LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHẨM LOẠI TÚC
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 8
Phẩm 6: BIỆN VỀ THÂU GIỮ, phần 4
* Thế nào là Kiết ái? Nghĩa là tham của ba cõi.
Thế nào là Kiết giận? Nghĩa là đối với hữu tình có thể gây tạo các thứ tổn hại.
Thế nào là Kiết mạn? Nghĩa là bảy thứ mạn.
Thế nào là Kiết vô minh? Nghĩa là vô trí trong ba cõi.
Thế nào là Kiết kiến? Nghĩa là ba thứ kiến.
Thế nào là Kiến thủ? Nghĩa là hai thứ thủ.
Thế nào là Kiết nghi? Nghĩa là đối với các Đế đã nghi hoặc do dự.
Thế nào là Kiết ganh tỵ (tật)? Nghĩa là ganh ghét.
Thế nào là Kiết keo kiệt (xan)? Nghĩa là tâm luôn tham tiếc, bỏn sẻn.
*
Thế nào là chỗ ở thứ nhất của hữu tình? Nghĩa là hữu tình có sắc, thân khác, tưởng khác, như loài người và một phần của các cõi trời. Đó là chỗ ở thứ nhất, là theo thứ lớp. Nói chỗ ở của hữu tình, nghĩa là các hữu tình sinh sống ở đó, sinh sống riêng biệt, do đấy đã hiển bày xứ thọ sinh, nên gọi là chỗ ở của hữu tình.
Thế nào là chỗ ở thứ hai của hữu tình? Nghĩa là hữu tình có sắc, thân khác, tưởng một, như cõi trời Phạm chúng vào thời kiếp đầu tiên, đó là chỗ ở thứ hai. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
Thế nào là chỗ ở thứ ba của hữu tình? Nghĩa là hữu tình có sắc, thân một, tưởng khác, như nơi cõi trời Cực quang tịnh, đó là chỗ ở thứ ba. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
Thế nào là chỗ ở thứ tư của hữu tình? Nghĩa là hữu tình có sắc, thân một, tưởng một, như nơi cõi trời Biến tịnh, đó là chỗ ở thứ tư. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
Thế nào là chỗ ở thứ năm của hữu tình? Nghĩa là hữu tình có sắc, không có tưởng, không có tưởng khác, như hữu tình nơi cõi trời Vô tưởng, đó là chỗ ở thứ năm. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
Thế nào là chỗ ở thứ sáu của hữu tình? Nghĩa là hữu tình không sắc, vượt ngoài tất cả tưởng sắc, diệt hết các tưởng có đối, không còn tư duy về các thứ tưởng, nhập vào không vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ không vô biên, như nơi cõi trời Không vô biên xứ, đó là chỗ ở thứ sáu. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
Thế nào là chỗ ở thứ bảy của hữu tình? Nghĩa là hữu tình không sắc, vượt ngoài tất cả xứ không vô biên, nhập vào thức vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ thức vô biên, như nơi cõi trời Thức vô biên xứ, đó là chỗ ở thứ bảy. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
Thế nào là chỗ ở thứ tám của hữu tình? Nghĩa là hữu tình không sắc, vượt ngoài tất cả xứ thức vô biên, nhập vào vô sở hữu, trụ đầy đủ nơi xứ vô sở hữu, như nơi cõi trời Vô sở hữu xứ, đó là chỗ ở thứ tám. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
Thế nào là chỗ ở thứ chín của hữu tình? Nghĩa là hữu tình không sắc, vượt ngoài tất cả xứ vô xứ hữu, nhập và trụ đầy đủ nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, như nơi cõi trời Phi tưởng phi phi tưởng xứ, đó là chỗ ở thứ chín. Nghĩa về chỗ ở của hữu tình như trước đã nói.
**
* Thế nào là Biến xứ thứ nhất? Nghĩa là có một loại tưởng, tất cả khắp nơi đều là đất, trên dưới các phía đều là không hai, không lường. Đó là biến xứ thứ nhất, là theo thứ lớp cùng theo nhập định. Trong định như thế, tất cả sắc thọ tưởng hành thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là Biến xứ.
Các thứ biến xứ về nước, lửa, gió, màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng: Cũng như vậy.
Thế nào là Biến xứ thứ chín? Nghĩa là có một loại tưởng, tất cả khắp nơi đều là khoảng không, trên dưới các phía đều là không hai, không lường. Đó là biến xứ thứ chín, là theo thứ lớp cùng theo nhập định. Trong định như thế, tất cả sắc thọ tưởng hành thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là Biến xứ.
Biến xứ của Thức vô biên xứ: Cũng như vậy.
*
Các thứ chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định vô học: Như đã nói về tám chi Thánh đạo.
Thế nào là Chánh thắng giải vô học? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm xét, tác ý vô học tương ưng với thắng giải, đã đang và sẽ thắng giải. Đó gọi là Chánh thắng giải vô học.
Thế nào là Chánh trí vô học? Nghĩa là tận trí và vô sinh trí. Đó gọi là Chánh trí vô học.
**
* Thế nào là Sắc hữu lậu? Nghĩa là như các sắc hữu lậu có chấp giữ, có mặt nơi các thời quá khứ, hiện tại, vị lai, đối với chúng đã khởi dục, tham, giận, si, hoặc tùy theo mỗi mỗi thứ tâm sở nơi tùy phiền não lúc nên sinh khởi cùng sinh. Đó gọi là Sắc hữu lậu.
Thế nào là Sắc vô lậu? Nghĩa là như các sắc vô lậu không có chấp giữ, có mặt nơi các thời quá khứ, hiện tại, vị lai, đối với chúng đã khởi dục, tham, sân, si, hoặc tùy theo mỗi mỗi thứ tâm sở nơi tùy phiền não lúc nên sinh khởi đều không sinh. Đó gọi là Sắc vô lậu.
Các thứ thọ, tưởng, hành, thức hữu lậu và vô lậu: Cũng như vậy.
Thế nào là Pháp vô vi? Nghĩa là ba thứ vô vi, tức là hư không, phi trạch diệt, trạch diệt.
**
* Mười hai xứ: Như đã nói trong phẩm Biện Về Bảy Sự.
**
* Mười tám giới: Như đã nói trong phẩm Biện Về Bảy Sự.
**
* Thế nào là Nhãn căn? Nghĩa là mắt đối với sắc đã thấy, đang thấy, sẽ thấy, cùng với đồng phần của sắc. Đó gọi là Nhãn căn.
Thế nào là Nhĩ căn? Nghĩa là tai đối với âm thanh đã nghe, đang nghe, sẽ nghe, cùng với đồng phần của tiếng. Đó gọi là Nhĩ căn.
Thế nào là Tỷ căn? Nghĩa là mũi đối với hương đã ngửi, đang ngửi, sẽ ngửi, cùng với đồng phần của hương. Đó gọi là Tỷ căn.
Thế nào là Thiệt căn? Nghĩa là lưỡi đối với vị đã nếm, đang nếm, sẽ nếm, cùng với đồng phần của vị. Đó gọi là Thiệt căn.
Thế nào là Thân căn? Nghĩa là thân đối với xúc đã xúc chạm, đang xúc chạm, sẽ xúc chạm, cùng với đồng phần của xúc. Đó gọi là Thân căn.
Thế nào là Nữ căn? Nghĩa là một phần ít của thân căn. Đó gọi là Nữ căn.
Thế nào là Nam căn? Nghĩa là một phần ít của thân căn. Đó gọi là Nam căn.
Thế nào là Mạng căn? Nghĩa là thọ mạng trong ba cõi. Đó gọi là Mạng căn.
Thế nào là Ý căn? Nghĩa là sáu thức thân. Đó gọi là Ý căn.
Thế nào là Lạc căn? Nghĩa là các xúc thuận theo lạc thọ, khi xúc chạm đã khiến thân, tâm an vui, thọ nhận bình đẳng, đều thuộc về thọ. Đó gọi là Lạc căn.
Thế nào là Khổ căn? Nghĩa là các xúc thuận theo khổ thọ, khi xúc chạm đã khiến thân khổ, thọ nhận không bình đẳng, đều thuộc về thọ. Đó gọi là Khổ căn.
Thế nào là Hỷ căn? Nghĩa là các xúc thuận theo hỷ thọ, khi xúc chạm khiến tâm vui tâm mừng, thọ nhận bình đẳng, do thọ thâu giữ. Đó gọi là Hỷ căn.
Thế nào là Ưu căn? Nghĩa là các xúc thuận theo ưu thọ, khi tiếp xúc khiến tâm lo buồn, thọ nhận không bình đẳng, do thọ thâu giữ. Đó gọi là Ưu căn.
Thế nào là Xả căn? Nghĩa là các xúc thuận theo xả thọ, khi tiếp xúc khiến thân tâm cùng buông xả, thọ nhận không bình đẳng không phải không bình đẳng, do thọ thâu giữ. Đó gọi là Xả căn.
Thế nào là Tín căn? Nghĩa là dựa vào pháp thiện do xuất ly và xa lìa sinh khởi tạo nên các thứ tin tưởng, tánh tin tưởng, tánh tin tưởng tăng thượng, chấp nhận làm việc, mong muốn gây tạo, tánh của tâm lắng sạch. Đó gọi là Tín căn.
Thế nào là Tinh tấn căn? Nghĩa là dựa vào pháp thiện do xuất ly và xa lìa sinh khởi tạo nên các thứ siêng năng tinh tấn, phát khởi mạnh mẽ, khó ngăn cản, tâm cố gắng không ngừng, tánh tâm dũng mãnh. Đó gọi là Tinh tấn căn.
Thế nào là Niệm căn? Nghĩa là dựa vào pháp thiện do xuất ly và xa lìa sinh khởi tạo nên các thứ niệm, tùy niệm, biệt niệm, ức niệm, không quên không mất, không sót không thiếu, tánh không quên pháp, tánh của tâm ghi nhớ kỹ. Đó gọi là Niệm căn.
Thế nào là Định căn? Nghĩa là dựa vào pháp thiện do xuất ly và xa lìa sinh khởi tạo nên các niệm khiến tâm trụ, cùng trụ, an trụ, trụ gần, trụ vững chắc, không tán loạn, luôn thâu giữ nơi định, tánh của tâm chuyên một cảnh. Đó gọi là Định căn.
Thế nào là Tuệ căn? Nghĩa là dựa vào pháp thiện do xuất ly và xa lìa sinh khởi tạo nên đối với các pháp luôn lựa chọn, chọn lựa kỹ lưỡng cùng tột, hiểu rõ, đều hiểu rõ, hiểu rõ khắp, hiểu rõ gần, trí sáng thông đạt, xét đoán tinh tường, tuệ hành minh giác nơi Tỳ-bátxá-na. Đó gọi là Tuệ căn.
Thế nào là Vị tri đương tri căn? Nghĩa là Bổ-đặc-già-la đã nhập chánh tánh ly sinh có các thứ căn như tuệ học, tuệ căn, do các căn nầy nên bậc Tùy tín, Tùy pháp hành đối với việc chưa hiện quán về bốn Thánh đế có thể hành hiện quán. Đó gọi là Vị tri đương tri căn.
Thế nào là Dĩ tri căn? Nghĩa là Bổ-đặc-già-la có đủ kiến giải đã hiện quán, có các thứ căn như tuệ học, tuệ căn, do các căn nầy nên bậc Tín thắng giải, Kiến chí v.v… cho đến Thân chứng, đối với việc đã hiện quán, bốn Thánh đế hướng tới chứng được công đức tốt đẹp nhất. Đó gọi là Dĩ tri căn.
Thế nào là Cụ tri căn? Nghĩa là bậc A-la-hán đã diệt hết các lậu, hiện bày các thứ căn như tuệ vô học, tuệ căn, do các căn nầy nên bậc Tuệ giải thoát, Câu phần giải thoát, có thể đạt được hiện pháp lạc trụ. Đó gọi là Cụ tri căn.
**
* Chín mươi tám thứ tùy miên: Như trước đã nói.
***
3. Biện giải về sự gồm thâu:
* Các thứ pháp: Pháp được nhận biết, pháp được nhận thức, pháp được thông đạt, pháp được duyên hợp, pháp tăng thượng gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
**
* Pháp có sắc gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, một uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí tha tâm và diệt), sáu thức nhận biết, các biến hành nơi cõi Dục và cõi Sắc, cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp vô sắc gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, mười trí hiểu rõ, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có thấy gồm thâu: một giới, một xứ, một uẩn, bảy trí hiểu rõ (trừ ba trí tha tâm, diệt, đạo), hai thức nhận biết, các biến hành nơi cõi Dục và cõi Sắc, cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không thấy gồm thâu: mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, năm thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có đối gồm thâu: mười giới, mười xứ, một uẩn, bảy trí hiểu rõ (trừ ba trí tha tâm, diệt, đạo), sáu thức nhận biết, các biến hành nơi cõi Dục và cõi Sắc, cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không đối gồm thâu: tám giới, hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp hữu lậu gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp vô lậu gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp hữu vi gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp vô vi gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, sáu trí hiểu rõ (trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, đạo), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có tranh cãi gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không tranh cãi gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Các pháp thế gian – xuất thế gian, gắn với giới – không gắn với giới, có vị tham đắm – không vị tham đắm, nương vào đam mê – nương vào xuất ly cũng như vậy.
*
Pháp tâm gồm thâu: bảy giới, một xứ, một uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tâm gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, bốn uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tâm sở gồm thâu: một giới, một xứ, ba uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tâm sở gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Các pháp tâm tương ưng, tâm không tương ưng cũng như vậy.
*
Pháp tâm cùng có gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tâm cùng có gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, ba uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tùy tâm chuyển gồm thâu: một giới, một xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tùy tâm chuyển gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, ba uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tâm làm nhân gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tâm làm nhân gồm thâu: mười ba giới, mười hai xứ, ba uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
*
Pháp tâm làm đẳng vô gián gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tâm làm đẳng vô gián gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tâm làm sở duyên gồm thâu: ba giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, cùng các tùy miên tùy tăng duyên nơi hữu vi trong ba cõi.
Pháp không phải tâm làm sở duyên gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tâm làm tăng thượng gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tâm làm tăng thượng gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, sáu trí hiểu rõ (trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, đạo), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp quả của tâm gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải quả của tâm gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, một trí hiểu rõ là thế tục trí, một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp dị thục của tâm gồm thâu: mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), năm thức nhận biết (trừ nhĩ thức), các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không phải dị thục của tâm gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nghiệp gồm thâu: ba giới, ba xứ, hai uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, ba thức nhận biết (trừ nhãn thức, nhĩ và ý thức), là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải nghiệp gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nghiệp tương ưng gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp nghiệp không tương ưng gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, hai uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nghiệp cùng có gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải nghiệp cùng có gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, hai uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tùy nghiệp chuyển gồm thâu: tám giới, hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tùy nghiệp chuyển gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, hai uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nghiệp làm nhân gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải nghiệp làm nhân gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, hai uẩn, mười trí, sáu thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
*
Pháp nghiệp làm đẳng vô gián gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải nghiệp làm đẳng vô gián gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nghiệp làm sở duyên gồm thâu: năm giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, các pháp hữu vi trong ba cõi duyên nơi tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải nghiệp làm sở duyên gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nghiệp làm tăng thượng gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải nghiệp làm tăng thượng gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, sáu trí hiểu rõ (trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, đạo), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp quả của nghiệp gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải quả của nghiệp gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, một trí hiểu rõ là thế tục trí, một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp dị thục của nghiệp gồm thâu: mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), năm thức nhận biết (trừ nhĩ thức), các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không phải dị thục của nghiệp gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải có gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có tương ưng gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp có không tương ưng gồm thâu: mười ba giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, các pháp hữu lậu duyên nơi các tùy miên tùy tăng trong ba cõi.
*
Pháp có cùng có gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải có cùng có gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tùy có chuyển, pháp có làm nhân gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tùy có chuyển, pháp không phải có làm nhân gồm thâu: ba giới, ba xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có làm đẳng vô gián gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải có làm đẳng vô gián gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có làm sở duyên gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, các pháp hữu lậu duyên nơi các tùy miên tùy tăng trong ba cõi.
Pháp không phải có làm sở duyên gồm thâu: mười ba giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có làm tăng thượng gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải có làm tăng thượng gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, sáu trí hiểu rõ (trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, đạo), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có quả gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ đạo trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải có quả gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có dị thục gồm thâu: mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), năm thức nhận biết (trừ nhĩ thức), biến hành nơi ba cõi và các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không có dị thục gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp trí nhận biết khắp về đối tượng được nhận biết khắp gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải trí nhận biết khắp về đối tượng được nhận biết khắp không gồm thâu: giới, xứ, uẩn, không phải trí hiểu rõ, không phải thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng. Do pháp như thế là không thể có được.
*
Pháp đoạn dứt sự nhận biết khắp về đối tượng được nhận biết khắp tức là pháp nên đoạn trừ, pháp nầy gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí đạo và diệt), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không đoạn dứt sự nhận biết khắp về đối tượng được nhận biết khắp tức là pháp không nên đoạn trừ, pháp nầy gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nên tu gồm thâu: mười giới, bốn xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, ba thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không nên tu gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ đạo trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp trí tác chứng nên chứng gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải trí tác chứng nên chứng không gồm thâu: giới, xứ, uẩn, không phải trí hiểu rõ, không phải thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng. Do pháp như thế không thể có được.
*
Pháp được tác chứng nên chứng gồm thâu: mười hai giới, sáu xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, ba thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không phải được tác chứng nên chứng gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nên hành tập gồm thâu: mười giới, bốn xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, ba thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không nên hành tập gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ đạo trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có tội gồm thâu: mười giới, bốn xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), ba thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không tội gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
*
Các pháp trắng – đen, hữu phú – vô phú, thuận thoái – không thuận thoái cũng như vậy.
*
Pháp hữu ký gồm thâu: mười giới, bốn xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, ba thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi Dục, Sắc, Vô sắc cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp vô ký gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, cõi Sắc, cõi Vô sắc và tất cả hai bộ của cõi Dục cùng các tùy miên tùy tăng biến hành đều do kiến tập đoạn trừ.
*
Pháp đã sinh gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải đã sinh gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Các pháp đang sinh – không phải đang sinh, đã diệt – không phải đã diệt, đang diệt – không phải đang diệt cũng như vậy.
*
Pháp duyên khởi gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải duyên khởi gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, sáu trí hiểu rõ (trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, diệt), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Các pháp duyên đã sinh – không phải duyên đã sinh, nhân – không phải nhân, có nhân – không phải có nhân, nhân đã sinh – không phải nhân đã sinh cũng như vậy.
*
Pháp nhân tương ưng gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp nhân không tương ưng gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, hai uẩn, chín trí hiểu rõ trừ tha tâm trí, sáu thức nhận biết, các tùy miên tùy tăng duyên nơi hữu lậu trong ba cõi.
*
Pháp kiết gồm thâu: một giới, một xứ, một uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), một thức nhận biết, trừ vô minh không chung duyên nơi vô lậu, còn lại là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải kiết gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp thuận kiết gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải thuận kiết gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp thủ gồm thâu: một giới, một xứ, một uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải thủ gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có chấp thọ gồm thâu: chín giới, chín xứ, một uẩn, bảy trí hiểu rõ (trừ ba trí tha tâm, diệt, đạo), năm thức nhận biết, các biến hành nơi cõi Dục và cõi Sắc, cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
Pháp không chấp thọ gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp thuận thủ gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải thuận thủ gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp phiền não gồm thâu: một giới, một xứ, một uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải phiền não gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp nhiễm ô gồm thâu: mười giới, bốn xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), ba thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không nhiễm ô gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, các biến hành nơi ba cõi cùng các tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn trừ.
*
Pháp tạp nhiễm gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải tạp nhiễm gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp trói buộc (triền) gồm thâu: một giới, một xứ, một uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải trói buộc gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp của đối tượng bị trói buộc gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải đối tượng bị trói buộc gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, các tùy miên tùy tăng duyên nơi hữu lậu ở ba cõi.
*
Pháp thuận trói buộc gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải thuận trói buộc gồm thâu: ba giới, hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có đối tượng duyên gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không có đối tượng duyên gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, hai uẩn, chín trí hiểu rõ trừ tha tâm trí, sáu thức nhận biết, các tùy miên tùy tăng duyên nơi hữu lậu trong ba cõi.
*
Pháp có tầm gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng ở cõi Dục và cõi Sắc.
Pháp không tầm gồm thâu: mười ba giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có tứ, pháp không tứ cũng như vậy.
*
Pháp có hỷ gồm thâu: ba giới, hai xứ, ba uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, tất cả ở Sắc giới, trừ nghi duyên nơi vô lậu thuộc cõi Dục và nghi tương ưng với vô minh, còn lại là tất cả các tùy miên tùy tăng ở cõi Dục.
Pháp không hỷ gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp có cảnh giác gồm thâu: tám giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không cảnh giác gồm thâu: mười một giới, mười một xứ, hai uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Các pháp có sự, có duyên, hữu thượng đều gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Các pháp không sự, không duyên, vô thượng đều gồm thâu: một giới, một xứ, không có uẩn, sáu trí hiểu rõ (trừ bốn trí tha tâm, khổ, tập, đạo), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp xa gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp gần gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp hữu lượng, pháp vô lượng cũng như vậy.
*
Pháp kiến gồm thâu: hai giới, hai xứ, hai uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, kiến duyên nơi hữu lậu, vô lậu, tương ưng với vô minh trong ba cõi và các tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải kiến gồm thâu: mười bảy giới, mười một xứ, năm uẩn, mười trí, sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
*
Pháp xứ kiến gồm thâu: mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí diệt và đạo), sáu thức nhận biết, là tất cả tùy miên tùy tăng.
Pháp không phải xứ kiến gồm thâu: ba giới, hai xứ, ba uẩn, tám trí hiểu rõ (trừ hai trí khổ và tập), một thức nhận biết, không phải là tùy miên tùy tăng.
*
Pháp tương ưng với kiến gồm thâu: ba giới, hai xứ, bốn uẩn, chín trí hiểu rõ trừ diệt trí, một thức nhận biết, kiến duyên nơi hữu lậu, vô lậu, tương ưng với vô minh trong ba cõi và các tùy miên tùy tăng.
Pháp không tương ưng với kiến gồm thâu: mười tám giới, mười một xứ, năm uẩn, mười trí hiểu rõ, sáu thức nhận biết, trừ kiến duyên nơi vô lậu, còn lại là tất cả tùy miên tùy tăng.
HẾT – QUYỂN 8