LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁT TRÍ
Tác giả: Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 20

Chương 8: KIẾN UẨN

Phẩm 4: BÀN VỀ TRÍ

Tụng nêu chung:

Trí đoạn, chán, lìa, tu

Duyên, xúc, mạn, nghiệp, sự

Gồm thâu khác, tất cả

Chương nầy xin nói đủ.

*

Hỏi: Nếu sự có thể thông đạt, sự ấy có thể nhận biết khắp chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: 1. Có sự có thể thông đạt không phải là có thể nhận biết khắp: Nghĩa là trí khổ, tập, diệt, đạo không đoạn trừ phiền não. 2. Có sự có thể nhận biết khắp không phải là có thể thông đạt: Nghĩa là nhẫn khổ, tập, diệt, đạo đoạn trừ phiền não. 3. Có sự có thể thông đạt cũng có thể nhận biết khắp: Nghĩa là trí khổ, tập, diệt, đạo đoạn trừ phiền não. 4. Có sự không phải có thể thông đạt cũng không phải có thể nhận biết khắp: Nghĩa là nhẫn khổ, tập, diệt, đạo không đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Nếu sự có thể chán, sự ấy có thể lìa chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: 1. Có sự có thể chán không phải là có thể lìa: Nghĩa là nhẫn trí khổ, tập không đoạn trừ phiền não. 2. Có sự có thể lìa không phải là có thể chán: Nghĩa là nhẫn trí diệt, đạo đoạn trừ phiền não. 3. Có sự có thể chán cũng có thể lìa: Nghĩa là nhẫn trí khổ, tập đoạn trừ phiền não. 4. Có sự không phải có thể chán cũng không phải có thể lìa: Nghĩa là nhẫn trí diệt, đạo không đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Nếu sự có thể chán sự ấy nên tu chán chăng?

Đáp: Nếu sự có thể chán sự ấy cũng nên tu chán. Có sự nên tu chán không phải là có thể chán: Nghĩa là trí diệt, đạo đoạn trừ phiền não.

Hỏi: Nếu sự có thể lìa sự ấy nên tu chán chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: 1. Có sự có thể lìa không phải là tu chán: Nghĩa là nhẫn diệt, đạo đoạn trừ phiền não. 2. Có sự tu chán không phải là có thể lìa: Nghĩa là nhẫn trí khổ, tập không đoạn trừ phiền não. 3. Có sự có thể lìa cũng tu chán: Nghĩa là nhẫn trí khổ, tập và trí diệt, đạo đoạn trừ phiền não. 4. Có sự không phải là có thể lìa cũng không phải là tu chán: Nghĩa là nhẫn trí diệt, đạo không đoạn trừ phiền não.

*

Hỏi: Nếu pháp làm nhân cho pháp kia, thì hoặc có lúc pháp nầy không phải là nhân cho pháp kia chăng?

Đáp: Không lúc nào không phải là nhân.

Hỏi: Nếu pháp làm đẳng vô gián cho pháp kia, thì hoặc có lúc pháp nầy không phải là đẳng vô gián cho pháp kia chăng?

Đáp: Nếu khi pháp nầy chưa đến đã sinh.

Hỏi: Nếu pháp làm Sở duyên cho pháp kia, thì hoặc có lúc pháp nầy không phải là Sở duyên của pháp kia chăng?

Đáp: Không lúc nào không phải là Sở duyên.

Hỏi: Nếu pháp làm Tăng thượng cho pháp kia, thì hoặc có lúc pháp nầy không phải là Tăng thượng cho pháp kia chăng?

Đáp: Không lúc nào không phải là Tăng thượng.

*

Hỏi: Các ý xúc, tất cả ý xúc ấy là xúc của ba thứ hòa hợp chăng?

Đáp: Các ý xúc, tất cả ý xúc ấy là xúc của ba thứ hòa hợp. Có xúc của ba thứ hòa hợp không phải là ý xúc: Nghĩa là xúc chạm tương ưng với năm thức thân. Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết, có ý giới, có pháp giới, có vô minh giới. Vì xúc vô minh sinh ra thọ đã tiếp xúc, người ngu kém hiểu biết bèn chấp có, chấp không, hoặc chấp có – không”.

*

Hỏi: Các mạn, tất cả các mạn ấy là tự chấp chăng?

Đáp: Các mạn, tất cả các mạn ấy là tự chấp. Có tự chấp không phải là mạn: Nghĩa là các kiến thú. Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết, tự chấp có ngã, tự chấp có ngã sở”.

Hỏi: Các mạn, tất cả mạn ấy là không tịch tĩnh chăng?

Đáp: Các mạn, tất cả mạn ấy là không tịch tĩnh. Có không tịch tĩnh không phải là mạn: Nghĩa là các phiền não khác hiện ở trước. Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết, động là bị ma trói buộc, không động là thoát khỏi điều ác”.

*

Hỏi: Các nghiệp, nghiệp ấy là không luật nghi chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: 1. Có nghiệp không phải là không luật nghi: Nghĩa là luật nghi nơi thân, ngữ. 2. Có không luật nghi không phải là nghiệp: Nghĩa là căn không luật nghi. 3. Có nghiệp cũng là không luật nghi: Nghĩa là thân, ngữ không luật nghi. 4. Có không phải là nghiệp cũng không phải là không luật nghi: Nghĩa là căn luật nghi.

Hỏi: Các nghiệp, nghiệp ấy là luật nghi chăng ?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: 1. Có nghiệp không phải là luật nghi: Nghĩa là thân, ngữ không luật nghi. 2. Có luật nghi không phải là nghiệp: Nghĩa là căn luật nghi. 3. Có nghiệp cũng là luật nghi: Nghĩa là thân, ngữ luật nghi. 4. Có không phải là nghiệp cũng không phải là luật nghi: Nghĩa là căn không luật nghi.

*

Hỏi: Nếu sự việc chưa được, sự việc ấy là không thành tựu chăng?

Đáp: Nếu sự việc chưa được sự việc ấy là không thành tựu. Có sự việc không thành tựu không phải là chưa được: Nghĩa là đã được rồi mất.

Hỏi: Nếu sự việc đã được, sự việc ấy là thành tựu chăng?

Đáp: Nếu sự việc thành tựu, sự việc ấy đã được. Có sự việc đã được nhưng không thành tựu: Nghĩa là đã được rồi mất.

*

Trừ Khổ Thánh đế và pháp xứ, các pháp còn lại gồm thâu hai giới, một xứ, một uẩn. Trừ Tập Thánh đế và pháp xứ, nêu bày cũng như vậy.

Trừ Diệt Thánh đế và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn. Trừ Đạo Thánh đế và pháp xứ, nêu bày cũng như vậy.

*

Trừ pháp có sắc và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu bảy giới, một xứ, một uẩn. Trừ pháp không sắc và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười giới, mười xứ, một uẩn.

Trừ pháp có kiến và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười sáu giới, mười xứ, hai uẩn. Trừ pháp không kiến và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn.

Trừ pháp có đối và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu bảy giới, một xứ, một uẩn. Trừ pháp không đối và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười giới, mười xứ, một uẩn.

Trừ pháp hữu lậu và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu hai giới, một xứ, một uẩn. Trừ pháp vô lậu và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn.

Trừ pháp hữu vi và pháp xứ, trừ tất cả pháp ấy mà hỏi về pháp khác là sự việc không có, là luận bàn trống rỗng. Trừ pháp vô vi và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn.

*

Trừ pháp quá khứ và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn. Trừ pháp hiện tại, vị lai và pháp xứ, nêu bày cũng như vậy.

Trừ pháp thiện và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn. Trừ pháp bất thiện và pháp xứ, nêu bày cũng như vậy. Trừ pháp vô ký và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu chín giới, ba xứ, hai uẩn.

Trừ pháp hệ thuộc cõi Dục và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười ba giới, chín xứ, hai uẩn. Trừ pháp hệ thuộc cõi Sắc và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn. Trừ pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, pháp học, pháp vô học và pháp xứ, nêu bày cũng như vậy. Trừ pháp phi học phi vô học và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu hai giới, một xứ, một uẩn.

Trừ pháp do kiến đạo đoạn và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn. Trừ pháp do tu đạo đoạn và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu hai giới, một xứ, một uẩn. Trừ pháp không đoạn và pháp xứ, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, hai uẩn.

*

Trừ pháp đã sinh và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn. Trừ pháp không phải đã sinh và pháp nhất định không sinh, trừ tất cả pháp ấy mà hỏi về pháp khác là sự việc không có, là luận bàn trống rỗng.

Trừ pháp có sắc và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu tám giới, hai xứ, bốn uẩn. Trừ pháp không sắc và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười một giới, mười một xứ, một uẩn.

Trừ pháp có kiến và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn. Trừ pháp không kiến và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu một giới, một xứ, một uẩn.

Trừ pháp có đối và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu tám giới, hai xứ, năm uẩn. Trừ pháp không đối và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười giới, mười xứ, một uẩn.

Trừ pháp hữu lậu và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu ba giới, hai xứ, năm uẩn. Trừ pháp vô lậu và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.

Trừ pháp hữu vi và pháp nhất định không sinh, trừ tất cả pháp ấy mà hỏi về pháp khác, là sự việc không có, là luận bàn trống rỗng. Trừ pháp vô vi và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.

*

Trừ pháp quá khứ, pháp hiện tại và pháp nhất định không sinh, nêu bày cũng như vậy. Trừ pháp vị lai và pháp nhất định không sinh, trừ tất cả pháp ấy mà hỏi về pháp khác, là sự việc không có, là luận bàn trống rỗng.

Trừ pháp thiện và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn. Trừ pháp bất thiện và pháp nhất định không sinh, nêu bày cũng như vậy. Trừ pháp vô ký và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười giới, bốn xứ, năm uẩn.

Trừ pháp hệ thuộc cõi Dục và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười bốn giới, mười xứ, năm uẩn. Trừ pháp hệ thuộc cõi Sắc và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn. Trừ pháp hệ thuộc cõi Vô sắc, pháp học, pháp vô học và pháp nhất định không sinh, nêu bày cũng như vậy. Trừ pháp phi học phi vô học và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu ba giới, hai xứ, năm uẩn.

Trừ pháp do kiến đạo đoạn và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn. Trừ pháp do tu đạo đoạn và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu ba giới, hai xứ, năm uẩn. Trừ pháp không đoạn và pháp nhất định không sinh, pháp còn lại gồm thâu mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn.

*

Hỏi: Từng có một giới, một xứ, một uẩn gồm thâu tất cả pháp chăng?

Đáp: Có. Một giới là pháp giới, một xứ là ý xứ, một uẩn là sắc uẩn.

***

Phẩm 5: BÀN VỀ KIẾN

Tụng nêu chung:

Hai tà kiến thường, đoạn

Giới, tà giới, tà thường

Sáu kiến, năm Niết-bàn

Chín mạn loại, thường kiến.

Mê chấp tự, tha tạo

Ngộ tức hai không có

Nêu đủ mạn và đắc

Chương nầy xin nói đủ.

*

Từng có các kiến như vầy: Không có thí cho, không có ái lạc, không có cúng tế, không có hành diệu, hành ác. Đây là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn. Không có quả của hành diệu, hành ác. Đây là tà kiến hủy báng quả, do kiến khổ đoạn. Không có đời nầy, không có đời khác, không có hữu tình hóa sinh. Đây là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn, hoặc tà kiến hủy báng quả, do kiến khổ đoạn. Không có cha, không có mẹ. Đây là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Ở thế gian không có A-la-hán. Đây là tà kiến hủy báng đạo, do kiến đạo đoạn. Không có chánh chí, đây là tà kiến hủy báng diệt, do kiến diệt đoạn. Không có chánh hạnh nơi đời nầy đời khác, tức ở hiện pháp, biết tự thông đạt, tác chứng, trụ đầy đủ: sự sinh của ta đã tận, phạm hạnh đã lập, công việc làm đã xong, không thọ hữu sau, cho là nhận biết như thật. Đây là tà kiến hủy báng đạo, do kiến đạo đoạn trừ.

Từng có các kiến như vầy: Cho đến thọ mạng, sinh sống, chết rồi đoạn hoại, không có bốn đại chủng nầy. Lúc thân sĩ phu chết, thân đất trở về nơi đất, thân nước trở về nơi nước, thân lửa trở về nơi lửa, thân gió trở về nơi gió. Căn tùy theo không chuyển, xe chở là thứ năm, mang tử thi người kia đi đến vất bỏ nơi gò mả, chưa thiêu đốt có thể nhận biết, thiêu đốt xong thành tro, còn lại là xương màu chim bồ câu, người ngu khen thí cho, kẻ trí khen thọ nhận. Những sự luận bàn, tất cả đều là lời nói trống rỗng, hư vọng.

Cho đến có sự sống, kẻ ngu, trí, chết rồi đoạn hoại không có, đây là thuộc về đoạn kiến của biên chấp kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Không nhân, không duyên khiến hữu tình tạp nhiễm. Không phải nhân, không phải duyên mà hữu tình tạp nhiễm. Đây là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn.

Không nhân, không duyên khiến hữu tình thanh tịnh. Không phải nhân, không phải duyên mà hữu tình thanh tịnh. Đây là tà kiến hủy báng đạo, do kiến đạo đoạn.

Không nhân, không duyên khiến hữu tình không trí, không kiến. Không phải nhân, không phải duyên mà hữu tình không trí, không kiến. Đây là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn.

Không nhân, không duyên khiến hữu tình có trí kiến. Không phải nhân, không phải duyên mà hữu tình có trí kiến. Đây là tà kiến hủy báng đạo, do kiến đạo đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Không có lực, không có tinh tấn, không có lực tinh tấn, không có sĩ, không có uy thế, không có sĩ – oai thế, không có tự mình tạo tác, không có người khác tạo tác, không có tự mình, người khác tạo tác. Tất cả hữu tình, tất cả sinh, tất cả chủng loại, không có lực, không có tự tại, không có tinh tấn, không có uy thế, tánh hợp định biến đổi, nơi sáu thắng sinh, thọ các khổ vui. Tà kiến nầy nếu hủy báng lực tinh tấn hữu lậu v.v… tức tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn. Nếu hủy báng lực, tinh tấn v.v… vô lậu, là tà kiến hủy báng đạo, do kiến đạo đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Tạo tác, chỉ dạy sát hại, giết hại các chúng sinh, không cho mà lấy, hành tà dục, biết mà nói dối, uống các thứ rượu, đục tường, cởi trói, lấy hết mọi thứ hiện có, giữ ách, ngăn đường, hại thôn xóm, hại thành thị, hại sinh mạng nơi đất nước, dùng đao, dùng bánh xe, xâm chiếm đất đai, chúng sinh hiện có, đoạn cắt, phân xẻ, gom chứa thành một đống thịt. Nên biết, do cho đấy là không có ác, không có duyên ác. Ở phía Nam sông Hằng thì đánh đập, cắt, chém, ở phía Bắc sông Hằng thì tuệ thí, tu phước, nên biết cho do đấy là không có tội phước, cũng không có duyên của tội phước. Bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự, gồm thâu, dẫn dắt các hữu tình, đều cho là không có phước. Đấy là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Đây là thân bảy sĩ không làm mà làm, không hóa mà hóa, không thể hại, thường an trụ, như Y-sư-ca an trụ không động, không có chuyển biến, cùng không xúc chạm nhau.

Những gì là bảy? Nghĩa là đất, nước, lửa, gió và khổ, vui, thọ mạng. Thân bảy sĩ nầy không phải tạo tác, cho đến như Y-sư-ca an trụ không động. Hoặc tội, hoặc phước, hoặc tội phước, hoặc khổ, hoặc vui, hoặc khổ vui, không thể chuyển biến, cũng không thể khiến cùng xúc chạm, trở ngại. Nếu có sĩ phu đoạn dứt đầu sĩ phu, cũng không gọi là hại. Sự sinh của thế gian, hoặc đi, hoặc đứng, trung gian của bảy thân, đao nhọn tuy chuyển biến nhưng không hại mạng. Ở đây, không có chủ thể hại, không có đối tượng bị hại, không có chủ thể đánh đập, không có đối tượng bị đánh đập, không biểu thị, không xứ biểu thị. Biên chấp kiến nầy thuộc về thường kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Có mười bốn ức sáu vạn sáu trăm môn sinh. Năm nghiệp, ba nghiệp, hai nghiệp, một nghiệp, nửa nghiệp, sáu mươi hai hành tích, sáu mươi hai trung kiếp, một trăm ba mươi sáu địa ngục, một trăm hai mươi căn, ba mươi sáu trần giới, bốn vạn chín ngàn nhà rồng, bốn vạn chín ngàn nhà chim Diêu sí, bốn vạn chín ngàn nhà dị học, bốn vạn chín ngàn nhà sinh sống, bảy tạng hữu tưởng, bảy tạng vô tưởng, bảy tạng lìa trói buộc, bảy A-tốlạc, bảy Tất-xá-già, bảy trời, bảy người, bảy mộng, bảy trăm giấc mộng, bảy giác, bảy trăm giác, bảy ao, bảy trăm ao, bảy đường hiểm, bảy trăm đường hiểm, bảy giảm, bảy trăm giảm, bảy tăng, bảy trăm tăng, sáu loại thắng sinh, tám Đại sĩ địa.

Nơi xứ như thế, trải qua tám vạn bốn ngàn đại kiếp, hoặc ngu, hoặc trí, lưu chuyển qua lại, nên quyết định có thể tạo biên vực khổ, như ném cuộn chỉ, chỉ hết nên dừng lại.

Ở đây, không có Sa-môn hoặc Bà-la-môn có thể nói như thế nầy: Ta dùng Thi-la (Giới), hoặc dùng tinh tấn, hoặc dùng phạm hạnh, khiến cho nghiệp hiện có chưa thành thục được thành thục, thành thục, xúc chạm xong, tức liền biến đổi, loại bỏ.

Do lượng định về biên vực khổ, vui nơi sinh tử như thế, không thể thiết lập có tăng, có giảm, cũng không thể nói, hoặc rõ ràng, không rõ ràng. Đây không phải là nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Tất cả sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, các hữu đã thọ, tất cả đều cho là do đời trước tạo tác làm nhân. Đây không phải là nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Tất cả sĩ phu, Bổ-đặc-già-la, các hữu đã nhận, đều cho do sự biến hóa của Tự tại làm nhân. Đây không phải là nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Tất cả sĩ phu, Bổ-đặc-già-la đã thọ nhận, đều cho là không có nhân, không có duyên. Đây là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Tự mình tạo ra khổ vui, người khác tạo ra khổ vui, tự mình người khác tạo ra khổ vui. Đây không phải là nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Khổ vui đã thọ nhận, không phải tự mình tạo, không phải người khác tạo, không có nhân mà sinh. Đây là tà kiến hủy báng nhân, do kiến tập đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Ngã và thế gian, thường hằng, an trụ kiên cố, là pháp không biến dịch, đang an trụ như thế. Biên chấp kiến nầy thuộc về thường kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Là đế, là trụ, nên ta có ngã. Biên chấp kiến nầy thuộc về thường kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Là đế, là trụ, nên ta không có ngã. Biên chấp kiến nầy thuộc về đoạn kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Ngã quán ngã, nhãn sắc tức là ngã. Đây là hữu thân kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Ngã quán không ngã, mắt tức là ngã, sắc là các công cụ. Đây là hữu thân kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Không ngã quán ngã, sắc tức là ngã, mắt là các công cụ. Đây là hữu thân kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Đây là ngã, là hữu tình, thọ mạng, sự sinh, người nuôi dạy, Bổ-đặc-già-la, ý sinh, nho đồng, kẻ tạo tác, chỉ dạy, người sinh, người cùng sinh, người khởi, người cùng khởi, người nói, người nhận biết. Cùng lãnh nhận, không phải từng không có, không phải sẽ không có, nơi các xứ kia, tạo nghiệp thiện, ác, nơi các xứ kia, thọ dị thục của quả, bỏ uẩn ấy, nối tiếp uẩn khác. Biên chấp kiến nầy thuộc về thường kiến, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Thọ nhận năm dục vui đẹp, gọi là được Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất. Đây là lấy pháp thấp kém cho là thù thắng, thuộc về kiến thủ, do kiến khổ đoạn.

Từng có các kiến như vầy: Lìa pháp dục ác bất thiện, có tầm có tứ, ly sinh hỷ lạc, nhập trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ nhất, gọi là được Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất.

Tầm, tứ tĩnh lặng, nội cùng tịnh, tánh của tâm một cảnh. Không tầm không tứ, định sinh hỷ lạc, nhập trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ hai, gọi là được Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất.

Lìa hỷ trụ xả, chánh niệm, chánh tri, thân thọ an lạc bậc Thánh gọi là có thể xả, đủ niệm lạc trụ, nhập trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ ba, gọi là được Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất.

Đoạn vui, dứt khổ, trước hết là hỷ, ưu mất hẳn, không khổ, không vui, xả niệm thanh tịnh, nhập trụ đầy đủ nơi tĩnh lự thứ tư, gọi là được Niết-bàn của hiện pháp thứ nhất. Đây là lấy pháp thua kém cho là thù thắng, là kiến thủ, do kiến khổ đoạn.

Có chín loại mạn: Nghĩa là ta hơn, ta bằng, ta kém. Có người hơn ta, có người bằng ta, có người kém ta. Không ai hơn ta, không ai bằng ta, không ai kém ta.

Ta hơn : Là dựa vào kiến khởi quá mạn. Ta bằng: Là dựa vào kiến khởi mạn. Ta kém: Là dựa vào kiến khởi ti mạn.

Có người hơn ta: Là dựa vào kiến khởi ti mạn. Có người bằng ta: Là dựa vào kiến khởi mạn. Có người kém ta: Là dựa vào kiến khởi quá mạn.

Không ai hơn ta: Là dựa vào kiến khởi mạn. Không ai bằng ta: Là dựa vào kiến khởi quá mạn. Không ai kém ta: Là dựa vào kiến khởi ti mạn.

Từng có các kiến như vầy: Gió không thổi, sông không trôi, lửa không cháy, sữa không chảy ra, thai không mang, mặt trời, mặt trăng không mọc, không lặn, trụ nơi tự tánh nhiễm tịnh, không tăng không giảm. Biên chấp kiến nầy thuộc về thường kiến, do kiến khổ đoạn.

*

Như trong Khế kinh nói:

Chúng sinh chấp ngã tạo

Chấp người tạo cũng vậy

Đều không thể như thật

Quán biết là mũi tên.

Hỏi: Lời nói nầy có nghĩa gì?

Đáp: Chúng sinh là chỉ cho ngoại đạo. Ngoại đạo kia tạo ra chấp nầy: “Ngã có thể tạo, ngã có thể sinh, ngã có thể biến hóa”, nên nói “Chúng sinh chấp ngã tạo”.

Lại có ngoại đạo chấp người khác có thể tạo, người khác có thể sinh, có thể biến hóa, nên nói “Chấp người tạo cũng vậy”, tức đều cho mỗi mỗi không phải là tất cả mũi tên: Nghĩa là ác kiến có thể bị trúng thương, nên kẻ kia đối với kiến nầy không thể quán biết như thật về mũi tên ấy.

Nên quán mũi tên nầy

Chúng sinh chấp trước chặt

Như thế tức không có

Ta tạo, người khác tạo.

Nên quán mũi tên nầy: Là nên quán biết như thật về kiến nầy đúng là mũi tên độc, nó là sự dẫn đường đi trước cho già, bệnh, chết.

Chúng sinh chấp trước chặt: Chúng sinh là chỉ cho ngoại đạo, họ ở trong cõi kiến đã chấp trước sâu dày, không thể xuất ly. Nếu có thể quán biết đúng như thật như thế, tức không còn chấp có ngã tạo tác, có ngã sinh, ngã biến hóa, cũng không còn chấp có người khác tạo tác, người khác sinh, người khác biến hóa, do nhận biết đối với không có, vọng chấp là có:

Chúng sinh đủ mạn

Mạn chấp mạn buộc

Nơi kiến trái nhau

Không vượt sinh tử.

Đủ mạn: Là làm rõ việc tạo thành bảy mạn. Chúng sinh: Là ngoại đạo. Họ đối với bảy mạn đã chấp, chấp trước nhiều, vướng mắc nhiều, vướng mắc khắp, nên nói là Mạn chấp. Trói buộc, trói buộc nhiều, trói buộc khắp, nên nói là Mạn buộc.

Nơi kiến trái nhau: Là loại đoạn kiến, thường kiến hỗ tương trái nhau.

Không vượt sinh tử: Là các ngoại đạo kia đối với nẻo sinh tử không có bờ bến, không thể vượt qua để đạt đến Niết-bàn.

Được, sẽ được, cùng hợp

Học kém, giới, cấm, gội

Phạm, khổ, sự, một biên

Thọ dục tịnh thứ hai.

Không thấy, tột chìm, chạy

Mắt sáng thấy, nên khác

Đối kia không bụi, mạn

Dứt đường, đến bờ khổ.

Được: Là chỉ rõ đã được các uẩn, giới, xứ.

Sẽ được: Là hiển bày việc chưa được các uẩn, giới, xứ.

Cùng hợp: Là hai thứ ấy cùng làm tham, sân, si. Là phiền não cấu uế tụ hợp, tụ hợp khắp, tụ hợp tột cùng.

Kém: Có hai nghĩa: Chỉ cho bệnh và chỉ cho ngoại đạo. Nay nói ngoại đạo là kẻ thua kém, vì họ ở đây là theo học, nên gọi là học kém. Họ nói thế nầy: “Các Bổ-đặc-già-la hoặc cỡi voi, ngựa, chèo thuyền, lái xe, khiêng kiệu, cầm giữ cung, gậy, móc sắt, bánh xe, lụa là, in ấn sách vở, toán số, đều khiến thiện xảo. Do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui”. Đấy là không phải nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Giới: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các Bổ-đặc-già-la thọ giữ các thứ giới của bò, nai, chó, lõa hình v.v… do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đấy là không phải nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Cấm: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các Bổ-đặc-già-la thọ giữ sự ngăn cấm của các loài chim, sự ngăn cấm phải im lặng v.v… do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đấy là không phải nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Gội: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các Bổ-đặc-già-la ở nơi ba ao lớn như Ma-nại-bà v.v… là cửa ngỏ của sông Hằng tắm gội, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đấy là không phải nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Phạm: Là phạm hạnh. Có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các Bổ-đặc-già-la thọ giữ phạm hạnh, xa lìa dâm dục, do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đấy là không phải nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Khổ: Là khổ hạnh. Có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các Bổ-đặc-già-la thọ nhận đủ các thứ khổ hạnh, do đấy nên được tịnh thoát xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đấy là không phải nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Sự: Là thừa sự. Có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các Bổ-đặc-già-la điều phục các loại voi, ngựa, bò, thờ mặt trời, mặt trăng, tinh tú, lửa v.v… do đấy nên được tịnh thoát, xuất ly khỏi biên vực tận cùng của khổ vui. Đấy là không phải nhân chấp là nhân, thuộc giới cấm thủ, do kiến khổ đoạn.

Một biên: Là biên khổ hạnh như trên đã nói.

Thọ dục tịnh: Là có các ngoại đạo khởi kiến chấp nầy, lập luận nầy: Các dục tịnh tinh đẹp, vừa ý thọ dụng, không có lỗi lầm. Đây là lấy pháp thấp kém làm thù thắng, là kiến thủ do kiến khổ đoạn.

Thứ hai: Tức ở đây nói đến một biên của lạc hạnh.

Không thấy: Là các ngoại đạo đối với hai biên trên, không thấy đúng như thật.

Tột chìm, chạy: Là các ngoại đạo kia do không thấy, nên một loại khởi ái, gọi là tột cùng chìm, một loại khởi kiến, gọi là tột cùng chạy.

Lại nữa, một loại lười biếng nên gọi là tột cùng chìm, một loại trạo cử nên gọi là tột cùng chạy.

Lại nữa, một loại khởi mạn nên gọi là tột cùng chìm, một loại khởi quá mạn nên gọi là tột cùng chạy.

Mắt sáng trông thấy: Mắt sáng: Là Phật và đệ tử của Phật. Thấy: Là nơi hai biên đã nói ở trên, thấy biết đúng như thật.

Có thể khác: Là do thấy biết đúng như thật, nên không đồng với sự chìm, chạy tột cùng của ngoại đạo kia, do đã có thể không dấy khởi ái, kiến.

Đối kia không có bụi: Nghĩa là đối với uẩn, giới, xứ đã được, chưa được, không khởi các thứ bụi bặm tham, sân, si.

Đối kia không có mạn: Nghĩa là đối với hai biên, tuy cùng xa lìa nhưng tâm không hề dựa cậy.

Dứt đường: Nếu có thể hành như thế, tức dứt tuyệt ba đường, là phiền não, nghiệp, khổ.

Đến biên vực tận cùng của khổ: Khổ nghĩa là khổ của năm thủ uẩn. Biên vực tận cùng nghĩa là Niết-bàn. Nếu dứt tuyệt ba đường, nên đạt đến biên vực tận cùng của uẩn khổ ấy.

***

Phẩm 6: BÀN VỀ GIÀ THA

Tụng nêu chung:

Thấy, phạm, phụ hơn, lưới

Xe vốn tin lưu chuyển

Mẫu vương tuệ thoát căn

Chương nầy xin nói đủ.

*

Đã thấy nên thấy biết

Đã thấy và không thấy

Người không thấy, không thấy

Không thấy và đã thấy.

Đã thấy: Nghĩa là những người đã thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Có thể thấy, Đã thấy và không thấy: Nghĩa là những người kia có thể thấy, các kẻ khác đã thấy cùng không thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Người không thấy: Nghĩa là những kẻ không thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Không thấy, Không thấy và đã thấy: Nghĩa là những người kia không thấy, các kẻ khác không thấy và đã thấy về khổ, tập, diệt, đạo.

Không nên hại Phạm chí

Cũng lại không nên bỏ

Nếu hại họ hoặc bỏ

Người trí đời đều chê.

Không nên hại Phạm chí: Phạm chí tức là A-la-hán. Nghĩa là không nên dùng tay, hòn đất đá, dao, gậy để hại A-la-hán.

Cũng lại không nên bỏ: Nghĩa là đối với A-la-hán nên dùng y phục, thức ăn uống, giường nằm, thuốc thang và các vật dụng cần thiết cho cho đời sống khác, cung kính cúng dường, không nên lìa bỏ.

Nếu hại họ hoặc bỏ, Người trí đời đều chê: Nghĩa là đối với A-la-hán nếu dùng tay, đất, đá v.v… để hại, hoặc lại còn từ bỏ không cung kính cúng dường, đều bị các người trí của thế gian chê trách quở mắng.

Nghịch hại nơi cha mẹ

Vua cùng hai đa văn

Diệt nước và tùy hành

Vô ngại quá Phạm chí.

Nghịch hại nơi cha mẹ, Vua cùng hai đa văn: Mẹ tức dụ cho ái, do có thể sinh. Như Đức Thế Tôn nói:

Sĩ phu do ái sinh

Do tâm nên dong ruổi

Hữu tình ở sinh tử

Khổ là sợ hãi lớn.

Cha tức dụ cho nghiệp hữu lậu, do có thể dẫn dắt. Như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô! Hữu tình như thế tạo hữu lậu thiện, nghiệp do tu thành, được sinh ở cõi kia, vì thọ dị thục của quả, nên Ta nói hữu tình kia theo nghiệp mà hành”.

Vua tức dụ cho hữu, thủ, thức. Như Đức Thế Tôn nói:

Vua, tăng thượng thứ sáu

Nhiễm, khi nhiễm tự chọn

Không nhiễm mà có nhiễm

Người nhiễm gọi kẻ ngu.

Lại như Đức Thế Tôn nói: “Bí-sô nên biết! Ta nói về chủ thành, tức hữu, thủ, thức”.

Hai đa văn: Tức dụ cho kiến thủ, giới cấm thủ. Như cúng tế, tĩnh lặng, hai người đa văn ở trong bụi bặm cấu uế cùng tạo mọi thứ hý luận.

Hai thủ như thế, đối với pháp hữu lậu, chấp cho là hơn hết, là bậc nhất. Hoặc lại cho là tịnh thoát, xuất ly. Trừ bỏ thức thủ của nghiệp ái, vĩnh viễn đoạn trừ, nên gọi là nghịch hại.

Cõi nước dụ cho phiền não. Tùy hành dụ cho tầm, tứ tương ưng với thức thủ kia.

Tru diệt nghĩa là giết hết, tức từ bỏ, vĩnh viễn đoạn trừ phiền não tầm tứ, nên gọi là tru diệt.

Vô ngại, ngại có ba thứ, là tham, sân, si. A-la-hán kia đối với ba thứ nầy đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên gọi là vô ngại.

Quá nghĩa là ra khỏi. A-la-hán kia vì vô ngại nên vượt ra ngoài ba cõi, vì đoạn trừ vĩnh viễn pháp ác nên gọi là Phạm chí. Như Đức Thế Tôn nói: Phật hằng trụ chánh niệm, Du hóa nơi thế gian, Diệt pháp ác hết kiết, Nên gọi là Phạm chí.

Nghịch hại nơi cha mẹ

Vua cùng hai đa văn

Trừ cọp, oán thứ năm

Người ấy gọi thanh tịnh.

Ở đây nghĩa của hai câu trên: Như trước đã nói.

Cọp dụ cho triền sân, như bẩm tánh của cọp là bạo ác, hung dữ, ăn uống máu, thịt. Triền sân cũng như vậy, bạo ác, hung hiểm, diệt các căn thiện.

Oán thứ năm dụ cho cái thứ năm trong năm cái, hoặc dụ cho kiết thứ năm trong năm kiết thuận phần dưới. Do dứt bỏ, đoạn trừ vĩnh viễn, nên nói là trừ. Do người nầy đã vĩnh viễn đoạn trừ tham, sân, si nên nói là thanh tịnh.

Thắng rồi không còn thắng

Đã thắng, không chốn tùy

Nẻo hành Phật vô biên

Không dấu do đâu đến.

Thắng rồi: Nghĩa là các phiền não đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp. Sự thắng kia có thắng lại, có không thắng lại.

Ai thắng lại? Nghĩa là đã đoạn trừ phiền não, về sau trở lại thoái chuyển. Ai không thắng lại? Nghĩa là đã đoạn trừ phiền não, không còn thoái chuyển nữa.

Người không thắng lại là phân biệt chỗ khác với kẻ thắng lại.

Đã thắng, không chốn tùy: Nghĩa là nếu phiền não chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, tức tùy theo ba cõi, lưu chuyển tuần hoàn. Các phiền não đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên không còn nơi chốn tùy thuộc.

Nẻo hành Phật vô biên: Nghĩa là Đức Phật, Thế Tôn trí kiến vô học, giác ngộ sáng tỏ, tuệ soi hiện quán, khởi đạt thành tựu nên gọi là Phật. Bốn niệm trụ gọi là nẻo hành hóa của Phật. Vì hành tướng nơi đối tượng duyên của bốn niệm trụ nầy đều là không biên vực nên gọi là vô biên.

Không dấu do đâu đến: Dấu vết nghĩa là dấu chân, tức dụ cho phiền não. Nếu các phiền não chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, nên các chúng sinh kia phải đi đến những nẻo ác nơi ba cõi. Các phiền não đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên không còn do đâu đi đến.

Các lưới không thể giăng

Ái không chỗ nào dẫn

Nẻo hành Phật vô biên

Không dấu do đâu đến?

Các lưới không thể giăng: Lưới tức dụ cho ái. Như Đức Thế Tôn nói: “Ta nói lưới ái bủa giăng khắp rừng núi, ao hồ. Nếu ái chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, thì có thể giăng mắc lưới hiện bày khắp cả ba cõi. Do đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp nên không thể giăng bày”.

Ái không chỗ nào dẫn: Nghĩa là nếu ái chưa đoạn trừ, chưa nhận biết khắp, tức có thể dẫn đến ba cõi. Do đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên không nơi chốn để dẫn đến.

Hai câu sau nơi tụng: Nghĩa như trước đã nói.

Xe đã hư, đứt dây

Chảy rót và tùy hành

Vượt qua hào, thế gian

Chỉ Phật xưng Phạm chí.

Xe đã hư, đứt dây, Chảy rót và tùy hành: Xe dụ cho ngã mạn, dây tức dụ cho ái. Như xe chuyên chở các vật do xe nên cao, do dây buộc giữ, nên đi xa mới đến nơi. Hữu tình cũng vậy, do mạn nên cao, do ái buộc gìn nên lưu chuyển nơi sinh tử.

Chảy rót tức dụ cho tất cả phiền não. Tùy hành dụ cho tầm, tứ tương ưng với phiền não kia. Đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp mạn, ái, phiền não cùng tầm, tứ tương ưng, nên gọi là đã đoạn hoại.

Vượt qua hào: Hào dụ cho vô minh. Đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp nên gọi là vượt qua. Như Đức Thế Tôn nói: “Ngang tới đâu được gọi là đã vượt qua hào? Nghĩa là đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp về vô minh”.

Thế gian, Chỉ Phật xưng Phạm chí: Phật và Phạm chí nghĩa như trước đã giải thích. Nơi các thế gian, chỉ Đức Phật được xưng là Phạm chí chân thật, là bậc Vô Thượng Giác, mới có thể vĩnh viễn diệt trừ các pháp ác.

Một gốc, hai dòng xoáy

Ba cấu, năm lưu chuyển

Biển lớn, mười hai, hiểm

Mâu-ni đều đã vượt.

Một gốc: Là dụ cho vô minh, là căn bản của sinh tử, như Đức Thế Tôn nói:

Các nẻo ác hiện có

Đời nầy và đời sau

Đều vô minh làm gốc

Dục tham cùng hỗ trợ.

Hai dòng xoáy: Là dụ cho danh sắc, vì hữu tình ở trong đó khó có thể ra khỏi.

Ba cấu: Là cấu uế của tham, sân, si.

Năm lưu chuyển: Là dụ cho năm nẻo (thú), hữu tình ở trong ấy luôn lưu chuyển.

Biển lớn: Là dụ cho sáu nội xứ.

Mười hai: Là mười hai tướng, dụ cho sáu nội xứ và sáu ngoại xứ.

Hiểm: Là hầm hố hiểm trở dụ cho các phiền não.

Mâu-ni đều đã vượt: Mâu ni có hai là học và vô học. Học là đang vượt qua hầm hố phiền não hiểm trở kia. Vô học là đã vượt qua hầm hố phiền não hiểm trở đó.

Không tin, không biết ân

Đoạn kín, không xứ dung

Luôn hy vọng, biến đổi

Là trượng phu tối thượng.

Không tin: Là A-la-hán đối với Tam bảo, bốn đế, đều tự chứng biết, không phải tin nơi lời người khác nói.

Không biết ân: Ân nghĩa là hữu vi, vì có tác dụng, Niết-bàn gọi là phi ân. Các A-la-hán có trí kiến thù thắng, nhận biết về phi ân, nên gọi là không biết ân.

Đoạn kín: Kín nghĩa là nối tiếp. Sự nối tiếp nầy có hai thứ: 1. Sự nối tiếp của cõi Dục, cõi Sắc. 2. Sự nối tiếp của cõi Sắc, cõi Vô sắc. Do A-la-hán đã lìa sự nối tiếp nầy, nên gọi là đoạn kín.

Không xứ dung: Nghĩa là A-la-hán đã lìa sự nối tiếp, nên ở trong ba cõi không dung nạp xứ sinh.

Luôn hy vọng, biến đổi: Hy vọng có hai: 1. Hy vọng về của cải, địa vị. 2. Hy vọng về thọ mạng. A-la-hán kia đối với hai thứ nầy, vì đã đoạn trừ, đã nhận biết khắp, nên gọi là biến đổi, tức là nghĩa luôn hy vọng dứt bỏ.

Là trượng phu tối thượng: Nghĩa là vì A-la-hán đã đạt được công đức tối thượng, tối thắng bậc nhất đã nói ở trên, nên trong hàng trượng phu gọi là tối thượng, tối thắng bậc nhất.

Ba mươi sáu dòng chảy

Ý đã dẫn, tăng thịnh

Kẻ ác kiến, nhân ngự

Phân biệt chấp chỗ dựa.

Ba mươi sáu dòng chảy: Là dụ cho ba mươi sáu hành ái.

Ý đã dẫn: Tức là ý tập, ý đã sinh khởi, là chủng loại của ý.

Tăng thịnh: Nghĩa là phẩm thượng, mạnh, nhanh, đầy đủ.

Kẻ ác kiến: Nghĩa là các ngoại đạo. Họ đã nhân theo đấy đi đến Nại-lạc-ca, bàng sinh, quỷ giới, nên gọi là Nhân ngự (Nhân theo đấy).

Phân biệt: Nghĩa là ba thứ phân biệt: 1. Phân biệt của dục. 2. Phân biệt của sân. 3. Phân biệt của hại.

Chấp chỗ dựa: Chấp nghĩa là tham dục, giận dữ, ngu si. Ở đây đã dựa vào kia để khởi, nên gọi là chỗ dựa.

Bỏ hành ác thân

Và hành ác ngữ

Bỏ hành ác ý

Cùng lỗi lầm khác.

Bỏ hành ác thân: Là đoạn trừ ba hành ác của thân.

Và hành ác ngữ: Là đoạn trừ bốn hành ác của ngữ.

Bỏ hành ác ý: Là đoạn trừ ba hành ác của ý.

Cùng lỗi lầm khác: Là đoạn trừ các lỗi lầm khác nơi mười thứ hành ác trước.

Ông đối điều thấy, nghe

Chỉ có điều thấy, nghe

Cùng những gì hiểu, biết

Chỉ có điều hiểu, biết.

Do vì ông chỉ có

Không đây, kia, gần, xa

Cũng không hai trung gian

Nên đến biên vực khổ.

Hai tụng như thế là hiển bày lại trong kinh: Phật bảo Đại mẫu! Ông đối với chỗ thấy, chỉ có chỗ đã thấy. Ông đối với chỗ nghe, chỉ có chỗ đã nghe. Ông đối với chỗ hiểu, chỉ có chỗ đã hiểu. Ông đối với chỗ biết, chỉ có chỗ đã biết.

Do ông chỉ có chỗ đã thấy, nghe v.v… nên ông không có sự thấy nghe đây. Do ông không có sự thấy nghe đây, nên ông không có sự thấy nghe kia. Do ông không có sự thấy nghe kia, nên ông không có gần, không có xa, không có hai trung gian. Vì nhân duyên ấy nên đã đến được biên vực của khổ.

Ở đây, nhãn thức đã lãnh thọ, phân biệt nhận biết nên gọi là chỗ thấy. Có kẻ đối với chỗ thấy, chỉ có chỗ thấy. Có kẻ đối với chỗ thấy, không phải chỉ có chỗ thấy. Ai đối với chỗ thấy, chỉ có chỗ thấy? Nghĩa là đối với nhãn thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ thấy không phải chỉ có chỗ thấy? Nghĩa là đối với nhãn thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Nhĩ thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, gọi là chỗ nghe. Có kẻ đối với chỗ nghe, chỉ có chỗ nghe. Có kẻ đối với chỗ nghe, không phải chỉ có chỗ nghe. Ai đối với chỗ nghe, chỉ có chỗ nghe? Nghĩa là đối với nhĩ thức, đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ nghe, không phải chỉ có chỗ nghe? Nghĩa là đối với nhĩ thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Ba thức tỷ, thiệt, thân đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, gọi là chỗ hiểu. Có kẻ đối với chỗ hiểu, chỉ có chỗ hiểu. Có kẻ đối với chỗ hiểu, không phải chỉ có chỗ hiểu. Ai đối với chỗ hiểu, chỉ có chỗ hiểu? Nghĩa là đối với ba thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ hiểu, không phải chỉ có chỗ hiểu? Nghĩa là đối với ba thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Ý thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, gọi là chỗ nhận biết. Có kẻ đối với chỗ nhận biết, chỉ có chỗ nhận biết. Có kẻ đối với chỗ nhận biết, không phải chỉ có chỗ nhận biết. Ai đối với chỗ nhận biết, chỉ có chỗ nhận biết? Nghĩa là đối với ý thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, không dấy khởi phiền não. Ai đối với chỗ nhận biết, không phải chỉ có chỗ nhận biết? Nghĩa là đối với ý thức đã thọ lãnh, phân biệt nhận biết, đã dấy khởi các phiền não.

Do Đại mẫu kia đối với chỗ thấy, nghe, hiểu, biết, chỉ có chỗ thấy, nghe, hiểu, biết, không khởi phiền não, nên không có lỗi lầm nầy: Nghĩa là không khởi tâm mạn, tâm kiêu ngạo, tâm đề cao, ưa thích mạnh mẽ. Do vì Đại mẫu không có các tâm nầy, nên đã không có lỗi lầm kia: Tức là không khởi tham, sân, si. Do Đại mẫu không có tham, sân, si kia, nên không có gần, không có xa, không có hai trung gian, tức đối với cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc đều không có xứ sinh.

Do lý như thế, nên đến biên vực của khổ.

Khổ: Nghĩa là năm thủ uẩn. Biên vực của khổ ấy: Tức là từ bỏ tất cả chỗ nương dựa, ái hết, nhiễm lìa, là Niết-bàn vĩnh viễn tịch diệt.

Y-nê và Mê-nê

Đạp-phô, Đạt-điệp-phô

Chớ mong, nên mừng, lặng

Lìa khắp đến biên khổ.

Một tụng như thế, hiển bày lại trong kinh: Đức Phật đã vì hai vị vua Hộ thế, dùng ngữ Miệt-lệ-xa để nói về bốn Thánh đế v.v…, khiến họ liền lãnh hội: Y-nê: Hiển bày về khổ Thánh đế. Mê-nê: Hiển bày về tập Thánh đế. Đạp-phô: Hiển bày về diệt Thánh đế. Đạt-điệp-phô: Hiển bày về đạo Thánh đế.

Chớ mong: Tức khuyên hai vị kia chớ mong cầu nơi ba cõi.

Nên mừng: Tức khuyên hai vua kia: Nếu đã nghe Phật chứng pháp Bồ-đề, là Tăng khéo giảng nói về tu hành diệu: Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Khéo thiết lập khổ đế, khéo thiết lập tập, diệt, đạo đế, nên sinh vui mừng.

Nên tĩnh lặng: Tức khuyên hai vua kia: Nếu khi khởi tham, sân, si, nên tĩnh lặng cùng tĩnh lặng, tĩnh lặng tột bực.

Nên lìa khắp: Tức khuyên hai vua kia: Tâm nên lìa đối với các cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc.

Đến biên khổ: Nghĩa là nếu hai vua kia có khả năng như thế, tức đến được biên vực của khổ. Nói biên vực của khổ, nghĩa như trước đã nêu bày.

Biết thân như bọt tụ

Cũng hiểu đồng dợn nắng

Đoạn ma hoa, tiểu hoa

Không thấy vua chết khiến.

Biết thân như bọt tụ: Nghĩa là biết như thật về thân như bọt tụ, không có lực, trống rỗng, yếu kém, không thể giữ lấy.

Cũng biết đồng dợn nắng (Dương diệm): Nghĩa là biết như thật về thân đồng với dợn nắng, nhân nơi nhiệt não sinh, luôn dời đổi, trôi chảy không dừng.

Đoạn ma hoa, tiểu hoa: Ma có bốn thứ: Là ma phiền não, ma uẩn, ma chết, ma Tự tại thiên. Nên biết, ở đây nói ma phiền não do kiến đạo đoạn nên gọi là ma hoa, do tu đạo đoạn gọi là tiểu hoa. Từ bỏ bốn ma kia, vĩnh viễn dứt trừ, gọi là đoạn.

Không thấy vua chết khiến: Vô thường có thể hủy diệt gọi là vua chết. Già, bệnh theo đuổi bức bách gọi là vua chết sai khiến.

Quán trụ, biết gần xa

Nên mừng các nghiệp không

Biết đời có hưng suy

Tâm thiện, giải thoát khắp.

Quán trụ: Nghĩa là nên quán xét. Trụ có ba thứ: 1. Không. 2. Vô nguyện. 3. Vô tướng.

Biết gần xa: Biết, nghĩa là tuệ nhận biết, thông sáng, thuận hợp. Đối với cảnh trong, ngoài, nên sinh khởi thích đáng.

Nên mừng: Nghĩa là nếu nghe nói Phật đã chứng pháp Bồ-đề, là Tăng khéo giảng nói về tu hành diệu: Sắc là vô thường. Thọ, tưởng, hành, thức là vô thường. Khéo thiết lập khổ đế, khéo thiết lập tập đế, diệt đế, đạo đế, nên sinh vui mừng.

Các nghiệp không: Nghĩa là không tạo thành để có thể chiêu cảm nghiệp thân, ngữ, ý của đời sau.

Biết đời có hưng suy: Biết nghĩa là thấu đạt. Đời nghĩa là năm thủ uẩn. Hưng suy nghĩa là sinh, diệt. Tức là nghĩa tùy thuận quán về năm uẩn hữu lậu, có dấy khởi, cùng tận.

Tâm thiện: Nghĩa là tâm quyết định lựa chọn, tâm thiện xảo, tâm thuận hợp.

Giải thoát khắp: Nghĩa là ở các nẻo, các hữu, các sinh, đã giải thoát, giải thoát khắp, giải thoát tận cùng.

Tuy thoát nhưng lại đọa

Ham ăn nên trở lại

Được an vẫn ưa vui

Nhân vui đến chốn vui.

Tuy thoát: Tức các ngoại đạo tuy thoát nơi cõi Dục, nhưng lại đọa: Nghĩa là ngoại đạo kia vẫn còn bị đọa, sinh nơi cõi Sắc, cõi Vô sắc và rơi vào sự tham thọ sinh nơi cõi kia.

Ham ăn nên trở lại: Nghĩa là ngoại đạo kia đối với năm kiết thuận phần dưới tuy đã đoạn trừ phần ít, nhưng vì còn nhiều kiết khác, nên về sau tất khởi tham, sinh trở lại cõi Dục.

Được an: An nghĩa là cảnh giới Niết-bàn hữu dư y. Các A-lahán kia đã chứng nên gọi là đắc.

Vẫn ưa vui: Vui nghĩa là cảnh giới Niết-bàn vô dư y. Các A-lahán kia vì luôn ưa thích mến mộ nên gọi là ưa.

Nhân vui đến chốn vui: Nghĩa là nhân nơi đạo an lạc đạt đến Niết-bàn an lạc.

Không rễ nơi cõi đất

Không lá cũng không cành

Người dũng mãnh cởi buộc

Ai đâu lại hủy báng?

Rễ: Dụ cho thức của hữu, thủ. Cõi đất: Dụ cho bốn thức trụ. Như Đức Thế Tôn nói: “Năm hạt giống là chỉ rõ về hữu, thủ, thức, cõi đất hiển bày về bốn thức trụ”.

Lá: Dụ cho ngã mạn. Như Đức Thế Tôn nói: “Thế nào là đốt lá? Nghĩa là ngã mạn đã đoạn, đã nhận biết khắp”. Cành: Dụ cho ái. Như Đức Thế Tôn nói:

Năm diệu sắc trong cung

Nếu có cành ái sinh

Mâu-ni thấy ái sinh

Dùng tuệ chóng trừ đoạn.

Các A-la-hán ở trong bốn thức trụ, không có thức của hữu thủ dẫn dắt để có đời sau. Không có mạn, không có ái, nên nói là Không rễ nơi cõi đất, Không lá cũng không cành.

Người dũng mãnh: Nghĩa là A-la-hán kia đã thành tựu, nên có thể thành pháp dũng mãnh, tức cũng gọi là dũng mãnh.

Cởi buộc: Buộc có ba thứ: Nghĩa là tham, sân, si. A-la-hán kia đối với sự trói buộc nầy đã giải thoát, giải thoát khắp, giải thoát tận cùng.

Ai đâu lại hủy báng: Nghĩa là loại hữu tình như thế chỉ nên khen ngợi, không nên hủy báng. Nếu tạo sự hủy báng sẽ mắc phải vô biên tội, vì làm tổn hại đến phước điền chân thật của thế gian. Như Đức Thế Tôn đã nói:

Nếu nên chê mà khen

Cùng nên khen mà chê

Miệng kia góp tai họa

Tất không thọ an lạc.

HẾT – QUYỂN 20./.