LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHÁT TRÍ
Tác giả: Tôn giả Ca Đa Diễn Ni Tử
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 13

Chương 5: ĐẠI CHỦNG UẨN

Phẩm 1: BÀN VỀ ĐẠI TẠO

Tụng nêu chung:

Xứ do đại chủng tạo

Là bốn, hai, năm, ba

Đại tạo thành, không thành

Thành đại đối tạo bốn.

Chỉ thành đã tạo bốn

Bảy thứ như đại chủng

Dựa định diệt trụ quả

Chương nầy xin nói đủ.

*

Hỏi: Xứ do đại chủng tạo: Bao nhiêu thứ có thấy?

Đáp: Một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ không thấy?

Đáp: Phần ít của tám, hai.

Hỏi: Bao nhiêu thứ có đối?

Đáp: Phần ít của chín, một.

Bao nhiêu thứ không đối?

Đáp: Phần ít của một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là hữu lậu?

Đáp: Phần ít của chín, hai.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là vô lậu?

Đáp: Phần ít của một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là hữu vi?

Đáp: Phần ít của chín, hai.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là vô vi? Đáp: Không có.

*

Hỏi: Xứ do đại chủng tạo: Bao nhiêu thứ là quá khứ?

Đáp: Phần ít của mười một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là vị lai?

Đáp: Phần ít của mười một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là hiện tại?

Đáp: Phần ít của mười một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là thiện?

Đáp: Phần ít của ba.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là bất thiện?

Đáp: Phần ít của ba.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là vô ký?

Đáp: Phần ít của bảy, ba.

Hỏi: Bao nhiêu thứ hệ thuộc nơi cõi Dục?

Đáp: Phần ít của chín, hai.

Hỏi: Bao nhiêu thứ hệ thuộc nơi cõi Sắc?

Đáp: Phần ít của chín.

Hỏi: Bao nhiêu thứ hệ thuộc nơi cõi Vô sắc?

Đáp: Không có.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là học?

Đáp: Phần ít của một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là vô học?

Đáp: Phần ít của một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ là phi học phi vô học?

Đáp: Phần ít của chín, một.

Hỏi: Bao nhiêu thứ do kiến đạo đoạn?

Đáp: Không có.

Hỏi: Bao nhiêu thứ do tu đạo đoạn?

Đáp: Phần ít của chín, hai.

Hỏi: Bao nhiêu thứ không đoạn?

Đáp: Phần ít của một.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc được tạo chăng?

Đáp: Thành tựu đại chủng người kia nhất định thành tựu sắc được tạo. Có thành tựu sắc được tạo không phải là thành tựu đại chủng: Nghĩa là các Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

Nếu không thành tựu đại chủng người kia không thành tựu sắc được tạo chăng?

Đáp: Không thành tựu sắc được tạo người kia không thành tựu đại chủng. Có không thành tựu đại chủng không phải là sắc được tạo: Nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp: 1. Có thành tựu đại chủng không phải là thành tựu sắc thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất. 2. Có thành tựu sắc thiện không phải là thành tựu đại chủng: Nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc. 3. Có thành tựu đại chủng cũng là thành tựu sắc thiện: Nghĩa là các Thánh giả ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc. 4. Có không phải là thành tựu đại chủng cũng không phải là thành tựu sắc thiện: Nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia tạo thành sắc bất thiện chăng?

Đáp: Có tạo thành sắc bất thiện người kia nhất định thành tựu đại chủng. Có thành tựu đại chủng không phải là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng và ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc hữu phú vô ký chăng?

Đáp: Thành tựu sắc hữu phú vô ký người kia nhất định thành tựu đại chủng. Có thành tựu đại chủng không phải là thành tựu sắc hữu phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc vô phú vô ký chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc vô phú vô ký người kia thành tựu đại chủng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện, bất thiện chăng?

Đáp: Có thành tựu đại chủng không phải là thành tựu sắc thiện, bất thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, bất thiện, giả như có thì mất.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, không phải là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là Thánh giả ở nơi thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc.

Có thành tựu đại chủng cũng tạo thành sắc bất thiện, không phải là sắc thiện: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, bất thiện: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện bất thiện, hoặc trước đã có không mất.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc thiện, bất thiện, người kia thành tựu đại chủng chăng? Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện, hữu phú vô ký chăng?

Đáp: Có thành tựu đại chủng, không phải là thành tựu sắc thiện, hữu phú vô ký: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, không phải là thành tựu sắc hữu phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, hữu phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc thiện, hữu phú vô ký, người kia thành tựu đại chủng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là thành tựu sắc thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, vô phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc thiện, vô phú vô ký, người kia thành tựu đại chủng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia tạo thành sắc bất thiện, hữu phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia tạo thành sắc bất thiện, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc.

Có thành tựu đại chủng cũng tạo thành sắc bất thiện, vô phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất.

Hỏi: Nếu như tạo thành sắc bất thiện, vô phú vô ký, người kia thành tựu đại chủng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là sắc hữu phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký, người kia thành tựu đại chủng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện, bất thiện, hữu phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện, bất thiện, vô phú vô ký chăng?

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc vô phú vô

ký, không phải là thành tựu sắc thiện, bất thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, bất thiện, giả như có thì mất.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, vô phú vô ký, không tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc.

Có thành tựu đại chủng cũng tạo thành sắc bất thiện, vô phú vô ký, không phải là thành tựu sắc thiện: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, bất thiện, vô phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, bất thiện, hoặc trước đã có không mất.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc thiện, bất thiện, vô phú vô ký, người kia thành tựu đại chủng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là sắc thiện, hữu phú vô ký: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, vô phú vô ký, không phải là sắc hữu phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Có thành tựu đại chủng cũng thành tựu sắc thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký, người kia thành tựu đại chủng chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia tạo thành sắc bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng, người kia thành tựu sắc thiện, bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

*

Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, người kia tạo thành sắc bất thiện chăng?

Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc thiện không phải là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

2. Có tạo thành sắc bất thiện không phải là thành tựu sắc thiện: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

3. Có thành tựu sắc thiện cũng là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ thiện, bất thiện, hoặc trước đã có không mất.

4. Có không phải là thành tựu sắc thiện cũng không phải là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, bất thiện, giả như có thì mất, hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, người kia thành tựu sắc hữu phú vô ký chăng?

Đáp: Thành tựu sắc hữu phú vô ký, người kia nhất định thành tựu sắc thiện. Hoặc thành tựu sắc thiện không phải là sắc hữu phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân ngữ biểu hữu phú vô ký. Hoặc Thánh giả trụ nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, người kia thành tựu sắc vô phú vô ký chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc thiện không phải là thành tựu sắc vô phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả kia sinh nơi cõi Vô sắc.

2. Có thành tựu sắc vô phú vô ký không phải là thành tựu sắc thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

3. Có thành tựu sắc thiện cũng là thành tựu sắc vô phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất, hoặc sinh nơi cõi Vô sắc.

4. Có không phải là thành tựu sắc thiện cũng không phải là thành tựu sắc vô phú vô ký: Nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, người kia tạo thành sắc bất thiện, hữu phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, người kia tạo thành sắc bất thiện, vô phú vô ký chăng?

Có thành tựu sắc thiện không phải là tạo thành sắc bất

thiện, vô phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

Có thành tựu sắc thiện cũng là thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất, hoặc sinh nơi cõi Vô sắc.

Có thành tựu sắc thiện cũng là tạo thành sắc bất thiện, vô phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, bất thiện, hoặc trước đã có không mất.

Hỏi: Nếu như tạo thành sắc bất thiện, vô phú vô ký, người kia thành tựu sắc thiện chăng?

Đáp: Hoặc thành tựu, hoặc không thành tựu.

Thế nào là thành tựu? Tức như trên đã nói.

Thế nào là không thành tựu? Tức sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất. Hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu bất thiện, hoặc trước đã có không mất, hiện không có thân ngữ biểu thiện, giả như có thì mất.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, người kia thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Có thành tựu sắc thiện không phải là thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

Có thành tựu sắc thiện cũng là thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là thành tựu sắc hữu phú vô ký: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện có thân ngữ biểu thiện, hoặc trước đã có không mất. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Có thành tựu sắc thiện cũng thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, hiện có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký, người kia thành tựu sắc thiện chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc thiện, người kia tạo thành sắc bất thiện, hữu phú vô ký, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

*

Hỏi: Nếu tạo thành sắc bất thiện người kia thành tựu sắc hữu phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

Hỏi: Nếu tạo thành sắc bất thiện người kia thành tựu sắc vô phú vô ký chăng?

Đáp: Đã tạo thành sắc bất thiện, người kia nhất định thành tựu sắc vô phú vô ký. Có thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là tạo thành sắc bất thiện: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi cùng không phải luật nghi không phải không luật nghi, hiện không có thân ngữ biểu bất thiện, giả như có thì mất, hoặc sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu tạo thành sắc bất thiện người kia thành tựu sắc hữu phú vô ký, vô phú vô ký chăng?

Đáp: Không có.

*

Hỏi: Nếu thành tựu sắc hữu phú vô ký người kia thành tựu sắc vô phú vô ký chăng?

Đáp: Đã thành tựu sắc hữu phú vô ký, người kia nhất định thành tựu sắc vô phú vô ký. Có thành tựu sắc vô phú vô ký, không phải là thành tựu sắc hữu phú vô ký: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hiện không có thân ngữ biểu hữu phú vô ký.

*

Hỏi: Bốn đại chủng và sắc được tạo, dựa vào định nào diệt?

Đáp: Dựa vào bốn định, hoặc dựa vào vị chí diệt.

Hỏi: Tầm tứ xúc có đối dựa vào định nào diệt?

Đáp: Dựa vào định thứ nhất, hoặc dựa vào vị chí diệt.

Hỏi: Lạc căn dựa vào định nào diệt?

Đáp: Dựa vào ba định, hoặc dựa vào vị chí diệt.

Hỏi: Hỷ căn dựa vào định nào diệt?

Đáp: Dựa vào hai định, hoặc dựa vào vị chí diệt.

Hỏi: Khổ căn, ưu căn, đoạn thực dựa vào định nào diệt?

Đáp: Dựa vào vị chí diệt.

Hỏi: Xả căn, xúc, tư, thức thực, dựa vào định nào diệt?

Đáp: Dựa vào bảy định, hoặc dựa vào vị chí diệt.

*

Bốn đại chủng, sắc được tạo, tầm tứ xúc có đối, lạc căn, hỷ

căn đã đoạn, đã nhận biết khắp, nên nói là trụ nơi quả nào?

Đáp: Là quả A-la-hán, hoặc vô sở trụ.

Hỏi: Khổ căn, ưu căn, đoạn thực đã đoạn, đã nhận biết khắp, nên nói là trụ nơi quả nào?

Đáp: Là quả Bất hoàn, hoặc quả A-la-hán, hoặc vô sở trụ.

Hỏi: Xả căn, xúc, tư, thức thực đã đoạn, đã nhận biết khắp, nên nói là trụ nơi quả nào?

Đáp: Là quả A-la-hán.

***

Phẩm 2: BÀN VỀ DUYÊN

Tụng nêu chung:

Đại tạo tâm xứ căn

Cùng đối duyên bao nhiêu

Tương ưng tạo ba đời

Thế giới biện thành duyên.

Đại chủng cùng tạo sắc

Giới thế là đồng dị

Bốn thể thâu môn thức

Chương nầy xin nói đủ.

*

Hỏi: Đại chủng cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Hai duyên là Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Đại chủng cùng với sắc tạo làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Hai duyên là Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Sắc tạo cùng với sắc tạo làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Sắc tạo cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

*

Hỏi: Đại chủng cùng với tâm, tâm sở pháp làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Tâm, tâm sở pháp cùng với tâm, tâm sở pháp làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Tâm, tâm sở pháp cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

*

Hỏi: Đại chủng cùng với nhãn xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Nhãn xứ cùng với nhãn xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Nhãn xứ cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một duyên là Tăng thượng duyên.

Như nhãn xứ, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, hương, vị xứ cũng như vậy.

Hỏi: Đại chủng cùng với sắc xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Sắc xứ cùng với sắc xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Sắc xứ cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Như sắc xứ, thanh xứ, xúc xứ cũng như vậy.

Hỏi: Đại chủng cùng với ý xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Ý xứ cùng với ý xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Ý xứ cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Đại chủng cùng với pháp xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Pháp xứ cùng với pháp xứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Pháp xứ cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

*

Hỏi: Đại chủng cùng với nhãn căn làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Nhãn căn cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một duyên là Tăng thượng duyên.

Như nhãn căn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nam, nữ căn cũng như vậy.

Hỏi: Đại chủng cùng với mạng căn làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một duyên là Tăng thượng duyên.

Hỏi: Mạng căn cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một duyên là Tăng thượng duyên.

Hỏi: Đại chủng cùng với ý căn làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Ý căn cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân duyên, Tăng thượng duyên.

Như ý căn, lạc, khổ, hỷ, ưu, xả, tín, tinh tấn, niệm, định, tuệ căn cũng như vậy.

Hỏi: Đại chủng cùng với vị tri đương tri căn làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên.

Hỏi: Vị tri đương tri căn cùng với đại chủng làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một duyên là Tăng thượng duyên.

Như vị tri đương tri căn, dĩ tri căn, cụ tri căn cũng như vậy.

*

Hỏi: Vì sao bốn đại chủng, một sinh, một trụ, một diệt mà không tương ưng? Còn tâm, tâm sở pháp thì một sinh, một trụ, một diệt gọi là tương ưng?

Đáp: Như bốn đại chủng hoặc giảm, hoặc tăng, còn tâm tâm sở pháp thì không như thế. Lại, tâm tâm sở pháp đều có đối tượng duyên. Bốn đại chủng không có đối tượng duyên, không phải là không có pháp của đối tượng duyên để có thể nói tương ưng.

*

Từng có đại chủng quá khứ tạo sắc quá khứ chăng? Tạo

sắc vị lai, tạo sắc hiện tại chăng?

Đáp: Đều có.

Hỏi: Từng có đại chủng vị lai tạo sắc vị lai chăng? Tạo sắc quá khứ, tạo sắc hiện tại chăng?

Đáp: Vị lai có, quá khứ và hiện tại không có.

Hỏi: Từng có đại chủng hiện tại tạo sắc hiện tại chăng? Tạo sắc quá khứ, tạo sắc vị lai chăng?

Đáp: Hiện tại và vị lai có, quá khứ không có.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, người kia thành tựu sắc tạo quá khứ chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ có thành tựu sắc tạo quá khứ: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi cùng trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước đã có thân ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc các người học sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, người kia thành tựu đại chủng vị lai chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ, vị lai.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, người kia thành tựu sắc tạo vị lai chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ có thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện của cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, người kia thành tựu đại chủng hiện tại chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ có thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng quá khứ, người kia thành tựu sắc tạo hiện tại chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng quá khứ có thành tựu sắc tạo hiện tại: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc.

*

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo quá khứ, người kia thành tựu đại chủng vị lai chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai, có thành tựu sắc tạo quá khứ: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước đã có thân ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc các người học sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo quá khứ, người kia thành tựu sắc tạo vị lai chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc tạo quá khứ không phải là thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, không được tâm thiện của cõi Sắc. Hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước đã có thân ngữ biểu không mất.

2. Có thành tựu sắc tạo vị lai không phải là thành tựu sắc tạo quá khứ: Nghĩa là A-la-hán sinh nơi cõi Vô sắc.

3. Có thành tựu sắc tạo quá khứ cũng là thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện của cõi Sắc, hoặc các người học sinh nơi cõi Vô sắc.

4. Có không phải là thành tựu sắc tạo quá khứ cũng không phải là thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước không có thân ngữ biểu, giả như có thì mất, hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo quá khứ, người kia thành tựu đại chủng hiện tại chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc tạo quá khứ không phải là thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là người học sinh nơi cõi Vô sắc.

2. Có thành tựu đại chủng hiện tại không phải là thành tựu sắc tạo quá khứ: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước không có thân ngữ biểu, giả như có thì mất.

3. Có thành tựu sắc tạo quá khứ cũng là thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước đã có thân ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Vô sắc.

4. Có không phải là thành tựu sắc tạo quá khứ cũng không phải là thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là A-la-hán hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo quá khứ, người kia thành tựu sắc tạo hiện tại chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc tạo quá khứ không phải là thành tựu sắc tạo hiện tại: Nghĩa là người học sinh nơi cõi Vô sắc.

2. Có thành tựu sắc tạo hiện tại không phải là thành tựu sắc tạo quá khứ: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước không có thân ngữ biểu.

3. Có thành tựu sắc tạo quá khứ cũng là thành tựu sắc tạo hiện tại: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, trụ nơi luật nghi, hoặc trụ nơi không luật nghi, hoặc trụ nơi không phải luật nghi không phải không luật nghi, trước đã có thân ngữ biểu không mất, hoặc sinh nơi cõi Vô sắc.

4. Có không phải là thành tựu sắc tạo quá khứ cũng không phải là thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là A-la-hán hoặc phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng vị lai, người kia thành tựu sắc tạo vị lai chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai, có thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện của cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc, hoặc Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng vị lai, người kia thành tựu đại chủng hiện tại chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai, có thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng vị lai, người kia thành tựu sắc tạo hiện tại chăng?

Đáp: Không có thành tựu đại chủng vị lai, có thành tựu sắc tạo hiện tại: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, cõi Sắc.

*

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo vị lai, người kia thành tựu đại chủng hiện tại chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc tạo vị lai không phải là thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

2. Có thành tựu đại chủng hiện tại không phải là thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục không được tâm thiện của cõi Sắc.

3. Có thành tựu sắc tạo vị lai cũng là thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục được tâm thiện của cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc.

4. Có không phải là thành tựu sắc tạo vị lai cũng không phải là thành tựu đại chủng hiện tại: Nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo vị lai, người kia thành tựu sắc tạo hiện tại chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc tạo vị lai không phải là thành tựu sắc tạo hiện tại: Nghĩa là Thánh giả sinh nơi cõi Vô sắc.

2. Có thành tựu sắc tạo hiện tại không phải là thành tựu sắc tạo vị lai: Nghĩa là ở nơi bọc trứng, hoặc các phàm phu ở trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục không được tâm thiện của cõi Sắc.

3. Có thành tựu sắc tạo vị lai cũng là thành tựu sắc tạo hiện tại: Nghĩa là Thánh giả trụ trong thai tạng, hoặc sinh nơi cõi Dục được tâm thiện của cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc.

4. Có không phải là thành tựu sắc tạo vị lai cũng không phải là thành tựu sắc tạo hiện tại: Nghĩa là phàm phu sinh nơi cõi Vô sắc.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hiện tại, người kia thành tựu sắc tạo hiện tại chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc tạo hiện tại, người kia thành tựu đại chủng hiện tại chăng?

Đáp: Đúng vậy.

*

Hỏi: Đại chủng quá khứ và đại chủng quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Hai duyên là Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng quá khứ và sắc tạo quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo quá khứ và sắc tạo quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo quá khứ và đại chủng quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

*

Hỏi: Đại chủng quá khứ và đại chủng vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng vị lai và đại chủng vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng vị lai và đại chủng quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng quá khứ và sắc tạo vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo vị lai và sắc tạo vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo vị lai và đại chủng quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

*

Hỏi: Đại chủng quá khứ và đại chủng hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hiện tại và đại chủng hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hiện tại và đại chủng quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng quá khứ và sắc tạo hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hiện tại và sắc tạo hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hiện tại và đại chủng quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

*

Hỏi: Sắc tạo quá khứ và đại chủng vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng vị lai và sắc tạo quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo quá khứ và sắc tạo vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo vị lai và sắc tạo quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

*

Hỏi: Sắc tạo quá khứ và đại chủng hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hiện tại và sắc tạo quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo quá khứ và sắc tạo hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hiện tại và sắc tạo quá khứ làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

*

Hỏi: Đại chủng vị lai và sắc tạo vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo vị lai và đại chủng vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng vị lai và đại chủng hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hiện tại và đại chủng vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng vị lai và sắc tạo hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hiện tại và đại chủng vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

*

Hỏi: Sắc tạo vị lai và đại chủng hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hiện tại và sắc tạo vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo vị lai và sắc tạo hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hiện tại và sắc tạo vị lai làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

*

Hỏi: Đại chủng hiện tại và sắc tạo hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hiện tại và đại chủng hiện tại làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

*

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục, người kia thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu như thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục, người kia thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Đúng vậy.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục, người kia thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục, không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng của cõi Sắc không hiện ở trước.

2. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc, không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, không tạo sự biến hóa nơi cõi Dục, không phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

3. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục cũng là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng của cõi Sắc hiện ở trước. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, tạo sự biến hóa nơi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

4. Có không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục cũng không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục, người kia thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, không được tâm thiện của cõi Sắc.

2. Có thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, không tạo sự biến hóa nơi cõi Dục, không phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

3. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục cũng là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện của cõi Sắc. Hoặc sinh nơi cõi Sắc, tạo sự chuyển hóa nơi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

4. Có không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục cũng không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục, người kia thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng của cõi Sắc không hiện ở trước.

2. Có thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, không tạo sự chuyển hóa nơi cõi Dục, không phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

3. Có thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục cũng thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, đại chủng của cõi Sắc hiện ở trước, hoặc sinh nơi cõi Sắc, tạo sự biến hóa nơi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

4. Có không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục cũng không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục, người kia thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, không được tâm thiện của cõi Sắc.

2. Có thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là sinh nơi cõi Sắc, không tạo sự biến hóa nơi cõi Dục, không phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

3. Có thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục cũng thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện của cõi Sắc, hoặc sinh nơi cõi Sắc, tạo sự biến hóa nơi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ của cõi Dục.

4. Có không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục cũng không phải là thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Vô sắc.

Hỏi: Nếu thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc, người kia thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc, người kia nhất định thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc. Có thành tựu sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc không phải là thành tựu đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sinh nơi cõi Dục, được tâm thiện của cõi Sắc, đại chủng của cõi Sắc không hiện ở trước.

*

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Dục làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Một Tăng thượng.

Hỏi: Đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc và sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

Hỏi: Sắc tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc và đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc làm bao nhiêu duyên?

Đáp: Nhân, Tăng thượng.

*

Hỏi: Các sắc hệ thuộc nơi cõi Dục, tất cả sắc đó đều là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có sắc hệ thuộc nơi cõi Dục không phải là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục.

2. Có sắc là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục không phải là sắc hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là sắc không thuộc đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục.

3. Có sắc hệ thuộc nơi cõi Dục cũng là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là sắc hệ thuộc nơi cõi Dục do đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục.

4. Có sắc không phải hệ thuộc nơi cõi Dục cũng không phải là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục: Nghĩa là đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc. Hoặc sắc hệ thuộc nơi cõi Sắc do đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc. Hoặc sắc không thuộc đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc.

Hỏi: Các sắc hệ thuộc nơi cõi Sắc, tất cả sắc đó đều là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có sắc hệ thuộc nơi cõi Sắc không phải là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là đại chủng hệ thuộc nơi cõi Sắc.

2. Có sắc là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc không phải là sắc hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sắc không thuộc đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc.

3. Có sắc hệ thuộc nơi cõi Sắc cũng là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là sắc hệ thuộc nơi cõi Sắc do đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc.

4. Có sắc không phải hệ thuộc nơi cõi Sắc cũng không phải là đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Sắc: Nghĩa là đại chủng hệ thuộc nơi cõi Dục. Hoặc sắc hệ thuộc nơi cõi Dục do đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục. Hoặc sắc không thuộc đại chủng tạo hệ thuộc nơi cõi Dục.

*

Hỏi: Các sắc quá khứ tất cả sắc ấy đều là đại chủng tạo nơi quá khứ chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có sắc là quá khứ không phải là đại chủng tạo nơi quá khứ: Nghĩa là đại chủng quá khứ.

2. Có sắc là đại chủng tạo nơi quá khứ không phải là sắc quá khứ: Nghĩa là sắc vị lai, hiện tại, đại chủng tạo nơi quá khứ.

3. Có sắc là quá khứ cũng là đại chủng tạo nơi quá khứ: Nghĩa là sắc quá khứ thuộc đại chủng tạo nơi quá khứ.

4. Có sắc không phải là quá khứ cũng không phải là đại chủng tạo nơi quá khứ: Nghĩa là đại chủng hiện tại, vị lai. Hoặc sắc hiện tại, vị lai, là đại chủng tạo nơi quá khứ. Hoặc sắc vị lai là đại chủng tạo nơi vị lai.

Hỏi: Các sắc vị lai tất cả sắc ấy đều là đại chủng tạo nơi vị lai chăng?

Đáp: Các sắc là đại chủng tạo vị lai tất cả sắc ấy là vị lai. Có sắc là vị lai không phải là đại chủng tạo nơi vị lai: Nghĩa là đại chủng vị lai, hoặc sắc vị lai, thuộc đại chủng tạo quá khứ, hiện tại.

Hỏi: Các sắc hiện tại tất cả sắc ấy đều là đại chủng tạo nơi hiện tại chăng?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có sắc là hiện tại không phải là đại chủng tạo nơi hiện tại: Nghĩa là đại chủng hiện tại, hoặc sắc hiện tại thuộc đại chủng tạo nơi quá khứ.

2. Có sắc là đại chủng tạo nơi hiện tại không phải là sắc hiện tại: Nghĩa là sắc vị lai thuộc đại chủng tạo nơi hiện tại.

3. Có sắc là hiện tại cũng là đại chủng tạo nơi hiện tại: Nghĩa là sắc hiện tại thuộc đại chủng tạo nơi hiện tại.

4. Có sắc không phải là hiện tại cũng không phải là đại chủng tạo nơi hiện tại: Nghĩa là đại chủng quá khứ, vị lai. Hoặc sắc quá khứ, vị lai là đại chủng tạo nơi quá khứ. Hoặc sắc vị lai là đại chủng tạo nơi vị lai.

*

Hỏi: Thế nào là địa (đất)?

Đáp: Là sắc hiển hình.

Hỏi: Thế nào là địa giới?

Đáp: Là sự xúc chạm của tánh cứng chắc.

Hỏi: Thế nào là thủy (nước)?

Đáp: Là sắc hiển hình.

Hỏi: Thế nào là thủy giới?

Đáp: Là sự xúc chạm của tánh ẩm ướt.

Hỏi: Thế nào là hỏa (lửa)?

Đáp: Là sắc hiển hình.

Hỏi: Thế nào là hỏa giới?

Đáp: Là sự xúc chạm của tánh ấm nóng.

Hỏi: Thế nào là phong (gió)?

Đáp: Tức là phong giới.

Hỏi: Thế nào là phong giới?

Đáp: Là sự xúc chạm của tánh lay động.

*

Địa, thủy, hỏa, phong có bao nhiêu thứ thuộc về xứ? Bao

nhiêu thứ là đối tượng nhận biết của thức?

Đáp: Địa, thủy, hỏa thuộc về một xứ là sắc xứ, là đối tượng nhận biết của hai thức là nhãn thức, ý thức. Phong thuộc về một xứ là xúc xứ, là đối tượng nhận biết của hai thức là thân thức, ý thức.

Hỏi: Các giới địa, thủy, hỏa, phong có bao nhiêu thứ thuộc về xứ? Bao nhiêu thứ là đối tượng nhận biết của thức?

Đáp: Các giới địa, thủy, hỏa, phong thuộc về một xứ là xúc xứ, là đối tượng nhận biết của hai thức là thân thức, ý thức.

***

Phẩm 3: BÀN VỀ THẤY ĐỦ

Tụng nêu chung:

Sáu sắc đại nào tạo

Ba sắc gì làm nhân

Hữu bảy trong hóa chín

Đời kiếp tâm ba phần.

Duyên nhân duyên đều bốn

Vô sắc trừ tưởng sắc

Cùng thâu bốn, bảy, chín

Chương nầy xin nói đủ.

*

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn đã có đủ kiến đế, chưa lìa nhiễm dục, đã thành tựu sắc của thân ngữ nghiệp hệ thuộc cõi Sắc do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Sinh nơi cõi Dục nhập vào sắc của nghiệp thân ngữ nơi bốn tĩnh lự hữu lậu do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Sinh nơi cõi Dục nhập vào sắc của nghiệp thân ngữ nơi bốn tĩnh lự vô lậu do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Sinh nơi cõi Sắc nhập vào sắc của nghiệp thân ngữ nơi bốn tĩnh lự hữu lậu do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Sinh nơi cõi Sắc nhập vào sắc của nghiệp thân ngữ nơi bốn tĩnh lự vô lậu do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

*

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn sinh nơi cõi Vô sắc đã thành tựu sắc nơi nghiệp thân ngữ vô lậu do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hoặc hệ thuộc cõi Dục, hoặc hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Mất nơi cõi Vô sắc, sinh nơi cõi Dục, đầu tiên được đại chủng nơi các căn, do đại chủng nào làm nhân?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Hỏi: Mất nơi cõi Vô sắc, sinh nơi cõi Sắc, đầu tiên được đại chủng nơi các căn do đại chủng nào làm nhân?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Mất nơi cõi Sắc, sinh nơi cõi Dục, đầu tiên được đại chủng nơi các căn, do đại chủng nào làm nhân?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

Sinh nơi cõi Dục, tạo sự biến hóa nơi cõi Sắc, phát ra ngôn ngữ của cõi Sắc, sắc của thân ngữ kia do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hệ thuộc cõi Sắc.

Hỏi: Sinh nơi cõi Sắc, tạo sự biến hóa nơi cõi Dục, phát ra ngôn ngữ của cõi Dục, sắc của thân ngữ kia do đại chủng nào tạo?

Đáp: Hệ thuộc cõi Dục.

*

Hỏi: Sự biến hóa nên nói là có đại chủng hay không có đại chủng?

Đáp: Nên nói là có đại chủng.

Hỏi: Sự biến hóa nên nói là có sắc tạo hay không có sắc tạo?

Đáp: Nên nói là có sắc tạo.

Hỏi: Sự biến hóa nên nói là có tâm hay không có tâm

Đáp: Nên nói là không có tâm.

Hỏi: Sự biến hóa nên nói là do tâm nào chuyển?

Đáp: Nên nói là do hóa sinh.

*

Hỏi: Trung hữu nên nói là có đại chủng hay không có đại chủng?

Đáp: Nên nói là có đại chủng.

Hỏi: Trung hữu nên nói là có sắc tạo hay không có sắc tạo?

Đáp: Nên nói là có sắc tạo.

Hỏi: Trung hữu nên nói là có tâm hay không có tâm?

Đáp: Nên nói là có tâm.

Hỏi: Trung hữu nên nói là do tâm nào chuyển?

Đáp: Nên nói là tự tâm.

*

Hỏi: Đời được gọi là pháp gì?

Đáp: Đây là hành được hiển bày do tăng ngữ.

Hỏi: Kiếp được gọi là pháp gì?

Đáp: Đây là tâm khởi trụ diệt về nửa tháng, tháng, mùa, năm, được hiển bày do tăng ngữ.

Hỏi: Phần của tâm khởi trụ diệt được gọi là pháp gì?

Đáp: Đây là Sát-na, Lạp-phược, Mâu-hô, Lật-đa, được hiển bày do tăng ngữ.

*

Hỏi: Từng có pháp do bốn duyên sinh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là tất cả tâm, tâm sở pháp.

Hỏi: Từng có pháp do ba duyên sinh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là đẳng chí Vô tưởng, đẳng chí Diệt tận.

Hỏi: Từng có pháp do hai duyên sinh chăng?

Đáp: Có. Nghĩa là trừ đẳng chí Vô tưởng, Diệt tận, còn lại là các tâm bất tương ưng hành và tất cả sắc.

Hỏi: Từng có pháp do một duyên sinh chăng?

Đáp: Không có.

*

Hỏi: Thế nào là pháp tương ưng với nhân?

Đáp: Là tất cả tâm, tâm sở pháp.

Hỏi: Thế nào là pháp không tương ưng với nhân?

Đáp: Là sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành.

Thế nào là pháp tương ưng với nhân, pháp không tương ưng với nhân?

Đáp: Tức là tâm, tâm sở pháp, có phần ít tương ưng với nhân, phần ít không tương ưng với nhân.

Hỏi: Thế nào là pháp không phải tương ưng với nhân, không phải không tương ưng với nhân?

Đáp: Tức là tâm, tâm sở pháp, có phần ít không phải tương ưng với nhân, phần ít không phải không tương ưng với nhân.

*

Hỏi: Thế nào là pháp duyên có duyên?

Đáp: Là như ý thức và pháp tương ưng duyên nơi tâm, tâm sở pháp.

Hỏi: Thế nào là pháp duyên không duyên?

Đáp: Là năm thức thân và pháp tương ưng. Hoặc ý thức và pháp tương ưng duyên nơi sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Thế nào là pháp duyên có duyên, pháp duyên không duyên?

Đáp: Là như ý thức và pháp tương ưng duyên nơi tâm, tâm sở pháp cùng sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành.

Hỏi: Thế nào là pháp không phải duyên có duyên, không phải duyên không duyên?

Đáp: Là sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành.

*

Như Đức Thế Tôn nói: “Bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài”.

Hỏi: Thế nào là bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài?

Đáp: Nghĩa là có Bí-sô khởi thắng giải như vầy: “Nay thân nầy của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi chốn gò mả, đã đi đến nơi chốn gò mả, sắp để xuống đất, đã để nơi đất, sắp bị các thứ trùng rúc rỉa, đã bị các thứ trùng rúc rỉa. Bí-sô ấy sau cùng không thấy nội thân, chỉ thấy trùng bên ngoài”.

Lại có Bí-sô khởi thắng giải như vầy: “Nay thân nầy của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi chốn gò mả, đã đi đến nơi chốn gò mả, sắp đặt trên đống củi, đã đặt trên đống củi, sắp bị lửa đốt cháy, đã bị lửa đốt cháy. Bí-sô ấy sau cùng không thấy nội thân, chỉ thấy lửa bên ngoài”.

Lại có Bí-sô khởi thắng giải như vầy: “Nay thân nầy của ta là rất hư giả, như tuyết, hoặc nắm tuyết, như đường cát, hoặc nhúm đường cát, như sinh thục tô, hoặc nắm sinh thục tô, sắp bị lửa nướng, đã bị lửa nướng, sắp bị tan chảy, đã bị tan chảy. Bí-sô ấy sau cùng không thấy nội thân, chỉ thấy lửa bên ngoài”.

Đó gọi là bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài”.

*

Như Đức Thế Tôn nói: “Có đoạn trừ tưởng sắc”.

Hỏi: Thế nào là đoạn trừ tưởng sắc?

Đáp: Nghĩa là có Bí-sô khởi thắng giải như vầy: “Nay thân nầy của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi chốn gò mả, đã đi đến nơi chốn gò mả, sắp để xuống đất, đã để nơi đất, sắp bị các thứ trùng rúc rỉa, đã bị các thứ trùng rúc rỉa, những thứ nầy sắp tan, đã tan. Bí-sô ấy sau cùng không thấy tự thân cũng không thấy trùng”.

Lại có Bí-sô khởi thắng giải như vầy: “Nay thân nầy của ta sắp chết, đã chết, sắp đưa lên xe, đã đưa lên xe, sắp đi đến nơi chốn gò mả, đã đi đến nơi chốn gò mả, sắp đặt trên đống củi, đã đặt trên đống củi, sắp bị lửa đốt cháy, đã bị lửa đốt cháy, lửa đốt cháy thi thể nầy sắp tắt, đã tắt. Bí-sô ấy sau cùng không thấy tự thân cũng không thấy lửa”.

Lại có Bí-sô khởi thắng giải như vầy: “Nay thân nầy của ta là rất hư giả, như tuyết, hoặc nắm tuyết, như sinh tô, hoặc nắm sinh tô, như thục tô hoặc nắm thục tô, sắp bị lửa nướng, đã bị lửa nướng, sắp tiêu tan, đã tiêu tan, lửa có thể làm tiêu tan nầy sắp tắt, đã tắt. Bí-sô ấy sau cùng không thấy tự thân cũng không thấy lửa.

Đó gọi là đoạn trừ tưởng sắc.

Hỏi: Những việc không đoạn trừ tưởng sắc đều chưa lìa nhiễm sắc chăng?

Đáp: Những việc chưa lìa nhiễm sắc đều không đoạn trừ tưởng sắc. Có không đoạn trừ tưởng sắc không phải là chưa lìa nhiễm sắc: Nghĩa là đã lìa nhiễm sắc nhưng chưa nhập định kia.

Hỏi: Những việc có đoạn trừ tưởng sắc đều đã lìa nhiễm sắc chăng?

Đáp: Các việc có đoạn trừ tưởng sắc đều đã lìa nhiễm sắc. Có đã lìa nhiễm sắc không phải là có đoạn trừ tưởng sắc: Nghĩa là đã lìa nhiễm sắc nhưng chưa nhập định kia.

*

Hỏi: Bốn thức trụ, bảy thức trụ: Là bốn thức trụ gồm thâu bảy thức trụ hay là bảy thức trụ gồm thâu bốn thức trụ?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có bốn thức trụ không phải là bảy thức trụ: Nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành của các nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, cõi trời Quảng quả và thọ, tưởng, hành của xứ Phi tưởng phi phi tưởng.

2. Có bảy thức trụ không phải là bốn thức trụ: Nghĩa là tâm của người, trời thuộc cõi Dục, các trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, cõi Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ.

3. Có bốn thức trụ cũng là bảy thức trụ: Nghĩa là sắc, thọ, tưởng, hành của người, trời thuộc cõi Dục, các trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, và thọ, tưởng, hành của cõi Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ.

4. Có không phải là bốn thức trụ cũng không phải là bảy thức trụ: Nghĩa là tâm của các nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, các trời Quảng quả, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Hỏi: Bốn thức trụ, chín hữu tình cư: Là bốn thức trụ gồm thâu chín hữu tình cư hay là chín hữu tình cư gồm thâu bốn thức trụ?

Đáp: Nên tạo ra bốn trường hợp:

1. Có bốn thức trụ không phải là chín hữu tình cư: Nghĩa là sắc thọ tưởng hành của các nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, và trời Vô tưởng không gồm thâu trời Quảng quả.

2. Có chín hữu tình cư không phải là bốn thức trụ: Nghĩa là tâm của người, trời thuộc cõi Dục, các trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, Vô tưởng và bốn vô sắc.

3. Có bốn thức trụ cũng là chín hữu tình cư: Nghĩa là sắc thọ tưởng hành của người, trời thuộc cõi Dục, các trời Phạm chúng, Cực quang tịnh, Biến tịnh, Vô tưởng và thọ tưởng hành của bốn vô sắc.

4. Có không phải là bốn thức trụ cũng không phải là chín hữu tình cư: Nghĩa là tâm của các nẻo địa ngục, bàng sinh, quỷ giới, trời Vô tưởng không gồm thâu trời Quảng quả.

Hỏi: Bảy thức trụ, chín hữu tình cư: Là bảy thức trụ gồm thâu chín hữu tình cư hay là chín hữu tình cư gồm thâu bảy thức trụ?

Đáp: Là chín hữu tình cư gồm thâu bảy thức trụ không phải là bảy thức trụ gồm thâu chín hữu tình cư.

Hỏi: Xứ nào không gồm thâu?

Đáp: Hai xứ, là xứ Vô tưởng thiên và xứ Phi tưởng phi phi tưởng.

HẾT – QUYỂN 13