LUẬN A TỲ ĐẠT MA PHẨM LOẠI TÚC
Tác giả: Tôn giả Thế Hữu
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 7
Phẩm 6: BIỆN VỀ THÂU GIỮ, phần 3
Thế nào là Thân nghiệp? Nghĩa là các hành do thân biểu hiện cùng không biểu hiện.
Thế nào là Ngữ nghiệp? Nghĩa là các hành do ngữ biểu hiện cùng không biểu hiện.
Thế nào là Ý nghiệp? Nghĩa là suy tư.
*
Thế nào là Nghiệp thiện? Nghĩa là nghiệp thân, ngữ thiện cùng suy tư thiện.
Thế nào là Nghiệp bất thiện? Nghĩa là nghiệp thân, ngữ bất thiện cùng suy tư bất thiện.
Thế nào là Nghiệp vô ký? Nghĩa là nghiệp thân, ngữ vô ký cùng suy tư vô ký.
*
Thế nào là Nghiệp hữu học? Nghĩa là các nghiệp thân, ngữ hữu học cùng suy tư hữu học.
Thế nào là Nghiệp vô học? Nghĩa là các nghiệp thân, ngữ vô học cùng suy tư vô học.
Thế nào là Nghiệp phi hữu học phi vô học? Nghĩa là các nghiệp thân, ngữ hữu lậu cùng suy tư hữu lậu.
*
Thế nào là Nghiệp do kiến đạo đoạn trừ? Nghĩa là như nghiệp nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, tạo hiện quán biên nhẫn đã đoạn trừ. Đây lại là là nghĩa gì? Tức là do kiến đạo đoạn trừ tám mươi tám tùy miên tương ưng với tư.
Thế nào là Nghiệp do tu đạo đoạn trừ? Nghĩa là như nghiệp nơi bậc học kiến tích tu tập đoạn trừ. Đây lại là nghĩa gì? Tức là do tu đạo đoạn trừ mười tùy miên tương ưng với tư đã cùng dấy khởi các nghiệp thân, ngữ và nghiệp hữu lậu không nhiễm ô.
Thế nào là Nghiệp không đoạn trừ? Nghĩa là các nghiệp thân, ngữ vô lậu cùng suy tư vô lậu.
*
Thế nào là Nghiệp thuận hiện pháp thọ? Nghĩa là như nghiệp đã tạo tác tăng trưởng trong đời nầy, nghiệp ấy tức nơi đời nầy thọ nhận dị thục (quả báo), không phải ở đời khác.
Thế nào là Nghiệp thuận thứ sinh thọ? Nghĩa là như nghiệp đã tạo tác tăng trưởng trong đời nầy, nghiệp ấy theo nơi đời thứ hai thọ nhận dị thục, không phải ở đời khác.
Thế nào là Nghiệp thuận hậu thứ thọ? Nghĩa là như nghiệp đã tạo tác tăng trưởng trong đời nầy, nghiệp ấy theo nơi đời thứ ba, đời thứ tư hoặc hơn nữa thọ nhận dị thục, không phải ở đời khác.
*
Thế nào là Nghiệp thuận lạc thọ? Nghĩa là các nghiệp thiện ở cõi Dục, cõi Sắc v.v… cho đến các nghiệp thiện nơi bậc tĩnh lự thứ ba. Thế nào là Nghiệp thuận khổ thọ? Nghĩa là các nghiệp bất thiện.
Thế nào là Nghiệp thuận thọ không khổ không lạc? Nghĩa là các nghiệp thiện nơi bậc tĩnh lự thứ tư và các nghiệp thiện ở cõi Vô sắc.
**
* Thế nào là Thân niệm trụ? Nghĩa là sắc xứ nơi mười hữu và sắc thuộc về pháp xứ.
Thế nào là Thọ niệm trụ? Nghĩa là sáu thọ thân, tức là thọ do mắt tiếp xúc sinh ra v.v… cho đến thọ do ý tiếp xúc sinh ra.
Thế nào là Tâm niệm trụ? Nghĩa là sáu thức thân, tức nhãn thức v.v… cho đến ý thức.
Thế nào là Pháp niệm trụ? Nghĩa là thọ không thâu giữ các thứ không phải là xứ của sắc pháp.
Lại nữa, thân tăng thượng khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu gọi là Thân niệm trụ. Thọ tăng thượng khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu gọi là Thọ niệm trụ. Tâm tăng thượng khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu gọi là Tâm niệm trụ. Pháp tăng thượng khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu gọi là Pháp niệm trụ.
Lại nữa, duyên nơi thân khởi các tuệ hữu lậu thiện và vô lậu, đó gọi là Thân niệm trụ. Duyên nơi thọ khởi các tuệ hữu lậu thiện và vô lậu, đó gọi là Thọ niệm trụ. Duyên nơi tâm khởi các tuệ hữu lậu thiện và vô lậu, đó gọi là Tâm niệm trụ. Duyên nơi pháp khởi các tuệ hữu lậu thiện và vô lậu, đó gọi là Pháp niệm trụ.
*
Thế nào là nhằm khiến các pháp ác bất thiện đã sinh vĩnh viễn đoạn dứt nên siêng tu chánh đoạn? Nghĩa là các pháp ác, bất thiện đã sinh khiến vĩnh viễn đoạn dứt hẳn, nên tăng thượng dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là nhằm khiến các pháp ác bất thiện chưa sinh vĩnh viễn không sinh nên siêng tu chánh đoạn? Nghĩa là vì nhằm như thế nên tăng thượng dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là nhằm khiến các pháp thiện chưa sinh sẽ sinh nên siêng tu chánh đoạn? Nghĩa là vì nhằm như thế nên tăng thượng dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là nhằm khiến các pháp thiện đã sinh được trụ vững, không quên, tu tập tăng tiến, trí tác chứng thêm rộng, nên siêng tu chánh đoạn? Nghĩa là vì nhằm như thế nên tăng thượng dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
*
Thế nào là Thần túc Dục Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu? Nghĩa là dục làm pháp tăng thượng để dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là Thần túc Cần Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu? Nghĩa là cần làm pháp tăng thượng để dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là Thần túc Tâm Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu? Nghĩa là tâm làm pháp tăng thượng để dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là Thần túc Quán Tam-ma-địa đoạn hành thành tựu? Nghĩa là quán làm pháp tăng thượng để dấy khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
*
Thế nào là Tĩnh lự thứ nhất? Nghĩa là tĩnh lự thứ nhất thâu giữ năm uẩn thiện.
Thế nào là Tĩnh lự thứ hai? Nghĩa là tĩnh lự thứ hai thâu giữ năm uẩn thiện.
Thế nào là Tĩnh lự thứ ba? Nghĩa là tĩnh lự thứ ba thâu giữ năm uẩn thiện.
Thế nào là Tĩnh lự thứ tư? Nghĩa là tĩnh lự thứ tư thâu giữ năm uẩn thiện.
*
Thế nào là Khổ Thánh đế? Nghĩa là năm thủ uẩn.
Thế nào là Tập Thánh đế? Nghĩa là các nhân hữu lậu.
Thế nào là Diệt Thánh đế? Nghĩa là trạch diệt.
Thế nào là Đạo Thánh đế? Nghĩa là các pháp hữu học và vô học.
*
Thế nào là Từ vô lượng? Nghĩa là từ và từ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hoặc cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Từ vô lượng.
Thế nào là Bi vô lượng? Nghĩa là bi và bi tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hoặc cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Bi vô lượng.
Thế nào là Hỷ vô lượng? Nghĩa là hỷ và hỷ tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hoặc cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Hỷ vô lượng.
Thế nào là Xả vô lượng? Nghĩa là xả và xả tương ưng với thọ, tưởng, hành, thức, hoặc cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hoặc cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Xả vô lượng.
*
Thế nào là xứ Không vô biên? Đây có hai thứ: một là định, hai là sinh, trong ấy hiện có thọ, tưởng, hành, thức. Đó gọi là xứ Không vô biên.
Thế nào là xứ Thức vô biên? Đây có hai thứ: một là định, hai là sinh, trong ấy hiện có thọ, tưởng, hành, thức. Đó gọi là xứ Thức vô biên.
Thế nào là xứ Vô sở hữu? Đây có hai thứ: một là định, hai là sinh, trong ấy hiện có thọ, tưởng, hành, thức. Đó gọi là xứ Vô sở hữu.
Thế nào là xứ Phi tưởng phi phi tưởng? Đây có hai thứ: một là định, hai là sinh, trong ấy hiện có thọ, tưởng, hành, thức. Đó gọi là xứ Phi tưởng phi phi tưởng.
*
Thế nào là Thánh chủng tùy chỗ có được y phục luôn biết đủ? Nghĩa là thọ việc có được y phục luôn biết đủ làm pháp tăng thượng để khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là Thánh chủng tùy chỗ có được thức ăn uống luôn biết đủ? Nghĩa là thọ việc có được thức ăn uống luôn biết đủ làm pháp tăng thượng để khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là Thánh chủng tùy chỗ có được ngọa cụ luôn biết đủ? Nghĩa là thọ việc có được các thứ ngọa cụ luôn biết đủ làm pháp tăng thượng để khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
Thế nào là Thánh chủng ưa thích đoạn trừ, vui thích tu tập? Nghĩa là ưa thích đoạn trừ và tu tập làm pháp tăng thượng để khởi các đạo hữu lậu thiện và vô lậu.
*
Thế nào là quả Dự lưu? Đây có hai thứ: một là hữu vi, hai là vô vi. Quả Dự lưu hữu vi: Nghĩa là các pháp học hiện có khi chứng quả Dự lưu đã, đang và sẽ đạt được. Quả Dự lưu vô vi: Nghĩa là các thứ kiết được đoạn trừ hiện có khi chứng quả Dự lưu đã, đang và sẽ đạt được.
Thế nào là quả Nhất lai? Đây có hai thứ: một là hữu vi, hai là vô vi. Quả Nhất lai hữu vi: Nghĩa là các pháp học hiện có khi chứng quả Nhất lai đã, đang và sẽ đạt được. Quả Nhất lai vô vi: Nghĩa là các thứ kiết được đoạn trừ hiện có khi chứng quả Nhất lai đã, đang và sẽ đạt được.
Thế nào là Quả Bất hoàn? Đây có hai thứ: một là hữu vi, hai là vô vi. Quả Bất hoàn hữu vi: Nghĩa là các pháp hữu học hiện có khi chứng quả Bất hoàn đã, đang và sẽ đạt được. Quả Bất hoàn vô vi: Nghĩa là các thứ kiết được đoạn trừ hiện có khi chứng quả Bất hoàn đã, đang và sẽ đạt được.
Thế nào là Quả A-la-hán? Đây có hai thứ: một là hữu vi, hai là vô vi. Quả A-la-hán hữu vi: Nghĩa là các pháp vô học hiện có khi chứng quả A-la-hán đã, đang và sẽ đạt được. Quả A-la-hán vô vi: Nghĩa là các thứ kiết được đoạn trừ hiện có khi chứng quả A-la-hán đã, đang và sẽ đạt được.
*
Các thứ pháp trí, khổ trí v.v… hai thứ nơi bốn trí: Đều như trước đã nói, nên biết.
*
Thế nào là Pháp vô ngại giải? Nghĩa là trí không thoái chuyển hiện có đối với danh cú, văn thân.
Thế nào là Nghĩa vô ngại giải? Nghĩa là trí không thoái chuyển hiện có đối với thắng nghĩa.
Thế nào là Từ vô ngại giải? Nghĩa là trí không thoái chuyển hiện có đối với các ngôn từ.
Thế nào là Biện vô ngại giải? Nghĩa là trí không thoái chuyển hiện có đối với ngôn từ lý lẽ ứng hợp, lưu loát, cùng nơi pháp đẳng trì tự tại hiển bày.
*
Thế nào là Nhân duyên? Nghĩa là tất cả pháp hữu vi.
Thế nào là Đẳng vô gián duyên? Nghĩa là trừ các tâm, tâm sở pháp khi mạng chung của bậc A-la-hán ở quá khứ, hiện tại, là các tâm, tâm sở pháp nơi quá khứ, hiện tại còn lại.
Thế nào là Sở duyên duyên và Tăng thượng duyên? Nghĩa là tất cả các pháp.
*
Thế nào là ăn bằng từng phần (Đoạn thực)? Nghĩa là duyên nơi việc ăn uống bằng từng phần, các căn được nuôi lớn, các đại chủng tăng trưởng, tùy thuận để được hỗ trợ, bổ sung, giữ gìn, chuyển đổi, tăng ích. Đó gọi là ăn bằng từng phần.
Thế nào là ăn bằng xúc chạm (Xúc thực)? Nghĩa là duyên nơi Xúc hữu lậu, các căn được nuôi lớn, các đại chủng tăng trưởng, tùy thuận để được hỗ trợ, bổ sung, giữ gìn, chuyển đổi tăng ích. Đó gọi là ăn bằng xúc chạm.
Thế nào là ăn bằng ý nghĩ (Ý tư thực)? Nghĩa là duyên nơi Tư hữu lậu, các căn được nuôi lớn, các đại chủng tăng trưởng, tùy thuận để được hỗ trợ, bổ sung, giữ gìn, chuyển đổi, tăng ích. Đó gọi là ăn bằng ý nghĩ.
Thế nào là ăn bằng thức (Thức thực)? Nghĩa là duyên nơi Thức hữu lậu, các căn được nuôi lớn, các đại chủng tăng trưởng, tùy thuận để được hỗ trợ, bổ sung, giữ gìn, chuyển đổi, tăng ích. Đó gọi là ăn bằng thức.
*
Thế nào là Bộc lưu dục? Nghĩa là trừ các kiến và vô minh thuộc cõi Dục, các thứ còn lại thuộc cõi Dục như kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền đều gọi là bộc lưu dục.
Thế nào là Bộc lưu hữu? Nghĩa là trừ các kiến và vô minh thuộc cõi Sắc và Vô sắc, các thứ còn lại thuộc cõi Sắc và Vô sắc như kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền đều gọi là bộc lưu hữu.
Thế nào là Bộc lưu kiến? Nghĩa là năm thứ kiến của ba cõi, tức hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ. Đó gọi là bộc lưu kiến.
Thế nào là Bộc lưu vô minh? Nghĩa là sự ngu si, vô trí trong ba cõi.
*
Bốn ách: Cũng như vậy.
*
Thế nào là Dục thủ? Nghĩa là trừ năm thứ kiến thuộc cõi Dục, các thứ còn lại ở cõi Dục như kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền đều gọi là dục thủ.
Thế nào là Kiến thủ? Nghĩa là bốn thứ kiến: hữu thân kiến, biên chấp kiến, tà kiến, kiến thủ. Đó gọi là kiến thủ.
Thế nào là Giới cấm thủ? Nghĩa là như có người chấp giữ các giới, các điều ngăn cấm, nói: Các giới cấm nầy có thể đạt được thanh tịnh, đạt giải thoát, xuất ly, vượt mọi khổ vui đến nơi xứ vượt hết vui khổ. Đó gọi là giới cấm thủ.
Thế nào là Ngã ngữ thủ? Nghĩa là trừ năm kiến thuộc cõi Sắc và Vô sắc, các thứ còn lại ở cõi Sắc và Vô sắc như kiết, phược, tùy miên, tùy phiền não, triền đều gọi là ngã ngữ thủ.
*
Thế nào là Pháp quá khứ? Nghĩa là năm uẩn quá khứ.
Thế nào là Pháp vị lai? Nghĩa là năm uẩn vị lai.
Thế nào là Pháp hiện tại? Nghĩa là năm uẩn hiện tại.
Thế nào là Pháp không phải quá khứ, không phải vị lai, không phải hiện tại? Nghĩa là pháp vô vi.
*
Thế nào là Pháp thuộc cõi Dục? Nghĩa là năm uẩn thuộc cõi Dục.
Thế nào là Pháp thuộc cõi Sắc? Nghĩa là năm uẩn thuộc cõi Sắc.
Thế nào là Pháp thuộc cõi Vô sắc? Nghĩa là bốn uẩn thuộc cõi Vô sắc.
Thế nào là Pháp không hệ thuộc? Nghĩa là tất cả pháp vô lậu.
*
Thế nào là Pháp thiện làm nhân? Nghĩa là pháp hữu vi thiện và dị thục của pháp thiện.
Thế nào là Pháp bất thiện làm nhân? Nghĩa là những thứ nhiễm ô ở cõi Dục và dị thục của pháp bất thiện.
Thế nào là Pháp vô ký làm nhân? Nghĩa là pháp hữu vi vô ký và pháp bất thiện.
Thế nào là Pháp không phải thiện, không phải bất thiện, không phải vô ký làm nhân? Nghĩa là pháp vô vi.
*
Thế nào là Pháp duyên có đối tượng duyên? Nghĩa là ý thức duyên nơi tâm, tâm sở pháp cùng các pháp tương ưng.
Thế nào là Pháp duyên không có đối tượng duyên? Nghĩa là năm thức thân cùng pháp tương ưng và ý thức duyên nơi sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành cùng các pháp tương ưng.
Thế nào là Pháp duyên có đối tượng duyên, không có đối tượng duyên? Nghĩa là ý thức duyên nơi tâm tâm sở pháp, sắc, vô vi, tâm bất tương ưng hành cùng các pháp tương ưng.
Thế nào là Pháp không phải duyên có đối tượng duyên, không phải duyên không có đối tượng duyên? Nghĩa là sắc vô vi, sắc bất tương ưng hành.
**
* Năm uẩn: Như trước đã nói.
*
Năm thủ uẩn: Như trước đã nói:
*
Thế nào là nẻo (thú) Nại-lạc-ca? Nghĩa là các loài hữu tình ở Nại-lạc-ca (Địa ngục) có đồng tánh, đồng loại, đồng chúng, đồng phận, nương đắc, sự đắc, xứ đắc. Loài hữu tình sinh ở đấy có sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô phú vô ký. Đó gọi là nẻo Nại-lạc-ca.
Thế nào là nẻo Bàng sinh? Nghĩa là các loài hữu tình thuộc loài bàng sinh có đồng tánh, đồng loại, đồng chúng, đồng phận, nương đắc, sự đắc, xứ đắc. Loài hữu tình sinh ở đấy có sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô phú vô ký. Đó gọi là nẻo bàng sinh.
Thế nào là nẻo Quỷ? Nghĩa là các loài hữu tình ở nẻo quỷ có đồng tánh, đồng loại, đồng chúng, đồng phận, nương đắc, sự đắc, xứ đắc. Loài hữu tình sinh ở đấy có sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô phú vô ký. Đó gọi là nẻo quỷ.
Thế nào là nẻo Người? Nghĩa là các loài hữu tình thuộc loài người có đồng tánh, đồng loại, đồng chúng, đồng phận, nương đắc, sự đắc, xứ đắc. Loài hữu tình sinh ở đấy có sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô phú vô ký. Đó gọi là nẻo người.
Thế nào là cõi Trời? Nghĩa là các loài hữu tình thuộc loài trời có đồng tánh, đồng loại, đồng chúng, đồng phận, nương đắc, sự đắc, xứ đắc. Loài hữu tình sinh ở đấy có sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô phú vô ký. Đó gọi là cõi trời.
*
Thế nào là Bộ phiền não do kiến khổ đoạn trừ? Nghĩa là có bộ phiền não nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán biên khổ nhẫn đoạn trừ chúng. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến khổ đoạn trừ hai mươi tám thứ tùy miên và các thứ phiền não tương ưng với chúng.
Thế nào là Bộ phiền não do kiến tập đoạn trừ? Nghĩa là có bộ phiền não nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán biên tập nhẫn đoạn trừ chúng. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến tập đoạn trừ mười chín thứ tùy miên và các thứ phiền não tương ưng với chúng.
Thế nào là Bộ phiền não do kiến diệt đoạn trừ? Nghĩa là có bộ phiền não nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán biên diệt nhẫn đoạn trừ chúng. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến diệt đoạn trừ mười chín thứ tùy miên và các thứ phiền não tương ưng với chúng.
Thế nào là Bộ phiền não do kiến đạo đoạn trừ? Nghĩa là có bộ phiền não nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán biên đạo nhẫn đoạn trừ chúng. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến đạo đoạn trừ hai mươi hai thứ tùy miên và các thứ phiền não tương ưng với chúng.
Thế nào là Bộ phiền não do tu đạo đoạn trừ? Nghĩa là có bộ phiền não nơi bậc học kiến tích tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Tức là do tu đạo đoạn trừ mười thứ tùy miên và các thứ phiền não tương ưng với chúng.
*
Năm pháp như sắc v.v…: Như trước đã nói.
**
* Sáu giới: Như địa v.v… cũng như trước đã nói.
*
Thế nào là Pháp do kiến khổ đoạn trừ? Nghĩa là như pháp nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán khổ biên nhẫn đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến khổ đoạn trừ hai mươi tám thứ tùy miên và các pháp tương ưng cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Pháp do kiến khổ đoạn trừ.
Thế nào là Pháp do kiến tập đoạn trừ? Nghĩa là như pháp nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán tập biên nhẫn đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến tập đoạn trừ mười chín thứ tùy miên và các pháp tương ưng cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Pháp do kiến tập đoạn trừ.
Thế nào là Pháp do kiến diệt đoạn trừ? Nghĩa là như pháp nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán diệt biên nhẫn đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến diệt đoạn trừ mười chín thứ tùy miên và các pháp tương ưng cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Pháp do kiến diệt đoạn trừ.
Thế nào là Pháp do kiến đạo đoạn trừ? Nghĩa là như pháp nơi bậc tùy tín, tùy pháp hành, hiện quán đạo biên nhẫn đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Tức là do kiến đạo đoạn trừ hai mươi hai thứ tùy miên và các pháp tương ưng cùng khởi tâm bất tương ưng hành. Đó gọi là Pháp do kiến đạo đoạn trừ.
Thế nào là Pháp do tu đạo đoạn trừ? Nghĩa là như pháp nơi bậc học kiến tích tu tập đoạn trừ. Đây lại là thế nào? Tức là do tu đạo đoạn trừ mười thứ tùy miên và các pháp tương ưng, như chúng cùng khởi các nghiệp thân, ngữ, hoặc cùng khởi tâm bất tương ưng hành, hoặc các pháp hữu lậu không nhiễm ô. Đó gọi là Pháp do tu đạo đoạn trừ.
Thế nào là Pháp không đoạn trừ? Nghĩa là các pháp vô lậu.
**
* Thế nào là Tùy miên dục tham? Nghĩa là đối với các dục đã khởi các thứ tham cùng tham, rồi cất giấu, phòng giữ, yêu thích, mê đắm. Đó gọi là Tùy miên dục tham.
Thế nào là Tùy miên giận dữ? Nghĩa là đối với các hữu tình tâm luôn ôm giận, muốn gây tổn hại, chống đối, cản trở, oán ghét, bạo ác, khiến họ luôn trái nghịch, não hại. Đó gọi là Tùy miên giận dữ.
Thế nào là Tùy miên hữu tham? Nghĩa là nơi cõi Sắc, Vô sắc khởi các thứ tham cùng tham, rồi cất giấu, ngăn giữ, yêu thích, mê đắm. Đó gọi là Tùy miên hữu tham.
Thế nào là Tùy miên mạn? Nghĩa là kiêu mạn, đã kiêu mạn, sẽ kiêu mạn, tâm tự đề cao, miệt thị người khác. Đó gọi là Tùy miên mạn.
Thế nào là Tùy miên vô minh? Nghĩa là sự ngu tối, vô trí trong ba cõi. Đó gọi là Tùy miên vô minh.
Thế nào là Tùy miên kiến? Nghĩa là năm thứ kiến cấu nhiễm. Đó gọi là Tùy miên kiến.
Thế nào là Tùy miên nghi? Nghĩa là đối với các Đế luôn do dự, ngờ vực. Đó gọi là Tùy miên nghi.
*
Thế nào là Thức trụ thứ nhất? Nghĩa là loài hữu tình có sắc, thân khác, tưởng khác, như loài người và một phần cõi trời, đó là thức trụ thứ nhất. Ở đây thứ nhất là theo sự tính đếm, thuận theo thứ tự nối tiếp, đấy là thứ nhất. Trụ xứ kia có liên hệ với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi chung là thức trụ.
Thế nào là Thức trụ thứ hai? Nghĩa là loài hữu tình có sắc, thân khác, tưởng một, như cõi trời Phạm chúng vào thời kiếp đầu tiên, đây là thức trụ thứ hai, có liên hệ với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi chung là thức trụ.
Thế nào là Thức trụ thứ ba? Nghĩa là loài hữu tình có sắc, thân một, tưởng khác, như cõi trời Cực quang tịnh, đây là thức trụ thứ ba, có liên hệ với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi chung là thức trụ.
Thế nào là Thức trụ thứ tư? Nghĩa là loài hữu tình có sắc, thân một, tưởng một, như cõi trời Biến tịnh, đây là thức trụ thứ tư, có liên hệ với sắc, thọ, tưởng, hành, thức, gọi chung là thức trụ.
Thế nào là Thức trụ thứ năm? Nghĩa là loài hữu tình không sắc, vượt ngoài tất cả các tưởng sắc, diệt hết các tưởng có đối, không suy nghĩ về các thứ tưởng, nhập vào vô biên không, trụ đầy đủ nơi xứ không vô biên, như cõi trời Không vô biên xứ, đây là thức trụ thứ năm, có liên hệ với thọ, tưởng, hành, thức, gọi chung là thức trụ.
Thế nào là Thức trụ thứ sáu? Nghĩa là loài hữu tình không sắc, vượt ngoài tất cả xứ không vô biên, nhập vào thức vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ thức vô biên, như cõi trời Thức vô biên xứ, đây là thức trụ thứ sáu, có liên hệ với thọ, tưởng, hành, thức, gọi chung là thức trụ.
Thế nào là Thức trụ thứ bảy? Nghĩa là loài hữu tình không sắc, vượt ngoài tất cả xứ thức vô biên, nhập vào vô sở hữu, trụ đầy đủ nơi xứ vô sở hữu, như cõi trời Vô sở hữu xứ, đây là thức trụ thứ bảy, có liên hệ với thọ, tưởng, hành, thức, gọi chung là thức trụ.
*
Thế nào là đẳng giác chi Niệm? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với khổ tư duy về khổ, đối với tập tư duy về tập, đối với diệt tư duy về diệt, đối với đạo tư duy về đạo, tác ý vô lậu tương ưng với các niệm, tùy niệm, biệt niệm, ức niệm, không quên không mất, không sót không thiếu, tánh không quên pháp, tánh của tâm ghi nhớ rõ. Đó gọi là đẳng giác chi niệm.
Thế nào là đẳng giác chi Trạch pháp? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy tác ý vô lậu tương ưng nơi các pháp thường chọn lựa, chọn lựa hết mực, chọn lựa cùng tột, hiểu rõ, cùng hiểu rõ, hiểu rõ khắp, hiểu rõ gần, trí sáng thông đạt, xét đoán tinh tường, tuệ hành minh giác, Tỳ-bát-xá-na có tánh quyết định tuyển chọn. Đó gọi là đẳng giác chi trạch pháp.
Thế nào là đẳng giác chi Tinh tấn? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy tác ý vô lậu tương ưng với các thứ siêng năng tinh tấn, hăng hái dũng mãnh khó ngăn cản, tâm ý cố gắng không dừng nghỉ, tánh của tâm mạnh mẽ. Đó gọi là đẳng giác chi tinh tấn.
Thế nào là đẳng giác chi Hỷ? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy tác ý vô lậu tương ưng với tâm vui vẻ, hân hoan tột bậc, vui vẻ trong mọi lúc, tánh vui tươi, thuộc loại vui tươi, hoan hỷ. Đó gọi là đẳng giác chi hỷ.
Thế nào là đẳng giác chi Khinh an? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy tác ý vô lậu tương ưng với thân tâm nhẹ nhàng khoan khoái, luôn được khinh an, thuộc loại khinh an. Đó gọi là đẳng giác chi khinh an.
Thế nào là đẳng giác chi Định? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy tác ý vô lậu tương ưng với các thứ khiến tâm trụ cùng trụ, an trụ, trụ gần, trụ vững, không tán loạn, thâu tóm, gìn giữ, tánh của tâm chuyên vào một cảnh. Đó gọi là đẳng giác chi định.
Thế nào là đẳng giác chi Xả? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy tác ý vô lậu tương ưng với tánh của tâm bình đẳng, tánh của tâm chánh trực, tâm không cảnh giác, trụ nơi tịch tĩnh. Đó gọi là đẳng giác chi xả.
**
* Thế nào là Giải thoát thứ nhất? Nghĩa là có sắc, quán các sắc, là giải thoát thứ nhất. Ở đây thứ nhất là sự tính đếm, thuận theo thứ lớp, thuận theo sự nối tiếp và nhập định. Trong định như thế các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là giải thoát.
Thế nào là Giải thoát thứ hai? Nghĩa là bên trong không có tưởng sắc, quán sắc bên ngoài, là giải thoát thứ hai, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ hai. Trong định như thế các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là giải thoát
Thế nào là Giải thoát thứ ba? Nghĩa là giải thoát thanh tịnh, trụ đầy đủ nơi thân tác chứng, là giải thoát thứ ba, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ ba. Trong định như thế các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là giải thoát.
Thế nào là Giải thoát thứ tư? Nghĩa là vượt khỏi tất cả tưởng sắc, diệt hết các tưởng có đối, không còn tư duy về các thứ tưởng, nhập vào không vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ không vô biên, là giải thoát thứ tư, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ tư. Trong định như thế các thứ thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là giải thoát.
Thế nào là Giải thoát thứ năm? Nghĩa là vượt khỏi tất cả xứ không vô biên, nhập vào thức vô biên, trụ đầy đủ nơi xứ thức vô biên, là giải thoát thứ năm, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ năm. Trong định như thế, các thứ thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là giải thoát.
Thế nào là Giải thoát thứ sáu? Nghĩa là vượt khỏi tất cả xứ thức vô biên, nhập vào vô sở hữu, trụ đầy đủ nơi xứ vô sở hữu, là giải thoát thứ sáu, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ sáu. Trong định như thế, các thứ thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là giải thoát.
Thế nào là Giải thoát thứ bảy? Nghĩa là vượt khỏi tất cả xứ vô sở hữu, nhập và trụ đầy đủ nơi xứ phi tưởng phi phi tưởng, là giải thoát thứ bảy, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ bảy. Trong định như thế, các thứ thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là giải thoát.
Thế nào là Giải thoát thứ tám? Nghĩa là vượt khỏi tất cả xứ phi tưởng phi phi tưởng, nhập vào tưởng thọ diệt, trụ đầy đủ nơi thân tác chứng, là giải thoát thứ tám, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ tám. Trong định như thế, các thứ được giải thoát là giải thoát thù thắng, giải thoát tột cùng. Lại nữa, nếu tưởng pháp vi tế làm nhân, tưởng vi tế làm đẳng vô gián là nghĩa không cùng kết hợp với tưởng, là nghĩa đã thành tựu. Đó gọi là giải thoát.
*
Thế nào là Thắng xứ thứ nhất? Nghĩa là bên trong có tưởng sắc, quán ít sắc bên ngoài, các sắc ấy hiển bày hoặc đẹp, hoặc xấu đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như thế, là thắng xứ thứ nhất, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ nhất. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
Thế nào là Thắng xứ thứ hai? Nghĩa là bên trong có tưởng sắc, quán nhiều sắc bên ngoài, các sắc ấy hiển bày hoặc đẹp, hoặc xấu đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như thế, là thắng xứ thứ hai, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ hai. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
Thế nào là Thắng xứ thứ ba? Nghĩa là bên trong không có tưởng sắc, quán ít sắc bên ngoài, các sắc ấy hiển bày hoặc đẹp, hoặc xấu đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như thế, là thắng xứ thứ ba, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ ba. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
Thế nào là Thắng xứ thứ tư? Nghĩa là bên trong không có tưởng sắc, quán nhiều sắc bên ngoài, các sắc ấy hiển bày hoặc đẹp hoặc xấu đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như thế, là thắng xứ thứ tư, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ tư. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
Thế nào là Thắng xứ thứ năm? Nghĩa là bên trong không có tưởng sắc, quán các sắc bên ngoài, hoặc là màu xanh thì hiển xanh, hiện xanh, ánh sáng xanh như hoa Ô-mạc-ca, hoặc như màu áo nhuộm xanh nơi xứ Bà-la-ni-tư. Đối với các sắc ấy đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như thế, là thắng xứ thứ năm, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ năm. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
Thế nào là Thắng xứ thứ sáu? Nghĩa là bên trong không có tưởng sắc, quán các sắc bên ngoài, hoặc là màu vàng thì hiển vàng, hiện vàng, ánh sáng vàng như hoa Yết-ni-ca, hoặc như màu áo nhuộm vàng nơi xứ Bà-la-ni-tư. Đối với các sắc như thế đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như vậy, là thắng xứ thứ sáu, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ sáu. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
Thế nào là Thắng xứ thứ bảy? Nghĩa là bên trong không có tưởng sắc, quán các sắc bên ngoài, hoặc là màu đỏ thì hiển đỏ, hiện đỏ, ánh sáng đỏ như hoa Bàn-đậu-thì-phược-ca, hoặc như màu áo nhuộm đỏ nơi xứ Bà-la-ni-tư. Đối với các sắc như thế đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như vậy, là thắng xứ thứ bảy, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ bảy. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
Thế nào là Thắng xứ thứ tám? Nghĩa là bên trong không có tưởng sắc, quán các sắc bên ngoài, hoặc là màu trắng thì hiển trắng, hiện trắng, ánh sáng trắng như ngôi sao Ô-sát-tư, hoặc như màu áo trắng tinh nơi xứ Bà-la-ni-tư. Đối với các sắc như thế đều thấy biết rõ đúng, đầy đủ các tưởng như vậy, là thắng xứ thứ tám, theo thứ tự cùng theo nhập định là thứ tám. Trong định như vậy, các thứ sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện có đều là thiện. Đó gọi là thắng xứ.
*
Thế nào là Chánh kiến? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm hiểu, tác ý vô lậu tương ưng với các pháp được lựa chọn, lựa chọn kỹ, lựa chọn tột cùng và hiểu rõ, đều hiểu rõ, hiểu rõ khắp, hiểu rõ gần, trí sáng thông đạt, xét đoán tinh tường tuệ hành minh giác nơi Tỳ-bát-xá-na. Đó gọi là Chánh kiến.
Thế nào là Chánh tư duy? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm hiểu, tác ý vô lậu tương ưng với các tâm tìm cầu, tìm cầu khắp, suy tính, suy tính tột cùng, hiện tiền suy tính truy cứu dò xét, tư duy hết mực, là tánh tư duy. Đó gọi là Chánh tư duy.
Thế nào là Chánh ngữ? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm hiểu, trừ bỏ bốn hành ác của ngữ hướng đến tà mạng. Nơi các hành ác của ngữ khác, do lực quyết trạch để dẫn đến vô lậu, nhằm xa lìa dứt diệt, xa lìa riêng biệt, luật nghi luôn tịch tĩnh, không tạo không tác, không hành không phạm, không hủy hoại phần hạn, không vượt bỏ các phép tắc, luật lệ. Đó gọi là Chánh ngữ.
Thế nào là Chánh nghiệp? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm hiểu, trừ bỏ ba hành ác của thân hướng đến tà mạng. Nơi các hành ác khác của thân, do từ sức quyết trạch để dẫn đến vô lậu, nhằm xa lìa dứt diệt, xa lìa riêng biệt, luật nghi luôn tịch tĩnh, không tạo không tác, không hành không phạm, không hủy hoại phần hạn, không vượt bỏ các phép tắc, luật lệ. Đó gọi là Chánh nghiệp.
Thế nào là Chánh mạng? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm hiểu, nơi các hành ác của thân, ngữ hướng đến tà mạng thì dùng sức quyết trạch để dẫn đến vô lậu, nhằm xa lìa dứt diệt, xa lìa riêng biệt, luật nghi luôn tịch tĩnh, không tạo không tác, không hành không phạm, không hủy hoại phần hạn, không vượt bỏ các phép tắc, luật lệ. Đó gọi là Chánh mạng.
Thế nào là Chánh tinh tấn? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm hiểu, tác ý vô lậu tương ưng với các thứ siêng năng tinh tấn, hăng hái khó ngăn cản, tâm ý cố gắng không hề ngừng nghỉ, tánh của tâm dũng mãnh. Đó gọi là Chánh tinh tấn.
Thế nào là Chánh niệm? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm xét, tác ý vô lậu tương ưng với các niệm tùy niệm, ức niệm, biệt niệm, không quên không mất, không sót không thiếu, tánh không quên pháp, tánh của tâm ghi nhớ kỹ. Đó gọi là Chánh niệm.
Thế nào là Chánh định? Nghĩa là các đệ tử của bậc Thánh đối với bốn Thánh đế khổ, tập, diệt, đạo luôn tư duy, tìm xét, tác ý vô lậu tương ưng với các pháp khiến tâm trụ cùng trụ, an trụ, trụ gần, trụ vững chắc, không tán loạn, thâu giữ chặt chẽ, là tánh của tâm chuyên một cảnh. Đó gọi là Chánh định.
HẾT – QUYỂN 7