LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 33
Phẩm thứ 7: BIỆN VỀ HIỀN THÁNH, phần 5
Đã nói rõ về quả Dự lưu v.v… của vị học có nhiều sai biệt. Là A-la-hán cũng có nhiều thứ tướng sai biệt chăng?
Cũng có. Vì sao?
Tụng nêu:
A-la-hán có sáu
Tức Thoái đến Bất động
Năm trước tín giải sinh
Gọi chung Thời giải thoát.
Bất thời giải thoát sau
Từ kiến chí trước sinh.
Luận nói: Ở trong Khế kinh nói về A-la-hán, do chủng tánh dị biệt, nên có trụ nơi chủng loại trụ như sau: (1) Pháp Thoái. (2) Pháp Tư. (3) Pháp Hộ. (4) Pháp An trụ. (5) Pháp Gắng đạt. (6) Pháp Bất động.
Nhưng nơi kinh khác nói bậc vô học có chín. Tức đầu là pháp thoái, sau là câu giải thoát.
Pháp bất thoái kia ở đây là thuộc về bất động. Hai giải thoát kia là thuộc về chung nơi sáu thứ này. Nên A-tỳ-đạt-ma chỉ nói có sáu thứ.
Nói pháp Thoái: Nghĩa là A-la-hán kia đã đạt được căn loại như thế, an trụ nơi căn này, cùng với duyên thoái chuyển hợp, liền thoái chuyển các pháp đã được. Không có duyên thoái chuyển liền bát Niết-bàn. Hoặc có vị tinh tấn siêng năng tiến đạt được tánh thù thắng, vì gặp duyên, phần nhiều là thoái thất, nên gọi là pháp Thoái.
Nói pháp Tư: Nghĩa là có vị đạt được loại căn như thế, an trụ nơi căn này, niệm lực kiên cố, đa số trụ nơi quán nhàm chán, sợ mất đức thù thắng, vì tự khích lệ tâm, phần nhiều suy nghĩ để hại mình, nên gọi là pháp Tư.
Nói pháp Hộ: Nghĩa là có một loại A-la-hán, luôn luôn ở trong tâm yêu mến giải thoát, buộc giữ niệm hiện tiền, chuyên tinh phòng hộ, trụ không phóng dật, nên gọi là pháp Hộ.
Pháp An trụ: Nghĩa là xa lìa duyên thoái chuyển hơn hẳn, tuy không tự phòng hộ, nhưng cũng có thể không thoái chuyển. Lìa gia hạnh vượt hơn, cũng không luyện căn, phần nhiều trụ ở giữa, nên gọi là pháp An trụ.
Pháp Gắng đạt: Nghĩa là tánh gắng nhận có thể ưa thích tu luyện căn, nhanh chóng đạt đến pháp bất động, vì khả năng thân chứng nhạy bén, nên gọi là pháp Gắng đạt.
Pháp Bất động: Nghĩa là có một loại A-la-hán căn tánh thù thắng, chí nguyện không khiếp nhược, công đức đã đạt được tuy gặp duyên thoái chuyển hơn hẳn, tất cũng không thoái thất, nên gọi là pháp Bất động.
Có Sư khác lại giải thích: Tướng khác nhau của sáu pháp này: Nghĩa là tánh của sáu loại này trước ở trong phần vị học, hai pháp đầu thì thiếu hằng thời (Thời gian liên tục) và gia hạnh tôn trọng. Nhưng đến vị vô học thì pháp Tư siêng năng nhỏ ít. Pháp Hộ chỉ có gia hạnh hằng thời. Pháp An trụ chỉ có gia hạnh tôn trọng. Pháp Gắng đạt gồm đủ cả hai nhưng là độn căn. Pháp Bất động gồm đủ cả hai mà là lợi căn.
Có người nói như thế này: Pháp Thoái tất là thoái chuyển. Cho đến pháp Gắng đạt tất đạt đến Bất động. Nếu không như vậy thì việc lập danh hóa ra vô ích.
Người kia cho ở nơi cõi dục đầy đủ có sáu pháp. Trong cõi sắc, vô sắc chỉ có pháp An trụ và Bất động. Hai cõi kia không có thoái mất, tự hại, tự phòng hộ cùng tu luyện căn, nên chỉ có hai pháp. Về lý thật thì không nhất định. Tuy nhiên, thoái chuyển ứng quả từ trước đến nay chỉ thoái chủng tánh nên thoái. Cho đến đạt được Bất động, chỉ là Gắng đạt. Đã có thể lập các danh xưng như là thoái v.v…, là căn cứ theo phần cùng có để nói. Nên sáu loại A-la-hán là chung cho ba cõi đều có. Trong sáu thứ thì năm thứ trước là từ tín giải sinh, tức ở đây gọi chung là Thời ái tâm giải thoát, vì tâm ái giải thoát trong tất cả thời, nên cũng gọi là Thời giải thoát. Nghĩa là loại Bổ-đặc-già-la phải chờ đợi thời, xứ, vật dụng, của cải v.v…, hợp thời mới đạt được giải thoát, do công năng của đối tượng nương dựa thì mỏng kém, chủ yếu phải chờ đợi thời xứ thù thắng mới được giải thoát. Hoặc lại tất cả thắng định hiện tiền, chủ yếu là chờ đợi thời gian hơn hẳn, là nghĩa của thời ở đây. Vì lìa bỏ trói buộc nên gọi là giải thoát. Đây tức là nghĩa chờ đợi thời gian và giải thoát.
Ở đây nói là lược phần đầu. Như nói bình tô.
Tánh của pháp Bất động gọi là sau. Tức đây gọi là tâm bất động giải thoát. Tâm kia giải thoát, không phải do Hoặc đã khuấy động. Cũng gọi là Bất thời giải thoát, vì không đợi thời gian mới được giải thoát.
Hoặc lại do định thù thắng tùy xứ, tùy thời, tùy duyên đã gặp, tùy theo mong muốn, tức khởi lìa trói buộc, nên gọi là giải thoát. Tức là nghĩa không chờ đợi thời gian và giải thoát.
Có giải thích khác: Nói hai loại này có sai biệt. Do ở nơi tạm thời được giải thoát, nên gọi là Thời giải thoát. Về sau cùng có thoái chuyển. Vì có thể hoàn toàn được giải thoát, nên gọi là Bất thời giải thoát. Về sau không cùng có thoái chuyển. Đây là từ tánh kiến chí của phần vị trước sinh.
Như thế là đã nêu rõ về chủng tánh hiện có của sáu loại A-lahán. Là có từ trước hay là về sau mới đạt được?
Không nhất định. Vì sao?
Tụng nêu:
Có trước là chủng tánh
Có sau luyện căn được.
Luận nói: Chủng tánh của pháp Thoái tất là trước có. Năm pháp như pháp tư v.v… cũng có thứ là sau được. Nghĩa là có từ trước đến nay là tánh của pháp Tư, cho đến Bất động. Có pháp Thoái trước do luyện căn thành Tư, cho đến Bất động cùng với nhiều thứ sai biệt, như lý nên tư duy.
Trong sáu thứ A-la-hán như thế, chỉ năm thứ trước là cùng có nghĩa thoái chuyển.
Người nào từ đâu thoái chuyển? Là tánh hay là quả?
Tụng nêu:
Bốn từ chủng tánh thoái
Năm từ quả, không trước.
Luận nói: Chủng tánh Bất động tất không có lý thoái chuyển, nên chỉ năm thứ trước là cùng có nghĩa thoái chuyển. Trong ấy, bốn thứ sau là có chủng tánh thoái. Một thứ pháp Thoái thì không có lý của tánh thoái, do chủng tánh này là ở nơi rất thấp. Năm thứ đều có từ lý quả thoái chuyển. Tuy đều cùng có thoái, nhưng đều không phải trước. Nghĩa là trong quả vị vô học, từ chủng tánh của pháp Thoái, tu luyện căn, hành chuyển thành Tư v.v… Bốn thứ này đều có nghĩa của quả thuộc tánh thoái. Chủng tánh của pháp Thoái tuy tất trước đã được nhưng vì pháp Thoái nên cùng có quả thoái.
Trong các phần vị học, từ tánh của pháp Thoái tu luyện căn, hành chuyển thành Tư v.v… và được quả học đều cùng thoái mất. Các bậc vô học, trước ở trong phần vị học đã trụ nơi chủng tánh, phần vị học đó đã từ tánh này, tất không có lý thoái chuyển, vì đạo học, vô học đã thành kiên cố.
Các người hữu học, trước ở trong phần vị phàm phu đã trụ nơi chủng tánh, hàng hữu học kia đã từ tánh này, cũng không có lý thoái chuyển, vì đạo thế, xuất thế đã thành vững chắc.
Trong hai vị trước đã trụ nơi tánh như tư v.v…, tất không có thoái chuyển đối với quả đã được này. Hai đạo của tánh ấy vì đã trở nên kiên cố, nên chư vị kia từ pháp Tư v.v… tu luyện căn hành, chuyển được pháp Hộ v.v… Tuy có thể từ tánh thoái chuyển thành tánh đã đạt được, tiến lên được quả học nhưng cũng có nghĩa thoái chuyển.
Vì chủng tánh này không phải do hai đạo thành, vì không vững chắc. Nếu căn cứ theo bốn quả để biện về nghĩa của quả thoái, thì tuy năm chủng tánh đều có thể thoái chuyển quả, nhưng những thứ trước đã được, tất không có thoái chuyển. Nghĩa là trong bốn quả, người đã được trước tức là Dự lưu v.v… Ba quả trước tùy một, từ quả trước này, tất không có nghĩa thoái chuyển, vì là quả đã được do đoạn trừ Hoặc thuộc kiến đạo đoạn, nên Thánh đoạn trừ Hoặc do kiến đạo đoạn tất không có thoái chuyển.
Do đâu Thánh đoạn trừ Hoặc do kiến đạo đoạn không có thoái chuyển?
Do Hoặc kia không duyên nơi sự của đối tượng chấp. Nghĩa là phiền não hiện hành do kiến đạo đoạn thảy đều do thế mạnh của ngã kiến. Vì phiền não kia khởi ngã kiến làm gốc. Vì Hoặc do ki đạo đoạn này đã không duyên nơi đối tượng chấp, do sự của đối tượng chấp đều không có Thể, nhưng có đế của đối tượng duyên làm cảnh, nên sự của đối tượng chấp kia đều không có chủng tử, vì đối với cảnh của đối tượng duyên là rất trái ngược, nên Thánh giả cùng nối tiếp đã hiểu rõ về vô ngã chân thật, vì luôn được tùy thuận. Tuy tạm thời mất niệm, nhưng tất không cùng có lại chấp có ngã. Vì Hoặc do kiến đạo đoạn dựa vào sự của ngã sinh, nên Thánh đoạn trừ Hoặc xong, tất không có nghĩa thoái chuyển. Hoặc do tu đạo đoạn tuy hành chuyển điên đảo, nhưng không phải là không có chủng tử, tức có sự của đối tượng chấp. Nghĩa là đối với sắc v.v…, nhiễm vướng, ghét bỏ, đề cao, không hiểu rõ khi hành tướng chuyển. Ở trong sắc v.v… không phải là không có phần ít, về tịnh diệu, oán hại, cao thấp sâu xa, nên không phải ở trong cảnh đã chuyển rất trái ngược. Do đó, Thánh giả có khi mất niệm, chấp các tướng như tịnh diệu v.v… là thoái chuyển, khởi Hoặc do tu đạo đoạn. Lại, Hoặc do kiến đạo đoạn đã mê lầm nơi lý của đế, chấp các tướng như ngã v.v… trong lý của đế là không có. Lý nhất định có thể nương dựa Thánh kiến không có thoái chuyển. Hoặc do tu đạo đoạn thì mê lầm nơi sự thô sinh. Vì sự biến chuyển khó nương dựa, nên có mất niệm khiến thoái chuyển. Lại, Hoặc do kiến đạo đoạn, chủ yếu ở nơi nghĩ xét kỹ sinh. Khi Thánh suy nghĩ xét kỹ, tất không khởi Hoặc. Hoặc do tu đạo đoạn thì không phải do suy nghĩ xét kỹ sinh. Khi Thánh mất niệm thì cùng có nghĩa thoái chuyển. Do đấy không có thoái chuyển quả trước đã được.
Trong đây, pháp thoái của bậc vô học có ba: (1) Căn tăng tiến. (2) Thoái chuyển trụ nơi học. (3) Trụ nơi phần vị của chính mình mà bát Niết-bàn.
Pháp tư có bốn. Ba thứ như trước đã nói, lại thêm một thứ là thoái trụ nơi tánh thoái chuyển. Ba thứ còn lại như thứ lớp, có năm, sáu, bảy. Nên biết càng về sau thì mỗi mỗi tăng.
Do đâu luyện căn thành pháp Tư v.v…?
Khi thoái ứng quả kia, trụ nơi vị học, trụ nơi tánh thoái ở trước, không phải là đối tượng thoái chuyển, tức được đạo như tư v.v…, nay đã bỏ.
Há không phải là vị học chuyển thành tư v.v…, khi được ứng quả, tuy bỏ các thứ đã được học các đạo như tư v.v…, nhưng trụ nơi ứng quả, chủng tánh như tư v.v… Vị học này cũng nên như thế.
So sánh này là không cân xứng. Vì đạo của học kia đã gồm thâu đạo vô học ấy làm quả đẳng lưu, nên không phải là tư v.v… do phần vị vô học đã xả bỏ, cùng với đạo của phần vị học này làm nhân đồng loại, có thể dẫn các chủng tánh như tư v.v… của hữu học, nên thoái chuyển trụ nơi pháp trước đã xả bỏ.
Có thuyết khác ở đây đã lập riêng nhân chứng. Nghĩa là nếu thoái chuyển trụ nơi chủng tánh đã thoái mất, được chủng tánh vượt hơn, nên là tiến, không phải là thoái.
Đây không phải là nhân chứng. Nếu không có hai nghĩa để có thể có là tiến, thì không phải là lỗi của thoái. Nhưng được tánh vượt hơn, tuy có thể gọi là tiến, nhưng vì dấy khởi Hoặc, nên cũng gọi là thoái. Do đấy, vấn nạn kia, về lý là không lỗi. Lại thoái do khởi Hoặc kia là khởi pháp chướng ngại Niết-bàn. Thánh thì vui thích Niết-bàn còn hơn cả Thánh đạo. Nếu như được tánh vượt hơn mà thoái chuyển Niết-bàn thì chỉ nên gọi là thoái, không nên gọi là tiến.
Lại do duyên gì các A-la-hán v.v… lìa nhiễm của xứ Hữu đảnh là đồng không thọ nhận sinh sau. Nhưng ở trong ấy có khi ở nơi phiền não, chứng pháp không sinh nhưng không phải là tất cả?
Có thuyết nói: Vì căn có sai biệt. Giải thích này là phi lý. Vì như Khế kinh nói: Pháp thoái, không thoái, về phẩm căn là đồng. Như nói: Năm căn tăng thượng mãnh liệt. Vì rất viên mãn, nên gọi là Câu giải thoát. Nhưng có Câu giải thoát là chủng tánh thoái chuyển, vì không phải căn hơn hẳn đã chứng Hoặc không sinh.
Nếu như vậy thì do gì khiến chủng tánh riêng khác. Sáu thứ chủng tánh chỉ nơi ứng quả là có hay quả khác cũng có?
Tu tập luyện căn chỉ ở nơi quả vị vô học. Nơi phần vị khác cũng có.
Tụng nêu:
Phàm phu học cũng sáu
Luyện căn không kiến đạo.
Luận nói: Chủng tánh của phàm phu hữu học cũng sáu. Sáu thứ ứng quả, hữu học kia là trước, vì chủng tánh an trụ có sai biệt, nên có đoạn trừ Hoặc, đời sau không sinh.
Quyết định ở vào thời nào, đối với Hoặc đã đoạn chứng đắc pháp không sinh? Nghĩa là khi được đạo thù thắng có thể ngăn dứt loại phiền não này.
Nếu như vậy, phiền não này không sinh, tức nên là trạch diệt, không phải là phi trạch diệt.
Nếu là phi trạch diệt thì phi trạch diệt nên là quả của đạo.
Như thế liền cùng với Thánh giáo là trái nhau. Như nói: Thế nào là pháp không phải quả? Nghĩa là phi trạch diệt và hư không vô vi.
Không sinh này thành lỗi của trạch diệt, vì đạo thù thắng chuyển không phải là trạch diệt ấy. Đã không phải là đối tượng thực hiện, nên không phải là quả của đạo. Nay xem rõ do đạo đã chứng không sinh, quyết định không do căn, vì đều nên đạt được, chỉ do sức của chủng tánh thù thắng đạt được, nên người bất động, thì các Hoặc tất không sinh, không phải chỉ nơi vô học có căn tăng tiến mà hữu học nơi phàm phu cũng có nghĩa này. Chỉ không phải kiến đạo có thể tu luyện căn. Vì vị kiến đạo này không cùng khởi gia hạnh. Nghĩa là vị kiến đạo vì chuyển vận nhanh chóng, không chút thư thả, ở đây lại tu sự việc khác. Chỉ ở trong phần vị phàm phu tín giải là có thể tu luyện căn, như quả vị vô học. Như nói bất động thoái chuyển hiện pháp lạc.
Vì sao pháp Bất động cũng thừa nhận có nghĩa thoái chuyển nhưng không có lỗi trái nhau? Vì sao?
Tụng nêu:
Nên biết thoái có ba
Đã, chưa được thọ dụng
Phật chỉ có sau cùng
Lợi, trung, sau độn ba.
Luận nói: Nên biết các thoái gồm có ba thứ: (1) Thoái chuyển pháp đã được: Nghĩa là thoái mất công đức thù thắng đã được. (2) Thoái chuyển pháp chưa được: Nghĩa là chưa có thể đạt được công đức nên được. (3) Thoái chuyển thọ dụng: Nghĩa là các công đức thù thắng đã đạt được không hiện ở trước.
Trong ba thứ thì hai thứ trước lấy phi đắc làm thể. Thứ ba thì chỉ do công đức kia không hiện ở trước. Trong ba thứ thoái này, Đức Thế Tôn chỉ có một thứ thoái chuyển thọ dụng, vì có quyết định tạo tác các sự việc dẫn dắt tâm kia. Tuy có vô lượng pháp Phật bất cộng hy hữu khác, nhưng cũng không có nhàn rỗi để khởi. Trừ Đức Phật, Thế Tôn, pháp bất động của những vị khác đều có đủ thoái chuyển pháp chưa được và thoái chuyển thọ dụng. Nghĩa là đối với các công đức nên đạt được như định vô tránh v.v… thù thắng, vì chưa có thể đạt được, nên có thoái chuyển pháp chưa được. Vì có sự việc khác dẫn dắt tâm kia, các công đức đã được, không có nhàn rỗi để khởi, nên có thoái chuyển thọ dụng. Năm chủng tánh còn lại thì cùng có đủ ba, cũng cùng có thoái mất công đức đã đạt được. Căn cứ theo thoái chuyển thọ dụng để nói pháp bất động, có thoái chuyển hiện pháp lạc, là không có lỗi trái nhau.
Các A-la-hán đã thừa nhận thoái chuyển quả là lại sinh chăng?
A-la-hán kia ở nơi phần vị thoái chuyển đã mang theo Hoặc khi mạng chung nên lại thọ sinh.
Chư vị khi trụ nơi quả đã không tạo tác các việc, thì khi thoái chuyển có tạo tác không?
A-la-hán kia đã khởi Hoặc nên lại có tạo sự việc trái nhau với quả? Không có lỗi như thế.
Vì sao?
Tụng nêu:
Tất cả từ quả thoái
Tất được, không mạng chung
Trụ quả đã không làm
Hổ tăng nên không tạo.
Luận nói: Không có từ quả thoái chuyển, trung gian thì mạng chung và thoái chuyển rồi, trong giây lát tất trở lại được. Nếu có kẻ thọ lượng sắp hết, tất không có lý thoái chuyển, vì không mất niệm. Chủ yếu là thọ mạng chưa trọn đủ mới có lý thoái chuyển và thoái chuyển xong, không lâu tất trở lại chứng đắc. Như Khế kinh nói: Bísô nên biết! Các Thánh đệ tử đa văn như thế, chánh niệm chậm mất, nhanh chóng trở lại, có thể khiến cho pháp đã thoái chuyển sinh khởi đều ẩn mất, diệt, lìa. Nếu cho không như vậy, thì quả tu phạm hạnh tức nên không phải là xứ an ổn đáng để tin cậy. Lại, trụ nơi quả vị đã không nên làm sự việc trái với quả, do xấu hổ tăng, nên tuy tạm thời mất niệm về phiền não hiện hành, như khi trụ nơi quả tất không có lý tạo tác. Như người thuộc tộc họ cao quý, khi tạm thời mất địa vị, cũng không đồng với hạng tầm thường tạo nghiệp thấp kém.
Lại, người nào có thoái, người nào không có thoái?
Người tu quán bất tịnh nhập Thánh đạo thì cùng có thoái mất. Người tu trì tức niệm, nhập Thánh đạo, tất không có thoái mất, vì tôn trọng chỉ quán, không có tham, si tăng. Như theo thứ lớp, nên biết có thoái, không có thoái.
Cõi nào, nẻo nào cùng có thoái chuyển?
Chỉ nơi ba châu thuộc nẻo người ở cõi dục là có thoái chuyển. Sáu trời thuộc cõi dục là xứ được Thánh quả.
Có thuyết nói: Vì là lợi căn nên không có thoái chuyển. Vì có trí thù thắng nên có thể chế phục tâm. Vì khiến từ bỏ cảnh diệu, nhập nơi Thánh đạo.
Có thuyết cho: Người thoái chuyển do thiếu duyên hỗ trợ, hoặc vì thân của đối tượng nương dựa là không bình đẳng. Sáu trời thuộc cõi dục thì hai sự kia đều không có. Tuy có độn căn là tánh tùy tín hành, nhưng sinh nơi trời kia được quả Thánh, nên cũng không có lý thoái chuyển.
Các người có thoái chuyển là khởi Hoặc rồi thoái chuyển hay là thoái chuyển trước rồi Hoặc mới hiện tiền?
Hoặc có người muốn khiến do khởi Hoặc rồi thoái chuyển, thì đối với Luận Phẩm Loại Túc làm sao thông hợp? Như Luận ấy nói: Tùy miên dục tham do ba xứ khởi: (1) Tùy miên dục tham chưa đoạn nhận biết khắp. (2) Vì thuận với pháp của triền kia đang hiện ở trước. (3) Đối với pháp kia, vì đang khởi tác ý phi lý. Cho đến nói rộng.
Không có lỗi trái nhau. Vì sao?
Vì phiền não hiện tiền lược có hai thứ: Đã đoạn, chưa đoạn có sai biệt. Trong đây là nói riêng về phiền não chưa đoạn khởi. Lại phiền não khởi lược có hai môn là tâm nhiễm, không nhiễm vô gián khởi.
Ở đây là nói riêng về nhiễm vô gián: Hoặc là phiền não khởi gồm chung có ba duyên, nhưng phiền não sinh theo chỗ nhờ dựa thì không nhất định. Hoặc có khi chỉ nhờ vào sức của cảnh giới sinh.
Hoặc nhờ vào nhân của cảnh, hoặc gồm luôn gia hạnh. Đây là căn cứ theo chỗ đầy đủ, nên nói do ba. Hoặc khi khởi Hoặc ba duyên tất đủ. Tác ý phi lý đang khởi hiện tiền, thì tùy miên đã đoạn tất trở lại thành.
Tâm nào vô gián khởi Hoặc để thoái chuyển?
Người từ vô học khởi Hoặc rồi thoái chuyển. Nếu khởi triền sắc, triền vô sắc rồi thoái chuyển, thì chỉ từ tự địa, thuận với định của phần thoái chuyển, tương ưng với tâm thiện vô gián mà khởi. Không phải trụ nơi cõi dục có tâm vô phú vô ký thuộc về địa trên hiện ở trước, chỉ trừ tâm thông quả, nhưng không có từ pháp kia thoái chuyển.
Há không phải là thuận với phần thoái đều ở nơi tự địa khi lìa nhiễm thì xả bỏ.
Vì sao người vô học chưa thoái chuyển khi khởi Hoặc, tâm kia đã hiện tiền? Về lý thật là như thế. Nhưng thuận với phần trụ về phẩm loại có ba: (1) Một ít thuận với thoái. (2) Một ít thuận với tiến. (3) Giữ lấy phần vị mình. Trước nói về tự địa thuận với định của phần, tức thuận với phần ít trong phần trụ, thuận với thoái, là một ít thuận với thoái, nên được mang tên thuận với thoái. Nhưng vì tâm của định này cùng với việc giữ lấy phần vị mình, có nhiều tương quan, nên thuộc về thuận phần trụ. Các hữu tình chưa mất thuận với phần thoái, thì tâm kia vô gián, khiến phiền não hiện tiền. Nếu xả bỏ tâm kia, theo thuận với phần trụ gồm thâu thì ít kẻ thuận với thoái, khởi phiền não rồi thoái chuyển, nên đối với văn nghĩa không có chỗ trái nhau. Nếu khởi triền dục mà thoái mất, thì từ hai tâm thiện, vô phú vô ký của tự địa, vô gián đều cùng hiện tiền. Những người từ phần vị học khởi Hoặc rồi thoái chuyển, thì khi khởi phiền não của cõi sắc, vô sắc rồi thoái. Nếu người kia trước đã hoàn toàn lìa nhiễm của địa này, thì chỉ từ địa này thuận với định của phần thoái, tương ưng với tâm thiện vô gián mà khởi. Nếu là người chưa hoàn toàn lìa nhiễm của địa này, thì từ hai tâm thiện và nhiễm ô thuộc về địa này, vô gián đều cùng hiện tiền. Người khởi triền cõi dục mà thoái mất, nếu trước đã hoàn toàn lìa nhiễm hệ thuộc cõi dục, thì từ hai tâm thiện, vô phú vô ký của tự địa vô gián đều cùng hiện tiền. Nếu là người chưa hoàn toàn lìa nhiễm của cõi dục, thì từ ba tâm thiện, nhiễm, vô phú vô ký của cõi dục vô gián đều cùng hiện tiền. Nếu chưa hiện ở trước, nhưng đạt được tĩnh lự, vô sắc thanh tịnh tất không có khả năng khởi triền của cõi sắc, vô sắc để thoái mất pháp đã được. Hoặc kia vì từ cõi kia vô gián khởi, nên chỉ khởi triền của cõi dục để thoái mất pháp đã đạt được.
Nếu hiện tiền đạt được tĩnh lự thanh tịnh, thì cũng chưa hiện tiền đạt được vô sắc thanh tịnh, tất không có khả năng khởi triền của cõi vô sắc để thoái chuyển, chỉ khởi triền của cõi sắc, cõi dục thoái mất pháp đã được. Nếu đã hiện tiền đạt được tĩnh lự vô sắc thanh tịnh, thì khởi chung triền của cõi dục, sắc, vô sắc thoái mất pháp đã được. Các hữu tình khi thoái mất các pháp trước đã được, nếu khởi triền của cõi trên, thì khi hiện ở trước thoái chuyển, không mất thiện của cõi dưới, không thành Hoặc của cõi dưới. Nếu khởi triền của cõi dưới khi hiện ở trước thoái chuyển, thì nhất định mất thiện của cõi trên, nhất định thành Hoặc của cõi trên.
Lại có người muốn khiến chủ yếu trước thoái chuyển xong, thời gian sau đối cảnh, Hoặc mới hiện tiền, thì đối với Luận Thi Thiết Túc nên giải thích như thế nào? Như Luận ấy nói: Ba triền của vô sắc, mỗi mỗi hiện khởi, thoái chuyển vô sắc tận, trụ trong sắc tận. Đối với Luận Thức Thân Túc lại làm sao giải thích?
Như Luận kia nói: Tâm nhiễm hệ thuộc cõi vô sắc hiện tiền, xả bỏ thiện vô học, nối tiếp thiện hữu học, thoái chuyển tâm vô học, trụ ở tâm hữu học.
Các vấn đề này đều cùng không trái nhau. Vì dựa vào thời gian nhận biết rõ để nói. Nghĩa là trước tuy thoái chuyển nhưng chưa nhận biết rõ. Sau khi khởi Hoặc mới tự nhận biết là thoái chuyển. Như có người trước tụng bốn bộ kinh A-cấp-ma, giữa chừng bỏ dở nhiều thời gian, tuy quên nhưng không nhận biết. Sau tụng không được mới tự nhận biết là đã quên. Ở đây cũng như vậy, nên không có lỗi trái nhau.
Trụ nơi tâm nào thoái chuyển để sau đấy khởi Hoặc?
Trụ nơi tâm vô phú vô ký, dị thục sinh, oai nghi, công xảo trong cõi dục. Thoái chuyển xong, thời gian sau mới có thể khởi Hoặc. Nhưng tâm vô phú vô ký hệ thuộc cõi dục này, hoặc có trái chung với phiền não của ba cõi, tâm này khi đang khởi thì không có nghĩa thoái đắc Hoặc của ba cõi. Hoặc có khi chỉ vì trái với phiền não của cõi dục, sắc, tâm này đang khởi thì cùng có nghĩa thoái đắc Hoặc của cõi vô sắc. Hoặc có khi chỉ trái với phiền não của cõi dục, tâm này đang khởi tức cùng có nghĩa thoái đắc Hoặc của hai cõi. Hoặc có khi không trái với phiền não của ba cõi, tâm này đang khởi, tức cùng có nghĩa thoái đắc Hoặc của ba cõi.
Tất cả thoái xong, tùy theo đối tượng ứng hợp kia, tâm khởi Hoặc trước, đều như trên đã nói.
Đối với hai thuyết này, thuyết trước là tốt. Như trên đã nêu có luyện căn được, nay nên xét chọn.
Các Thánh luyện căn có bao nhiêu đạo vô gián, bao nhiêu đạo giải thoát dùng đạo hữu lậu làm vô lậu? Dựa vào thân nào và dựa nơi địa nào?
Tụng nêu:
Vị vô học luyện căn
Chín vô gián, giải thoát
Tập lâu nên học một
Vô lậu dựa người ba.
Vô học nương chín địa
Hữu học chỉ dựa sáu
Bỏ quả, đạo quả thắng
Chỉ được đạo của quả.
Luận nói: Người cầu đạt chủng tánh hơn hẳn, tu luyện căn, trong vị vô học thì chuyển mỗi mỗi tánh, đều do chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát, như được ứng quả. Vì sao? Vì tánh kia là độn căn, do đã tập quen lâu, không phải chỉ ít công sức mà có thể khiến chuyển, đạo học, vô học thành tựu vững chắc. Trong phần vị hữu học chuyển mỗi mỗi tánh đều một đạo vô gián, một đạo giải thoát, như được quả đầu, không phải hành tập lâu, vì các phần vị của đạo gia hạnh kia đều có một vị hữu học. Vị vô học khi tu luyện căn đều tu dần dần, càng về sau thì chủng tánh đạt được là chủng tánh thù thắng, tức mới bỏ chỗ kém ở trước. Nên khi các bậc vô học tu luyện căn, do tám giải thoát trước của gia hạnh vô gián, như chỗ ứng hợp đều là gồm thâu pháp Thoái v.v… Giải thoát thứ chín là pháp Tư v.v… Các người hữu học lúc tu luyện căn, gia hạnh vô gián là thuộc về pháp Thoái v.v…, thời gian của đạo giải thoát gọi là pháp Tư v.v…
Tôi đã vâng theo các Đại Luận sư cùng nói luyện căn đều nhằm lìa bỏ sức của các Hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ đã dẫn phát vô phú vô ký không nhận biết hiện hành. Nên trong phần vị học, người tu luyện căn chính là nhằm lìa bỏ các Hoặc do kiến đạo đoạn đã phát khởi. Trong phần vị vô học, người tu luyện căn chính là nhằm lìa bỏ các Hoặc do tu đạo đoạn trừ đã phát khởi. Như như đoạn Hoặc kia, khi có thể phát sinh đã khởi ít nhiều đạo vô gián giải thoát.
Như thế, như thế đoạn trừ Hoặc đã phát khởi, không nhận biết đạo hiện hành thường cũng như vậy. Thế nên khi bậc vô học tu luyện căn đã dùng chín đạo vô gián, chín đạo giải thoát. Vị học luyện căn, hai đạo đều một. Nhưng Hoặc do kiến đạo, tu đạo đoạn đã phát khởi không hiểu biết, tùy vào đối tượng chướng ngại khác biệt có nhiều phẩm loại, nên khi chuyển pháp Thoái v.v… thành Tư v.v…, các đạo hiện tiền đều có đối tượng loại trừ. Do đấy, không có vượt qua để được tánh thù thắng.
Có Sư khác cho: Tất cả luyện căn đều dùng một gia hạnh, vô gián, giải thoát.
Thuyết trước là tốt. Về lý như trước đã nói. Như vậy, đạo vô gián và giải thoát, tất cả chỉ là thuộc về tánh vô lậu. Thánh giả tất không có lý dùng đạo hữu lậu để chuyển căn. Do thể của pháp thế tục không phải là tăng thượng, không có khả năng gắng nhận. Nên tất cả gia hạnh đều chung cho hai thứ.
Như thế những điều đã nói chỉ căn cứ ở hiện hành, gồm tu vị lai, lại có sai biệt. Nghĩa là khi ở nơi vị vô học tu luyện căn, gia hạnh nơi vị lai cũng tu chung hai: Chín đạo vô gián và tám đạo giải thoát, đối tượng tu của vị lai cũng chỉ là vô lậu. Giải thoát thứ chín ở nơi vị lai tu hai, gồm tu công đức hiện có của ba cõi, vì đồng với đối tượng tu của tận trí ban đầu. Nếu là vị hữu học, khi tu luyện căn, thì gia hạnh nơi vị lai cũng tu chung hai. Vô gián, giải thoát ở nơi vị lai đã tu, cũng chỉ là vô lậu, như được quả thứ nhất. Nhưng vị vô học lúc tu luyện căn, đạo thường đã tu như đoạn nhiễm của xứ Hữu đảnh. Nếu vị hữu học khi tu luyện căn, thì đạo thường đã tu như đoạn Hoặc của cõi trên do kiến đạo đoạn. Do vị hữu học kia chỉ cùng với đạo tương tợ khi gần đắc quả. Khi vị học, vô học tu luyện căn, gia hạnh đều chung cho từng được, chưa từng được, vô gián, giải thoát chỉ là chưa từng được. Tất cả đều chung cho pháp trí, loại trí. Người tu luyện căn chỉ nơi ba châu của nẻo người, chỉ dựa nơi thân này vì có sợ hãi, thoái mất.
Do những gì gọi là luyện căn?
Tức điều luyện các căn khiến được tăng trưởng. Nghĩa là do sức của đạo, nên khiến căn cùng nối tiếp, bỏ hạ được trung, bỏ trung được thượng, dần dần thêm hơn, gọi là luyện căn. Nên danh xưng luyện căn là nói về nghĩa chuyển căn. Tuy tám giải thoát được dần căn hơn hẳn, nhưng do bản tâm cầu tánh thù thắng, nên khi chưa được tánh thù thắng, thì không bỏ phần kém ở trước, như được quả sau mới bỏ hướng trước. Như ở nơi chủng tánh của Thánh vị có sáu, có thể tu luyện căn, thì đối với các gia hạnh như noãn v.v… trước kiến đạo, nên biết cũng như vậy. Có sai biệt: Nếu trong Thánh vị được chủng tánh hơn hẳn, tất xả bỏ phần kém ở trước. Trong các vị như noãn v.v…, người tu luyện căn chỉ được tánh hơn hẳn, thì tánh thua kém không hiện hành, gọi là chuyển căn, không phải bỏ phần thua kém mà được bậc vô học luyện căn dựa chung nơi chín địa. Nghĩa là bốn tĩnh lự, vị chí, trung gian và ba vô sắc. Chỉ nơi chín địa này có đạo vô lậu, địa khác thì không có. Hàng hữu học luyện căn chỉ dựa vào sáu địa, trừ ba vô sắc. Vì sao? Vì người chuyển căn chấp nhận có xả bỏ quả và đạo đã được của quả thù thắng chỉ là quả, không phải là đạo của quả thù thắng, vì tâm ưa thích quả, tức không có quả hữu học, thuộc về địa vô sắc, nên hàng hữu học luyện căn chỉ dựa nơi sáu địa.
Nếu như thừa nhận vị hữu học dựa vào định vô sắc để luyện căn là trụ của Bất hoàn, vì phần vị đạo của quả thù thắng, không có quả Bất hoàn, thuộc về địa vô sắc, nên không nương dựa nơi vô sắc để tu luyện căn được quả. Do hai quả đầu chỉ thuộc về vị chí, Bất hoàn chỉ thuộc chung nơi sáu địa.
Có thuyết nói: Chỉ có trụ quả luyện căn, chớ nên có lỗi bỏ nhiều được ít. Không có lỗi như vậy, vì người luyện căn, tâm trông mong quả hơn hẳn, không cầu được nhiều.
Do người tu luyện căn của vị hữu học này, nếu trụ nơi đạo của quả, thì ba đạo như gia hạnh v.v… đều thuộc về đạo của quả. Nếu trụ ở đạo thù thắng, thì gia hạnh vô gián thuộc về đạo của quả hơn hẳn. Đạo giải thoát thuộc về đạo của quả. Người trụ nơi vị vô học tu luyện căn, thì ba đạo như gia hạnh v.v… chỉ thuộc về đạo của quả. Các vị trụ nơi quả khi tu luyện căn thì bỏ quả, được quả. Trụ nơi vị của đạo hơn hẳn, khi tu luyện căn thì xả bỏ hai để được quả. Lại, các Thánh vị khi tu luyện căn so với quả vốn được thì địa đồng, hoặc khác. Nghĩa là hai quả đầu dựa nơi địa tất đồng, vì quả kia đây đều cùng dựa vào địa vị chí. Bất hoàn, Ứng quả (Quả A-la-hán) thì dựa nơi địa là không nhất định. Hoặc dựa nơi bản địa, hoặc địa trên, hoặc địa dưới. Có sai biệt: Nếu các vị Bất hoàn dựa vào địa dưới để luyện căn, thì không được quả của địa trên. A-la-hán thì không như thế. Như quả vốn được, nên phần đoạn kiết của xứ Hữu đảnh khi luyện căn được quả, tuy xả bỏ đoạn kiết của xứ kia, nhưng kiết của xứ Hữu đảnh thì không thành.
Như người phàm phu sinh lên bảy địa trên, tùy theo chỗ thích ứng, bỏ đoạn kiết của địa dưới, nhưng kiết của địa dưới thì không thành. Vì đều cùng là lúc tiến, không phải lúc thoái.
Các Bổ-đặc-già-la của vị vô học gồm có bao nhiêu loại, do gì nên có sai biệt?
Tụng nêu:
Bảy Thanh văn, hai Phật
Sai biệt do chín căn.
Luận nói: Thánh giả ở nơi quả vị vô học có chín. Nghĩa là bảy Thanh văn và hai bậc giác ngộ.
Năm pháp như pháp thoái v.v…, thì bất động phân làm hai. Vì sau trước riêng khác, nên gọi là bảy Thanh văn. Độc giác, Đại giác gọi là hai bậc giác ngộ. Do chín phẩm căn như hạ hạ v.v… dị biệt khiến Thánh vô học thành chín sai biệt. Bổ-đặc-già-la hữu học, vô học, tất cả gồm thâu chung không quá bảy thứ: (1) Tùy tín hành. (2) Tùy pháp hành. (3) Tín giải. (4) Kiến chí. (5) Thân chứng. (6) Tuệ giải thoát. (7) Câu giải thoát.
Dựa vào gì để lập bảy? Sự riêng khác có bao nhiêu?
Tụng nêu:
Gia hạnh, căn, định diệt
Giải thoát nên thành bảy
Sự này riêng chỉ sáu
Vì ba đạo đều hai.
Luận nói: Dựa nơi gia hạnh dị biệt để lập hai loại đầu. Nghĩa là dựa nơi thời trước đã tin theo lời nói của người khác và tự tùy thuận pháp, vì có thể ở trong tất cả nghĩa đã cầu tu gia hạnh, nên lập danh xưng tùy tín hành, tùy pháp hành. Dựa vào căn không đồng, lập hai loại tiếp theo. Nghĩa là dựa vào căn độn lợi tín tuệ tăng, như thứ lớp, gọi là tín giải, kiến chí. Dựa nơi sự việc đạt được định diệt để lập danh xưng thân chứng, do thân chứng đắc định diệt tận. Dựa vào sự giải thoát có dị biệt để lập hai loại sau. Nghĩa là dựa nơi vị chỉ do tuệ để lìa phiền não chướng, để lập tuệ giải thoát. Dựa nơi vị đã gồm được định, lìa giải thoát chướng, để lập câu giải thoát. Danh xưng này tuy là bảy, nhưng sự riêng chỉ có sáu. Nghĩa là trong kiến đạo có hai vị Thánh giả: (1) Tùy tín hành. (2) Tùy pháp hành.
Hai vị này đến tu đạo lập riêng hai danh: (1) Tín giải. (2) Kiến chí.
Hai vị này đến vô học lại lập hai danh: (1) Thời giải thoát. (2) Bất thời giải thoát.
Nhưng chỉ nên nói có hai Thánh giả tùy tín hành, tùy pháp hành có dị biệt. Tức hai loại này tùy theo đạo sai biệt, tuy lập danh xưng khác, nhưng không có Thể riêng.
Như thế là đã nói về Bổ-đặc-già-la, do căn tánh, đạo lìa nhiễm chỗ nương dựa riêng khác, nên các môn phân tích số thành nhiều ngàn. Lại như đầu tiên, một tùy tín hành, vì căn nên thành ba, nghĩa là hạ, trung, thượng. Vì tánh nên thành năm, nghĩa là pháp Thoái v.v… Do đạo nên thành mười lăm, nghĩa là tám nhẫn, bảy trí. Do lìa nhiễm nên thành bảy mươi ba, nghĩa là hàng bị trói buộc đủ lìa nhiễm của tám địa. Do dựa vào thân nên thành chín, nghĩa là ba châu, trời thuộc cõi dục. Nếu căn tánh, đạo, lìa nhiễm, dựa vào thân cùng nhân nhau thì hợp thành một ức, bốn vạn, bảy ngàn tám trăm hai mươi lăm thứ tùy pháp hành v.v… Như lý nên tư duy.
Các môn như thế v.v… sai biệt là vô lượng. Nếu muốn theo phần vi tế mỗi mỗi phân biệt, thì công sức bỏ ra rất nhiều, công dụng lại rất ít, nên ở đây chỉ lược chỉ rõ về người học có trí, nên xét chọn rộng.
Trước đã nêu rõ dựa nơi giải thoát để lập hai loại sau. Lập tướng của hai loại sau do đâu nên biết. Tụng nêu:
Đều do được định diệt
Khác, gọi tuệ giải thoát.
Luận nói: Các A-la-hán được định diệt gọi là câu giải thoát. Do sức của định, tuệ cùng thoát khỏi phiền não chướng, giải thoát chướng. A-la-hán còn lại chưa được định diệt tận, gọi là tuệ giải thoát. Tức chỉ do sức của tuệ, đối với chướng phiền não được giải thoát.
Những gì gọi là Thể của giải thoát chướng?
Tâm của các A-la-hán đã giải thoát nhưng lại cầu giải thoát, là vì giải thoát chướng kia. Nghĩa là đối với đối tượng chướng ngại trong các giải thoát có tánh vô phú vô ký yếu kém không hiểu biết có thể gây chướng ngại cho giải thoát, là thể của giải thoát chướng. Đối với chướng kia ở nơi cõi kia khi được lìa nhiễm, tuy đã đoạn hoàn toàn nhưng khi khởi giải thoát, chướng kia không hiện hành mới gọi là giải thoát.
Có Sư khác nói: Giải thoát chướng này, tức dùng ở nơi các định không tự tại làm Thể.
Có Sư khác cho: Giải thoát chướng này, tức dùng các định không đạt được làm Thể.
Có Sư khác lại nêu: Đối với gia hạnh của giải thoát kia, vì không siêng năng cầu đạt, vì không lắng nghe, không thường hành tập, nên giải thoát không sinh, tức đấy gọi là thể của giải thoát chướng.
Thuyết đầu là hợp lý. Vì sao? Vì tất có một ít sức của pháp có thể làm chướng ngại, khiến hành giả kia ở nơi định không tự tại chuyển. Nếu không như vậy, thì hành giả kia có duyên gì mà ở trong các định không được tự tại?
Người không được định tất có nguyên nhân. Không thể nói tức do nhân không đạt được, vì tự thể không nên trở lại nhân nơi tự thể. Hoặc phiền não chướng cũng nên có thể nói, tức do ứng quả không đạt được làm tánh, vì giải thoát chướng kia đã không hợp, thì phiền não chướng này làm sao như thế? Quả A-la-hán cũng do ở nơi gia hạnh, vì không siêng năng mong cầu v.v…, nên thể không được sinh. Đâu tức do không có Thể của phiền não chướng riêng khác? Nên ba thuyết sau đều không hợp lý. Lại, tâm vô lậu cũng có từ phiền não chướng này, gọi là được giải thoát.
Do căn cứ theo thân và căn cứ ở nơi hành thế để nói là giải thoát. Nghĩa là chủ yếu khi giải thoát, là giải thoát khỏi chướng ngại.
Mới khởi ở nơi thân và hành thế, A-la-hán có danh xưng đồng thì căn cũng đồng chăng?
Nên nêu ra bốn trường hợp: (1) Trong tuệ giải thoát có thời giải thoát, bất thời giải thoát. Trong câu giải thoát có hai cũng như vậy. (2) Trong thời giải thoát có tuệ giải thoát, có câu giải thoát. Bất thời giải thoát có hai cũng như vậy. (3) Trong tuệ giải thoát, hai thời giải thoát tự cùng đối chiếu nhau. Hai bất thời giải thoát, câu giải thoát cũng như vậy. (4) Trong tuệ giải thoát lấy thời giải thoát, trong câu giải thoát lấy bất thời giải thoát lần lượt cùng đối chiếu. So với đây trái nhau, nên biết cũng như vậy.
Như Đức Thế Tôn nói: Năm phiền não đã đoạn không thể dẫn dắt, chưa gọi là mãn học.
Nơi vị học, vô học đều do bao nhiêu nhân? Ở trong các vị riêng nào gọi là mãn?
Tụng nêu:
Hữu học gọi là mãn
Do căn, quả, định ba
Vô học được tên mãn
Chỉ do căn, định hai.
Luận nói: Học đối với vị học, riêng được tên mãn, chủ yếu là đủ ba nhân. Nghĩa là căn, quả, định. Nên kiến chí, thân chứng, riêng được gọi là mãn.
Có thiếu một ít hãy còn không phải là học mãn, huống chi là thiếu tất cả mà được tên gọi mãn sao!
Những gì gọi là có thiếu một ít? Nghĩa là tín giải được định diệt. Hoặc kiến chí, Bất hoàn chưa được định diệt tận. Hoặc kiến chí chưa lìa dục. Hoặc tín giải, Bất hoàn chưa được định diệt tận.
Những gì gọi là thiếu tất cả? Nghĩa là tín giải chưa lìa dục. Có thuyết cho thiếu một ít, cũng được mang tên mãn. Thuyết kia nói như vầy: Có người hữu học chỉ do căn nên cũng được tên mãn. Nghĩa là các vị kiến chí chưa lìa dục nhiễm. Có người hữu học chỉ do quả nên cũng được tên mãn. Nghĩa là tín giải, Bất hoàn chưa được định diệt tận. Có người hữu học do căn, quả nên cũng được tên mãn. Nghĩa là kiến chí, Bất hoàn chưa được định diệt tận. Có người hữu học do quả, định nên cũng được tên mãn. Nghĩa là các vị tín giải được định diệt tận. Có người hữu học do đủ ba nên riêng được tên mãn. Nghĩa là các vị kiến chí được định diệt tận.
Không có người hữu học chỉ do định và căn định nên cũng được tên mãn. Thuyết này không thể nương dựa. Vì sao hữu học ở trong công đức thù thắng của các hữu học cũng chưa chứng đủ mà thừa nhận gọi là mãn? Nên như thuyết trước, lý nhất định có thể nương dựa.
Trong quả vị vô học, vì đều là quả mãn, nên không do quả để kiến lập danh xưng mãn, chỉ tự vị cùng đối chiếu riêng gọi là mãn.
Chủ yếu phải đủ hai thứ, nghĩa là căn với định. Nên chỉ người bất thời giải thoát, câu giải thoát, đối với các vị vô học khác, riêng được tên mãn. Tùy thiếu một hãy còn không phải là vô học mãn, huống chi là thiếu cả hai mà được mang tên vô học mãn sao?
Những gì gọi là tùy thiếu một?
Nghĩa là thời giải thoát được định diệt tận. Hoặc bất thời giải thoát không được định diệt tận.
Những gì gọi là cùng thiếu cả hai?
Nghĩa là thời giải thoát không được định diệt tận. Có thuyết thừa nhận thiếu một cũng được tên mãn. Thuyết này không thể nương dựa, về lý như trước đã nói.
Như Khế kinh nói: Hai A-la-hán: (1) Đủ ba minh. (2) Pháp bất thoái.
Nơi trước đã nói: Trong các ứng quả, hai A-la-hán thuộc về ứng quả nào? Lại, pháp bất thoái gồm thâu ở nơi bất động, nhưng bất động này sai biệt có hai: (1) Chỉ có thể không thoái ứng quả. (2) Không thoái tất cả đức thù thắng.
Trong đây, loại thứ nhất chỉ gọi là bất động. Như pháp Tư v.v…, do luyện căn được, vẫn có thoái mất quả A-la-hán. Vì đây khác với kia, nên được tên bất động. Nhưng đối với ứng quả thì tất cả đức thù thắng cũng có thể thoái mất nên không gọi là bất thoái.
Loại thứ hai cũng không có thoái các đức thù thắng, nên kinh ở nơi quả kia lập tên bất thoái. Do trong bất động, ở nơi công đức thù thắng, có người có thể thoái mất. Thế nên Khế kinh ở trong pháp bất động lập pháp bất thoái.
Vị đủ ba minh: Tức có người nói: Ba minh này gồm thâu ở trong tuệ giải thoát, câu giải thoát, chung cho chưa được đã được định diệt tận.
Có người cho: Chỉ thuộc về câu giải thoát. Do túc trụ tử sinh minh đã dựa nơi tĩnh lự căn bản. Người khởi tĩnh lự căn bản gọi là câu giải thoát. Nay xem kỹ ý của kinh nói tuệ giải thoát, câu giải thoát, nếu viên mãn thì thể của chúng đều khác. Chưa khởi căn bản và đã được diệt tận lại cách xa. Không viên mãn thì hai thể cùng xen tạp, tùy thuyết đều chung. Nhưng vì muốn phân biệt khiến không tạp loạn, tức nên căn cứ theo định diệt chưa được đã được để nói. Do tuệ giải thoát không được định diệt, tĩnh lự căn bản tuy không hiện hành, nhưng ở vị lai tất được thành tựu.
Do đấy có thể nói người đủ ba minh, về lý là gồm thâu chung ở trong hai giải thoát.
Nói rộng các đạo có sai biệt là vô lượng. Nghĩa là kiến đạo, tu đạo v.v… của thế gian, xuất thế gian. Nay nên xét chọn.
Ở trong các đạo lược nói có bao nhiêu thứ có thể có khả năng gồm thâu khắp?
Tụng nêu:
Nên biết tất cả đạo
Lược nói chỉ có bốn
Là gia hạnh, vô gián
Đạo giải thoát, thắng tấn.
Luận nói: Đạo gia hạnh: Nghĩa là đạo này vô gián thì đạo vô gián sinh.
Đạo vô gián: Nghĩa là đạo này có thể diệt trừ chướng ngại nên đoạn trừ.
Đạo giải thoát: Nghĩa là đã giải thoát nơi chốn đầu tiên sinh ra chướng ngại nên đoạn trừ.
Đạo thắng tấn: Nghĩa là các đạo còn lại trừ gia hạnh, vô gián, giải thoát.
Do nơi nghĩa nào gọi là đạo?
Nghĩa là tìm cầu nương dựa. Nương dựa nơi đạo này để tìm cầu quả Niết-bàn. Do đạo ấy nên tất cả người tu khổ trí v.v… đều vì tìm cầu Niết-bàn. Hoặc đạo này gọi là nói về con đường Niết-bàn. Hiền Thánh của ba thừa đã vượt qua con đường bằng này để nhanh chóng đạt được hai thứ cảnh giới Niết-bàn. Nơi xứ khác, đạo được lập tên Thông hành, vì ở trong đế có thể khéo thông đạt. Lại có thể nhanh chóng đi đến thành Niết-bàn.
Thông hành này có bao nhiêu thứ? Dựa vào đâu để kiến lập?
Tụng nêu:
Thông hành có bốn thứ
Lạc dựa tĩnh lự gốc
Khổ dựa vào địa khác
Trì tốc: Căn độn lợi.
Luận nói: Kinh nói thông hành gồm có bốn thứ: (1) Khổ trì thông hành. (2) Khổ tốc thông hành. (3) Lạc trì thông hành. (4) Lạc tốc thông hành.
Bốn thông hành này có sai biệt, vì dựa nơi địa, dựa nơi căn để kiến lập nên có dị biệt.
Thế nào là dựa nơi địa để kiến lập các thông hành có sai biệt?
Nghĩa là dựa trong bốn tĩnh lự căn bản đã sinh ra Thánh đạo, gọi là lạc thông hành. Vì tự nhiên chuyển, như nương theo thuyền bè, tự nhiên chuyển. Trong địa này do chỉ, quán đều cùng vận hành không có tăng giảm. Lại, đẳng trì hiện có của các địa này đã thâu nhận năm chi, bốn chi mà thành.
Dựa nơi vô sắc, vị chí, trung gian còn lại đã sinh khởi Thánh đạo, gọi là khổ thông hành. Tuy đạo không phải là khổ, nhưng vì tương ưng với khổ thọ cùng chuyển rất khó khăn, nên cũng gọi là khổ. Như nương theo đường bộ cỡi ngựa mà đi. Chuyển vận rất khó khăn, tức do trong địa này chỉ quán tuy đủ mà luôn tăng giảm. Nghĩa là ở nơi địa vô sắc thì quán giảm chỉ tăng, ở nơi địa vị chí, trung gian thì quán tăng, chỉ giảm. Lại, đẳng trì hiện có của các địa này không gồm thâu năm chi, bốn chi mà thành.
Có Sư khác nói: Vì đạo của địa vị chí khó có thể hoàn thành, nên lập tên khổ. Nghĩa là có người từ trước đến nay đều chưa được định, khởi nhiều công dụng mới được hiện tiền. Định này đã hiện ở trước là do gia hạnh hơn hẳn. Tĩnh lự căn bản dễ khởi nên gọi là lạc. Tĩnh lự trung gian đồng thuộc về một địa, phẩm tâm khác diệt, phẩm tâm khác sinh, vì rất là khó khăn, nên cũng gọi là khổ. Ví như dùng gỗ để xẻ gỗ thì thật là khó. Nghĩa là trong một địa có tầm, có tứ, phẩm tâm thô diệt, thì không có tầm chỉ có tứ, phẩm tâm tế sinh, phải dùng nhiều công sức. Các định vô sắc cũng rất khó thành, nên cũng gọi là khổ. Vì rất vi tế. Nghĩa là hành tướng của định vô sắc là rất tinh vi, không dễ lường xét, nên tu khó thành tựu đầy đủ. Lại, khi từ tĩnh lự khởi vô sắc, thì định của năm uẩn diệt, định của bốn uẩn khởi. Do thật khó hoàn thành, nên lập tên khổ.
Thế nào là dựa nơi căn để kiến lập các thông hành có sai biệt?
Nghĩa là trong hai thông hành khổ, lạc, độn căn gọi là trì (chậm), lợi căn gọi là tốc (nhanh). Hai hành đối với cảnh thông đạt chậm chạp, gọi là trì thông. Trái với đây gọi là tốc thông. Hoặc người trì độn đã khởi thông hành, thì gọi là trì thông hành. Tốc thông hành thì trái với đây. Hoặc hướng đến Niết-bàn có chậm, có nhanh, do căn độn lợi, như phần sau sẽ biện.
Hành này dùng năm uẩn, bốn uẩn làm tánh. Do dựa nơi định sắc, định vô sắc riêng khác. Nhưng gọi là thông tức hiển bày tuệ là hơn hẳn. Như vị kiến đạo, tuy đủ năm uẩn, nhưng vì tuệ là hơn hẳn, nên lập riêng tên kiến. Như các thế tục trí, định kim cương dụ là biên của kiến đạo, cũng dùng năm uẩn, bốn uẩn làm thể, lập danh xưng trí định. Tuy nhiên có kinh nói: Bốn thông hành dùng năm căn làm tánh. Là cũng căn cứ ở phần hơn hẳn để nói. Vì tuệ là thắng trong thắng, nên lập tên thông. Tuy có căn trung bình, tức thuộc về độn, lợi, do trong hai thứ độn lợi có không phải là tột cùng. Nhưng những điều vừa nói, do căn có độn, lợi, đối với việc hướng đến viên tịch tức có nhanh, có chậm. Đây là căn cứ theo chỗ bình đẳng tu gia hạnh siêng năng để nói. Nếu không căn cứ theo chỗ bình đẳng, thì căn độn, lợi khi hướng tới đến Niết-bàn chậm, nhanh là không nhất định. Lại, Khế kinh nói: Bốn trường hợp như có hiện pháp chậm, thân hoại nhanh v.v… có sai biệt. Đây là căn cứ theo gia hạnh có siêng năng, không siêng năng, không căn cứ theo chuyển căn và có thoái chuyển để nói. Do các Thánh giả, nếu đã trải qua sinh diệt thì không thoái, không chuyển căn không sinh nơi cõi trên.
Đại giác, Độc giác và Thanh văn đạt đến cứu cánh đã dựa nơi thông hành nào để nhập Thánh, chứng quả tột cùng? Bậc Đại giác chỉ dựa nơi lạc tốc thông hành. Nghĩa là dùng tĩnh lự thứ tư làm chỗ dựa. Do căn rất thông lợi nhập chánh quyết định, chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề vô thượng. Ở trong bậc Độc giác thì Lân giác dụ, như nói về bậc Đại giác. Số còn lại thì không nhất định. Trong hai Thanh văn đạt đến cứu cánh, thì Tôn giả Xá-lợi-tử dựa vào khổ tốc thông hành và lạc tốc thông hành, nhập Thánh chứng quả tột cùng. Vị kia thì dựa nơi định vị chí nhập chánh quyết định, vì dựa vào định thứ tư để đạt được lậu tận. Tức Tôn giả Mục-kiền-liên chỉ dựa nơi khổ tốc thông hành. Nghĩa là dựa vào định vị chí nhập chánh quyết định, cùng dựa vào định vô sắc đạt được lậu tận. Hai Thánh từ trước đến nay, vì ưa thích tuệ, ưa thích định, nên chứng quả tột cùng. Nương dựa nơi sắc, vô sắc, thừa nhận các Đại Thanh văn đạt đến cứu cánh, theo pháp như vậy chỉ nên đắc quả dần dần, tức Thanh văn kia nhập Thánh đạo đều dựa nơi địa vị chí.
HẾT – QUYỂN 33