LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ
QUYỂN 79
Chương 2: KIẾT UẨN
Phẩm 4: BÀN VỀ MƯỜI MÔN, phần 9
Như Khế kinh nói: Khổ Thánh đế nên dùng tuệ để nhận biết khắp. A-tỳ-đạt-ma nói: Đối tượng được nhận biết khắp của trí tức là tất cả các pháp.
Hỏi: Nếu tất cả các pháp là đối tượng được nhận biết khắp như A-tỳ-đạt-ma đã nói thì vì sao Khế kinh chỉ nói: Nên dùng tuệ để nhận biết khắp về khổ?
Đáp: Khế kinh chỉ dựa vào tuệ xuất thế gian để nói khổ Thánh đế là nên nhận biết khắp. Còn A-tỳ-đạt-ma dựa chung vào tuệ thế gian và xuất thế gian để nói tất cả các pháp là đối tượng được nhận biết khắp.
Như thế gian – xuất thế gian, thì các thứ hữu lậu – vô lậu, trói buộc – giải thoát, hệ thuộc – không hệ thuộc nên biết cũng như vậy.
Lại nữa, Khế kinh chỉ dựa vào tuệ nhận biết khắp gần để nói khổ Thánh đế là nên nhận biết khắp. Còn A-tỳ-đạt-ma dựa chung vào tuệ gần và xa để nói tất cả các pháp đều là đối tượng được nhận biết khắp.
Như gần – xa, thì các thứ bức bách gần – không phải bức bách gần, hòa hợp – không hòa hợp nên biết cũng thế.
Lại nữa, Khế kinh chỉ dựa vào tuệ quán về cộng tướng để nói khổ Thánh đế là nên nhận biết khắp. Còn A-tỳ-đạt-ma dựa chung vào tuệ quán về tự tướng và cộng tướng để nói tất cả các pháp là đối tượng được nhận biết khắp.
Như tuệ tự tướng – cộng tướng, thì các thứ giác tự tướng – cộng tướng, tác ý tự tướng – cộng tướng nên biết cũng như thế.
Lại nữa, Khế kinh chỉ dựa vào tuệ không chung để nói khổ Thánh đế là nên nhận biết khắp. Còn A-tỳ-đạt-ma dựa chung vào tuệ chung và không chung để nói tất cả các pháp là đối tượng được nhận biết khắp.
Lại nữa, Khế kinh dựa vào lúc hiện quán để nói khổ Thánh đế là nên nhận biết khắp. Còn A-tỳ-đạt-ma dựa vào lúc hành đế để nói tất cả các pháp là đối tượng được nhận biết khắp.
Lại nữa, Khế kinh dựa vào giác được thiết lập để nói khổ Thánh đế là nên nhận biết khắp. Còn A-tỳ-đạt-ma dựa vào giác thắng nghĩa để nói tất cả các pháp là đối tượng được nhận biết khắp.
Hỏi: Giác được thiết lập có nghĩa là gì?
Đáp: Là dựa vào quả thô, rõ, dễ thấy, theo phương tiện nói: Nên nhận khắp biết về khổ. Dựa vào nhân sinh tử không nối tiếp, theo phương tiện nói: Vĩnh viễn dứt tập. Dựa vào đủ hai đức không ở nơi thân, theo phương tiện nói: Nên chứng đắc diệt. Dựa vào đạo có khả năng đoạn trừ hẳn các phiền não, theo phương tiện nói: Nên tu tập đạo. Như thế gọi là nghĩa của giác được thiết lập. Nó không phải là lý rốt ráo, nên đặt tên là thiết lập.
Hiếp Tôn giả nói: Đức Thế Tôn chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”, hoặc cho: “Chỉ có khổ là nên nhận biết khắp”. Thế nên trong Đối pháp nói: “Tất cả pháp là đối tượng được nhận biết khắp”. Đức Thế Tôn chỉ nói: “Tập nên đoạn dứt vĩnh viễn”, hoặc cho: “Chỉ có tập là nên đoạn dứt vĩnh viễn”. Nên trong Đối pháp nói: “Các pháp hữu lậu đều nên đoạn dứt vĩnh viễn”. Đức Thế Tôn chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”, hoặc cho “Chỉ có diệt là nên tác chứng”. Nên trong Đối pháp dựa vào đắc tác chứng nói: “Các pháp thiện đều nên tác chứng”. Đức Thế Tôn chỉ nói: “Đạo nên tu tập”, hoặc cho: “Chỉ có đạo là nên tu tập”. Cho nên trong Đối pháp nói chung: “Tất cả pháp thiện hữu vi đều nên tu tập”. Đây tức là chỉ bày làm sáng tỏ các nghĩa lý của kinh chưa liễu biệt. Còn A-tỳ-đạt-ma nêu bày về các nghĩa đã liễu biệt.
Lại nữa, vì khiến dứt trừ vĩnh viễn các ngõ ngách sinh tử nên Đức Phật chỉ nói “Nên nhận biết khắp về khổ”. Nghĩa là hữu thân kiến là căn bản của sáu mươi hai xứ kiến. Xứ kiến tức là các phiền não căn bản khác. Các phiền não khác tức là căn bản của nghiệp. Các nghiệp lại là căn bản của dị thục. Nương dựa vào dị thục nên sinh trưởng tất cả các pháp thiện, bất thiện và vô ký, do đó luân chuyển nơi sinh tử không cùng. Khi đã nhận biết khắp về khổ thì đoạn trừ các hữu thân kiến, thân kiến đã đoạn thì đường nẻo sinh tử cũng tuyệt dấu. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, vì khiến đoạn dứt vĩnh viễn năm thứ ngã kiến, mười lăm thứ ngã sở kiến, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, vì khiến đoạn dứt vĩnh viễn các thứ hữu thân kiến, biên chấp kiến và vì để chứng được Tam-ma-địa không, vô nguyện, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, từ vô thỉ đến nay, các loài hữu tình đối với năm thủ uẩn dấy khởi tưởng về ngã, hữu tình, thọ mạng, sự sinh, nuôi dưỡng, sổ thủ thú. Ai có thể đoạn trừ các tưởng xấu ác điên đảo này và khiến có được tưởng về pháp nghĩa là nhận biết khắp về khổ. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, từ vô thỉ đến nay, đối với các uẩn về khổ, vô thường, không, vô ngã luôn dấy khởi các tưởng thường lạc ngã tịnh. Ai có thể đoạn dứt các tưởng điên đảo này khiến được tưởng không điên đảo nghĩa là nhận biết khắp về khổ. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, từ vô thỉ đến nay, các loài hữu tình tuy luôn bị các uẩn gây tổn não, bức bách, như mang phải gánh nặng, nhưng đối với các uẩn luôn mong cầu tham đắm, như các đứa bé thường bị nhũ mẫu đánh mắng nhưng luôn nương dựa. Vì muốn khiến các loài hữu tình đoạn dứt tham đắm nơi các uẩn, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, từ vô thỉ đến nay, các loài hữu tình do các phiền não nên hành ác đảo điên khiến tâm tâm sở đối với cảnh luôn tà vạy. Ai có thể khiến đạt chánh trực? Tức là nhận biết khắp về khổ. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ tức tâm có thể an trụ nơi tưởng không điên đảo. Nếu vị này đã hiện quán về khổ Thánh đế rồi thì đối với các Thánh đế khác không hiện quán nữa.
Có người hỏi: Năm thủ uẩn này là khổ hay vui?
Đáp: Chỉ toàn là khổ, như thỏi sắt nóng.
Lại hỏi: Các thủ uẩn này là thường hay vô thường?
Đáp: Vô thường trong từng sát-na không hề dừng lại.
Lại hỏi: Các thủ uẩn này là tịnh hay bất tịnh?
Đáp: Bất tịnh như đống phân.
Lại hỏi: Các thủ uẩn này là có ngã hay không ngã?
Đáp: Không ngã. Người tạo tác, kẻ thọ nhận đều không thể thủ đắc, chỉ là một nhóm hành rỗng.
Các tri thức không điên đảo này đều do nhận biết khắp về khổ.
Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các thủ uẩn như bệnh vì tánh không thuận hợp. Các thủ uẩn như ung nhọt vì tánh có thể bức não. Các thủ uẩn như mũi tên vì tánh có thể tổn hại. Các thủ uẩn như đao kiếm vì tánh có thể gây thương tích. Các thủ uẩn như chất độc vì tánh có thể giết hại. Các thủ uẩn như lửa vì tánh có thể thiêu đốt. Các thủ uẩn như kẻ oán vì tánh không tạo lợi ích. Các thủ uẩn như thành nơi biên giới luôn bị các thứ giặc nghiệp phiền não xâm phạm quấy nhiễu. Có thể biết được các điều nêu trên là nhờ nhận biết khắp về khổ. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ gọi là gặp được chân Phật xuất hiện ở đời. Gọi là nhập vào chánh pháp của thắng nghĩa như lý. Gọi là người xuất gia chân chánh. Gọi là được thọ dụng đích thực của báu chánh pháp không còn chướng ngại. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ gọi là bỏ các thứ đã từng duyên được các thứ chưa từng duyên. Gọi là bỏ cái chung được cái không chung. Gọi là bỏ thế gian được xuất thế gian. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ thì có thể mở được cánh cửa Thánh đạo chưa từng mở, nên có thể bỏ tánh phàm phu chưa từng bỏ, có thể được tánh Thánh chưa từng được. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ là bỏ danh được danh, bỏ cõi được cõi, bỏ tánh được tánh. Bỏ danh được danh: Là bỏ danh phàm phu được danh Thánh giả. Bỏ cõi được cõi: Là bỏ phần cõi phàm phu được phần cõi Thánh giả. Bỏ tánh được tánh: Nghĩa là bỏ chủng tánh phàm phu được chủng tánh Thánh giả. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ thì được tâm không được nhân của tâm, được rõ về khổ không được nhân của khổ, được minh không được nhân của minh. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ thì bỏ năm đồng phần được tám đồng phần. Năm đồng phần là năm đồng phần của nghiệp vô gián. Tám đồng phần là đồng phần của bốn hướng và bốn quả. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ thì bỏ tánh phàm phu yếu kém trụ vào tánh pháp Phật như ngọn cờ Đế Thích. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ gọi là người đầu tiên được pháp chứng tịnh. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ gọi là đầu tiên đạt được “Không có việc đó”. Như Khế kinh nói: Không có việc đó, là người thấy Thánh đế lại cố đoạn mạng kẻ khác, vượt bỏ Học xứ (Giới) cho đến nói rộng. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, các Sư Du-già nếu nhận biết khắp về khổ gọi là đầu tiên nhập vào biển pháp lớn, lên núi pháp lớn, hàng phục oán địch, thăng tòa pháp lớn. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, khổ nên nhận biết khắp không phải đều đoạn dứt vĩnh viễn. Tập nên đoạn dứt vĩnh viễn không nên chỉ nhận biết khắp. Diệt nên tác chứng không nên chỉ nhận biết khắp. Đạo nên tu tập không nên chỉ nhận biết khắp. Cho nên Đức Phật chỉ nói: “Nên nhận biết khắp về khổ”.
Lại nữa, đối với bốn Thánh đế đều nên nhận biết khắp. Vì khổ đứng trước nên chỉ nói về khổ.
Như Khế kinh nói: Khổ tập Thánh đế nên dùng tuệ đoạn dứt vĩnh viễn. Còn A-tỳ-đạt-ma nói: Nên đoạn dứt vĩnh viễn nghĩa là các pháp hữu lậu.
Hỏi: Nếu nói chỉ ái là tập đế, nên hỏi: Các pháp hữu lậu đều nên đoạn dứt vĩnh viễn như Đối pháp nói, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói: Ái nên đoạn dứt vĩnh viễn, không phải là tất cả pháp hữu lậu khác?
Đáp: Vì ái là tập như trước đã nói.
Hỏi: Nếu nói nhân của tất cả pháp hữu lậu là tập đế, nên hỏi: Khổ đế cũng nên đoạn dứt vĩnh viễn, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói: Tập nên đoạn dứt vĩnh viễn?
Đáp: Vì Đức Phật muốn dứt bỏ hết khổ nên nói: Các ông nếu muốn lìa bỏ các khổ nên đoạn dứt vĩnh viễn tập. Khi tập đã đoạn dứt hẳn thì khổ đâu còn sinh, gọi là thật sự lìa bỏ khổ.
Lại nữa, Đức Phật vì muốn trừ bỏ quả khổ nên nói: Các ông nếu muốn trừ bỏ quả khổ nên đoạn dứt vĩnh viễn nhân. Khi nhân đã đoạn dứt hẳn thì quả không còn sinh, gọi là thật sự lìa bỏ quả.
Lại nữa, vì muốn ngăn dứt dòng chảy khổ, nên Đức Phật nói: Như ngăn dòng chảy phải đắp đập từ đầu nguồn nước. Nếu muốn ngăn dòng chảy khổ nên đoạn dứt vĩnh viễn tập.
Lại nữa, khi đoạn dứt hẳn tập, các thứ cùng nhân đều dứt, các thứ có liên hệ đều lìa, được ly hệ vô lậu, được diệt hết các nhân biến hành ở cõi Hữu đảnh. Cho nên Đức Thế Tôn chỉ nói: “Tập nên đoạn dứt vĩnh viễn”.
Lại nữa, nếu đoạn dứt nhân, quả liền theo đó đoạn dứt. Nếu diệt nhân quả cũng theo đó diệt. Nếu từ bỏ nhân, quả theo đó từ bỏ. Nếu loại trừ hẳn nhân, quả cũng theo đó loại trừ hết. Cho nên Đức Thế Tôn chỉ nói: “Tập nên đoạn dứt vĩnh viễn”.
Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn khiến các loài hữu tình bỏ hết gánh nặng của uẩn, nên Đức Phật nói: Tức là như có người gánh vật nặng đi vào chỗ nguy hiểm lại ngã nhào vì bị gánh nặng đè chặt, muốn thoát ra nhưng không biết làm sao. Có người nói nên ném bỏ các vật nặng, cắt đứt dây buộc mới có thể thoát nạn. Như vậy, các loài hữu tình mang vác gánh nặng các uẩn cùng đi vào chốn sinh tử hiểm nguy, bị gánh nặng này bức bách khổ sở. Thế nên Đức Phật bảo: Các ông nếu muốn thoát khỏi gánh nặng các uẩn nên đoạn dứt vĩnh viễn tập. Tập đã đoạn dứt thì gánh nặng uẩn liền thoát.
Lại nữa, vì để đối trị ngoại đạo nên nói như thế. Nghĩa là các ngoại đạo bị các quả khổ bức bách, tuy rất chán ghét quả khổ nhưng không đoạn dứt nhân, giống như loài chó ngu si bỏ người đuổi theo hòn đất. Thế nên Đức Thế Tôn bảo: Nếu các ông chán ghét khổ phải nên đoạn dứt vĩnh viễn tập. Nhân tập đoạn rồi thì quả khổ không sinh liền được giải thoát.
Lại nữa, tập dẫn sinh các quả thượng, trung, hạ ở ba cõi. Nếu đoạn dứt hẳn tập thì quả khổ không sinh. Thế nên Đức Thế Tôn bảo các loài hữu tình: Các vị nếu chán ghét khổ phải nên đoạn dứt vĩnh viễn tập.
Lại nữa, tập có thể sinh trưởng ba thứ quả khổ. Nếu đoạn dứt hết tập thì quả khổ kia không sinh. Thế nên Đức Thế Tôn bảo các loài hữu tình: Nếu chán ghét ba khổ phải nên đoạn dứt vĩnh viễn tập.
Lại nữa, tập có thể sinh trưởng bốn thứ sinh khổ. Nếu đoạn dứt hết tập thì sinh khổ kia không sinh trưởng. Thế nên Đức Thế Tôn bảo các loài hữu tình: Nếu chán ghét bốn khổ phải nên đoạn dứt vĩnh viễn tập.
Lại nữa, tập có thể sinh trưởng năm thứ nẻo khổ. Nếu đoạn dứt hết tập thì các nẻo khổ kia không còn sinh trưởng. Thế nên Đức Thế Tôn bảo các loài hữu tình: Nếu chán ghét năm khổ phải nên đoạn dứt vĩnh viễn tập.
Lại nữa, khổ chỉ nên bỏ không nên đoạn, nên Đức Thế Tôn Thế Tôn chỉ nói: “Tập nên đoạn dứt vĩnh viễn”.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên Đức Thế Tôn chỉ nói: “Tập nên đoạn dứt vĩnh viễn”.
Như Khế kinh nói: Khổ diệt Thánh đế nên dùng tuệ tác chứng. A-tỳ-đạt-ma nói: Được tác chứng nghĩa là các pháp thiện.
Hỏi: Nếu các pháp thiện đều nên tác chứng như Đối pháp nói, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói: Diệt nên tác chứng?
Đáp: Diệt là giải thoát, tướng là ly hệ, nên Đức Phật chỉ nói “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt không có xứ sở, cũng không có đối tượng nương dựa, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt tuy là nhân nhưng không có quả, diệt tuy là quả nhưng không có nhân, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt tuy là nhân nhưng không có nhân, diệt tuy là quả nhưng không có quả, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt là chủ thể tạo tác không phải là có chủ thể tạo tác, là duyên không phải có duyên, là lìa không phải là có lìa, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt khiến các uẩn không nhưng chẳng biến đổi pháp, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt có thể dứt bỏ ba thứ, làm ngã đổ bốn thứ, ngăn chận năm thứ, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt là một vị nơi đạo quả rộng lớn, có thể làm trong sạch bốn giòng họ và các danh ngôn, gọi là pháp vô thượng, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt chỉ là vô lậu mà được chung hai thứ, diệt chỉ là phi học phi vô học mà được chung ba thứ, diệt chỉ là một đế mà được gồm thâu ba đế, diệt chỉ là không hệ thuộc mà được chung ba thứ, diệt chỉ là không đoạn trừ mà được chung hai thứ, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt là thiện cũng là thường, là thiện cũng lìa thế gian, là thiện cũng lìa uẩn, là thiện không có ba phẩm, là thiện không có trước sau, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, diệt là quả Sa-môn không phải là Sa-môn, là quả Bàla-môn không phải là Bà-la-môn, là quả phạm hạnh không phải là phạm hạnh, là quả đạo không phải là đạo, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Lại nữa, vì chứng diệt nên chứng thiện hữu vi, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên Đức Phật chỉ nói: “Diệt nên tác chứng”.
Như Khế kinh nói: Hướng đến khổ diệt đạo Thánh đế nên dùng tuệ tu tập. A-tỳ-đạt-ma nói: Pháp nên tu tập là pháp hữu vi thiện.
Hỏi: Các pháp thiện hữu vi đều nên tu tập, như Đối pháp nói, vì sao Đức Thế Tôn chỉ nói: Nên tu Thánh đạo?
Đáp: Thánh đạo nên tu không nên đoạn trừ vĩnh viễn, vì không phải như các pháp thiện khác nên đoạn trừ, nên tu, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, Thánh đạo chỉ có tu đắc, tu tập, không phải như các pháp thiện khác có đủ bốn cách tu, đó là tu đắc, tu tập, tu đối trị, tu trừ diệt, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, Thánh đạo gồm đủ cả hai bậc Thánh thiện, Thánh vô lậu, không phải như các pháp thiện khác chỉ là bậc Thánh thiện, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, Thánh đạo chỉ nên tu không đoạn trừ duyên nơi các phiền não như tham v.v…, không phải như các pháp thiện khác cũng tu cũng đoạn duyên nơi phiền não kia, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, Thánh đạo nên tu là ra khỏi không phải là ẩn mất, không như các pháp thiện khác tuy là nên tu cũng ra khỏi cũng ẩn mất. Nghĩa là ra khỏi cõi dục, ẩn mất nơi tĩnh lự thứ nhất, cho đến ra khỏi Vô sở hữu xứ, ẩn mất nơi Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Hỏi: Người đắc Thánh đạo thì lìa nhiễm cõi dục rồi sinh vào tĩnh lự thứ nhất, cho đến lìa nhiễm nơi Vô sở hữu xứ rồi sinh vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ, vì sao nói Thánh đạo là ra khỏi không phải là ẩn mất?
Đáp: Tuy có đối với đó, nhưng các Thánh đạo không chiêu cảm dị thục, không phải như các pháp thiện khác có thể chiêu cảm dị thục, nên các Thánh đạo chỉ gọi là ra khỏi.
Lại nữa, tu tập Thánh đạo có thể làm hao tổn các hữu, có thể trừ bỏ các hữu, có thể phá diệt các hữu. Còn tu tập các pháp thiện khác thì nuôi lớn các hữu, thêm ích các hữu, nhận giữ các hữu, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, tu tập Thánh đạo là đoạn dứt các hữu, lưu chuyển nơi sinh già bệnh chết khiến không còn nối tiếp. Còn tu tập pháp thiện khác thì nối tiếp các hữu, lưu chuyển nơi sinh già bệnh chết không khiến gián đoạn, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, tu tập Thánh đạo là hướng đến hành diệt các khổ sinh già bệnh chết của hữu thế gian. Còn tu tập các pháp thiện khác là hướng đến hành tập gây ra các khổ sinh già bệnh chết của hữu thế gian, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, tu tập Thánh đạo không phải là sự việc của hữu thân kiến v.v… cho đến không rơi vào chỗ gồm thâu thuộc về khổ đế, tập đế, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”. của khổ đế, tập đế. Còn tu tập các pháp thiện khác là sự việc của hữu thân kiến v.v… cho đến
Lại nữa, tu tập Thánh đạo không phải là nhân sinh sinh già bệnh chết lưu chuyển nơi các nẻo, cõi. Còn tu tập các pháp thiện khác là nhân sinh sinh già bệnh chết lưu chuyển nơi các nẻo, cõi, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, tu tập Thánh đạo là khiến sự sinh khởi sinh già bệnh chết lưu chuyển nơi các nẻo, cõi đều dứt hết. Còn tu tập các pháp thiện khác là khiến sự sinh khởi sinh già bệnh chết lưu chuyển nơi các nẻo, cõi không dứt, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, Thánh đạo chỉ là đáng yêu mến, quả đáng yêu mến, là đáng mừng, quả đáng mừng, là đáng vui thích, quả đáng vui thích. Còn các pháp thiện khác thì không như thế, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, Thánh đạo là Sa-môn, là quả Sa-môn, là Bà-la-môn, là quả Bà-la-môn, là phạm hạnh, là quả phạm hạnh, là đạo, là quả đạo, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Lại nữa, tu tập Thánh đạo nhất định tiến đến Niết-bàn. Còn tu các pháp thiện khác thì chỗ tiến đến không nhất định, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Do các thứ nhân duyên như thế, nên Đức Phật chỉ nói: “Nên tu Thánh đạo”.
Có mười sáu hành tướng duyên nơi bốn Thánh đế khởi hiện: Nghĩa là duyên nơi khổ đế có bốn hành tướng: Một là khổ, hai là vô thường, ba là không, bốn là vô ngã. Duyên nơi tập đế có bốn hành tướng: Một là nhân, hai là tập, ba là sinh, bốn là duyên. Duyên nơi diệt đế có bốn hành tướng: Một là diệt, hai là tĩnh, ba là diệu, bốn là lìa. Duyên nơi đạo đế có bốn hành tướng: Một là đạo, hai là như, ba là hành, bốn là xuất.
Hỏi: Mười sáu hành tướng, về danh là mười sáu, còn thật Thể có bao nhiêu?
Đáp: Có thuyết nói: Danh là mươi sáu, thật Thể có bảy. Tức là duyên nơi khổ đế có bốn hành tướng, danh có bốn, thật Thể cũng có bốn. Duyên nơi ba đế kia đều có bốn hành tướng, danh tuy có bốn, thật Thể chỉ có một.
Hỏi: Vì sao duyên nơi khổ đế có bốn hành tướng, danh có bốn, thật Thể cũng có bốn, còn duyên nơi ba đế kia thì không như thế?
Đáp: Các hành tướng duyên nơi khổ đế là đối trị gần bốn thứ điên đảo, Như bốn thứ điên đảo nên về danh, Thể đều có bốn. Còn duyên nơi ba đế kia, hành tướng lúc khởi không phải là pháp đối trị gần bốn thứ điên đảo, nên danh tuy có bốn, thật thể chỉ có một.
Lời bình: Nên nói như vầy: Mười sáu hành tướng, danh và thật Thể đều có mười sáu. Như danh – thật thể, các thứ danh nêu đặt – thể nêu đặt, danh dị tướng – thể dị tướng, danh dị tánh – thể dị tánh, danh sai khác – thể sai khác, danh kiến lập – thể kiến lập, danh hiểu rõ – thể hiểu rõ nên biết cũng như vậy.
Hỏi: Nói hành tướng thì tự tánh là gì?
Đáp: Tự tánh là tuệ. Nên biết ở đây tuệ là hành tướng, cũng là chủ thể hành, cũng là đối tượng hành. Cùng tuệ tương ưng với tâm tâm sở pháp, tuy không phải là hành tướng, nhưng là chủ thể hành, cũng là đối tượng hành. Cùng tuệ đều có hành bất tương ưng và có pháp khác tuy không phải là hành tướng, cũng không phải là chủ thể hành, mà là đối tượng hành.
Có thuyết nói: Nói hành tướng là dùng chung tất cả tâm tâm sở pháp làm tự tánh. Hoặc nói thế này: Các tâm, tâm sở cũng là hành tướng, cũng là chủ thể hành, cũng là đối tượng hành. Tất cả pháp khác tuy không phải là hành tướng, cũng không phải là chủ thể hành, mà chỉ là đối tượng hành.
Lại có thuyết cho: Nói hành tướng là dùng tất cả các pháp làm tự tánh của nó. Hoặc nói thế này: Các pháp tương ưng cũng là hành tướng, cũng là chủ thể hành, cũng là đối tượng hành. Các pháp bất tương ưng tuy là hành tướng, cũng là đối tượng hành, nhưng không phải là chủ thể hành.
Lời bình: Nên nói thế này: Nói hành tướng, tự tánh của nó là tuệ, như trước đã nói. Như thế gọi là tự tánh, là bản tánh, tướng phần, là tự thể ngã vật của hành tướng.
Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.
Hỏi: Thế nào là hành tướng? Hành tướng là nghĩa gì?
Đáp: Đối với tướng của các cảnh phân biệt chọn lựa mà chuyển là nghĩa của hành tướng.
Hỏi: Thế nào gọi là Khổ? Nói rộng cho đến: Thế nào gọi là Xuất?
Đáp: Làm thương tổn, đau đớn, bức bách, như mang phải gánh nặng, trái với Thánh tâm, nên gọi là Khổ. Do hai duyên nên gọi là Vô thường: Một là do đối tượng tạo tác. Hai là do thuộc nơi duyên. Do đối tượng tạo tác: Tức là các pháp hữu vi trong khoảng một sát-na có thể có đối tượng tạo tác. Sát-na thứ hai không còn là chủ thể tạo tác. Do thuộc nơi duyên: Tức là các pháp hữu vi hệ thuộc vào các duyên mới có đối tượng tạo tác. Trái với ngã sở kiến nên gọi là Không. Trái với ngã kiến nên gọi là Vô ngã.
Như pháp hạt giống nên gọi là Nhân. Có thể cùng xuất hiện nên gọi là Tập. Khiến hữu nối tiếp khởi nên gọi là Sinh. Có thể hoàn thành nên gọi là Duyên. Ví như có các duyên là bùn đất, vòng xoay, khuôn, nước v.v… hợp thành tạo nên chiếc bình.
Thủ uẩn đã dứt hẳn nên gọi là Diệt. Các tướng hữu vi đã dứt nghỉ nên gọi là Tĩnh. Là thiện, là thường, nên gọi là Diệu. Yên ổn tột cùng nên gọi là Lìa. Lìa này là tự Thể không phải là có lìa.
Trái bỏ đạo tà nên gọi là Đạo. Trái bỏ phi lý nên gọi là Như. Hướng đến cung Niết-bàn nên gọi là Hành. Có thể vĩnh viễn vượt qua nên gọi là Xuất. Là tánh có thể xuất không phải là tánh ẩn mất.
Lại nữa, bị các thứ thô nặng bức bách nên gọi là Khổ. Tánh không rốt ráo nên gọi là Vô thường. Bên trong lìa bỏ sĩ phu, kẻ tạo tác, kẻ thọ nhận, loại trừ sự tạo tác, thọ nhận, nên gọi là Không. Tánh không tự tại nên gọi là Vô ngã.
Dẫn phát các hữu nên gọi là Nhân. Khiến hữu hiện khởi nên gọi là Tập. Có thể khiến các hữu thấm nhuần sinh khởi nên gọi là Sinh. Có đối tượng tạo tác nên gọi là Duyên.
Tánh không nối tiếp, các sự nối tiếp đã hết, nên gọi là Diệt. Ba thứ lửa hoàn toàn vắng lặng nên gọi là Tĩnh. Thoát khỏi các tai ương nên gọi là Diệu. Ra khỏi các thứ lỗi lầm tai họa nên gọi là Lìa.
Là con đường xuất yếu nên gọi là Đạo. Có thể khế hợp chánh lý nên gọi là Như. Có thể đang hướng đến nên gọi là Hành. Vĩnh viễn vượt thoát sinh tử nên gọi là Xuất.
Hỏi: Có bốn hành tướng quán quả của sinh tử, vì sao quả này chỉ gọi là khổ đế, không gọi là ba đế như vô thường v.v…?
Đáp: Cũng nên gọi là đế vô thường, không, vô ngã, nhưng không gọi là vì nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, đã nói khổ đế nên biết là đã nói về đế vô thường, không, vô ngã, vì chúng là tương đồng.
Lại nữa, tướng khổ là không chung chỉ pháp hữu lậu là khổ, không phải các pháp khác, nên gọi là khổ đế. Ba tướng như vô thường v.v… là tướng chung của các thứ pháp khác. Nghĩa là tướng vô thường thì cả ba đế đều có. Tướng không và vô ngã thì có mặt khắp tất cả các pháp. Thế nên không gọi là đế vô thường v.v…
Lại nữa, khổ là trái với các hữu, nên hữu tình nghe được thì có thể bỏ sinh tử, do đó gọi là khổ đế. Cũng như thức ăn ngon ngọt luôn khiến trẻ con chú ý, nếu nói là khổ thì chúng liền lánh bỏ, còn nếu nói là vô thường v.v… thì chúng không khởi tâm từ bỏ. Thế nên không gọi là đế vô thường v.v…
Lại nữa, sinh tử có khổ, kẻ ngu người trí cùng tin, ngoại đạo nghe rồi cũng không phỉ báng. Còn nếu nghe nói về vô thường v.v… thì có người không tin, cho nên gọi là khổ đế, không gọi là vô thường v.v…
Lại nữa, chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết đều dễ phân biệt, nên chỉ gọi là khổ đế, không gọi là vô thường v.v… Nghĩa là Đức Phật – Thế Tôn nói có khổ trí, nên đối tượng được nhận biết ở đây chỉ gọi là khổ đế.
Như trí nhận biết và đối tượng được nhận biết, các thứ giác và đối tượng được giác, căn và nghĩa của căn, hành tướng và đối tượng duyên, có cảnh và cảnh, nên biết cũng như thế.
Lại nữa, tên gọi khổ đế này là truyền thuyết, là câu văn xưa cũ đã được lưu truyền. Hằng hà sa số chư Phật thời quá khứ đều dùng tên khổ để biểu thị cho đế này. Đức Phật hiện tại cũng như thế, vậy không nên vấn nạn.
Lại nữa, bốn tướng của đế này, tướng khổ là đứng đầu, thế nên Đức Thế Tôn chỉ gọi là khổ đế.
Hỏi: Có bốn hành tướng quán nhân của sinh tử, vì sao nhân này chỉ gọi là tập đế, không gọi là ba đế như nhân v.v…?
Đáp: Cũng nên gọi là đế nhân, sinh, duyên, nhưng không gọi là vì nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, đã nói tập đế nên biết là đã nói đế nhân, sinh, duyên, vì chúng là tương đồng.
Lại nữa, do chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết đều dễ phân biệt, nên chỉ gọi là tập đế, không gọi là nhân, sinh, duyên. Nghĩa là Đức Phật – Thế Tôn nói có tập trí, nên đối tượng được nhận biết ở đây chỉ gọi là tập đế.
Như trí nhận biết và đối tượng được nhận biết, giác và đối tượng được giác nên biết cũng như vậy.
Lại nữa, tên gọi tập đế này là truyền thuyết, là câu văn xưa cũ đã được lưu truyền. Hằng hà sa số chư Phật thời quá khứ đều dùng tên tập để biểu thị cho đế này. Đức Phật hiện tại cũng như thế, vậy không nên vấn nạn.
Lại nữa, tướng tập chỉ ở nơi pháp hữu lậu có chiêu tập gây tạo sinh tử, không phải nơi pháp vô lậu. Các tướng nhân, sinh, duyên đối với pháp vô lậu cũng có, Thánh đạo cũng gọi là nhân, sinh, duyên. Tập thì không chung, nên lập tên cho đế. Do đó Đức Thế Tôn chỉ gọi là tập đế.
Hỏi: Có bốn hành tướng quán Niết-bàn, vì sao Niết-bàn chỉ gọi là diệt đế, không gọi là ba đế như tĩnh v.v…?
Đáp: Cũng nên gọi là đế tĩnh, diệu, lìa, nhưng không gọi là vì nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, đã nói diệt đế nên biết là đã nói đế tĩnh, diệu, lìa, vì chúng là tương đồng.
Lại nữa, do chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết đều dễ phân biệt, nên chỉ gọi là diệt đế, không gọi là tĩnh, diệu, lìa. Nghĩa là Đức Phật – Thế Tôn nói có diệt trí, nên đối tượng được nhận biết ở đây chỉ gọi là diệt đế.
Như trí nhận biết và đối tượng được nhận biết, giác và đối tượng được giác nên biết cũng như thế.
Lại nữa, tên diệt là không chung, nên lập tên cho đế. Tên diệt chỉ hiển bày sự diệt trừ rốt ráo. Tên tĩnh bao gồm cả định. Diệu, lìa bao gồm cả đạo. Thế nên không gọi là đế tĩnh, diệu, lìa.
Lại nữa, tên gọi diệt đế này là truyền thuyết, là câu văn xưa cũ đã được lưu truyền. Hằng hà sa số chư Phật thời quá khứ đều dùng tên diệt để biểu thị cho đế này. Đức Phật hiện tại cũng như thế, vậy không nên vấn nạn.
Lại nữa, bốn tướng của đế này, tướng diệt là đứng đầu, thế nên Đức Thế Tôn chỉ gọi là diệt đế.
Hỏi: Có bốn hành tướng quán Thánh đạo, vì sao Thánh đạo chỉ gọi là đạo đế, không gọi là ba đế như như v.v…?
Đáp: Cũng nên gọi là đế như, hành, xuất, nhưng không gọi là vì nêu bày chưa trọn vẹn.
Lại nữa, đã nói đạo đế nên biết là đã nói về đế như, hành, xuất, vì chúng là tương đồng.
Lại nữa, do chủ thể nhận biết và đối tượng được nhận biết đều dễ phân biệt, nên chỉ gọi là đạo đế, không gọi là như, hành, xuất. Nghĩa là Đức Phật – Thế Tôn nói có đạo trí, nên đối tượng được nhận biết ở đây chỉ gọi là đạo đế.
Như trí nhận biết và đối tượng được nhận biết, giác và đối tượng được giác nên biết cũng như vậy.
Lại nữa, tên đạo chỉ là hiển bày con đường hướng đến Niết-bàn nên lập tên đế. Như thì bao gồm cả chánh lý, hành thì chung cho hữu lậu, xuất thì chung cho Niết-bàn, nên ở đây không gọi là đế như, hành, xuất.
Lại nữa, tên gọi đạo đế này là truyền thuyết, là câu văn xưa cũ đã được lưu truyền. Hằng hà sa số chư Phật thời quá khứ đều dùng tên đạo để biểu thị cho đế này. Nay Đức Phật cũng như thế, vậy không nên vấn nạn.
Lại nữa, bốn tướng của đế này, tướng đạo là đứng đầu, nên Đức Thế Tôn chỉ gọi là đạo đế.
Tỳ nại da nói: Có lúc vì bốn Thiên vương, Đức Thế Tôn trước đã dùng Thánh ngữ diễn giảng về bốn Thánh đế. Trong bốn vị Thiên vương ấy, có hai vị lãnh hội hiểu được, còn hai vị thì không hiểu. Đức Phật thương xót và giúp hai vị này đạt được nhiều lợi ích, nên đã dùng thứ tiếng ở miền Nam Ấn Độ để giảng giải về bốn Thánh đế, tức là những thứ tiếng Ế-nê-mê-nê-đạp-bộ, Đạtđiệp-bộ, thì trong hai vị Thiên vương này một vị hiểu được, còn một vị không hiểu. Nên Đức Phật thương xót lại nói thứ tiếng Miệt-lệ-xa để nêu giảng bốn Thánh đế, tức là tiếng Ma-xa-đổ-xa, Tăng-nhiếp-ma-tát-phược-đát-la, Tỳ-thích-trì, nên bấy giờ cả bốn vị Thiên vương đều hiểu.
Hỏi: Đức Phật dùng Thánh ngữ để diễn nói bốn Thánh đế có thể khiến mọi người được hóa độ đều được hiểu biết chăng? Nếu nêu như thế thì có lỗi gì? Cả hai đều có lỗi. Vì sao? Vì nếu cho là có thể, vì sao hai vị Thiên vương sau nghe Đức Phật nói Thánh Ngữ mà không hiểu? Còn nếu cho là không thể, ý của tụng sau đây nói làm sao thông? Tụng nói:
Phật dùng một tiếng diễn giảng pháp
Tùy loại chúng sinh đều được hiểu
Đều cho Thế Tôn đồng ngôn ngữ
Riêng vì mình giảng nói nghĩa sâu.
Một thứ tiếng tức là tiếng Phạn. Nếu như người Chí-na đến nghe thì Đức Phật sẽ vì họ nói tiếng Chí-na. Còn như các người Lịchca-diếp-phiệt-na, Đạt-thích-đà, Mạt-điệp-bà-khư-sa, Đổ-hóa-la-báchát-la v.v… đến nghe pháp thì họ đều cho chính Đức Phật đã vì mình giảng nói bằng tiếng nước mình. Nên khi nghe xong, mọi người đều được hiểu rõ.
Lại như Hành giả có tánh tham đến nghe pháp, sẽ được nghe Đức Phật giảng nói về nghĩa của pháp quán bất tịnh. Nếu Hành giả có tánh sân đến nghe pháp, lại nghe Đức Phật giảng nói về nghĩa của pháp quán từ bi. Nếu Hành giả có tánh ngu độn thì được nghe Đức Phật giảng nói về nghĩa của pháp quán duyên khởi. Đến như người có tánh kiêu mạn v.v… thì suy theo đây nên biết. Trong tụng này đã nói như thế. Làm sao có thể nói là Đức Phật dùng Thánh ngữ để giảng nói bốn Thánh đế, không khiến cho tất cả hữu tình được hóa độ nghe pháp đều được hiểu rõ?
Đáp: Có người bảo: Khi Phật dùng Thánh ngữ giảng nói bốn Thánh đế thì tất cả mọi người đều hiểu rõ.
Hỏi: Nếu như thế thì vì sao hai vị Thiên vương sau khi nghe Thánh ngữ lại không hiểu?
Đáp: Vì bốn vị Thiên vương ấy ý lạc của mỗi người có khác nhau. Để làm vừa ý tất cả, nên Đức Phật phải nói các thứ tiếng khác. Tức là có hai vị Thiên vương suy nghĩ: Nếu Đức Phật vì mình dùng Thánh ngữ để giảng nói bốn Thánh đế thì mình có thể hành trì được. Vị Thiên vương thứ ba cũng nghĩ: Nếu Đức Phật vì mình dùng các thổ ngữ ở miền Nam Ấn Độ để giảng nói bốn Thánh đế thì mình có thể thọ hành tốt. Vị Thiên vương thứ tư lại nghĩ: Nếu Đức Phật vì mình dùng một trong các thứ tiếng vùng Miệt-lệ-xa để giảng nói bốn Thánh đế thì mình sẽ thọ trì được. Thế nên Đức Thế Tôn tùy theo ý của họ mà giảng nói.
Lại nữa, Đức Thế Tôn muốn hiển bày Ngài thông thạo được mọi thứ tiếng, nên nói như thế. Nghĩa là như có kẻ sinh nghi Phật chỉ dùng một thứ Thánh ngữ giảng nói pháp, còn các thứ tiếng khác chưa hẳn đã thông tỏ. Để phá bỏ nghi này, Đức Phật đã dùng nhiều thứ tiếng giảng nói pháp, chứng tỏ Ngài thông tỏ đủ các thứ tiếng nói ở khắp các phương và pháp yếu được nêu giảng người nghe đều thọ hành.
Lại nữa, có người nghe pháp, nghe loại tiếng chính quốc của Phật thì được độ, có người nghe tiếng nói thay đổi theo thổ ngữ thì được độ. Nghe loại tiếng chính quốc mà được độ: Vì nếu dùng các tiếng thổ ngữ thì những người này không hiểu. Như chuyện kể lúc Phật ở nước Ma-yết-đà, vì hóa độ đám bộ hành Trì kiên trong vòng mười hai du-thiện-na (do-tuần) mà cả bảy vạn chúng sinh đều được thấy đế. Những người này nhân nghe thứ tiếng của chính quốc (không biến hình) mà được hóa độ, còn nếu nói loại tiếng biến hình kia (thổ ngữ địa phương) thì họ không hiểu. Nghe loại tiếng thổ ngữ địa phương mà được độ: Vì nếu nghe nói tiếng chính quốc thì họ không hiểu. Thế nên Đức Thế Tôn phải dùng cả ba thứ tiếng để giảng nói bốn Thánh đế cho bốn vị Thiên vương.
Lại có thuyết nói: Đức Phật dùng một thứ tiếng để diễn giảng bốn Thánh đế, nên không khiến tất cả hữu tình được hóa độ đều có thể hiểu rõ. Tuy Đức Thế Tôn có đủ thần lực tự tại nhưng đối với cảnh giới không thể cải đổi được, như không thể dùng tai để thấy sắc hay dùng mắt để nghe tiếng.
Hỏi: Nếu như thế thì lời tụng vừa nói ở trước làm sao thông?
Đáp: Không cần phải thông suốt các thứ không phải là ba Tạng kinh điển, vì các tụng tán thán Phật thường hay nói quá sự thật. Như phái Luận Phân Biệt khi tán thán Phật nói: “Đức Thế Tôn tâm luôn tại định, khéo an trụ niệm, cùng chánh tri”. Lại có lời tán dương: “Đức Phật thường không ngủ nghỉ, xa lìa hết các thứ ngăn che”. Đó là những lời khen ngợi quá sự thực. Lời của tụng nêu trước cũng như thế, nên không cần phải giải thích.
Lại nữa, lời nói của Đức Như Lai hiện bày khắp các cảnh tiếng, cần sử dụng tiếng nước nào thì liền nói được ngay. Tức là Đức Phật nói toàn tiếng Chí-na cho người Trung Hoa v.v… cho đến có thể nói toàn tiếng Bác-hát-la cho những người sinh ở nước vùng Trung bộ. Vì lời Đức Phật nói ứng hợp với mọi thứ tiếng cho nên tụng nêu trên nói như thế.
Lại nữa, lời Phật nói rất êm nhẹ, lưu loát, ưa lập lại (hồi chuyển), tuy nói nhiều thứ tiếng nhưng đều trong cùng một lúc. Nghĩa là Phật nói tiếng Chí-na rồi, tiếp đó liền nói tiếng nước Lịch-ca, cho đến lại nói tiếng Bác-hát-la, vì xoay phiên nhanh chóng nên đều gọi là cùng một lúc. Cũng như quay vòng lửa không thấy có nhiều vòng. Vì tụng trước dựa vào đấy mà nói nên không có lỗi.
Lại nữa, lời Như Lai nói tuy có nhiều thứ tiếng nhưng đều có lợi ích giống nhau, nên gọi là một thứ tiếng.
Như Khế kinh nói: Phật bảo các Bí-sô: Khổ Thánh đế này, từ xưa Ta chưa hề được nghe ai nói, ở trong pháp ấy tác ý như lý, do đó sinh nhãn trí minh giác. Khổ Thánh đế này tuệ nên nhận biết khắp, từ xưa Ta chưa hề được nghe ai nói, cho đến nói rộng. Khổ Thánh đế này tuệ đã nhận biết khắp, từ xưa Ta chưa hề được nghe ai nói, cho đến nói rộng. Tập, diệt, đạo Thánh đế nói rộng cũng như thế.
Khổ Thánh đế này, từ xưa Ta chưa hề được nghe ai nói v.v…: Là để chỉ rõ về vị tri đương tri căn.
Khổ Thánh đế này tuệ nên nhận biết khắp v.v…: Là để chỉ rõ về dĩ tri căn.
Khổ Thánh đế này tuệ đã nhận biết khắp v.v…: Là để chỉ rõ về cụ tri căn.
Tập, diệt, đạo Thánh đế mỗi thứ mỗi chỉ rõ về ba căn, nên biết cũng như thế.
Đại đức Pháp Cứu nói: Khi tôi nghĩ đến kinh này thì toàn thân bỗng dựng đứng, vì lời Phật nói nhất định là có thứ lớp không hề trái lý. Nay Khế kinh này lại vượt thứ lớp nói cụ tri căn trước, rồi sau mới nói vị tri đương tri căn. Do các bậc Phật, Độc giác và các Thanh văn không thể có hành quán theo thứ lớp như thế: Các căn kia ở sau cụ tri căn, nếu vậy làm sao khởi căn vô lậu thứ nhất? Nếu bỏ kinh này tất không đúng lý. Vì đầu tiên Đức Phật thuyết giảng bốn Thánh đế này cho năm vị Bí-sô là bậc thượng thủ, cả tám vạn chư Thiên, nhân nghe pháp này đều được chứng pháp. Nếu không bỏ kinh này thì trái với thứ lớp, cho nên khi nghĩ đến kinh này thì lạnh cả người. Tuy nói như thế, nhưng sau đó Đại đức không bỏ kinh này, chỉ đổi lại lời văn và nói: Kinh ấy nên nói như vầy: Khổ Thánh đế này từ xưa ta chưa hề được nghe v.v… cho đến nói rộng. Tập, diệt, đạo đế nói rộng cũng như thế. Khổ Thánh đế này tuệ nên nhận biết khắp. Tập Thánh đế này tuệ nên đoạn dứt vĩnh viễn. Diệt Thánh đế này tuệ nên tác chứng. Đạo Thánh đế này tuệ nên tu tập. Từ xưa chưa hề được nghe v.v… nói rộng như trước. Khổ Thánh đế này tuệ đã nhận biết khắp. Tập Thánh đế này tuệ đã đoạn dứt vĩnh viễn. Diệt Thánh đế này tuệ đã tác chứng. Đạo Thánh đế này tuệ đã tu tập. Từ xưa chưa hề được nghe v.v… nói rộng như trước. Nếu trình bày như thế thì không có lỗi về thứ lớp. Vì thuận theo hiện quán, không phải như kinh này đã nêu.
Các Luận sư A-tỳ-đạt-ma nói: Không nên tự ý sửa đổi câu văn của kinh này. Từ quá khứ, có vô lượng các Đại Luận sư đều là hàng lợi căn hơn hẳn Đại đức hãy còn không dám tự ý sửa đổi câu chữ của kinh này, huống chi nay Đại đức lại tự ý sửa đổi? Chỉ nên tìm hiểu về ý sâu xa của kinh này. Nghĩa là người giảng nói pháp đã căn cứ vào hai loại thứ lớp: Một là căn cứ vào thứ lớp của tùy thuận nói pháp như kinh này đã nói. Hai là căn cứ vào thứ lớp của tùy thuận hiện quán như Đại đức đã nói.
Hiếp Tôn giả nói: Kinh này không nói về ba căn vô lậu, chỉ nói ở cõi dục, Bồ-tát ngồi bên cội Bồ-đề, tuệ lực được tạo thành do văn, tư để tu hành bốn đế.
Hỏi: Đức Thế Tôn đã nói Ta do quán này chứng đắc Chánh đẳng Bồ-đề Vô thượng, há có nghĩa văn (nghe), tư (suy nghĩ) mà chứng quả Bồ-đề?
Đáp: Bồ-tát do tuệ lực của văn, tư này mà chế ngự diệt trừ hết các ngu tối về bốn Thánh đế, do đó nhất định sẽ chứng đắc bậc Vô Thượng Giác, nên nói: “Do đấy chứng đắc quả Bồ-đề”.
Như người lúc đầu làm thấm ướt lớp da phủ lên mặt, sau đó mới lột được lớp da mỏng. Màng da che này rất mỏng, nhẹ, nên có thể nói như không bị chướng ngại. Cho nên ở đây không phải nói về ba căn vô lậu.
Như Khế kinh nói: Đức Phật bảo các Bí-sô: Ta đối với bốn Thánh đế ba lần chuyển thành mười hai hành tướng sinh ra nhãn trí minh giác.
Hỏi: Ở đây nên nói có mười hai lần chuyển thành bốn mươi tám hành tướng, vì sao chỉ nói có ba lần chuyển thành mười hai hành tướng?
Đáp: Tuy quán mỗi mỗi đế đều có ba lần chuyển thành mười hai hành tướng, nhưng không quá ba lần chuyển thành mười hai hành tướng, nên nói như thế. Như người Dự lưu tối đa là bảy lượt trở lại thế gian và bảy xứ thiện cùng hai pháp v.v…
Trong đây, nói nhãn, tức là pháp trí nhẫn. Nói trí, tức là các pháp trí. Nói minh, tức là các loại trí nhẫn. Nói giác, tức là các loại trí.
Lại nữa, nhãn là nghĩa quán thấy. Trí là nghĩa quyết đoán. Minh là nghĩa soi rõ. Giác là nghĩa tỉnh xét.
Hỏi: Bốn Thánh đế này nếu tự tánh đoạn dứt thì đối tượng duyên cũng đoạn dứt chăng?
Đáp: Nên nêu ra bốn trường hợp:
1. Có tự tánh đoạn dứt không phải đối tượng duyên đoạn dứt: Nghĩa là duyên nơi khổ tập vô lậu và các pháp hữu lậu không có đối tượng duyên.
2. Có đối tượng duyên đoạn dứt không phải tự tánh đoạn dứt: Nghĩa là duyên nơi Thánh đạo hữu lậu.
3. Có tự tánh đoạn dứt cũng là đối tượng duyên đoạn dứt: Nghĩa là duyên nơi khổ tập hữu lậu.
4. Có không phải tự tánh đoạn dứt cũng không phải là đối tượng duyên đoạn dứt: Nghĩa là duyên nơi Thánh đạo vô lậu và Thánh đạo diệt đế không có đối tượng duyên.
HẾT – QUYỂN 79