị kiến chấp giải thoát, còn trở lại thoái chuyển, nên tu hành tướng Ly. Vì đối trị chấp không có đạo giải thoát, nên tu hành tướng Đạo. Vì đối trị kiến chấp cho khổ hạnh là chân đạo và hủy báng chân đạo là tà luận, nên tu hành tướng Như. Vì đối trị không tu đạo, sinh tử tự tịnh và thế gian tạp nhiễm, là chân đạo, nên tu hành tướng Hành. Vì đối trị từng gặp đạo không vĩnh viễn lìa nhiễm, đã lừa dối mê Hoặc, đối với chân Thánh đạo, cũng không kính, nên tu hành tướng Xuất.
Nói tướng của cảnh nơi đối tượng hành có riêng khác. Nghĩa là khổ Thánh đế có bốn tướng: (1) Vô thường. (2) Khổ. (3) Không. (4) Vô ngã.
Vì có sinh diệt nên là vô thường. Vì tánh bức bách, vì trái với Thánh tâm nên khổ. Vì không có chủ tể nên không. Vì trái với tướng ngã nên là vô ngã.
Tập Thánh đế có bốn: (1) Nhân. (2) Tập. (3) Sinh. (4) Duyên.
Vì pháp có thể sinh, nên là nhân. Vì có nhiều thứ nên là tập. Do luôn sản sinh, nên là sinh. Vì đều hỗ trợ riêng, nên là duyên.
Diệt Thánh đế có bốn tướng: (1) Diệt. (2) Tĩnh. (3) Diệu. (4) Ly.
Vì dứt các khổ nên là diệt. Vì ba lửa của ba tướng hữu vi đã tắt nên là tĩnh. Có Sư khác nói: Chúng khổ dứt nên là tĩnh. Như kinh nói: “Các Bí-sô! Các hành đều khổ, chỉ có Niết-bàn là rất tịch tĩnh”. Vì thiện, thường nên là diệu. Vì tất cả tai họa vĩnh viễn giải thoát, vì rất an ổn nên là ly.
Đạo Thánh đế có bốn tướng: (1) Đạo. (2) Như. (3) Hành. (4) Xuất.
Vì có thể tìm cầu thông suốt về tánh tướng của các pháp cho đến giải thoát nên là đạo. Vì không điên đảo nên là như. Vì như thật hướng đến nên là hành. Có Sư khác nói: “Vì quyết định có thể hướng đến nên là hành. Như nói đạo này có thể dẫn đến thanh tịnh”. Vì kiến khác tất không có lý dẫn đến thanh tịnh. Hoàn toàn hướng đến, quyết có thể đi đến nên là xuất.
Như thế cảnh của đối tượng đối trị và đối tượng hành, các tướng có dị biệt nên thật có mười sáu. Hành tướng như thế dùng tuệ làm thể. Nghĩa là chỉ có các tuệ ở trong cảnh tướng đã phân biệt lựa chọn mà chuyển, gọi là hành tướng. Há không phải là tâm tâm sở đều gọi là có hành tướng? Như thế không có tuệ cùng với tuệ tương ưng, vì sao có thể nói tuệ có hành tướng? Không phải có hành tướng, chỉ có tuệ tương ưng với tâm v.v… đều gọi là có hành tướng. Tức tâm tâm sở này ở trong phẩm loại tướng nơi đối tượng duyên có nghĩa có thể nhận lấy. Nếu chỉ dựa vào tuệ nên được tên gọi hành tướng, thì tâm tâm sở pháp khác của tuệ cùng với hành tướng là như nhau, nên gọi là có hành tướng. Như cùng như nhau với lậu, nên được gọi là có lậu, là nghĩa cùng với thể của lậu đồng đối trị. Như thế, tâm tâm sở pháp còn lại v.v… cùng với hành tướng hành nơi đối tượng duyên, là nghĩa cùng lúc hành không có trước sau. Hoặc tâm tâm sở có hành tướng, phần nhiều như dĩ tri căn, gọi chung là có hành tướng. Hoặc dựa nơi vô gián cũng nói tiếng có, như có chỗ dựa nên không có lỗi. Nghĩa là như tâm tâm sở đều gọi là có đối tượng nương dựa, ý thức tương ưng với các tâm sở pháp cùng với thức đã nương dựa cũng cùng lúc sinh. Đối tượng nương dựa của thức chỉ là vô gián diệt. Lý có hành tướng nên biết cũng như vậy. Vô gián diệt, tuệ ở nơi hiện tại vì sao có khả năng? Tuệ này ở nơi hiện tại có khả năng như ý vô gián diệt. Nếu như vậy nên thọ v.v… được có tên gọi như thọ v.v…? Thừa nhận cũng không trái, nhưng không phải là đối tượng biện biệt.
Tuệ và tâm tâm sở pháp khác, vì có đối tượng duyên nên đều là chủ thể hành. Tên gọi chủ thể hành, nên nói về tuệ, vì là thể của hành tướng. Tâm tâm sở khác đã không phải là hành tướng, đâu thể là chủ thể hành. Nếu cho số còn lại gọi là chủ thể hành, vì cùng với hành tướng tương ưng khởi, thế thì tuệ v… cùng với thọ tương ưng nên gọi là chủ thể thọ? Tuy có lời nói ấy, nhưng lý không đúng. Nghĩa là tuệ nơi môn khác gọi là hành tướng. Chủ thể hành tức là tên riêng của việc nhận lấy cảnh. Không phải nói chủ thể hành là giảng giải riêng về tuệ.
Đâu thể do thể của thọ v.v… không phải là hành tướng, liền tạo ra vấn nạn này, nên không phải là chủ thể hành. Như ở trong cảnh tuệ có thể phân biệt lựa chọn, tức thừa nhận nói tuệ gọi là chủ thể hành.
Đã ở trong cảnh tưởng có thể nhận lấy hình tượng, thức có thể phân biệt v.v…, đâu thể không phải là chủ thể hành?
Cho nên danh xưng chủ thể hành là nói chung về nhận lấy cảnh, nên thọ v.v… cũng là chủ thể hành. Đối tượng hành là gọi chung về tất cả pháp có, hoặc thật, hoặc giả, đều là đối tượng hành.
Do thể của ba môn này có rộng, hẹp, nên hành tướng chung của tuệ là chủ thể hành, đối tượng hành. Tâm tâm sở khác chỉ là chủ thể nơi đối tượng hành. Các pháp hữu khác chỉ là đối tượng hành. Lý ấy là khéo thành, không thể khuynh động.
Đã biện về hành tướng có sai biệt của mười trí. Sẽ biện về tánh gồm thâu dựa nơi thân, dựa nơi địa.
Tụng nêu:
Tánh tục ba, chín thiện
Dựa địa tục tất cả
Tha tâm trí chỉ bốn
Pháp sáu, khác bảy, chín.
Hiện khởi, chỗ dựa thân
Tha tâm nương dục, sắc
Pháp trí chỉ dựa dục
Tám khác, chung ba cõi.
Luận nói: Mười trí như thế thuộc về ba tánh. Nghĩa là thế tục trí chung cho ba tánh. Chín trí còn lại chỉ là thiện.
Dựa nơi địa riêng: Nghĩa là thế tục trí dựa chung nơi cõi dục, cho đến xứ Hữu đảnh. Tha tâm trí chỉ dựa vào bốn tĩnh lự căn bản, không dựa vào tĩnh lự trung gian, cận phần. Vì đối tượng duyên của trí này là rất vi tế, nên sức của đạo nơi địa kia yếu kém, không thể thấu đạt tâm tâm sở pháp vi tế hiện tại trong phần cùng nối tiếp của người khác. Cũng không dựa vào cõi vô sắc, vì không có gia hạnh này. Lại vì chung nơi tánh, nên địa còn lại không phải dựa nơi năm, vì đối tượng nương dựa là chung nơi chỉ quán. Pháp trí chung lấy sáu địa làm chỗ nương dựa. Nghĩa là vị chí, trung gian và bốn tĩnh lự căn bản, không nương dựa nơi cận phần khác, vì cận phần kia chỉ là hữu lậu. Cũng không nương dựa nơi cõi vô sắc, vì trí này duyên nơi cõi dục. Bảy trí còn lại dùng chín địa làm chỗ dựa. Nghĩa là ba vô sắc dưới và sáu địa đã nói ở trước. Nói chung như thế, nhưng có sai biệt. Nghĩa là trong bảy thứ trí đã nói ở đây, thì loại trí quyết định dựa nơi chín địa khởi. Khổ, tập, diệt, đạo, tận, vô sinh trí thì thuộc về khổ pháp trí, dùng sáu địa làm chỗ dựa. Thuộc về loại trí là dựa chung nơi chín địa.
Dựa vào thân riêng khác: Nghĩa là tha tâm trí, dựa nơi cõi dục, cõi sắc đều cùng có thể hiện tiền. Không dựa nơi cõi vô sắc, vì cõi này tự không có thân, nên không khởi tha tâm trí của địa dưới. Trí này tùy chuyển nơi sắc, nên cõi vô sắc kia không có cùng khởi. Pháp trí chỉ dựa vào thân cõi dục khởi, không phải là hai cõi trên, vì nhập xuất trí này thì các tâm hữu lậu chỉ ở nơi cõi dục có. Lại pháp trí tùy chuyển nơi sắc, chỗ dựa là đại chủng chỉ hệ thuộc cõi dục. Lại trí này có thể đối trị Hoặc khởi phá giới, phá giới chỉ ở nơi cõi dục, không phải cõi trên. Tám trí còn lại hiện khởi, thì dựa chung nơi thân của ba cõi.
Đã biện về tánh, địa, thân. Sẽ biện thuộc về niệm trụ:
Tụng nêu:
Các trí thuộc niệm trụ
Diệt trí chỉ sau cùng
Tha tâm trí ba sau
Tám trí khác chung bốn.
Luận nói: Diệt trí gồm thâu trong pháp niệm trụ. Tha tâm trí thuộc về ba niệm trụ sau. Tám trí còn lại đều chung nơi bốn niệm trụ.
Mười trí như thế lần lượt đối chiếu nhau, mỗi mỗi nên nói có bao nhiêu trí làm cảnh?
Tụng nêu:
Các trí cùng duyên nhau
Pháp, loại, đạo đều chín
Khổ, tập trí đều hai
Bốn đều mười diệt không.
Luận nói: Pháp trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ loại trí. Loại trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh trừ pháp trí. Đạo trí có thể duyên nơi chín trí làm cảnh, trừ thế tục trí, vì không phải thuộc về đạo. Hai trí khổ, tập, mỗi mỗi có thể duyên nơi hai trí làm cảnh. Nghĩa là thế tục trí và tha tâm trí hữu lậu. Thế tục, tha tâm, tận trí, vô sinh trí, bốn trí này đều duyên nơi mười trí làm cảnh. Diệt trí không duyên nơi các trí làm cảnh, chỉ dùng trạch diệt làm đối tượng duyên.
Đối tượng duyên của mười trí gồm chung có bao nhiêu pháp? Trí nào có bao nhiêu pháp làm cảnh nơi đối tượng duyên?
Tụng nêu:
Đối tượng duyên gồm mười
Tức ba cõi vô lậu
Vô vi đều có hai
Tục duyên mười, pháp năm.
Loại bảy, khổ, tập sáu
Diệt duyên một, đạo hai
Tha tâm trí duyên ba
Tận vô sinh đều chín.
Luận nói: Đối tượng duyên của mười trí gồm chung có mười pháp. Nghĩa là pháp hữu vi được phân làm tám thứ. Hữu vi vô lậu thuộc về ba cõi đều có tương ưng và không tương ưng. Vô vi phân làm hai thứ là thiện, vô ký riêng khác. Tục trí duyên chung nơi mười pháp làm cảnh.
Pháp trí duyên nơi năm. Nghĩa là cõi dục hai, đạo vô lậu hai và vô vi thiện. Loại trí duyên nơi bảy. Nghĩa là đạo vô lậu của cõi sắc, cõi vô sắc sáu và vô vi thiện.
Khổ, tập trí đều duyên thuộc về ba cõi là sáu. Diệt trí duyên nơi một, nghĩa là vô vi thiện. Đạo trí duyên nơi hai, nghĩa là đạo vô lậu.
Tha tâm trí duyên nơi ba pháp tương ưng của vô lậu nơi cõi dục, cõi sắc. Tận trí, vô sinh trí duyên nơi tám hữu vi và vô vi thiện.
Từng có trí của một niệm duyên nơi tất cả pháp không? Không phải vậy. Há không phải là trí quán vô ngã nhận biết tất cả pháp đều là vô ngã chăng?
Trí này cũng không thể duyên nơi tất cả pháp.
Không duyên nơi pháp nào? Thể này là gì?
Tụng nêu:
Tục trí trừ tự phẩm
Duyên chung tất cả pháp
Vì hành tướng vô ngã
Do văn, tư, tu thành.
Luận nói: Do thế tục trí khi quán tất cả pháp là vô ngã, cũng trừ tự phẩm. Tự phẩm nghĩa là tự thể tương ưng với pháp cùng có.
Vì sao không duyên nơi tự thể làm cảnh? Các vị Đối pháp lập nhân này nói: Các pháp tất không có đối đãi tự thể. Tức do lý này, không duyên tương ưng, do cùng với một cảnh tương ưng chuyển, nên thừa nhận duyên nơi tương ưng, tức nên chấp nhận tự duyên, cũng không thể duyên nơi pháp cùng có, do pháp cùng có là rất gần nhau. Như mắt không thấy sắc đã giúp đỡ nhãn căn. Khế kinh cũng nói trong một sát-na, trí không thể nhận biết tức khắc cảnh của tất cả pháp. Như Khế kinh nói: Không có Sa-môn, Bà-la-môn v.v…, đối với tất cả pháp thấy tức khắc, nhận biết tức khắc. Nghĩa căn cứ theo đấy chỉ là dần dần. Trí này chỉ là thuộc về cõi dục, cõi sắc. Trong cõi vô sắc, tuy có loại này, nhưng duyên nơi pháp ít, nên không phải ở đây đã nêu rõ. Trí này chung nơi tuệ do văn, tư, tu tạo thành, đều có thể trừ tự phẩm, duyên nơi tất cả pháp.
Đã biện về đối tượng duyên. Lại nên xét chọn.
Người nào thành tựu bao nhiêu trí?
Tụng nêu:
Phàm phu, Thánh kiến đạo
Niệm đầu định thành một
Hai định thành ba trí
Bốn sau, mỗi mỗi tăng.
Tu đạo, định thành bảy
Lìa dục, tăng tha tâm
Vô học, căn lợi, độn
Định thành chín, thành mười.
Luận nói: Các vị phàm phu và Thánh kiến đạo nơi sát-na thứ nhất nhất định thành một trí, nghĩa là thế tục trí. Sát-na thứ hai nhất định thành ba trí, nghĩa là thêm pháp, khổ trí. Thứ tư, sáu, mười, mười bốn sát-na, như thứ lớp sau sau, thêm loại, tập, diệt, đạo trí. Các vị chưa thêm, thành số như trước, nên trong vị tu cũng nhất định thành bảy.
Các vị như thế, nếu đã lìa dục, thì mỗi mỗi vị đều tăng một. Nghĩa là tha tâm trí chỉ trừ phàm phu sinh nơi cõi vô sắc. Nhưng phần vị phàm phu và trong kiến đạo, chỉ có thể thành tựu tha tâm trí, thế tục trí. Vào lúc có đạo loại trí thì thành tựu đủ hai thứ. Bấy giờ, đầu tiên được quả Bất hoàn, nên gồm được vô lậu để thành thể của quả. Trong vị tu còn lại đều thành đủ hai.
Người sinh nơi cõi vô sắc tức bỏ thế tục trí. Các vị Thời giải thoát nhất định thành chín trí, nghĩa là thêm tận trí. Bất thời giải thoát nhất định thành tựu mười, nghĩa là thêm vô sinh trí.
HẾT – QUYỂN 35