LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 65

Chương 2: KIẾT UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ HỮU TÌNH, phần 3

* Ba kiết cho đến chín mươi tám tùy miên, mỗi mỗi thứ đoạn dứt hết là thuộc về quả nào?

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Trước tuy đã nói mười lăm bộ kiết đoạn dứt hết thuộc về các quả, nhưng chưa nói đến phiền não của mười sáu chương đã đoạn dứt hết thuộc về các quả. Nay vì muốn nói đến chương đó, nên tạo ra phần Luận này.

Trong ba kiết, kiết hữu thân kiến dứt hết là thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc không có xứ.

Thuộc về bốn quả Sa-môn: Nghĩa là khi kiết kia đã hết, chứng quả Dự lưu, tức thuộc về quả Dự lưu, cho đến khi chứng quả A-lahán, tức thuộc về quả A-la-hán.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là không có phàm phu, không phải là nghĩa thuộc về quả. Vì sao? Vì không có hàng phàm phu có thể lìa hữu thân kiến của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Theo thứ lớp: Là một khoảnh tâm hiện quán khổ. Hiện quán tập, diệt đều có bốn khoảnh tâm. Ba khoảnh tâm hiện quán đạo. Hữu thân kiến dứt hết không thuộc về quả.

Như kiết hữu thân kiến trong ba kiết dứt hết, nên biết hữu thân kiến trong năm kiết thuận phần dưới, hữu thân kiến, biên chấp kiến trong năm kiến dứt hết cũng như thế. Vì tự tánh như nhau, vì đối trị đồng.

Giới cấm thủ, nghi dứt hết là thuộc về bốn quả Sa-môn.

Thuộc về bốn quả Sa môn: Nghĩa như trước nên biết.

Ở đây không có phàm phu, không phải là nghĩa thuộc về quả. Vì sao? Vì không có hàng phàm phu có thể lìa giới cấm thủ, nghi của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Cũng không có thứ lớp: Tức không phải là nghĩa thuộc về quả. Vì sao? Vì khi đạo loại trí nhẫn diệt mới đoạn trừ hết kiết kia. Khi đạo loại trí sinh, tùy theo chỗ thích ứng chứng ba quả trước. Giới cấm thủ, nghi đã dứt hết, tức thuộc về ba quả trước.

Như giới cấm thủ, nghi trong ba kiết đã dứt hết, nên biết bộc lưu kiến, ách kiến trong bốn bộc lưu, bốn ách, kiến thủ, giới cấm thủ trong bốn thủ, giới cấm thủ, chấp đây là thật trói buộc thân trong bốn thứ trói buộc thân, giới cấm thủ, nghi trong năm kiết thuận phần dưới, tà kiến, kiến thủ, giới cấm thủ trong năm kiến, tùy miên kiến, tùy miên nghi trong bảy tùy miên, kiết kiến thủ, nghi trong chín kiết dứt hết cũng như vậy. Vì tự tánh như nhau, vì đối trị đồng.

Ba căn bất thiện dứt hết là thuộc về quả Bất hoàn, A-la-hán, hoặc không có xứ.

Thuộc về quả Bất hoàn: Nghĩa là khi kiết kia dứt hết, chứng quả Bất hoàn tức thuộc về quả Bất hoàn.

Thuộc về quả A-la-hán: Nghĩa là khi kiết kia dứt hết, chứng quả A-la-hán tức thuộc về quả A-la-hán.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là các phàm phu đã lìa nhiễm cõi dục, kiết kia dứt hết, không thuộc về quả.

Đã lìa nhiễm cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh: Là do mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo, kiết kia dứt hết, không thuộc về quả.

Không có thứ lớp: Tức không phải là nghĩa thuộc về quả. Vì sao? Vì lìa nhiễm cõi dục, khi đạo vô gián thứ chín diệt, mới đoạn hết kiết kia. Lúc đạo giải thoát thứ chín sinh, chứng quả Bất hoàn tức thuộc về quả Bất hoàn.

Như ba căn bất thiện dứt hết, nên biết dục lậu trong ba lậu, bộc lưu dục, ách dục trong bốn bộc lưu, bốn ách, dục thủ trong bốn thủ, tham dục, giận dữ trong bốn thứ trói buộc thân, bốn cái trước trong năm cái, kiết giận, tật, xan trong năm kiết, kiết tham dục, giận dữ trong năm kiết thuận phần dưới, tỷ thiệt xúc sinh ái thân trong sáu ái thân, tùy miên tham dục, giận dữ trong bảy tùy miên, kiết giận dữ, ganh ghét, keo kiệt trong chín kiết dứt hết cũng như vậy. Vì tự tánh như nhau, vì đối trị đồng.

Hữu lậu, vô minh lậu dứt hết là thuộc về quả A-la-hán. Nghĩa là khi kiết kia đã hết, chứng quả A-la-hán tức thuộc về quả A-la-hán.

Không có phàm phu, không phải là nghĩa thuộc về quả. Vì sao? Vì không có phàm phu nào có thể lìa hữu lậu, vô minh lậu của Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Cũng không có thứ lớp: Tức không phải là nghĩa thuộc về quả. Vì sao? Vì khi định kim cang dụ hiện tiền mới đoạn hết kiết kia. Lúc tận trí đầu tiên sinh, chứng quả A-la-hán, kiết kia đã hết, tức thuộc về quả A-la-hán.

Như hữu lậu, vô minh lậu dứt hết, nên biết bộc lưu hữu, ách hữu, vô minh hữu trong bốn bộc lưu, bốn ách, ngã ngữ thử trong bốn thủ, kiết tham, mạn trong năm kiết, năm kiết thuận phần trên trừ sắc tham, còn lại bốn, ý xúc sinh ra ái thân trong sáu ái thân, tùy miên hữu tham, vô minh, mạn trong bảy tùy miên, kiết ái, mạn, vô minh trong chín kiết dứt hết cũng như vậy. Vì tự tánh như nhau, vì đối trị đồng.

Cái nghi dứt hết là thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc không có xứ.

Thuộc về bốn quả Sa-môn: Như trước đã nói.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là các phàm phu đã lìa nhiễm cõi dục, cái nghi dứt hết, không thuộc về quả.

Đã lìa nhiễm cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh: Là do mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo, cái nghi dứt hết, không thuộc về quả.

Theo thứ lớp: Là hai khoảnh tâm hiện quán đạo, cái nghi hết, không thuộc về quả.

Kiết sắc tham nơi kiết thuận phần trên dứt hết là thuộc về quả A-la-hán, hoặc không có xứ.

Thuộc về quả A-la-hán: Nghĩa là kiết kia dứt hết, khi chứng quả A-la-hán tức thuộc về quả A-la-hán.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là các phàm phu đã lìa nhiễm cõi sắc, kiết kia dứt hết, không thuộc về quả.

Đã lìa nhiễm cõi sắc, nhập chánh tánh ly sinh: Là do mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo và các quả vị hữu vị như đạo loại trí v.v… kiết kia dứt hết, không thuộc về quả.

Theo thứ lớp: Là từ lìa nhiễm của tĩnh lự thứ tư theo đạo giải thoát thứ chín, cho đến khi định kim cang dụ hiện tiền, kiết kia dứt hết, không thuộc về quả.

Như kiết sắc tham nơi kiết thuận phần trên dứt hết, nên biết nhãn, nhĩ, thân xúc sinh ra ái thân dứt hết cũng như vậy. Vì tự tánh như nhau, vì đối trị đồng, nhưng có khác biệt.

Trong đây nên nói, hoặc không có xứ: Nghĩa là các phàm phu đã lìa nhiễm của xứ Phạm thế, kiết của họ hết, không thuộc về quả.

Đã lìa nhiễm của xứ Phạm thế, nhập chánh tánh ly sinh: Là do mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo và các quả vị hữu học như đạo loại trí v.v…, kiết kia dứt hết, không thuộc về quả.

Theo thứ lớp: Là từ lìa nhiễm của tĩnh lự thứ nhất theo đạo giải thoát thứ chín, cho đến khi định kim cang dụ hiện tiền, kiết kia dứt hết, không thuộc về quả.

Trong chín mươi tám tùy miên: Tùy miên của cõi dục do kiến khổ, tập, diệt, đạo đã đoạn trừ hết là thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc không có xứ. Điều này như bốn bộ trước của cõi dục trong mười lăm bộ kiết dứt hết đã nói. Tùy miên của cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả Bất hoàn, A-la-hán, hoặc không có xứ. Điều này như bộ thứ năm của cõi dục trong mười lăm bộ kiết dứt hết đã nói.

Tùy miên của cõi sắc do kiến khổ, tập, diệt, đạo đoạn trừ hết là thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc không có xứ. Điều này như bốn bộ trước của cõi sắc trong mười lăm bộ kiết dứt hết đã nói. Tùy miên của cõi sắc do tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả A-la-hán, hoặc không có xứ. Điều này như bộ thứ năm của cõi sắc trong mười lăm bộ kiết diệt hết đã nói.

Tùy miên của cõi vô sắc do kiến khổ, tập, diệt đoạn trừ hết là thuộc về bốn quả Sa-môn, hoặc không có xứ. Điều này như ba bộ trước của cõi vô sắc trong mười lăm bộ kiết dứt hết đã nói. Tùy miên của cõi vô sắc do kiến đạo đoạn trừ hết là thuộc về bốn quả Sa-môn. Điều này như bộ thứ tư của cõi vô sắc trong mười lăm bộ kiết dứt hết đã nói. Tùy miên của cõi vô sắc do tu đạo đoạn trừ hết là thuộc về quả A-la-hán. Điều này như bộ thứ năm của cõi vô sắc trong mười lăm bộ kiết dứt hết đã nói.

Hỏi: Các kiết trong hướng Dự lưu đã hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Không có xứ. Vì sao? Vì trước quả Dự lưu không có kiết dứt hết thuộc về quả Sa-môn.

Hỏi: Các kiết trong quả Dự lưu đã hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Dự lưu: Nghĩa là trong quả này gồm thâu chung các kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn trừ hết.

Hỏi: Các kiết trong hướng Nhất lai đã hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Dự lưu, hoặc không có xứ.

Thuộc về quả Dự lưu: Nghĩa là trong quả này gồm thâu chung các kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn trừ hết.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là lìa bỏ gấp bội nhiễm cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh: Là do mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo, các kiết hết, không thuộc về quả.

Theo thứ lớp: Là các kiết của năm phẩm trước nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết, không thuộc về quả. Vì sao? Vì là đạo quả vượt hơn đã chứng được. Như đạo quả vượt hơn: không thuộc về quả, kiết đã được dứt hết, về lý cũng nên như thế.

Hỏi: Các kiết trong quả Nhất lai đã hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Nhất lai: Nghĩa là trong quả này gồm thâu chung các kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn trừ hết và gồm thâu các kiết nơi sáu phẩm trước của cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết.

Hỏi: Các kiết trong hướng Bất hoàn đã hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc không có xứ.

Thuộc về quả Nhất lai: Nghĩa là trong quả này gồm thâu chung các kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn trừ hết cùng gồm thâu các kiết nơi sáu phẩm trước của cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là đã lìa nhiễm cõi dục, cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, nhập chánh tánh ly sinh: Là do mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo, các kiến hết, không thuộc về quả.

Thứ lớp: Là các kiết của phẩm thứ bảy, thứ tám nơi cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết, không thuộc về quả.

Hỏi: Các kiết trong quả Bất hoàn đã hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn: Nghĩa là trong quả này gồm thâu chung các kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn trừ hết và gồm thâu các kiết của cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết.

Hỏi: Các kiết trong hướng A-la-hán đã hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Bất hoàn, hoặc không có xứ.

Thuộc về quả Bất hoàn: Nghĩa là trong quả này gồm thâu chung các kiết của ba cõi do kiến đạo đoạn trừ hết và gồm thâu các kiết của cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là lìa một phẩm nhiễm của tĩnh lự thứ nhất cho đến lìa nhiễm nơi tám phẩm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, các kiết hết, không thuộc về quả. Vì sao? Vì là đạo quả thù thắng đã chứng đắc. Như đạo quả thù thắng: không thuộc về quả, kiết đã được dứt hết, về lý cũng nêu như vậy.

Hỏi: Các kiết trong quả A-la-hán đã dứt hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả A-la-hán: Nghĩa là trong quả này gồm thâu chung các kiết của ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ hết.

Hỏi: Trong đây là nói các kiết tận đã được thành tựu trong các hướng quả hay nói các kiết tận là vừa mới chứng đắc trong các hướng quả? Giả nêu như vậy thì có lỗi gì? Cả hai đều cùng có lỗi. Vì sao? Vì nếu nói trong các hướng quả đã thành tựu các kiết tận, thì các kiết tận trong ba quả trước tức không nên nói chỉ thuộc về quả của mình. Như đã lìa nhiễm của năm phẩm trước nơi cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh, đến khi đạt đạo loại trí là chứng quả Dự lưu.

Kiết của năm phẩm nơi cõi dục kia do tu đạo đoạn tận, không thuộc về quả này, vì sao không nói: Hoặc không có xứ?

Lại, đã lìa nhiễm nơi tám phẩm trước của cõi dục, nhập chánh tánh ly sinh, đến khi đạt đạo loại trí là chứng quả Nhất lai. Kiết nơi phẩm thứ bảy, thứ tám của cõi dục kia do tu đạo đoạn, không thuộc về quả này, vì sao không nói: Hoặc không có xứ?

Lại, đã lìa nhiễm cõi dục, cho đến lìa nhiễm của Vô sở hữu xứ, nhập chánh tánh ly sinh, đến khi đạt đạo loại trí là chứng quả Bất hoàn. Kiết nơi bảy địa của hai cõi trên do tu đạo đoạn tận, không thuộc về quả này, vì sao không nói: Hoặc không có xứ?

Nếu nói các kiết tận là do mới chứng đắc trong các hướng quả, thì các kiết tận trong ba hướng sau cũng không nên nói là thuộc về quả trước. Kiết tận mới chứng được trong hướng, nhất định không phải thuộc về quả trước?

Đáp: Trong đây là nói chung trong các hướng quả đã thành tựu các kiết tận.

Hỏi: Nếu như vậy thì khéo thông suốt vấn nạn về ba hướng sau, còn vấn nạn về ba quả trước làm sao thông?

Đáp: Vì đây là nói người gồm đủ trói buộc nhập kiến đạo, nên ba quả trước đã thành tựu kiết tận, chỉ nói là thuộc về quả của mình.

Có thuyết cho: Trong đây quả vị là nói quả vị mới chứng được, vì điều mong cầu đã được gồm đủ, còn hướng vị thì vì việc mong cầu chưa gồm đủ, nên nói chung là thành tựu cả hướng vị quả vị. Do đó, cả hai thuyết đều khéo thông suốt.

Hỏi: Đệ tử của Đức Thế Tôn thấy biết đủ, chưa lìa nhiễm cõi dục, các kiết của cõi dục do tu đạo đoạn hết là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc về quả Nhất lai, hoặc không có xứ.

Thuộc về quả Nhất lai: Nghĩa là các kiết nơi sáu phẩm trước của cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết.

Hoặc không có xứ: Nghĩa là các kiết nơi phẩm thứ bảy, thứ tám của cõi dục do tu đạo đoạn trừ hết.

Hỏi: Đã lìa nhiễm cõi dục, chưa lìa nhiễm cõi sắc, các kiết của cõi sắc do tu đạo đoạn tận là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc không có xứ: Nghĩa là lìa một phẩm nhiễm của tĩnh lự thứ nhất, cho đến lìa nhiễm nơi tám phẩm của tĩnh lự thứ tư, các kiết của cõi sắc kia do tu đạo đoạn trừ hết không thuộc về quả.

Hỏi: Đã lìa nhiễm cõi sắc, chưa lìa nhiễm cõi vô sắc, các kiết của cõi vô sắc do tu đạo đoạn tận là thuộc về quả nào?

Đáp: Thuộc không có xứ: Nghĩa là lìa một phẩm nhiễm nơi Không vô biên xứ, cho đến lìa nhiễm nơi tám phẩm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, các kiết do tu đạo đoạn trừ hết kia không thuộc về quả.

***

* Trong đây nói có bốn quả Sa-môn: 1. Quả Dự lưu. 2. Quả Nhất lai. 3. Quả Bất hoàn. 4. Quả A-la-hán.

Hỏi: Vì sao nói bốn quả Sa-môn này?

Đáp: Vì ngăn chận tông chỉ của người khác, nhằm chỉ rõ nghĩa của mình. Nghĩa là hoặc có thuyết nói: Bốn quả Sa-môn chỉ là vô vi, như phái Phân Biệt.

Hỏi: Vì sao phái kia tạo ra thuyết ấy?

Đáp: Vì họ căn cứ nơi Khế kinh. Như Khế kinh nói: Phật bảo Bí-sô: Ta sẽ vì ông nói về tánh Sa-môn cùng Sa-môn, quả Sa-môn.

Thế nào là tánh Sa-môn? Nghĩa là tám chi Thánh đạo. Thế nào là Samôn? Nghĩa là người thành tựu pháp này. Thế nào là quả Sa-môn? Nghĩa là quả Dự lưu cho đến quả A-la-hán. Thế nào là quả Dự lưu? Nghĩa là đoạn trừ vĩnh viễn ba kiết. Thế nào là quả Nhất lai? Nghĩa là đoạn trừ vĩnh viễn ba kiết, làm mỏng tham, giận, si. Thế nào là quả Bất hoàn? Nghĩa là đoạn trừ vĩnh viễn năm kiết thuận phần dưới. Thế nào là quả A-la-hán? Nghĩa là đoạn trừ vĩnh viễn tham, giận, si và tất cả phiền não. Vì phái kia căn cứ vào kinh này, nên nói quả Sa-môn chỉ là vô vi.

Vì ngăn chận ý của phái đó, nhằm chỉ rõ về quả Sa-môn cũng là hữu vi, cũng là vô vi. Nếu quả Sa-môn chỉ là vô vi thì trái với Khế kinh. Như Khế kinh nói: Có hành bốn hướng, có trụ bốn quả. Trong đây trụ là trụ nơi quả hữu vi, không phải quả vô vi, do quả vô vi không thể trụ. Phái kia đã nói: Trong quả vô vi cũng có thể nói trụ.

Luận Thi Thiết nói: Người kia trụ nơi đoạn, không cầu đạo thắng tấn, vì được pháp chưa được, vì đạt pháp chưa đạt, vì tiếp xúc điều chưa tiếp xúc, vì chứng pháp chưa chứng. Luận kia không phải minh chứng. Vì sao? Vì ý của Luận kia nói là trụ nơi đạo. Nghĩa là trụ nơi đoạn, tức không phải như cưỡi voi ngựa, đứng trên voi ngựa, chỉ ở nơi đạo chứng đoạn, không tiến không thoái, gọi là trụ. Có Khế kinh khác chỉ nói hữu vi là quả Sa-môn. Như nói: Năm căn tăng thượng mãnh liệt, nhanh chóng viên mãn, gọi là quả A-la-hán Câu giải thoát. Thứ đến, giảm yếu gọi là quả A-la-hán tuệ giải thoát. Tiếp theo, giảm yếu gọi là quả Bất hoàn. Tiếp theo, giảm yếu gọi là quả Nhất lai. Giảm yếu sau cùng gọi là quả Dự lưu. Ở đây, chỉ nói năm căn như tín v.v… có hơn kém sai biệt, gọi là quả Sa-môn, nên biết quả Sa-môn không phải chỉ là vô vi.

Hỏi: Nếu quả Sa-môn cũng là hữu vi làm sao thông suốt nơi Khế kinh đã dẫn của phái kia?

Đáp: Bốn quả Sa-môn thật sự là chung nơi hữu vi, vô vi, nhưng Khế kinh kia lại nói là vô vi. Vì sao? Vì chỉ nói về quả. Nếu pháp là quả Sa-môn, không phải là tánh của Sa-môn, thì kinh kia nói đến. Vì đạo là quả Sa-môn, cũng là tánh của Sa-môn, nên kinh kia không nói.

Lại nữa, nếu pháp là quả Bà-la-môn, không phải là tánh Bàla-môn, thì kinh kia nói đến. Vì đạo là quả Bà-la-môn, cũng là tánh Bà-la-môn, nên kinh kia không nói.

Lại nữa, nếu pháp là quả của phạm hạnh, không phải là tánh của phạm hạnh, thì kinh kia nói đến. Vì đạo là quả của phạm hạnh, cũng là tánh của phạm hạnh, nên kinh kia không nói.

Lại nữa, nếu pháp là quả, không phải là có quả, thì kinh kia nói đến. Vì đạo là quả, cũng là có quả, nên kinh kia không nói.

Lại nữa, nếu pháp là lìa, không phải là có lìa, thì kinh kia nói đến. Vì đạo là lìa, cũng là có lìa, nên kinh kia không nói.

Lại nữa, nếu pháp là đối tượng mong cầu, không phải là đối tượng nhàm chán, thì kinh kia nói đến. Vì đạo là đối tượng mong cầu, cũng là đối tượng nhàm chán, nên kinh kia không nói.

Vì nhằm ngăn chận tông chỉ người khác đã nói như thế, cùng muốn hiển bày tông chỉ của mình, nên nói bốn quả. Lại nữa, không chỉ ngăn chận ý tưởng của người khác, chỉ rõ nghĩa của mình, mà còn vì khai phát chánh lý của pháp tướng, khiến cho người khác nhận biết rõ, nên nói bốn quả.

Hỏi: Tự tánh của bốn quả Sa-môn là gì?

Đáp: Luận Phẩm Loại Túc nói như thế này: Quả Dự lưu có hai thứ là hữu vi và vô vi.

Thế nào là quả Dự lưu hữu vi? Nghĩa là người chứng quả Dự lưu, đối với các pháp học đã, đang, sẽ được. Đã được nghĩa là quá khứ, đang được nghĩa là hiện tại, sẽ được nghĩa là vị lai.

Thế nào là quả Dự lưu vô vi? Nghĩa là người chứng quả Dự lưu, đối với các kiết đoạn đã, đang, sẽ được. Đã được nghĩa là quá khứ, đang được nghĩa là hiện tại, sẽ được nghĩa là vị lai.

Hỏi: Đạo là hữu vi, gắn liền nơi ba đời, có thể nói nơi đời kia đã, đang, sẽ được. Đoạn là vô vi, không gắn với ba đời, vì sao nói là nơi đời kia đã, đang, sẽ được?

Đáp: Luận Phẩm Loại Túc nên nói như thế này: Đối với các kiết đã đoạn dứt, đạt được, xúc chứng, không nên nói đã, đang, sẽ được. Nhưng đã nói như thế là có ý nghĩa sâu xa riêng. Vì muốn chỉ rõ đắc của đoạn kia và đắc của nối tiếp. Nghĩa là đắc của đoạn kia, ở quá khứ, gọi là đã được, ở hiện tại gọi là đang được, ở vị lai gọi là sẽ được. Nối tiếp hau là chứng đoạn nối tiếp, ở quá khứ gọi là đã được, ở hiện tại gọi là đang được, ở vị lai gọi là sẽ được.

Lại, Luận kia nói: Quả Nhất lai có hai thứ: Hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Nhất lai hữu vi? Nghĩa là người chứng quả Nhất lai, đối với các pháp học, đã, đang, sẽ được. Phần còn lại như trước đã nói. Thế nào là quả Nhất lai vô vi? Nghĩa là người chứng quả Nhất lai, đối với việc đoạn các kiết, đã, đang, sẽ được. Phần còn lại như trước đã nói.

Quả Bất hoàn có hai thứ: Hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Bất hoàn hữu vi? Nghĩa là người chứng quả Bất hoàn, đối với các pháp học, đã, đang, sẽ được. Phần còn lại như trước đã nói. Thế nào là quả Bất hoàn vô vi? Nghĩa là người chứng quả Bất hoàn, đối với việc đoạn các kiết, đã, đang, sẽ được. Phần còn lại như trước đã nói.

Quả A-la-hán có hai thứ: Hữu vi và vô vi. Thế nào là quả A- la-hán hữu vi? Nghĩa là người chứng quả A-la-hán, đối với các pháp vô học, đã, đang, sẽ được. Phần còn lại như trước đã nói. Thế nào là quả A-la-hán vô vi? Nghĩa là người chứng quả A-la-hán, đối với việc đoạn các kiết, đã, đang, sẽ được. Phần còn lại như trước đã nói.

Trong Luận Thi Thiết cũng nói: Quả Dự lưu có hai thứ: Hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Dự lưu hữu vi? Nghĩa là đắc của quả này và đắc của đắc này. Đắc của quả này: Tức là đắc của quả Dự lưu hữu vi, vô vi. Đắc của đắc này: Tức là đắc của đắc quả này. Do đắc của quả này nên thành tựu quả Dự lưu. Do đắc của đắc này nên thành tựu đắc của quả này. Nếu đủ các căn học, lực học, giới học, căn thiện học, tám pháp học và các pháp học của chủng loại này. Đó gọi là quả Dự lưu hữu vi. Thế nào là quả Dự lưu vô vi? Nghĩa là ba kiết đã đoạn trừ vĩnh viễn và các pháp kiết của chủng loại này đã đoạn trừ hoàn toàn. Tám mươi tám tùy miên đoạn trừ vĩnh viễn và pháp tùy miên của chủng loại này đã đoạn trừ hoàn toàn. Đó gọi là quả Dự lưu vô vi.

Quả Nhất lai có hai thứ: Hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Nhất lai hữu vi? Nghĩa là đắc của quả này và đắc của đắc này. Phần còn lại như trước đã nói. Nếu đủ các căn học, lực học, giới học, căn thiện học, tám pháp học và các pháp học của chủng loại này. Đó gọi là quả Nhất lai hữu vi. Thế nào là quả Nhất lai vô vi? Nghĩa là ba kiết đã đoạn trừ vĩnh viễn và các pháp kiết của chủng loại này đã đoạn trừ hoàn toàn. Tám mươi tám tùy miên vĩnh viễn đoạn trừ và pháp tùy miên của chủng loại này đã đoạn trừ hoàn toàn. Đoạn trừ gấp bội tham, giận, si và đoạn trừ gấp bội pháp phiền não của chủng loại này. Đó gọi là quả Nhất lai vô vi.

Quả Bất hoàn có hai thứ: Hữu vi và vô vi. Thế nào là quả Bất hoàn hữu vi? Nghĩa là đắc của quả này và đắc của đắc này. Phần còn lại như trước đã nói. Nếu đủ các căn học, lực học, giới học, căn thiện học, tám pháp học và các pháp học của chủng loại này. Đó gọi là quả Bất hoàn hữu vi. Thế nào là quả Bất hoàn vô vi? Nghĩa là năm kiết thuận phần dưới đã đoạn trừ vĩnh viễn và các pháp kiết của chủng loại này đã đoạn trừ hoàn toàn. Chín mươi hai tùy miên đã đoạn trừ vĩnh viễn và pháp tùy miên của chủng loại này đoạn trừ hoàn toàn.

Đó gọi là quả Bất hoàn vô vi.

Quả A-la-hán có hai thứ: Hữu vi và vô vi. Thế nào là quả A-lahán hữu vi? Nghĩa là đắc của quả này và đắc của đắc này. Phần còn lại như trước đã nói. Nếu đủ các căn vô học, lực vô học, giới vô học, căn thiện vô học, mười pháp vô học và các pháp vô học của chủng loại này. Đó gọi là quả A-la-hán hữu vi. Thế nào là quả A-la-hán vô vi? Nghĩa là đoạn trừ vĩnh viễn tham, sân, si và tất cả phiền não được đoạn trừ hoàn toàn, vượt qua tất cả nẻo, đoạn trừ tất cả con đường, dập tắt ba thứ lửa, lội qua bốn bộc lưu, dẹp bỏ các mạn, lìa các khát ái, phá trừ A lại-da, được cứu cánh vô thượng, tịch tĩnh vô thượng, an lạc vô thượng và các ái diệt hết, đạt Niết-bàn lìa diệt. Đó gọi là quả A-la-hán vô vi.

Đấy gọi là tự tánh, ngã, vật, tướng phần, bản tánh của bốn quả Sa-môn.

Đã nói về tự tánh, về lý do nay sẽ nói.

Hỏi: Vì sao gọi là quả Sa-môn? Quả Sa-môn là nghĩa gì?

Đáp: Thánh đạo hiện có là tánh của Sa-môn. Hữu vi, vô vi và các trạch diệt là quả này, nên gọi là quả Sa-môn.

Hỏi: Nếu như vậy thì quả này không nên chỉ có bốn. Nghĩa là tám phẩm nhẫn trong kiến đạo là tánh của Sa-môn. Tám phẩm trí là quả Sa-môn hữu vi. Pháp đoạn của tám bộ là quả Sa-môn vô vi. Khi lìa nhiễm cõi dục, chín đạo vô gián là tánh của Sa-môn, chín đạo giải thoát là quả Sa-môn hữu vi, pháp đoạn của chín phẩm là quả Sa-môn vô vi. Như thế, cho đến khi lìa nhiễm của Phi tưởng phi phi tưởng xứ, nên biết cũng như vậy. Như thế, tức có tám mươi chín quả Sa-môn hữu vi, tám mươi chín quả Sa-môn vô vi. Nếu căn cứ theo ba đời mà nói thì quả Sa-môn này có hai trăm sáu mươi bảy: Nghĩa là tám mươi chín ở quá khứ, tám mươi chín ở hiện tại và tám mươi chín ở vị lai.

Luận Phẩm Loại Túc nói như vầy: Thế nào là pháp quả? Nghĩa là tất cả pháp hữu vi và trạch diệt. Thuận theo từng ấy sát-na của các Thánh đạo, tức có từng ấy quả Sa-môn hữu vi. Thuận theo pháp hữu lậu có lượng từng ấy, trạch diệt vô vi cũng có từng ấy. Tùy theo có trạch diệt vô vi từng ấy, tức có từng ấy quả Sa-môn vô vi. Nếu dùng sát-na nơi thân để phân biệt thì có vô lượng Thể của quả Sa-môn. Vì sao chỉ nói bốn quả Sa-môn?

Đáp: Có thuyết nói: Đây là Đức Thế Tôn vì người thọ nhận sự hóa độ, lãnh hội thuận hợp, nên lược nói chưa đầy đủ.

Hiếp Tôn giả nói: Chỉ Đức Phật – Thế Tôn mới có thể nhận biết đúng đắn đầy đủ về giới hạn, thế dụng nơi tánh tướng của các pháp, người khác thì không thể nhận biết. Nếu ở đây có thể lập quả Sa-môn thì nên lập, nếu không thể thì không kiến lập, vì thế không nên vấn nạn.

Tôn giả Thế Hữu nói: Đây là Đức Thế Tôn vì người cần được mở bày trí nên nói giản lược, do đó không nên vấn nạn.

Lại nữa, bốn quả vị này dễ thấy, dễ thiết lập. Đây là quả Dự lưu, cho đến đây là quả A-la-hán. Các quả vị khác khó thấy, khó nêu bày, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các Sư Du-già đối với quả phát khởi sự vui thích tăng thượng, các quả vị khác thì không như thế. Như nhà nông đối với mùa vụ, sau khi gieo cấy, chăm sóc suốt trong sáu tháng, đã thu hoạch được lúa thóc tốt, chứa trong kho lẫm, cảm thấy rất vui vẻ, hài lòng. Ở đây cũng như thế, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này có đủ ba nhân duyên: 1. Bỏ đạo đã từng được. 2. Được đạo chưa từng được. 3. Chứng đoạn kiết, được một vị. Phần vị khác thì không như thế, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này có đủ năm nhân duyên: 1. Bỏ đạo đã từng được. 2. Được đạo chưa từng được. 3. Chứng đoạn kiết, được một vị. 4. Được tức khắc tám trí. 5. Cùng một lúc tu mười sáu hành tướng. Phần vị khác thì không như thế, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này là nơi chốn sống, nghỉ yên ổn tối thắng của Sư Du-già. Phần vị khác thì không như thế, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối với Thánh đạo hiện có là công dụng, là công dụng cứu cánh, nơi kiết đoạn hiện có là đối tượng tạo tác, là đối tượng tạo tác rốt ráo. Thánh đạo của phần vị khác là công dụng, không phải là công dụng cứu cánh. Nơi kiết đoạn của phần vị khác là đối tượng tạo tác, không phải là đối tượng tạo tác rốt ráo, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này dung nạp người tu hành, tu rộng Thánh đạo. Phần vị khác thì không như vậy, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các sư Du-già có thể khéo nhận biết rõ về công đức, lỗi lầm. Công đức nghĩa là đạo và quả đạo. Lỗi lầm nghĩa là nhân quả sinh tử. Phần vị khác thì không như thế, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các Sư Du-già mới có thể khéo nhận lấy tướng của bốn Thánh đế. Phần vị khác thì không như thế. Như người đang đi trên đường, đối với tướng của bốn phương chưa có thể khéo nhận lấy, nếu ngồi lại một chỗ mới có thể khéo nhận lấy. Ở đây cũng như thế, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, nếu khi thoái mất có người chứng biết. Phần vị khác thì không như vậy. Như trong thôn ấp, nếu bị cướp giựt thì có người chứng biết, vì không phải là khoảng giữa của hai thôn ấp. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các Sư Du-già trước tạo gia hạnh rộng, an đủ vững chắc. Phần vị khác thì không như thế. Quả Dự lưu trước tạo gia hạnh rộng: Nghĩa là Sư Du-già kia, trước vì cầu quả giải thoát, nên siêng năng tinh tấn tu tập tuệ thí, tịnh giới, quán bất tịnh, quán sổ tức, niệm trụ, văn, tư, tu tuệ, noãn, đảnh, nhẫn, pháp thế đệ nhất cùng mười lăm khoảnh tâm trong kiến đạo, ở đây gọi là chung là an đủ, vững chắc.

Có thuyết nói: Từ đầu cho đến pháp thế đệ nhất, gọi là gia hạnh rộng. Mười lăm khoảnh tâm của kiến đạo được gọi là an đủ, vững chắc. Quả Nhất lai trước tạo gia hạnh rộng: Nghĩa là như trước đã nói và lìa nhiễm cõi dục, có các đạo gia hạnh, sáu đạo vô gián, năm đạo giải thoát, tức ở đây gọi là an định, vững chắc.

Có thuyết cho: Quả Dự lưu gọi là an định vững chắc. Quả Bất hoàn trước tạo gia hạnh rộng: Nghĩa là như trước đã nói và lìa nhiễm cõi dục, có các đạo gia hạnh, ba đạo vô gián, hai đạo giải thoát, tức ở đây gọi là an định, vững chắc.

Có thuyết nêu: Quả Nhất lai gọi là an định, vững chắc. Quả A-la-hán trước tạo gia hạnh rộng: Nghĩa là như trước đã nói và lìa nhiễm nơi một phẩm của tĩnh lự thứ nhất, có các đạo gia hạnh, cho đến định kim cang dụ, ở đây gọi chung là an định, vững chắc.

Có thuyết nói: Quả Bất hoàn gọi là an định, vững chắc. Do nhân duyên ấy nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các Sư Du-già đã đoạn tuyệt dứt bỏ tất cả phần sinh. Phần vị khác thì không như thế. Tức là quả Dự lưu, trừ bảy lần sinh nơi cõi dục và mỗi mỗi xứ một lần sinh ở cõi sắc, cõi vô sắc, tất cả sinh khác đều đạt phi trạch diệt. Quả Nhất lai, trừ hai lần sinh ở cõi dục và một lần sinh ở mỗi mỗi xứ của cõi sắc, cõi vô sắc, tất cả sinh khác đều được phi trạch diệt. Quả Bất hoàn, trừ một lần sinh nơi mỗi mỗi xứ thuộc cõi sắc, cõi vô sắc, tất cả sinh khác đều được phi trạch diệt. Quả A-la-hán đối với tất cả sinh đều được phi trạch diệt. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các Sư Du-già đã tập hợp chung chỗ đắc của phiền não đã đoạn nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn trừ. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả vị Dự lưu tập hợp chung chỗ đắc của phiền não đã đoạn nơi ba cõi do kiến đạo đoạn. Quả vị Nhất lai tập hợp chung chỗ đắc của phiền não đã đoạn nơi ba cõi do kiến đạo đoạn và sáu phẩm trước nơi cõi dục do tu đạo đoạn. Quả vị Bất hoàn tập hợp chung chỗ đắc của phiền não đã đoạn nơi ba cõi do kiến đạo đoạn và của chín phẩm nơi cõi dục do tu đạo đoạn. Quả vị A-la-hán tập hợp chung chỗ đắc của tất cả phiền não đã đoạn nơi ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này là nơi chốn được các Sư Du-già vốn mong cầu. Phần vị khác thì không như thế, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, các Sư Du-già nói có người thoái chuyển, nếu chưa được trở lại tất không mạng chung. Phần vị khác thì không như vậy, nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này là đối trị với năm nẻo, được phi trạch diệt. Phần vị khác thì không như vậy. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với các nẻo địa ngục, bàng sinh, ngạ quỷ được phi trạch diệt. Quả Nhất lai đối trị với một phần nẻo người được phi trạch diệt. Quả Bất hoàn đối trị với toàn phần của nẻo người được phi trạch diệt. Quả A-la-hán đối trị với nẻo trời được phi trạch diệt. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với bốn loài được phi trạch diệt. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị với noãn sinh, Thấp sinh được phi trạch diệt. Quả Nhất lai đối trị với một phần thai sinh được phi trạch diệt. Quả Bất hoàn đối trị với toàn phần thai sinh được phi trạch diệt. Quả A-la-hán đối trị với hóa sinh được phi trạch diệt. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị với hai biên. Phần vị khác thì không như thế. Nói hai biên nghĩa là cõi dục và Hữu đảnh. Vì đối trị biên cõi dục, nên được quả Nhất lai, Bất hoàn. Do đối trị biên Hữu đảnh, nên được quả Dự lưu, A-la-hán. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này là đối trị phần căn bản của hai hữu. Phần vị khác thì không như thế. Phần căn bản của hai hữu nghĩa là cõi dục và Hữu đảnh. Vì đối trị phần căn bản của hữu cõi dục, nên được quả Nhất lai, Bất hoàn. Vì đối trị phần căn bản của hữu Hữu đảnh, nên được quả Dự lưu, A-la-hán. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này có thể đối trị vĩnh viễn hai thứ tư ác và các uẩn, là chỗ dựa của dị thục thuộc tư kia. Phần vị khác thì không như thế. Hai thứ tư ác, nghĩa là tư đoạn căn thiện và tư khởi nghiệp vô gián. Quả Dự lưu có thể đối trị vĩnh viễn tư đoạn căn thiện. Quả Nhất lai có thể đối trị vĩnh viễn tư khởi nghiệp vô gián. Quả Bất hoàn có thể đối trị vĩnh viễn quả dị thục của tư kia. Quả A-la-hán có thể đối trị vĩnh viễn các uẩn, là chỗ dựa của tư kia. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị ba pháp. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị ba kiết. Quả Nhất lai đối trị ba căn bất thiện và một phần dục lậu. Quả Bất hoàn đối trị ba căn bất thiện và toàn phần dục lậu. Quả A-la-hán đối trị hữu lậu, vô minh lậu. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị bốn pháp. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị bộc lưu kiến, ách kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và hai thứ trói buộc thân sau. Quả Nhất lai đối trị bộc lưu dục, ách dục, thủ và một phần của hai thứ trói buộc thân trước. Quả Bất hoàn đối trị bộc lưu dục, ách dục thủ và toàn phần của hai thứ trói buộc thân trước. Quả A-la-hán đối trị bộc lưu, ách, vô minh hữu và ngã ngữ thủ. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị năm pháp. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị cái nghi, ba kiết sau nơi năm kiết thuận phần dưới và năm kiến. Quả Nhất lai đối trị bốn cái trước, kiết giận, tật, xan và một phần của hai kiết trước trong năm kiết thuận phần dưới. Quả Bất hoàn đối trị bốn cái trước, các kiết giận, tật, xan, và toàn phần của hai kiết trước thuận phần dưới. Quả A-la-hán đối trị kiết tham, mạn và năm kiết thuận phần trên. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị sáu ái thân. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị ý xúc sinh ra ái thân do kiến đạo đoạn. Quả Nhất lai đối trị một phần tỷ xúc, thiệt xúc sinh ra ái thân. Quả Bất hoàn đối trị toàn phần ái thân do tỷ xúc, thiệt xúc sinh ra. Quả A-la-hán đối trị nhãn xúc, nhĩ xúc, thân xúc sinh ra ái thân và ý xúc sinh ra ái thân do tu đạo đoạn. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị bảy tùy miên. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị tùy miên kiến, nghi. Quả Nhất lai đối trị một phần tùy miên dục tham, giận dữ. Quả Bất hoàn đối trị toàn phần tùy miên dục tham, giận dữ. Quả A-la-hán đối trị tùy miên hữu tham, mạn, vô minh. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị chín kiết. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị kiết kiến thủ, nghi. Quả Nhất lai đối trị một phần kiết giận dữ, tật, xan. Quả Bất hoàn đối trị toàn phần kiết giận dữ, tật, xan. Quả A-la-hán đối trị kiết ái, mạn, vô minh. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này đối trị chín mươi tám tùy miên. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu đối trị các tùy miên nơi ba cõi do kiến đạo đoạn. Quả Nhất lai đối trị một phần tùy miên của cõi dục do tu đạo đoạn. Quả Bất hoàn đối trị toàn phần tùy miên của cõi dục do tu đạo đoạn. Quả A-la-hán đối trị các tùy miên của cõi sắc, cõi vô sắc do tu đạo đoạn. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Lại nữa, bốn quả vị này, mỗi quả vị đều ra khỏi một thứ biên vực phiền não nặng. Phần vị khác thì không như thế. Nghĩa là quả Dự lưu ra khỏi biên vực phiền não nặng do kiến đạo đoạn. Quả Nhất lai ra khỏi biên vực phiền não nặng có thể đẳng khởi nghiệp năm vô gián, tức là phiền não nơi sáu phẩm trước của cõi dục có thể đẳng khởi nghiệp năm vô gián, ba phẩm sau thì không như thế vì lực dụng yếu kém. Quả Bất hoàn ra khỏi biên vực của các phiền não nặng là các thứ bất thiện. Quả A-la-hán ra khỏi biên vực của các phiền não nặng là các vô ký. Thế nên Đức Phật chỉ nói bốn quả Sa-môn.

Hỏi: Vì sao lìa nhiễm của cõi dục lập ra hai quả Sa-môn là quả Nhất lai, Bất hoàn. Còn lìa nhiễm của cõi sắc, cõi vô sắc chỉ lập một quả Sa-môn là quả A-la-hán?

Đáp: Hiếp Tôn giả nói: Chỉ Đức Phật – Thế Tôn mới có thể nhận biết đúng đắn đầy đủ về giới hạn, thế dụng nơi tánh tướng của các pháp, người khác thì không thể nhận biết. Nếu lìa nhiễm của cõi này, có thể lập ra hai quả, tức lập hai. Nếu lìa nhiễm của cõi này, có thể lập ra một quả, tức lập một. Vì thế không nên vấn nạn.

Lại nữa, bốn quả Sa-môn đều nhân nơi việc nhiễm của ba cõi mà được kiến lập. Nghĩa là nếu lìa nhiễm của ba cõi do kiến đạo đoạn thì lập quả Dự lưu. Nếu lìa nhiễm của ba cõi do kiến đạo đoạn và lìa nhiễm nơi sáu phẩm trước của cõi dục do tu đạo đoạn thì lập quả Nhất lai. Nếu lìa nhiễm của ba cõi do kiến đạo đoạn cùng lìa nhiễm của cõi dục do tu đạo đoạn thì lập quả Bất hoàn. Nếu lìa nhiễm của ba cõi do kiến đạo, tu đạo đoạn thì lập quả A-la-hán.

Lại nữa, do cõi dục là cõi bất định, không phải là địa tu, không phải là địa lìa nhiễm, nên lìa nhiễm của cõi dục phải lập ra hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc đều là cõi định, là địa tu, là địa lìa nhiễm, nên lìa nhiễm của các cõi đó chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, do cõi dục khó đoạn, khó phá, khó có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của cõi dục lập ra hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc thì dễ đoạn, dễ phá bỏ, dễ có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của hai cõi sắc, vô sắc chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, do nơi cõi dục lỗi lầm tai hại tăng thạnh, lỗi lầm tai hại kiên cố, lỗi lầm tai hại quá nhiều, nên lìa nhiễm của cõi dục lập hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc trái với cõi dục này, nên lìa nhiễm của hai cõi sắc, vô sắc chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, do phiền não nơi cõi dục cũng như dòng thác khó có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của cõi dục lập ra hai quả Sa-môn. Như người qua sông, mực nước sông rất sâu, rộng, sóng lớn dồn dập, cần phải thường nghỉ ngơi mới có thể vượt qua. Như Khế kinh nói: Chủ ấp nên biết! Nói bộc lưu (dòng thác) là dụ cho năm dục diệu. Còn cõi sắc, cõi vô sắc trái với cõi dục này, nên lìa nhiễm của hai cõi kia chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, do cõi dục là cõi có nhiều hiểm nạn, phiền não tăng nặng, tạo nghiệp tăng nhiều, cũng như gánh nặng, khó có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của cõi dục lập ra hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc không phải là cõi hiểm nạn, phiền não tạo nghiệp nếu như có tăng nặng nhưng là dễ vượt qua, nên lìa nhiễm nơi hai cõi kia chỉ lập một quả Sa-môn. Như người gánh nặng đi lên núi có nhiều hiểm nạn, phải thường nghỉ ngơi mới có thể vượt qua. Nếu đến chỗ đất bằng phẳng, tuy là gánh nặng, nhưng dễ đi xa. Ở đây cũng như thế.

Lại nữa, do cõi dục là cõi uế tạp. Cũng như người bị ngã xuống vũng bùn lầy, lẫn lộn với phân nhơ, khó có thể ra khỏi. Nên lìa nhiễm cõi dục, lập ra hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc trái với cõi dục này, nên lìa nhiễm của hai cõi sắc, vô sắc chỉ lập một quả Samôn. Như xây dựng cung thất trên vùng đất đầy phân nhơ, tuy rất đẹp đẽ, nhưng người vẫn không ưa thích ở. Cõi sắc, vô sắc cũng lại như thế. Vì ở trên pháp uế tạp của cõi dục, tuy tốt đẹp, nhưng các Hiền Thánh vẫn không ưa thích. Thế nên, Tôn giả Tăng-già Phiệt Tô nói: Trong cõi dục ấy có nhiều thứ lỗi lầm. Nghĩa là mất cha mẹ, anh em, chị em, vợ con, quyến thuộc, của cải thất tán, địa vị tiêu tan, hoặc bị chặt đứt tai, mũi, tay, chân và các bộ phận nơi thân, hoặc gặp phải bốn trăm lẻ bốn thứ bệnh. Do vô số nhân duyên như thế, nên phải chịu các khổ não nguy kịch. Như vậy cõi dục có nhiều thứ lỗi lầm, nếu lìa nhiễm của cõi dục ấy, lập chung tất cả bốn quả Sa-môn, cũng còn ít, huống chi là hai quả.

Lại nữa, do cõi dục có thân nam, thân nữ, khó có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của cõi dục, lập hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc chỉ có thân nam, dễ có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của hai cõi sắc, vô sắc, chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, do cõi dục có căn nam, căn nữ, khó có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của cõi dục, lập ra hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc không có căn nam, căn nữ, dễ có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của hai cõi sắc, vô sắc, chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, do cõi dục có hai thứ phiền não là bất thiện và vô ký, khó có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của cõi dục, lập ra hai quả Samôn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc chỉ có một thứ phiền não vô ký, dễ có thể vượt qua, nên lìa nhiễm của hai cõi sắc, vô sắc, chỉ lập một quả Sa-môn.

Như hai thứ phiền não bất thiện, vô ký, thì có dị thục, không có dị thục, sinh hai quả, sinh một quả, tương ưng, không tương ưng với phiền não, không hổ, không thẹn, nên biết cũng như thế.

Lại nữa, do cõi dục có khổ căn, ưu căn, không hổ, không thẹn, tật, xan, đoạn thực và dâm dục, ái, năm cái, năm dục, là mọi thứ lỗi lầm tai hại của các nẻo ác v.v…, khó có thể ra khỏi, nên lìa nhiễm của cõi dục, lập ra hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc trái với cõi dục này, nên lìa nhiễm của hai cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn.

Lại nữa, cõi dục có đủ mười tám giới, mười hai xứ v.v… đa số là pháp hữu lậu, khó có thể xuất ly, nên lìa nhiễm của cõi dục, lập ra hai quả Sa-môn. Còn cõi sắc, cõi vô sắc vì pháp hữu lậu ít, nên lìa nhiễm nơi hai cõi ấy, chỉ lập một quả Sa-môn.

Hỏi: Vì sao lìa nhiễm do kiến đạo đoạn lập một quả Sa-môn đầu? Lìa nhiễm do tu đạo đoạn lập ba quả Sa-môn sau?

Đáp: Vì nhiễm do kiến đạo đoạn dễ có thể xa lìa, nên khi lìa chúng, lập một quả Sa-môn đầu. Còn nhiễm do tu đạo đoạn khó có thể xa lìa, nên khi lìa chúng, lập ra ba quả Sa-môn sau.

HẾT – QUYỂN 65