LUẬN A TỲ ĐẠT MA TẠNG HIỂN TÔNG
Tác giả: Tôn giả Chúng Hiền
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 3

Phẩm thứ 2: BIỆN VỀ BẢN SỰ, phần 3

Như thế là đã nói về thứ lớp của các uẩn. Ở trong giới, xứ, trước hết nên biện về thứ lớp của sáu căn, do thứ lớp của cảnh thức này có thể nhận biết.

Do đâu nhãn v.v… đã theo thứ lớp như thế? Tụng nêu:

Năm cảnh trước chỉ hiện

Bốn cảnh chỉ chỗ tạo

Khác dụng xa, nhanh, rõ

Hoặc tùy thứ lớp xứ.

Luận nói: Ở trong sáu căn thì năm căn trước như nhãn v.v… chỉ nhận lấy cảnh hiện rõ, nên nói trước. Cảnh của ý thì bất định nơi ba đời và vô vi. Hoặc chỉ nhận lấy một, hoặc hai, ba, bốn, thế nên thuyết giảng sau.

Cảnh quyết định: Nghĩa là công dụng không có tạp loạn, tướng của chúng rõ ràng nên thuyết giảng trước. Cảnh không quyết định tức công dụng có xen tạp, tướng không rõ ràng nên giảng nói sau.

Đã nói bốn cảnh chỉ là đối tượng tạo tác. Nghĩa là trước lưu chuyển đến trong năm cảnh này, thì bốn cảnh trước chỉ là đối tượng tạo tác, thế nên nói trước. Vì cảnh của thân là sắc được tạo của đại chủng bất định, vì đều cùng làm cảnh, nên thuyết giảng sau. Hoặc có lúc thân căn chỉ nhận lấy đại chủng. Hoặc có lúc thân căn chỉ nhận lấy sắc được tạo. Hoặc có lúc thân căn cùng nhận lấy hai thứ, thế nên thân nhận biết.

Có thuyết nói: Rất nhiều duyên nơi năm xúc khởi. Nghĩa là bốn đại chủng như trơn láng v.v… tùy theo một.

Có thuyết cho: Rất nhiều duyên nơi mười một xứ khởi. Khác, nghĩa là bốn thứ trước. Như đối tượng ứng hợp của chúng có tác dụng xa, nhanh chóng, sáng rõ, thế nên nói trước. Tức là nhãn căn, nhĩ căn nhận lấy cảnh xa, nên ở nơi hai căn này đã nêu bày trước. Mắt trong hai căn nói trên, vì công dụng là xa, nên nói trước. Như ở cách xa khu rừng rậm, khi gió v.v…. thổi đập mạnh thì hiện thấy lay động mà không nghe tiếng. Lại, công dụng của mắt thì nhanh trước, nên từ xa thấy người khua đánh chuông, trống, sau đấy mới nghe tiếng. Tác dụng của hai căn mũi, lưỡi đều không phải xa.

Trước nói về mũi: Vì nhanh chóng, sáng rõ, như khi đối với hương của các thức ăn uống ngon, mũi ngửi hương trước, lưỡi nếm vị sau.

Như thế lại căn cứ theo công dụng xa, nhanh chóng, sáng rõ, định, bất định của cảnh để biện về thứ lớp của căn. Hoặc ở trong thân tùy theo xứ của đối tượng nương dựa để nói về thứ lớp của căn, nên đặt có trên dưới. Truyền nói trong thân thì nhãn xứ là trên hết. Lại hiện rõ ở nơi mặt, nên nói trước. Xứ nương dựa của ba căn tai, mũi, lưỡi thì thấp dần. Xứ của thân thấp nhiều. Ý thì không có phương xứ. Tức dựa nơi năm căn sinh, nên thuyết giảng sau cùng.

Há không phải là về lý thật, cực vi của tỷ căn ở giữa sống mũi, không phải ở dưới mắt. Như nói ba căn tạo thành xứ xếp hàng ngang thì không có cao thấp, như nơi chiếc mũ gắn tràng hoa. Về lý thật tức nên như vậy. Tuy nhiên, ý của Kinh chủ thì căn cứ theo căn dựa nơi xứ, giả nói như thế. Kinh chủ hoặc nói, vì giống nên chung với giải thích khác. Nay ở đây đã làm riêng tụng:

Năm trước dụng khởi trước

Năm, dụng đầu hai xa

Ba, dụng đầu hai rõ

Hoặc tùy thứ lớp xứ.

Ở trong sáu căn năm căn trước như nhãn v.v…, đối với cảnh như sắc v.v… khởi tác dụng trước, ý về sau mới sinh, thế nên thuyết giảng trước. Như Bản Luận nói: Năm cảnh như sắc v.v… Năm thức thọ nhận trước, ý thức nhận biết sau. Vì tự thức nương dựa và nhận lấy tự cảnh, nên biết đều cùng là công dụng của mắt v.v… Trong năm căn thì hai căn đầu công dụng đối với cảnh xa không hợp, nên thuyết giảng trước. Công dụng của mắt trong hai căn đầu ấy lại xa đối với tai. Dẫn sự như trước thế nên nói trước. Dụng của ba căn tỷ thiệt thân, thì dụng của hai căn đầu là rõ ràng v.v…, nên mũi ở trước, lưỡi tiếp theo, thân ở sau. Như mũi đối với hương, có thể nhận lấy phần vi tế, lưỡi đối với vị ngọt, đắng thì không như thế. Như lưỡi đối với vị có thể nhận lấy phần vi tế, thân đối với xúc lạnh, ấm thì không như thế.

Tùy theo thứ lớp của xứ, giải thích không khác với trước.

Như thế là đã nói về thứ lớp của xứ, giới. Tức ở trong đây lại nên xét chọn.

Do đâu thể của mười xứ đều là sắc? Vì chỉ ở nơi một thứ lập tên sắc xứ. Lại, thể của mười hai xứ đều là pháp. Vì chỉ ở nơi một xứ lập tên pháp xứ.

Tụng nêu:

Vì sai biệt hơn hết

Thâu nhiều pháp tăng thượng

Nên một xứ gọi sắc

Một gọi là pháp xứ.

Luận nói: Tuy mười sắc của mười hai xứ đều là pháp nhưng vì sai biệt nên một lập tên chung.

Nói sai biệt: Nghĩa là đều là xứ riêng. Như tánh của sắc pháp là như nhau, nên gọi là đồng. Thế thì tên gọi của xứ nên là hai, hoặc một. Các đệ tử v.v… do đấy tên gọi chung chỉ nên nhận biết chung, vì tướng không phân biệt nhận biết rõ. Vì khiến nhận biết rõ về cảnh và cảnh có vô số sai biệt, nên lập tên gọi khác. Do đó Đức Như Lai ở trên sắc của mắt v.v…, của thanh v.v… kia đã lập danh của nghĩa riêng. Sắc xứ lại không có danh xưng của nghĩa riêng, nên tên gọi chung tức riêng. Như nhân năng tác, các tên gọi được lập riêng để làm rõ về nghĩa riêng, vì để hiển bày về nghĩa riêng này, nên tức có danh xưng riêng. Pháp xứ cũng như vậy.

Nói hơn hết: Là do hai nhân duyên. Chỉ trong sắc xứ thì tướng của sắc là hơn hết. Một là có thấy, nên có thể chỉ rõ ở đây, ở kia có sai biệt. Hai là có đối, nên khi tay v.v… xúc chạm tức liền biến đổi, hư hoại.

Lại, vì nhiều thứ, vì cảnh của mắt ở nơi ba đời nên cùng ở đây lập danh xưng sắc. Các Đại Luận sư không phải ở nơi thanh v.v… lập tên sắc. Chỉ một danh xưng sắc ở trong pháp xứ đã gồm thâu rất nhiều pháp như thọ, tưởng v.v…, tức nên lập tên chung. Nếu lìa tên chung thì làm sao có thể gồm thâu nhiều pháp của tướng riêng đồng làm một xứ? Lại ở trong ấy gồm thâu nhiều phẩm loại. Danh xưng của pháp là các pháp, nên lập tên pháp. Nghĩa là trạch pháp giác chi, pháp trí, pháp tùy niệm, pháp chứng tịnh, pháp niệm trụ, pháp vô ngại giải, pháp bảo, pháp quy. Các tên pháp như thế có vô lượng thứ, tất cả đều gồm thâu ở trong pháp xứ này, nên riêng gọi là pháp. Lại, pháp tăng thượng đó là Niết-bàn, vì gồm thâu trong đây nên riêng gọi là pháp.

Trong các Khế kinh có nói đến vô số danh tưởng uẩn khác và danh tưởng của xứ giới có thể đạt được, đều gồm thâu ở đây, như thế phải nên biết.

Lại biện về gồm thâu danh tưởng của các uẩn khác.

Tụng nêu:

Mâu Ni nói pháp uẩn

Số có tám mươi ngàn

Thể kia ngữ hoặc danh

Sắc này thuộc hành uẩn.

Luận nói: Có thuyết nói: Giáo pháp của Phật lấy ngữ làm tự thể. Thuyết kia nói pháp uẩn đều thuộc về sắc uẩn, vì ngôn ngữ dùng âm thanh làm tự tánh.

Có thuyết cho: Giáo pháp của Phật lấy danh làm tự thể. Thuyết kia nói pháp uẩn đều thuộc về hành uẩn, vì danh lấy hành bất tương ưng làm tánh. Ngữ là tên gọi khác của giáo. Giáo cùng là ngữ. Danh giáo có Thể riêng, vậy giáo nào là danh?

Thuyết kia giải thích: Chủ yếu là do có danh mới nói là giáo. Thế nên thể của giáo pháp Phật tức là danh. Vì sao? Vì giảng giải nghĩa như thật, nên gọi là giáo pháp Phật, danh là chủ thể giảng giải về nghĩa nên giáo là danh. Do đấy, giáo pháp Phật nhất định lấy danh làm thể, nêu lên danh làm đầu, vì gồm thâu cú, văn.

Ngang với mức nào tức nên biết về lượng của các pháp uẩn? Tụng nêu:

Có nói các pháp uẩn

Lượng như luận kia nêu

Hoặc tùy nói như uẩn

Hành như thật đối trị.

Luận nói: Có các Sư nói: Tám vạn pháp uẩn, mỗi mỗi thứ lượng ngang bằng như nơi Luận Pháp Uẩn Túc đã nói. Tức là Luận kia nói mỗi mỗi có sáu ngàn tụng, như Luận Pháp Uẩn Túc trong Đối pháp. Hoặc thuyết giảng pháp uẩn tùy theo các lời nói như uẩn v.v…, mỗi mỗi sai biệt, số lượng có tám vạn, gọi là uẩn, xứ, giới, duyên khởi, đế, thức ăn, tĩnh lự, vô lượng, vô sắc, giải thoát, thắng xứ, biến xứ, phẩm giác, thần thông, vô tránh nguyện trí, vô ngại giải v.v…, mỗi mỗi môn giáo gọi là một pháp uẩn.

Thuyết giảng như thật: Tức các hữu tình đã được Phật hóa độ, có tám vạn hành riêng khác như tham, sân, si, ngã mạn, thân kiến cùng tầm, tư v.v…

Vì đối trị tám vạn hành đó, nên Đức Thế Tôn đã giảng nói tám vạn pháp uẩn. Nghĩa là nói về các môn đối trị như quán bất tịnh, từ bi, duyên khởi, tưởng vô thường, không, trì tức niệm (quán sổ tức) v.v… Đây tức thuận với việc làm rõ các câu nói như tùy thuận uẩn

v.v…. Không có lời nói như theo uẩn v.v… nào không được đối trị như đối trị bệnh của hữu tình mà nói là hành vô ích. Như Đức Phật đã thuyết giảng tám vạn pháp uẩn đều thuộc về hai uẩn trong năm uẩn này. Như vậy, ở nơi chốn khác các loại uẩn, xứ, giới cũng tức nên như vậy.

Tụng nêu:

Như thế các uẩn khác

Đều tùy chỗ ứng hợp

Gồm thâu trong trước nêu

Nên quán xét tự tướng.

Luận nói: Trong Khế kinh khác, các uẩn, xứ, giới tùy theo chỗ ứng hợp gồm thâu nơi phần trước đã nói. Như trong Luận này đã nêu bày về uẩn, nên quán xét kỹ về mỗi mỗi tự tướng của các uẩn kia.

Lại, trong các kinh Đức Phật đã thuyết giảng về năm uẩn khác, tức là năm uẩn giới, định, tuệ, giải thoát, giải thoát trí kiến. Giới uẩn trong năm uẩn kia là thuộc về sắc uẩn này, là nghiệp thân, ngữ, không phải là ý tư.

Bốn uẩn còn lại kia là thuộc về hành uẩn này, là tâm sở pháp, không phải là thọ, tưởng. Lại, các kinh nói mười biến xứ v.v…, thì tám biến xứ trước và tám thắng xứ, vì tánh không tham, nên thuộc về pháp xứ này. Nếu gồm luôn phần trợ bạn tánh là năm uẩn, tức thuộc về ý xứ, pháp xứ này. Hai biến xứ sau, bốn xứ vô sắc như không vô biên v.v…, vì tánh là bốn uẩn, nên cũng thuộc về ý xứ, pháp xứ này. Năm xứ giải thoát, vì lấy tuệ làm tánh, nên thuộc về pháp xứ này. Nếu gồm luôn phần trợ bạn, tức thuộc về ý xứ, pháp xứ của thanh này.

Lại có hai xứ, nghĩa là xứ vô tưởng hữu tình thiên và xứ phi tưởng phi phi tưởng. Xứ đầu tức thuộc về mười xứ này, vì không có hương vị. Xứ sau tức thuộc về ý xứ, pháp xứ này, vì tánh không có sắc. Lại, như Kinh Đa Giới nói giới sai biệt có đến sáu mươi hai thứ, nên tùy theo tướng của giới đó, nên biết là gồm thâu ở trong mười tám giới. Lại, trong kinh kia đã nói về sáu giới. Bốn giới đất, nước, lửa, gió thì đã biện. Hai giới không, thức chưa biện về tướng của chúng.

Hai giới như vậy, tướng của chúng là thế nào? Tụng nêu:

Không giới là khoảng trống

Thể tức là sáng tối

Thức giới, thức hữu lậu

Chỗ dựa hữu tình sinh.

Luận nói: Khoảng trống trong ngoài gọi là không giới. Thế nào là khoảng trống? Tức là ánh sáng, bóng tối. Nghĩa là các khoảng trống v.v… của ánh sáng, bóng tối như cửa sổ vòng xe. Tức nơi hiển sắc có sai biệt, gọi là không giới. Nên biết thể của giới này là thật có. Vì nói trong ngoài, nên như địa giới v.v… Ở đây lìa hư không thì thể của chúng là riêng có.

Do Khế kinh nói, nên lý ấy là cực thành. Như Khế kinh nói: Hư không không có sắc, không có thấy, không có đối. Vậy thì đối tượng nương dựa của hư không là gì? Nhờ dựa vào ánh sáng nên hư không mới hiển hiện.

Lại nói: Đối với sắc, khi được lìa nhiễm, là đoạn trừ hư không giới, nên nhận biết là riêng có.

Đã nói về không giới. Các thức hữu lậu gọi là thức giới.

Vì sao không nói về thức vô lậu?

Vì thức vô lậu kia cùng với nghĩa này là không tương ưng. Do pháp vô lậu đối với hữu tình sinh đã chuyển biến có sai biệt như đoạn dứt, hủy hoại v.v…, nên không phải là đối tượng nương dựa của sinh.

Sáu giới như thế, đối với hữu tình sinh đã làm nhân sinh khởi nuôi lớn, cùng chuyển biến có sai biệt, là đối tượng nương dựa của sinh. Nhân sinh khởi gọi là thức giới, vì nối tiếp sinh chủng tử. Nhân nuôi dưỡng nghĩa là đại chủng sinh khởi nương dựa. Nhân tăng trưởng nghĩa là không giới chấp nhận thọ sinh. Vì duy trì khiến hữu tình sinh, nên gọi là giới. Sáu giới của kinh kia là thuộc về chín giới này. Giới còn lại tùy theo đối tượng ứng hợp nên quán xét về nghĩa gồm thâu. Vì thế các giới còn lại đều thuộc về mười tám giới.

Như thế là đã nói về các thứ uẩn, xứ, giới khác, đều thuộc về uẩn, xứ, giới ở trong đây. Nay sẽ hiển bày chỉ rõ: Ba thứ uẩn, xứ, giới có nghĩa loại sai biệt của các môn như kiến v.v… Trong giới thì hiển bày đủ về căn, cảnh, thức, nghĩa loại của các môn dễ có thể nhận biết rõ, nên nay lại căn cứ theo mười tám giới để biện.

Do nghĩa loại của uẩn xứ này đã thành. Trong mười tám giới đã nói ở trước, bao nhiêu thứ là có thấy, bao nhiêu thứ là không thấy? Bao nhiêu thứ có đối, bao nhiêu thứ không đối? Bao nhiêu thứ là thiện, bao nhiêu thứ là bất thiện, bao nhiêu thứ là vô ký?

Tụng nêu:

Một có thấy là sắc

Mười có sắc, có đối

Đây trừ sắc thanh, tám

Vô ký, ba thứ khác.

Luận nói: Trong mười tám giới, một thứ là có thấy, đó là sắc giới.

Vì sao nói giới này là có thấy? Do hai nghĩa: Một là sắc này nhất định cùng với thấy là đều cùng có, nên gọi là có thấy. Do sắc cùng với mắt cùng thời chuyển biến, như có bạn bè. Hai là sắc này có thể có thị hiện, nên gọi là có thấy. Tức có thể chỉ rõ là ở nơi đây, ở nơi kia riêng khác. Như có đối tượng duyên.

Có thuyết nói: Vì sắc này ở trong gương v.v…. có hình tượng, có thể hiện bày, nên gọi là có thấy. Tức có thể chỉ rõ như ở kia, ở đây cũng vậy. Không thể nói như thanh có tiếng vang v.v… trong hang, nên thành có thấy không cùng sinh. Do nêu bày về tướng này, giới khác không thấy nghĩa căn cứ theo đây là đã thành.

Như thế là đã nói về có thấy, không thấy. Chỉ sắc uẩn gồm thâu mười giới có đối. Đối là nghĩa ngăn ngại. Tức ở đây có ngăn ngại kia nên gọi là có đối. Có đối này lại có ba thứ là cảnh giới, đối tượng duyên và chướng ngại riêng khác. Cảnh giới có đối, nghĩa là tâm tâm sở của các căn như mắt v.v… Các pháp của cảnh có cùng với cảnh như sắc v.v… hòa hợp đã bị ngăn ngại, nên mang tên là có đối.

Đối tượng duyên có đối, nghĩa là tâm tâm sở ở nơi đối tượng duyên của chính mình hòa hợp đã bị chướng ngại, nên mang tên có đối.

Cảnh giới, đối tượng duyên lại có dị biệt gì?

Nếu đối với pháp kia, pháp này có công năng, tức nói pháp kia là cảnh giới của pháp này. Như người ở nơi pháp kia có công năng vượt hơn, liền nói pháp kia là cảnh giới của ta. Tâm tâm sở pháp chấp nơi pháp kia mà khởi. Pháp kia đối với tâm v.v… gọi là đối tượng duyên. Nếu đối tượng duyên của pháp có đối, thì nhất định là cảnh giới có đối. Cảnh giới của tâm tâm sở pháp, nếu không có công năng nhận lấy cảnh thì nhất định không chuyển biến. Nên có khi tuy cảnh giói có đối, nhưng không phải đối tượng duyên có đối. Nghĩa là năm sắc căn không phải là pháp tương ưng, vì không có đối tượng duyên.

Thế nào là mắt v.v… khi ở nơi đối tượng duyên của cảnh giới mình chuyển biến gọi là có ngăn ngại? Vì vượt qua đối tượng duyên kia, thì ở nơi cảnh giới khác, mắt này không chuyển biến. Hoặc lại ngăn ngại, là nghĩa hòa hợp. Tức pháp như mắt v.v… ở nơi tự cảnh giới và tự đối tượng duyên đã hòa hợp chuyển biến.

Có thuyết cho: Nếu pháp chỉ ở nơi cảnh giới kia chuyển biến, không thể vượt qua cảnh giới kia, nên gọi là có ngăn ngại.

Chướng ngại có đối, nghĩa là có thể tập hợp sắc từ ở nơi xứ khác bị chướng ngại không sinh. Như tay, đá v.v… lại cùng chướng ngại. Hoặc ở nơi xứ mình đã chướng ngại xứ khác sinh. Chỉ cực vi sắc, lại cùng tạo chướng ngại, nên có thể gọi là chướng ngại có đối. Trong đây chỉ biện về chướng ngại có đối, nên chỉ nói về mười, vì nghĩa ngăn ngại là vượt hơn.

Những gì là mười? Nghĩa là cực vi thành mười, có sắc giới chỉ có sắc, pháp giới thì chung cả có sắc, không có sắc. Sắc kia hoàn toàn không phải do cực vi hình thành. Trừ cực vi này, mười thứ còn lại gọi là có sắc, vì thuộc về sắc uẩn. Nói mười thứ có sắc, gọi là có đối. Nghĩa căn cứ theo đây để nói về số còn lại gọi là không đối.

Nói có sắc, nghĩa là trừ vô biểu, sắc còn lại thuộc về sắc uẩn. Biến đổi, ngăn ngại gọi là sắc. Có nghĩa biến đổi, ngăn ngại nên gọi là có sắc.

Có thuyết nêu: Sắc nghĩa là khả năng thị hiện lời nói ở đây kia. Nói ở đây có kia nên gọi là có sắc.

Có thuyết nói: Các sắc vì có tự thể, nên gọi là có sắc. Vì nêu xưng nói năng dễ dàng, nên chỉ ở nơi thể của sắc, nói câu có sắc.

Như thế là đã nói về có đối, không đối. Trong đây đã nói về mười thứ có đối, trừ sắc và thanh, tám thứ còn lại là vô ký. Nói vô ký, nghĩa là không thể ghi nhận là thiện, bất thiện. Pháp nên khen chê, có thể ghi nhận, nói là ở trong phẩm đen trắng, gọi là hữu ký. Nếu đối với hai phẩm đều không cùng có, thể không phân minh, gọi là pháp vô ký. Mười giới còn lại thì chung cho ba thứ như thiện v.v…, tức là bảy tâm và sắc giới, thanh giới, pháp giới.

Thiện, nghĩa là bỏ ác, là nghĩa trái với ác. Hoặc lại thiện, gọi là tuệ gồm thâu thọ. Nghĩa là nếu các pháp thọ thuộc về tuệ, hoặc tuệ gồm thâu thọ, đều gọi là thiện. Hoặc lại thiện, là nghĩa an lành, có khả năng chiêu cảm điềm lành, như cỏ cát tường. Trái với đây tức giải thích danh nghĩa bất thiện. Hai giới sắc, thanh, nếu tâm thiện cùng khởi tức gọi là thiện. Tâm ác cùng khởi gọi là bất thiện. Pháp còn lại là vô ký. Bảy tâm giới kia nếu tương ưng với không tham v.v… gọi là thiện, tương ưng với tham v.v… thì gọi là bất thiện, pháp còn lại là vô ký.

Phẩm loại thuộc về pháp giới là rất nhiều. Tương ưng với tánh không tham v.v… cùng khởi trạch diệt gọi là thiện. Nếu tương ưng với tánh tham v.v… cùng khởi thì gọi là bất thiện. Pháp còn lại gọi là vô ký.

Đã nói về thiện v.v… Trong mười tám giới có bao nhiêu thứ hệ thuộc cõi dục, hệ thuộc cõi sắc, hệ thuộc cõi vô sắc?

Tụng nêu:

Thuộc cõi dục mười tám

Thuộc cõi sắc mười bốn

Trừ hai thức hương, vị

Thuộc vô sắc ba sau.

Luận nói: Hệ, nghĩa là hệ thuộc, tức là nghĩa bị trói buộc. Hệ thuộc nơi cõi dục gồm đủ mười tám giới. Hệ thuộc nơi cõi sắc chỉ mười bốn, trừ cảnh hương, vị và thức tỷ, thiệt. Trừ hương vị: Nghĩa là vì tánh đoạn thực, nên lìa đoạn thực nơi cõi dục mới được sinh nơi cõi sắc. Trừ thức tỷ, thiệt: Do không có cảnh giới, không phải cho là không có cảnh giới ít có thức sinh.

Nếu như vậy ở nơi cõi sắc kia cũng nên không có xúc?

Không phải xúc của tánh thực (ăn) ở nơi cõi sắc kia có được. Xúc giới ở nơi cõi sắc kia không thành tác dụng của thức thực, nhưng có thành công dụng khác, đó là thành thân.

Nếu không như vậy thì đại chủng tức nên không có, thì các thứ sắc được tạo cũng nên không phải có, liền đồng với cõi vô sắc, sao gọi là cõi sắc?

Lại, đối với xúc của cõi sắc kia có thành tác dụng bên ngoài. Nghĩa là thành cung điện và y phục v.v… Tuy lìa xúc thực của cõi dục vẫn có tác dụng riêng. Hương, vị thì không như vậy, nên nơi cõi sắc kia không có.

Hệ thuộc cõi vô sắc chỉ có ba thứ sau, đó là ý giới, pháp giới và ý thức giới. Chủ yếu lìa nhiễm nơi cõi sắc thì ở nơi vô sắc kia mới được sinh, nên trong cõi vô sắc không có mười sắc giới. Vì dựa nơi duyên không có, nên năm thức cũng không có, tức chỉ ba thứ sau là hệ thuộc cõi vô sắc.

Đã nói về các giới đã hệ thuộc nơi ba cõi. Trong mười tám giới có bao nhiêu thứ là hữu lậu, bao nhiêu thứ là vô lậu?

Tụng nêu:

Ý, pháp, ý thức chung

Còn lại chỉ hữu lậu.

Luận nói: Tiếp theo trước, ý giới, pháp giới và ý thức giới, tất cả ba giới này đều chung cho hữu lậu, vô lậu. Nghĩa là trừ đạo đế và ba vô vi, ba giới còn lại như ý giới v.v… đều là hữu lậu. Thuộc về đạo đế và ba vô vi, như đối tượng ứng hợp của chúng, thì cả ba giới kia đều là vô lậu. Chỉ chung nơi hữu lậu, nghĩa là mười lăm thứ giới còn lại, đạo đế và vô vi không gồm thâu.

Như thế là đã nói về hữu lậu, vô lậu. Trong mười tám giới, có bao nhiêu thứ có tầm có tứ, bao nhiêu thứ không có tầm chỉ có tứ, bao nhiêu thứ không có tầm không có tứ?

Tụng nêu:

Năm thức có tầm tứ

Ba sau, ba khác không.

Luận nói: Năm thức như nhãn v.v… là có tầm có tứ, do tương ưng chung với tầm, tứ.

Năm thức thân này luôn cùng với tầm tứ cùng tương ưng. Nghĩa là năm thức chỉ ở trong địa đã tùy theo tầm, tứ mà có. Không phải là tâm tâm sở pháp ở trong cõi dục và tĩnh lự thứ nhất. Trừ tầm với tứ, vì có một thứ không cùng với tầm tứ đều cùng có. Ý, pháp, ý thức giới gọi là ba giới sau. Trong căn, cảnh, thức, vì đều ở sau, nên ba giới sau này đều chung cho cả ba phẩm. Ý giới, ý thức giới và pháp giới tương ưng, trừ tầm cùng với tứ.

Nếu ở trong cõi dục và tĩnh lự thứ nhất có tầm có tứ, thì tĩnh lự trung gian không có tầm chỉ có tứ. Từ đấy trở lên thì không có tầm, không có tứ. Pháp giới tất cả không phải là pháp tương ưng. Tứ của tĩnh lự trung gian cũng như thế. Vì ở nơi địa trên kia không có tầm tứ, vì không phải tương ưng, vì địa trên kia không có tầm, vì tự thể cùng với tự thể là không tương ưng. Nên tầm nơi tất cả thời không có tầm, chỉ có tứ, vì tự thể cùng với tự thể là không tương ưng, vì các địa này luôn cùng với tứ tương ưng chung. Tứ ở trong cõi dục và tĩnh lự đầu ba phẩm không gồm thâu, nên là thứ tư. Nhưng chỉ là một ít pháp, nên trong tụng không nói. Mười sắc giới còn lại, tầm tứ đều cùng không có, vì thường cùng với tầm tứ không tương ưng.

Trong đây, nhân tiện nên lại lường xét. Nếu năm thức thân có tầm, có tứ, thì tầm tức phân biệt, vì sao lại cho năm thức kia không phân biệt?

Tụng nêu:

Nói năm, không phân biệt

Do lường tính tùy niệm

Dùng địa ý tuệ tán

Ý, các niệm làm thể.

Luận nói: Phân biệt có ba: (1) Phân biệt tự tánh. (2) Phân biệt lường tính. (3) Phân biệt tùy niệm.

Do năm thức thân tuy có tự tánh, nhưng không có hai thứ còn lại, nên nói là không phân biệt. Như ngựa một chân, gọi là không chân, nên tuy có một nhưng gọi là không có. Há không phải là ý thức có chỉ một thứ phân biệt tương ưng do dựa vào ý thức? Vì gồm chung loại là đủ ba nên nói là có phân biệt.

Phân biệt tự tánh, thể chỉ là tầm. Trong phần sau nói về tâm sở tự sẽ biện biệt giải thích. Hai thứ phân biệt còn lại, như thứ lớp ấy thì dùng các niệm nơi tuệ tán của ý địa làm thể. Nói tán là phân biệt định tương ưng với ý thức. Tuệ tán gọi là phân biệt lường tính, vì trong định thì không thể lường tính về cảnh, nên không phải trong định, tuệ có khả năng ở nơi đối tượng duyên, như thế vì lường tính như vậy mà chuyển. Nên ở đây đã phân biệt định nhận lấy tán. Hoặc định, hoặc tán, các niệm tương ưng với ý thức, gọi là phân biệt tùy niệm, vì đã ghi nhận rõ về dụng của đối tượng duyên là như nhau. Năm thức tuy cùng với niệm, tuệ tương ưng, nhưng vì tác dụng lựa chọn, ghi nhận là vi tế, nên chỉ nhận lấy ý. Phàm là phân biệt tức hành tướng suy cầu, nên nói tầm là phân biệt tự tánh. Vì phân biệt, lựa chọn, ghi nhận rõ từng phần giống như thuận với tầm, nên phân biệt cũng gọi là chung cho tuệ, niệm. Do ba hành này đã thâu giữ có sai biệt, đều khiến ở nơi cảnh chuyển biến, sáng rõ khác biệt. Đối với cảnh đã nhận biết rõ, vì nhằm ngăn chận hành phân biệt sinh, nên phân biệt gọi là không chung với tưởng. Ở nơi cảnh chưa nhận biết rõ, vì không thể in giữ, nên phân biệt gọi là không chung với thắng giải. Nếu ở nơi cõi dục và tĩnh lự đầu, thì ý thức bất định gồm đủ ba thứ phân biệt. Hoặc tĩnh lự đầu tại định, thì ý thức và tâm tán của địa trên đều có hai thứ phân biệt. Ý thức của địa trên nếu ở trong định và năm thức thân thì đều có một thứ phân biệt.

Như thế là đã nêu bày về có tầm có tứ v.v… Trong mười tám giới, bao nhiêu thứ có đối tượng duyên, bao nhiêu thứ không có đối tượng duyên? Bao nhiêu thứ có chấp thọ, bao nhiêu thứ không có chấp thọ?

Tụng nêu:

Bảy tâm, pháp giới nửa

Có sở duyên, khác không

Tám giới trước và thanh

Không chấp thọ, khác hai.

Luận nói: Sáu thức, ý giới và pháp giới gồm thâu các tâm sở pháp, gọi là có đối tượng duyên. Vì có đối tượng duyên như người có con. Đối tượng duyên, đối tượng hành cùng với cảnh giới về danh nghĩa là có sai biệt. Mười sắc giới còn lại và pháp giới gồm thâu pháp không tương ưng, gọi là không có đối tượng duyên, nghĩa căn cứ theo đấy là thành, nên biết là năm thức không phân biệt. Nên duyên nơi cực vi thật hòa tập làm cảnh. Không duyên nơi hòa hợp, không hòa hợp, gọi là nói riêng về một ít pháp, có thể làm cảnh của thức không phân biệt đã nhận lấy mà thành. Ở trong nhiều pháp khởi một tăng ngữ. Vì lời nói chuyển biến nên gọi là hòa hợp. Vì năm thức không duyên nơi tăng ngữ làm cảnh, nên hòa hợp không phải là đối tượng duyên của năm thức.

Như vậy là đã nói về có đối tượng duyên v.v… Trong mười tám giới thì chín giới không có chấp thọ.

Những gì là chín?

Nghĩa là như trước đã nói về bảy giới có đối tượng duyên và toàn bộ pháp giới. Tám giới này và thanh giới đều không có chấp thọ. Trong tụng và lời nói bao gồm đủ hai nghĩa: Một là hiển bày về tập hợp chung. Nghĩa là tám giới và thanh giới đều không có chấp thọ. Hai là làm rõ về môn khác. Nghĩa là có Sư khác nói: Thanh không lìa căn cũng có chấp thọ. Chín giới còn lại thì chung cho hai. Nghĩa là năm sắc căn và sắc, hương, vị, xúc.

Thế nào là chung cả hai?

Năm căn như nhãn v.v… trụ nơi đời hiện tại, gọi là có chấp thọ. Quá khứ, vị lai gọi là không có chấp thọ. Sắc, hương, vị, xúc trụ nơi đời hiện tại không lìa năm căn, gọi là có chấp thọ. Quá khứ, vị lai và trụ nơi hiện tại không phải không lìa căn, gọi là không có chấp thọ. Thế nên chín giới đều chung nơi hai môn.

Những gì gọi là tướng có chấp thọ?

Trong Bản luận nói: Thuộc về thân mình gọi là có chấp thọ. Điều này lại là thế nào? Nghĩa là tâm tâm sở chấp là mình có. Tức tâm tâm sở cùng có đối tượng chấp giữ, gồm thâu làm xứ nương dựa, gọi là có chấp thọ, vì tổn ích lần lượt lại cùng tùy thuộc.

Nếu như thế thì sắc v.v… tức nên hoàn toàn gọi là không có chấp thọ, vì tâm tâm sở pháp không dựa vào sắc đó, nên không phải là tánh của căn?

Không như vậy, vì sắc v.v… nếu không lìa căn thì tuy không phải là đối tượng nương dựa, nhưng là chỗ phụ trợ gần gũi của tâm v.v…, nên không có lỗi ấy.

Như thế là đã nói về có chấp thọ v.v… Trong mười tám giới có bao nhiêu thứ là tánh đại chủng, bao nhiêu thứ là tánh được tạo, bao nhiêu thứ là có thể tích tập, bao nhiêu thứ không phải là tích tập?

Tụng nêu:

Trong xúc giới có hai

Chín khác, sắc được tạo

Một phần pháp cũng vậy

Mười sắc có tích tập.

Luận nói: Xúc giới thì chung cho hai: Một là đại chủng. Hai là được tạo.

Hai thứ này như trước đã giải thích về mười một xúc, không phải chỉ đại chủng đã gồm thâu chung xúc giới, vì đều là xứ riêng. Kinh nói: Trong xúc xứ đã gồm thâu sắc được tạo. Chín sắc giới còn lại chỉ là được tạo. Nghĩa là năm sắc căn, sắc, thanh, hương, vị cùng một phần pháp giới cũng chỉ là sắc được tạo. Nghĩa này lại là thế nào? Nghĩa là vô biểu sắc, vì dựa vào đại chủng sinh, nên gọi là sắc được tạo. Nhưng thanh là hiển bày nhất định không có một giới, chỉ là tánh đại chủng. Bảy tâm giới còn lại, một phần pháp giới, trừ vô biểu sắc, là câu phi hai thứ, nghĩa căn cứ theo đấy là đã thành. Lìa ngoài đại chủng, có riêng sắc được tạo, đều là xứ riêng, kinh tức làm chứng thành.

Như thế là đã nói về đại chủng được tạo. Trong mười tám giới, năm căn, năm cảnh tức mười giới có sắc, là có thể tích tập. Do thể của cực vi này có thể tụ tập, nên gọi là có thể tích tập. Về nghĩa là căn cứ theo đấy. Tám giới còn lại thì không phải có thể tích tập, vì thể không phải là cực vi, nên không thể tụ tập.

Như vậy là đã nêu bày về có thể tích tập v.v… Trong mười tám giới, có bao nhiêu thứ là chủ thể chặt, đối tượng chặt (năng chước, sở chước)? Bao nhiêu thứ là chủ thể đốt, đối tượng đốt (năng thiêu, sở thiêu)? Bao nhiêu thứ là chủ thể xưng gọi, đối tượng xưng gọi (năng xưng, sở xưng)? Sáu câu hỏi như thế nay nên đáp chung.

Tụng nêu:

Là chỉ bốn giới ngoài

Chủ thể, đối tượng chặt

Cũng sở thiêu, năng xưng

Năng thiêu, sở xưng tranh.

Luận nói: Sắc, hương, vị, xúc thành búa, củi v.v… Đây tức gọi là chủ thể chặt, đối tượng chặt. Chỉ là nghĩa quyết định, ý làm rõ về chặt v.v… Quyết định là bốn giới ngoài, không phải là pháp khác cùng nói là hiển bày về chủ thể chặt, đối tượng chặt đều cùng chung nơi bốn giới. Tức tướng của các tụ sắc, bức bách nối tiếp sinh, duyên khác chia cách, khiến đều nối tiếp khởi, gọi là chủ thể chặt, đối tượng chặt. Vì là tánh sát-na, nên về lý thật thì đều không có chủ thể chặt, đối tượng chặt. Nghĩa của đối tượng chặt này là thân căn v.v… đều là các sắc căn. Duyên khác chia cách có thể khiến thành hai, đều cùng nối tiếp khởi. Chi phần lìa thân thì không có căn. Lại, thân căn v.v… cũng không phải là chủ thể chặt, vì tướng tịnh diệu, nên như ánh sáng của ngọc báu. Câu nói các nghĩa này chỉ là nói về đối tượng được hiển bày. Như thể của chủ thể chặt, đối tượng chặt chỉ là bốn giới ngoài. Đối tượng đốt, chủ thể xưng gọi, thể của chúng cũng như vậy. Nghĩa là chỉ bốn giới ngoài gọi là đối tượng đốt, chủ thể xưng gọi.

Vì tướng tịnh diệu của sắc căn như thân v.v… cũng không phải là hai sự, như ánh sáng của ngọc báu. Thanh không phải là sắc cùng nối tiếp đều cùng chuyển, vì có gián đoạn.

Sáu nghĩa đều không có chủ thể đốt, đối tượng xưng gọi.

Có tranh luận khác. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Thể của chủ thể đốt, đối tượng xưng gọi, cũng như trước, chỉ là bốn giới ngoài.

Hoặc lại có thuyết cho: Chỉ có hỏa giới có thể gọi là chủ thể đốt, đối tượng xưng gọi, vì chỉ trùng lặp.

Như vậy là đã nói về chủ thể chặt, đối tượng chặt v.v… Trong mười tám giới, có bao nhiêu thứ là dị thục sinh? Bao nhiêu thứ là được nuôi lớn? Bao nhiêu thứ là đẳng lưu? Bao nhiêu thứ là sự có thật? Bao nhiêu thứ là một sát-na?

Năm câu hỏi như thế, nay nên đáp chung.

Tụng nêu:

Năm trong có thục, nuôi

Thanh không dị thục sinh

Tám vô ngại đẳng lưu

Cũng tánh dị thục sinh

Khác ba thật chỉ pháp

Sát-na chỉ ba sau.

Luận nói: Năm trong, nghĩa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tức có dị thục sinh và được nuôi lớn, vì ngăn chận tánh đẳng lưu, thế nên không nói. Tuy các căn như mắt v.v… cũng là tánh đẳng lưu, do có nhân đồng loại, tức là quả đẳng lưu. Vì lìa ngoài dị thục được nuôi lớn thì không có tánh đẳng lưu, vì thế nên ngăn chận. Như lìa nuôi lớn có dị thục sinh, lìa dị thục sinh có được nuôi lớn, không phải lìa hai thứ này mà có đẳng lưu riêng.

Vì biện về môn khác nên bỏ dở luận chung. Dị thục riêng gọi là thành thục. Lìa nhân mà thục nên gọi là dị thục. Thể của dị thục sinh khởi gọi là dị thục sinh. Hoặc là nhân của dị thục đã sinh, nên gọi là dị thục sinh.

Lược bỏ lời nói ở giữa nên nói như thế. Ví như xe bò. Hoặc nghiệp đã tạo khi đến được quả, vì biến đổi mà có thể thành thục, nên gọi là dị thục. Quả từ dị thục kia sinh, gọi là dị thục sinh. Hoặc ở trên nhân, giả lập tên quả, như ở trên quả, giả lập tên nhân. Như nói về sáu xúc xứ. Tức là nghiệp đã tạo: Ăn uống, nuôi nấng, hỗ trợ, ngủ nghỉ v.v… đã giữ gìn duyên hơn hẳn nơi lợi ích được tạo gọi là được nuôi lớn. Các duyên như ăn uống v.v… đối với thể của dị thục, chỉ có thể thâu giữ, không thể tăng ích, vì có riêng tăng ích, gọi là được nuôi lớn. Nên biết trong đây nuôi lớn nối tiếp thường có thể bảo vệ duy trì dị thục cùng nối tiếp, cũng như thành quách bên ngoài đã phòng hộ tiếp viện cho thành bên trong.

Đã nói thanh giới không có dị thục sinh, nghĩa căn cứ theo đấy không phải là không có đẳng lưu, nuôi lớn.

Do đâu thanh giới không phải là dị thục sinh?

Vì thanh thường thường gián đoạn, lại sinh trở lại. Sắc của dị thục sinh không có sự việc như thế. Quả dị thục không phải tùy theo dục lạc sinh khởi, còn thanh thì tùy theo dục sinh, nên không phải là dị thục.

Tám vô ngại: Là bảy tâm và pháp giới. Tám thứ này có tánh đẳng lưu, dị thục sinh. Nếu không phải là dị thục do nhân đồng loại, biến hành sinh ra, gọi là tánh đẳng lưu. Nếu do nhân dị thục sinh khởi, thì gọi là dị thục sinh. Khác, nghĩa là bốn giới sắc, hương, vị, xúc còn lại đều chung cho ba thứ, nghĩa là dị thục sinh, đẳng lưu được nuôi lớn.

Thật chỉ pháp: Thật, nghĩa là vô vi, do chắc thật thuộc về pháp giới này, nên chỉ pháp giới riêng gọi là có thật. Ý giới, pháp giới, ý thức giới gọi là ba giới sau, vì ở trong sáu thứ thì ba giới này là nêu bày sau cùng. Chỉ ba giới này là có một sát-na. Nghĩa là phẩm khổ pháp nhẫn vô lậu đầu tiên, vì không phải đẳng lưu nên gọi là một sát-na.

Ở đây nói là đang hiện hành, cũng không phải là đẳng lưu: Nghĩa là pháp hữu vi khác đều là đẳng lưu, chỉ sát-na của năm uẩn vô lậu đầu tiên, không có nhân đồng loại mà được sinh khởi. Pháp hữu vi khác không có sự việc như thế. Vì uy lực mạnh mẽ của đẳng vô gián duyên, nên nhân trước tuy thiếu, nhưng năm uẩn này vẫn được sinh. Uy lực mạnh mẽ của đẳng vô gián duyên: Nghĩa là so với phẩm loại Thánh đạo đầu tiên là đồng. Vì đã được nuôi lớn do vô lượng pháp thiện, vì ngang bằng với tánh tướng của Thánh đạo đầu tiên.

Vì các gia hạnh đã được tu rộng này, nên tâm tương ưng với khổ pháp nhẫn, gọi là ý giới, ý thức giới. Pháp còn lại đều cùng khởi, gọi là pháp giới.

Như vậy là đã nói về dị thục sinh v.v… Nay tức nên xét chọn.

Nếu có nhãn giới trước không thành lựu, nay được thành tựu, cũng là nhãn thức chăng? Nếu nhãn thức giới trước không thành tựu, nay được thành tựu thì cũng là nhãn giới chăng?

Các câu hỏi như thế v.v… nay nên lược đáp.

Tụng nêu:

Nhãn cùng nhãn thức giới

Riêng cùng được, không phải v.v…

Luận nói: Riêng được: Nghĩa là hoặc có nhãn giới trước không thành tựu, nay được thành tựu, thì không phải là nhãn thức. Nghĩa là sinh nơi cõi dục, dần được nhãn căn và ở cõi vô sắc mất, khi sinh ở địa của tĩnh lự hai, ba, bốn. Hoặc có nhãn thức trước không thành tựu, nay được thành tựu, thì không phải là nhãn giới. Nghĩa là sinh ở địa của tĩnh lự hai, ba, bốn, nhãn thức hiện khởi và khi từ địa đó mất, sinh xuống địa dưới. Đều cùng được: Nghĩa là hoặc có hai giới trước không thành tựu, nay được thành tựu. Nghĩa là khi ở cõi vô sắc mất sinh nơi cõi dục và trời Phạm thế.

Không phải đều cùng không phải: Nghĩa là trừ các tướng nêu trước. Vân vân: Là gồm thâu nghĩa còn lại chưa nêu bày.

Đây lại là thế nào?

Nghĩa là nếu thành tựu nhãn giới thì cũng thành tựu nhãn thức giới chăng? Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Nghĩa là sinh nơi địa của tĩnh lự hai, ba, bốn, nhãn thức không khởi.

2. Nghĩa là sinh nơi cõi dục, chưa được nhãn căn, hoặc được rồi mất.

3. Nghĩa là sinh nơi cõi dục được mắt không mất và sinh nơi trời Phạm thế. Hoặc sinh ở địa của tĩnh lự hai, ba, bốn, nhãn thức hiện tiền.

4. Nghĩa là trừ các tướng nêu trước.

Như vậy, nhãn giới cùng với sắc giới, nhãn thức cùng với sắc giới được và thành tựu như lý nên tư duy. Do đường lý này so sánh nên xét chọn.

Năm thứ sau, ba được cùng với thành tựu và hỗ tương đối chiếu cùng xả không thành, như nơi luận Tỳ-bà-sa, văn thị hiện rộng, e ngôn từ quá nhiều, nên nay không thuật.

Như thế là đã nêu bày về được, thành tựu v.v… Trong mười tám giới có bao nhiêu thứ là trong, bao nhiêu thứ là ngoài?

Tụng nêu:

Trong: Mười hai là nhãn v.v…

Sáu như sắc là ngoài.

Luận nói: Sáu căn, sáu thức tức mười hai gọi là trong. Ngoài nghĩa là sáu cảnh như sắc v.v… còn lại. Tuy không có thật ngã mà nghĩa trong thành.

Đã nói về trong, ngoài. Trong mười tám giới, có bao nhiêu thứ là đồng phần, bao nhiêu thứ là bỉ đồng phần?

Tụng nêu:

Pháp đồng phần khác hai

Tạo, không tạo, tự nghiệp.

Luận nói: Pháp đồng phần: Nghĩa là một pháp giới, chỉ là đồng phần. Nay nên trước là biện về tướng đồng phần của cảnh. Nếu cảnh cùng với thức nhất định là đối tượng duyên. Lại như pháp giới cùng với ý thức kia, nhất định là đối tượng duyên. Vì là không chung, nên thức ở trong đó đã sinh pháp sinh thì cảnh của đối tượng duyên này được gọi là đồng phần. Vì ý có thể duyên khắp tất cả cảnh, nên đối với cảnh nơi ba đời và không phải trong đời, không có một pháp giới nào không ở trong đó đã đang sẽ sinh. Vô biên ý thức, hai niệm nơi ý thức, tức có thể duyên khắp tất cả pháp. Do đấy pháp giới luôn gọi là đồng phần.

Khác hai: Nghĩa là mười bảy giới còn lại đều có đồng phần và bỉ đồng phần.

Vì sao gọi là đồng phần, bỉ đồng phần?

Nghĩa là tạo ra tự nghiệp, không tạo ra tự nghiệp. Nếu tạo ra tự nghiệp gọi là đồng phần. Không tạo ra tự nghiệp gọi là bỉ đồng phần.

Vì sao nhãn v.v… nói là đồng phần, bỉ đồng phần? Mắt của đồng phần nói có ba thứ. Nghĩa là đối với sắc giới đã đang và sẽ thấy. Mắt của bỉ đồng phần nói có bốn thứ, nghĩa là cùng trái với đồng phần này và pháp không sinh. Như mắt thì tai, mũi, lưỡi, thân cũng như vậy, đều ở nơi tự cảnh, nên nói về tự dụng. Đồng phần của ý giới nói có ba thứ, nghĩa là đối với đối tượng duyên, đã, đang và sẽ hiểu rõ. Ý của bỉ đồng phần chỉ có một thứ, nghĩa là pháp không sinh. Đồng phần của sắc giới nói có ba thứ. Nghĩa là đối tượng thấy biết của mắt, đã, đang và sẽ diệt. Sắc của bỉ đồng phần nói có bốn thứ. Nghĩa là cùng trái với đây và pháp không sinh. Nói rộng cho đến xúc giới cũng như vậy. Đều đối với tự căn, nên nói về tự dụng.

Sáu thức như nhãn v.v… dựa vào sinh, không sinh để lập hai phần, như nói về ý giới. Mắt nếu đối với một là đồng phần, đối với tất cả thứ còn lại cũng là đồng phần. Ở đây nếu đối với một là bỉ đồng phần, thì đối với tất cả thứ còn lại cũng là bỉ đồng phần. Nói rộng cho đến ý giới cũng như vậy. Sắc tức không như thế. Đối với người thấy là đồng phần, đối với người không thấy là bỉ đồng phần.

Lại có do đâu nói đồng phần và bỉ đồng phần của mắt là khác với sắc?

Do chấp nhận nhiều hữu tình đồng thấy một sắc, không dùng một mắt nơi hai hữu tình để xem. Thanh thì nói như sắc, vì là cảnh chung. Ba giới hương, vị, xúc nói như giới trong, vì không phải cảnh chung. Nhưng các thế gian đều dựa vào danh tưởng giả.

Có thuyết nói: Chúng ta đồng ngửi hương này, đồng nếm vị này, đồng nhận biết xúc này.

Thế nào là nghĩa của đồng phần và bỉ đồng phần? Phần, nghĩa là giao thiệp, vì đồng có phần này, nên gọi là đồng phần.

Thế nào là giao thiệp? Nghĩa là căn cảnh thức, lại cùng giao thiệp. Tức là nghĩa lần lượt cùng tùy thuận. Hoặc lại phần, là đã tác dụng lại cùng giao thiệp, nên trước đã nói: Nếu tạo ra tự nghiệp gọi là đồng phần. Hoặc lại phần, là xúc đã sinh dựa vào căn, cảnh, thức cùng giao thiệp sinh, vì đồng có phần này, nên gọi là đồng phần. Tức là nghĩa đồng có dụng, đồng có xúc. Cùng với đồng phần này trái nhau, gọi là bỉ đồng phần. Do không phải đồng phần cùng với chủng loại của bỉ đồng phần là đồng phần, gọi là bỉ đồng phần.

Thế nào là cùng với chủng loại kia là phần đồng? Nghĩa là phần này so với phần kia là đồng, tướng như thấy v.v… đồng xứ đồng giới, vì cùng làm nhân, vì hỗ tương hệ thuộc, vì hỗ tương dẫn sinh, nên là phần đồng của chủng loại.

HẾT – QUYỂN 3