LUẬN A TỲ ĐẠT MA ĐẠI TỲ BÀ SA
Tác giả: Năm trăm vị Đại A La Hán
Hán dịch: Đời Đường, Tam Tạng Pháp sư Huyền Trang
Việt dịch: Cư sĩ Nguyên Huệ

 

QUYỂN 172

Chương 7: ĐỊNH UẨN

Phẩm 3: BÀN VỀ GỒM THÂU, phần 7

* Năm uẩn, năm thủ uẩn, năm nẻo, năm diệu dục, năm học xứ, dựa vào định nào diệt?

Đáp: Sắc uẩn, sắc thủ uẩn dựa vào bốn, hoặc vị chí. Bốn uẩn, bốn thủ uẩn, nẻo trời dựa vào bảy, hoặc vị chí. Bốn nẻo còn lại, năm diệu dục, năm học xứ dựa vào vị chí.

Trong đây: Năm uẩn, năm thủ uẩn, nói rộng như nơi phẩm Mười môn. Nhưng sắc uẩn thuộc về năm địa và không hệ thuộc, sắc thủ uẩn chỉ thuộc về năm địa, chúng đều cùng dựa vào bốn, hoặc vị chí diệt. Nghĩa là thuộc cõi dục thì dựa nơi định vị chí diệt. Cho đến thuộc tĩnh lự thứ tư thì dựa nơi tĩnh lự thứ tư, định vị chí, tĩnh lự trung gian, cận phần của Không vô biên xứ diệt.

Ở đây đã nói về định: Có thuyết nói: Là vô lậu. Có thuyết nói: Là hữu lậu vô lậu. Cũng như trước đã phân biệt.

Đã nói về diệt: Nếu nói ở đây dựa vào chủng loại diệt để nói, thì thuyết kia nói: Nêu vị chí là gồm thâu định vị chí, tĩnh lự trung gian, cận phần của bốn địa trên. Ở trong định vị chí gồm thâu hữu lậu vô lậu, dựa vào đấy có thể diệt sắc uẩn, sắc thủ uẩn thuộc cõi dục cho đến tĩnh lự thứ tư. Nếu nói ở đây dựa vào cứu cánh diệt để nói, thì thuyết kia nói: Nêu vị chí là gồm thâu định vị chí, tĩnh lự trung gian, cận phần của Không vô biên xứ. Ở trong định vị chí chỉ gồm thâu vô lậu, dựa vào đấy có thể diệt sắc uẩn, sắc thủ uẩn thuộc tĩnh lự thứ tư.

Do đấy nên nói dựa vào bốn, hoặc vị chí diệt.

Bốn uẩn thuộc chín địa và không hệ thuộc. Bốn thủ uẩn thuộc chín địa. Chúng đều dựa nơi bảy, hoặc vị chí diệt. Nghĩa là thuộc cõi dục thì dựa nơi định vị chí diệt. Cho đến thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ thì dựa nơi bảy căn bản, định vị chí, tĩnh lự trung gian diệt.

Nhưng trong đây đã nói về định: Có thuyết nói: Là vô lậu. Có thuyết nói: Là hữu lậu vô lậu. Cũng như trước đã phân biệt.

Đã nói về diệt: Nếu nói ở đây dựa vào chủng loại diệt để nói, thì thuyết kia nói: Nêu vị chí là gồm thâu định vị chí, tĩnh lự trung gian, cận phần của bảy địa trên. Ở trong định vị chí gồm thâu hữu lậu, vô lậu, dựa vào đấy có thể diệt bốn uẩn, bốn thủ uẩn thuộc cõi dục cho đến thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu nói ở đây dựa vào cứu cánh diệt để nói, thì thuyết kia nói: Nêu vị chí là gồm thâu định vị chí, tĩnh lự trung gian. Ở trong định vị chí chỉ gồm thâu vô lậu, dựa vào đấy có thể diệt bốn uẩn, bốn thủ uẩn thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Do đấy nên nói dựa vào bảy, hoặc vị chí diệt.

Năm nẻo (Thú): Nghĩa là địa ngục, bàng sinh, quỷ, người, trời.

Hỏi: Vì sao tạo ra phần Luận này?

Đáp: Là nhằm phân biệt nghĩa của Khế kinh. Như Khế kinh nói: Năm nẻo là nẻo địa ngục cho đến nẻo trời. Khế kinh tuy nói như vậy nhưng không phân biệt rộng. Khế kinh là chỗ dựa căn bản của Luận này, những gì Kinh kia chưa nói đến nay nên phân biệt, nên tạo ra phần Luận này.

Hỏi: Thể tánh của nẻo là gì? Là vô ký hay là cả ba thứ? Nếu là vô ký thì như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông? Như nói: Năm nẻo tất cả tùy miên đã tùy tăng. Nếu là cả ba thứ thì vì sao các nẻo không cùng tạp loạn? Nghĩa là nẻo địa ngục tạo tác nghiệp phiền não cho đến trời Tha hóa tự tại. Trời Tha hóa tự tại tạo tác nghiệp phiền não cho đến nẻo địa ngục.

Đáp: Nên nói như vầy: Thể của nẻo chỉ là vô phú vô ký.

Hỏi: Nếu như vậy thì các nẻo không cùng tạp loạn, nhưng như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông?

Đáp: Văn nơi Luận kia nên nói như vầy: Bốn nẻo là biến hành của cõi dục và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Nẻo trời là biến hành của ba cõi và tùy miên tùy tăng do tu đạo đoạn. Nhưng không nói như vậy, nên biết là người Tụng đã có lầm lẫn.

Có thuyết nói: Luận kia nói chung về quyến thuộc của năm nẻo. Nghĩa là vị kiết sinh là tâm tương ưng với năm bộ phiền não. Tâm ấy là tất cả tùy miên tùy tăng.

Có thuyết cho: Thể của nẻo là chung cho cả ba thứ thiện, nhiễm ô, vô ký.

Hỏi: Nếu vậy như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói là khéo thông. Nhưng vì sao các nẻo không cùng tạp loạn?

Đáp: Nếu do tạo tác thì có tạp loạn. Nếu do hiện hành thì không có tạp loạn. Nghĩa là nẻo địa ngục đối với nẻo địa ngục nghiệp phiền não tạo tác cũng hiện hành, còn đối với trời Tha hóa tự tại nghiệp phiền não tạo tác không hiện hành. Cho đến trời Tha hóa tự tại đối với trời Tha hóa tự tại nghiệp phiền não tạo tác cũng hiện hành. Cho đến đối với nẻo địa ngục nghiệp phiền não tạo tác không hiện hành. Cho nên các nẻo không có lỗi tạp loạn.

Lời bình: Nên nói thể của các nẻo chỉ là vô phú vô ký.

Hỏi: Làm sao nhận biết như vậy?

Đáp: Như trong Khế kinh Tôn giả Xá-lợi-tử nói như vầy: Nếu ở địa ngục, các lậu khi hiện tiền, thì tạo tác tăng trưởng, thuận với thọ nghiệp của địa ngục. Vì thân ngữ ý kia do uế tạp, nên ở trong địa ngục thọ nhận dị thục của năm uẩn. Dị thục khởi lên rồi gọi là địa ngục. Trừ năm uẩn này thì địa ngục không thể thủ đắc. Cho đến nẻo trời nói cũng như vậy.

Do đó nên biết thể của nẻo chỉ là vô phú vô ký.

Hỏi: Đã biết thể của nẻo chỉ là vô phú vô ký, trong ấy là chỉ có dị thục hay là chung cho cả nuôi lớn? Nếu chỉ là dị thục thì như nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông? Như nói: Năm nẻo gồm thâu năm uẩn, mười hai xứ, mười tám giới. Thanh xứ, thanh giới không phải là dị thục. Nếu chung cho cả nuôi lớn thì thể của nẻo tạp loạn. Do trong nẻo, người cũng có thể dẫn khởi nuôi lớn đại chủng của các căn nơi cõi sắc?

Đáp: Nên nói như vầy: Thể tánh của các nẻo chỉ là dị thục.

Hỏi: Như thế nơi Luận Phẩm Loại Túc nói làm sao thông?

Đáp: Văn của Luận ấy nên nói như vầy: Năm nẻo gồm thâu phần ít của năm uẩn, mười một xứ, mười bảy giới, nhưng không nói như vậy, nên biết là người Tụng đã lẫn lộn.

Có thuyết nói: Luận ấy nói chung về quyến thuộc của năm nẻo, chiêu cảm nghiệp của năm nẻo cùng có thể ngăn giữ, không phải chỉ nói về nẻo, nên không có lỗi. Nhưng do phiền não nơi nẻo có sai biệt, do uẩn dị thục nơi nẻo có sai biệt, cho nên thể của nẻo chỉ là dị thục.

Hỏi: Vì sao gọi là nẻo? Nẻo có nghĩa gì?

Đáp: Nghĩa đi đến là nghĩa của nẻo. Là các hữu tình phải đi đến, là nơi chốn nên sinh, là xứ sinh kiết, nên gọi là nẻo.

Đã nói chung về các nẻo, nay sẽ nói tướng khác nhau nơi mỗi mỗi nẻo.

Hỏi: Thế nào là nẻo địa ngục?

Đáp: Các địa ngục là một loại bạn bè, chúng đồng phần, là chỗ dựa đắc, sự việc đắc, xứ sở đắc, và đã sinh nơi địa ngục là sắc thọ tưởng hành thức vô phú vô ký. Đó gọi là nẻo địa ngục.

Trong đây, nói một loại bạn bè, chúng đồng phần: Là làm rõ chúng đồng phần kia.

Nói chỗ dựa đắc, sự việc đắc, xứ sở đắc: Là làm rõ về đắc uẩn xứ giới của nơi ấy.

Nói và đã sinh nơi địa ngục là sắc thọ tưởng hành thức vô phú vô ký: Là làm rõ tự thể của nẻo ấy là dị thục, không phải thứ khác.

Hỏi: Vì sao nẻo kia gọi là địa ngục?

Đáp: Là nơi chốn hướng đến của địa ngục. Do là những gì hiện có của địa ngục nên gọi là địa ngục. Các hữu tình nơi nẻo ấy không có vừa ý, yêu mến, hương vị, lợi ích, vui mừng, nên gọi là địa ngục.

Có thuyết nói: Do các hữu tình kia thời trước đã tạo tác làm tăng trưởng các hành ác nơi thân ngữ ý bạo ác tăng thượng, nên đi đến sinh vào đó khiến sự sinh nơi nẻo ấy nối tiếp, nên gọi là địa ngục.

Có thuyết cho: Địa ngục là giả danh, giả tưởng. Tên do nêu đặt, tưởng do nêu đặt. Tất cả tên gọi, ý tưởng là tùy theo chỗ muốn mà lập, không cần như nghĩa.

Có thuyết nêu: Nẻo ấy do thấp kém nên gọi là địa ngục. Nghĩa là trong năm nẻo, thì nẻo ấy là thấp kém nhất.

Có thuyết nói: Do nẻo ấy là nghiêng đổ nên gọi là địa ngục.

Như có tụng nói:

Nghiêng đổ nơi địa ngục

Chân trên mà đầu dưới

Do hủy báng các Tiên

Ưa tu khổ hạnh vắng.

Có thuyết nêu: Địa ngục: Nghĩa là người ác, là nơi chốn kẻ ác sinh vào đó, nên gọi là địa ngục.

Có thuyết cho: Địa ngục là nơi chốn không thể an vui.

Có thuyết nói: Địa ngục là nơi chốn hủy hoại sự vui mừng.

Có thuyết nêu: Địa ngục là nơi chốn các hữu tình chịu khổ não trầm trọng bức bách, không nơi quy hướng.

Có thuyết nói: Địa ngục là nơi chốn các hữu tình bị nhiều thứ khổ bức bách nhưng không có người cứu vớt.

Hỏi: Vì sao nơi thấp nhất, lớn nhất của nẻo ấy gọi là vô gián?

Đáp: Nơi ấy là giả danh, giả tưởng, tên là nêu đặt, tưởng là nêu đặt. Tất cả tên gọi, ý tưởng, là tùy theo chỗ muốn mà lập, không cần như nghĩa. Nơi ấy hoặc gọi là trăm cây đinh đóng vào thân, hoặc gọi là sáu xứ khổ xúc, hoặc gọi là tự nhận khổ thọ, hoặc gọi là không gián đoạn. Tuy cũng có gián đoạn, nhưng giả nêu là không gián đoạn.

Có thuyết nói: Nơi ấy luôn nhận khổ thọ, không xen chút hỷ lạc, nên gọi là Vô gián.

Hỏi: Trong các địa ngục khác há có những thứ dị thục như ca múa, ăn uống, thọ nhận vui mừng nên không gọi là vô gián chăng?

Đáp: Trong các địa ngục khác tuy không có dị thục vui mừng, nhưng có đẳng lưu vui mừng. Như Luận Thi Thiết nói: Trong địa ngục Đẳng hoạt, có khi gió mát thổi tới, máu thịt sinh trở lại. Có khi phát ra tiếng kêu lớn: “Đẳng hoạt!” thì các hữu tình kia tức thời chỉ ở nơi lúc máu thịt sinh như thế, cùng lúc sống trở lại thì mới tạm sinh hỷ lạc xen với khổ thọ, nên không gọi là Vô gián.

Có thuyết nói: Có rất nhiều hữu tình tạo tác nghiệp ác nối tiếp sinh vào nơi ấy, đầy dẫy nơi ấy, nên gọi là Vô gián.

Lời bình: Không nên nói như vậy. Do sinh vào địa ngục khác thì nhiều. Còn sinh nơi vô gián thì ít. Vì sao? Vì tạo tác làm tăng trưởng nghiệp ác nơi thân ngữ ý thuộc phẩm thượng mới sinh vào xứ ấy. Các hữu tình thuộc loại này không nhiều. Còn các hữu tình tạo tác làm tăng trưởng nghiệp ác thuộc phẩm trung hạ sinh nơi địa ngục khác thì nhiều. Như các hữu tình tạo tác làm tăng trưởng nghiệp thiện thuộc phẩm thượng sinh nơi xứ Hữu đảnh thì ít. Còn các hữu tình tạo tác làm tăng trưởng nghiệp thiện thuộc phẩm trung hạ sinh nơi xứ khác thì nhiều.

Nên nói như vầy: Do tạo tác làm tăng trưởng nghiệp bất thiện tăng thượng nên sinh vào nơi ấy có thân hình to lớn, mỗi mỗi hữu tình chiếm lấy khoảng rộng, không có khe hở trung gian, nên gọi là Vô gián.

Hỏi: Địa ngục ở tại xứ nào?

Đáp: Phần nhiều ở bên dưới châu Thiệm bộ này.

Hỏi: An lập như thế nào?

Đáp: Có thuyết nói: Từ châu này đi xuống bốn vạn do-tuần là tới đáy của địa ngục Vô gián. Địa ngục Vô gián dài rộng cao mỗi bề đều là hai vạn do-tuần. Kế trên một vạn chín ngàn do-tuần, trong khoảng ấy an lập bảy địa ngục khác. Nghĩa là kế trên có địa ngục Cực nhiệt. Tiếp trên có địa ngục Nhiệt. Kế trên có địa ngục Đại hào khiếu. Tiếp trên có địa ngục Hào khiếu. Kế trên có địa ngục Chúng hợp. Tiếp trên có địa ngục Hắc thằng. Kế trên có địa ngục Đẳng hoạt.

Bảy địa ngục ấy, mỗi mỗi địa ngục dài rộng là một vạn do-tuần. Tiếp trên còn lại có một ngàn do-tuần: Năm trăm do-tuần là đất nhão trắng. Năm trăm do-tuần là đất bùn.

Có thuyết nói: Từ châu này đi xuống bốn vạn do-tuần thì đến địa ngục Vô gián. Địa ngục Vô gián ấy dài rộng cao mỗi bề là hai vạn do-tuần. Kế trên có ba vạn năm ngàn do-tuần, an lập bảy địa ngục khác, mỗi mỗi địa ngục dài rộng cao đều năm ngàn do-tuần. Kế tiếp trên còn lại có năm ngàn do-tuần: Một ngàn do-tuần là đất màu xanh. Một ngàn do-tuần là đất màu vàng. Một ngàn do-tuần là đất màu đỏ. Một ngàn do-tuần là đất màu trắng. Năm trăm do-tuần là đất nhão trắng. Năm trăm do-tuần là đất bùn.

Có thuyết cho: Địa ngục Vô gián ở nơi chính giữa, bảy địa ngục còn lại vây xung quanh, như hiện nay xóm làng vây quanh thành lớn.

Hỏi: Nếu như vậy thì Luận Thi Thiết nói nên làm sao thông? Như nói: Chu vi châu Thiệm bộ là sáu ngàn do-tuần, ba do-tuần rưỡi. Mỗi mỗi địa ngục về lượng rộng lớn, bên dưới châu Thiệm bộ này làm sao dung chứa cho đủ? Như có tụng nói:

Đất sắt nung như máu

Lửa dữ mãi đốt cháy

Qua nhiều trăm do-tuần

Ngọn lửa phủ trùm hết.

Đáp: Châu Thiệm bộ này trên nhọn dưới rộng cũng như đống lúa nên có thể dung chứa. Do vậy trong Kinh nói: Bốn biển lớn càng đi vào càng sâu dần.

Lại, mỗi mỗi địa ngục lớn có mười sáu xứ tăng thêm. Nghĩa là mỗi địa ngục lớn đều có bốn cửa, ngoài mỗi mỗi cửa đều có bốn xứ tăng thêm: Một là xứ tăng thêm tro lửa. Nghĩa là bên trong xứ này toàn là tro lửa ngập đến đầu gối. Hai là xứ tăng thêm phân thây chết. Nghĩa là bên trong xứ này đầy những bùn phân thây chết. Ba là xứ tăng thêm mũi nhọn. Nghĩa là bên trong xứ này lại có ba thứ: Thứ nhất là đường đao nhọn. Tức ở trong đường ấy các đao nhọn được bày ngửa lên làm đường đi. Thứ hai là rừng lá kiếm. Tức bên trên rừng này toàn dùng kiếm bén nhọn làm lá. Thứ ba là rừng gai sắt. Tức bên trên rừng này có vô số gai sắt nhọn bén dài mười sáu ngón tay. Ba thứ như đường đao nhọn v.v… tuy khác nhưng cũng dựa vào sắt nên thâu vào một xứ tăng thêm. Bốn là xứ tăng thêm sông sôi. Nghĩa là bên trong xứ này có nước mặn sôi bùng. Mười sáu xứ tăng thêm như thế cùng với địa ngục gốc là mười bảy. Như vậy, tám đại địa ngục và các quyến thuộc nên có một trăm ba mươi sáu. Thế nên Kinh nói có một trăm ba sáu địa ngục.

Hỏi: Vì sao địa ngục quyến thuộc gọi là xứ tăng thêm?

Đáp: Có thuyết nói: Trong địa ngục gốc có một thứ khổ cụ để trị tội các hữu tình. Còn ở địa ngục quyến thuộc này có nhiều thứ khổ cụ để trị tội các hữu tình, nên gọi là xứ tăng thêm.

Thế nên Kinh Thiên Sứ nói: Trong địa ngục quyến thuộc dùng vô số khổ cụ để trị kẻ có tội.

Có thuyết cho: Đây là xứ thọ khổ tăng lên, nên gọi là xứ tăng thêm. Nghĩa là trong địa ngục gốc đã bị bức bách rồi, thì ở xứ này lại gặp khổ lần nữa, không phải cho là có nhiều thứ khổ cụ nên gọi là tầng, vì trong địa ngục gốc cũng có nhiều khổ cụ.

Luận Thi Thiết nói: Trong địa ngục quyến thuộc chỉ có một thứ tro lửa.

Hỏi: Đám ngục tốt là loại hữu tình hay không phải là loại hữu tình? Nếu chúng là loại hữu tình thì chúng tạo nhiều ác sẽ nhận dị thục nơi xứ nào? Nếu chúng không phải là loại hữu tình thì pháp thiện của Đại đức đang tụng làm sao thông? Như nói:

Tâm luôn giữ hận độc

Thích tích tập nghiệp ác

Thấy người khổ sinh vui

Chết làm những ngục tốt.

Đáp: Có thuyết nói: Chúng thuộc loại hữu tình.

Hỏi: Vậy những thứ ác chúng tạo thì nhận dị thục ở đâu?

Đáp: Thọ nhận ngay nơi địa ngục chúng ở. Do trong địa ngục ấy hãy còn chứa quả báo cực nặng của nghiệp vô gián, huống là quả báo của các ngục tốt ấy.

Có thuyết nói: Đây không phải là loại hữu tình. Do sức tăng thượng nơi nghiệp của các tội nhân nên khiến phi hữu tình giống như hữu tình hiện ra, dùng các khổ cụ tàn hại những tội nhân kia.

Hỏi: Nếu như vậy thì pháp thiện của Đại đức hiện tụng làm sao thông?

Đáp: Tụng này chẳng cần phải thông, do không phải Kinh Luật Luận giảng nói, chỉ là văn tụng tự tạo. Phàm tạo văn tụng thì hoặc tăng hoặc giảm bất tất như nghĩa, đâu cần phải thông. Nếu muốn thông thì tụng kia có ý riêng. Nghĩa là nếu dùng xích sắt trói cột các hữu tình mới sinh vào địa ngục dẫn đến chỗ Diễm ma vương, là loại hữu tình. Nếu dùng các thứ khổ cụ, ở trong địa ngục tàn hại các hữu tình thì không phải là loại hữu tình. Đại đức đã dựa vào loại hữu tình để tạo tụng như thế. Bên dưới châu Thiệm bộ có đại địa ngục. Bên trên châu Thiệm bộ cũng có địa ngục biên và các địa ngục riêng hoặc ở trong hang, hoặc ở trên núi, hoặc ở nơi đồng rộng vắng, hoặc trong hư không. Ba châu khác chỉ có địa ngục biên, địa ngục riêng, không có địa ngục lớn. Vì sao? Vì chỉ nơi Thiệm bộ con người tạo thiện mãnh liệt mà tạo ác cũng không kém không phải như châu khác.

Có thuyết cho: Ở châu Bắc-câu-lô cũng không có địa ngục biên v.v… Là do nơi đó nhận quả của nghiệp thuần tịnh.

Hỏi: Nếu châu khác không có địa ngục lớn thì những hữu tình kia tạo nghiệp vô gián, đoạn dứt căn thiện sẽ ở nơi xứ nào thọ nhận quả báo?

Đáp: Tức thọ nhận nơi đại địa ngục bên dưới châu Thiệm Bộ này.

Hỏi: Hữu tình của địa ngục hình dáng như thế nào?

Đáp: Hữu tình nơi nẻo ấy hình dáng như người.

Hỏi: Ngôn ngữ như thế nào?

Đáp: Khi mới sinh đều nói Thánh ngữ. Về sau khi thọ khổ, tuy phát ra các thứ tiếng thọ khổ thống thiết, cho đến không có một tiếng nào thành lời, chỉ có tiếng của chặt, đâm, đập, xé.

Hỏi: Thế nào là nẻo bàng sinh?

Đáp: Các bàng sinh là một loại bạn bè, chúng đồng phần, là chỗ dựa đắc, sự việc đắc, xứ sở đắc, và đã sinh nơi bàng sinh là sắc thọ tưởng hành thức vô phú vô ký. Giải thích như trên.

Hỏi: Vì sao nẻo ấy gọi là bàng sinh?

Đáp: Do hình tướng nằm ngang nên đi cũng theo hướng ngang. Vì đi theo hướng ngang nên hình tướng cũng nằm ngang. Thế nên gọi là bàng sinh.

Có thuyết nói: Bàng sinh là giả danh, giả tưởng. Tên được nêu đặt, tưởng được nêu đặt. Tất cả tên, tưởng là tùy ý muốn mà lập, chẳng cần như nghĩa.

Có thuyết nêu: Các hữu tình kia do tạo tác làm tăng trưởng các hành ác ngu si tăng thượng nơi thân ngữ ý, nên đi đến nẻo ấy, sinh nơi nẻo ấy, khiến sự sinh ở đó nối tiếp, nên gọi là bàng sinh.

Có thuyết cho: Nẻo ấy là ám độn, nên gọi là bàng sinh. Ám độn nghĩa là không có trí. Trong tất cả nẻo không nơi nào không có trí như nẻo này.

Có thuyết nói: Hiện có khắp các chốn nên gọi là bàng sinh. Nghĩa là loại hữu tình này ở trong năm nẻo đều có. Nơi địa ngục có loại không chân, như loài trùng nương củ trá. Có loại hai chân như loài quạ mỏ sắt. Có loại bốn chân như loài chó mực vằn vện. Có loại nhiều chân như loài trăm chân. Trong nẻo quỷ có thứ không chân như rắn độc. Có loại hai chân như cú tai mèo. Có loại bốn chân như các loài chồn, cáo, voi, ngựa. Có loại nhiều chân như các loài sáu chân, trăm chân. Đối với nẻo người, trong ba châu, có thứ không chân như tất cả loài sâu trùng đi bằng bụng. Có loại hai chân như loài hồng nhạn. Có loại bốn chân như các loài voi, ngựa. Có loại nhiều chân như loài trăm chân. Trong châu Bắc-câu-lô, có loại hai chân như loài hồng, nhạn. Có loại bốn chân như các loài voi, ngựa. Không có loài không chân và nhiều chân, vì châu ấy là nơi chốn thọ nhận quả của nghiệp không não hại. Nơi cõi trời Tứ đại vương chúng và trời Ba Mươi Ba, có loại hai chân như loài chim Diệu sắc. Có loại bốn chân như các loài voi, ngựa. Các loại khác không có, như trước đã giải thích. Trong bốn cõi trời trên chỉ có loại hai chân như loài chim Diệu sắc. Các loại khác đều không có. Do các xứ trời nơi không trung càng lên cao càng thắng diệu.

Hỏi: Các xứ kia nếu không có voi, ngựa thì dùng gì để cỡi? Cũng nghe nói chư Thiên kia cỡi voi ngựa, vì sao nói là không có?

Đáp: Là do nghiệp lực nơi phước của chư Thiên nên tạo ra các hình tướng voi ngựa phi tình để cỡi nhằm tự vui thích.

Hỏi: Bàng sinh gốc trụ nơi xứ nào?

Đáp: Gốc trụ trong biển cả. Về sau lưu chuyển khắp các nẻo.

Hỏi: Hình tướng của chúng như thế nào?

Đáp: Phần nhiều đi theo hướng ngang. Cũng có loài đi thẳng như Khẩn-nại-lạc Tất-xá-già, Hê-lô-sách-ca v.v… Hỏi: Ngôn ngữ như thế nào?

Đáp: Vào thời kiếp mới thành đều nói Thánh ngữ. Về sau do thời gian ăn uống nơi hữu tình không bình đẳng, rồi lừa dối tăng nhiều, nên liền có vô số ngôn ngữ, cho đến có loại không thể nói.

Hỏi: Thế nào là nẻo quỷ?

Đáp: Các quỷ là một loại bạn bè, chúng đồng phần, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao nẻo ấy gọi là Bế-lệ-đa (Loài quỷ)?

Đáp: Luận Thi Thiết nói: Như thời nay vua của thế giới quỷ gọi là Diễm ma. Như thế, vào thời kiếp đầu có vua của thế giới quỷ tên là Tỷ-đa, cho nên các loài hữu tình đi đến nẻo ấy, sinh nơi nẻo ấy, đều gọi là nẻo quỷ, tức là nghĩa hiện có trong thế giới Tỷ-đa. Từ đó về sau đều lập tên gọi này.

Có thuyết nói: Nẻo quỷ là giả danh, giả tưởng, cho đến nói rộng.

Có thuyết cho: Do tạo tác làm tăng trưởng các hành ác tham lam keo kiệt tăng thượng nơi thân ngữ ý, nên đi đến nẻo ấy, sinh nơi nẻo ấy, khiến sự sinh nơi đó nối tiếp, nên gọi là nẻo quỷ.

Có thuyết nêu: Đói khát tăng nên gọi là quỷ. Do loài hữu tình ấy tích tập nghiệp chiêu cảm đói khát trải qua trăm ngàn năm không hề nghe đến tên gọi nước, huống chi là được thấy hoặc lại được tiếp xúc. Có thứ quỷ bụng như quả núi, cổ họng nhỏ như lỗ kim, tuy gặp thức ăn uống cũng không thể thâu nhận.

Có thuyết nói: Bị xua đuổi nên gọi là quỷ. Chúng luôn bị chư Thiên khắp chốn xua đuổi, thường chạy rong mãi

Có thuyết cho: Nhiều mong cầu nên gọi là quỷ. Nghĩa là trong năm nẻo, từ nơi hữu tình khác, mong cầu nhiều, không đâu hơn xứ này.

Do các nhân duyên ấy nên gọi là nẻo quỷ.

Hỏi: Quỷ trụ nơi xứ nào?

Đáp: Nơi thế giới của Diễm ma vương, dưới châu Thiệm bộ năm trăm do-tuần, là nơi ở gốc của tất cả quỷ, từ đó lưu chuyển khắp các xứ khác. Trong châu này có hai loại quỷ: Là có uy đức và không có uy đức. Loại có uy đức, hoặc ở nơi rừng hoa, rừng quả, trên các thứ cây cối, trong núi rừng sâu cao, cũng có cung điện ở trên không, cho đến hoặc trụ những nơi thanh tịnh khác thọ hưởng phước lạc. Loại không có uy đức, hoặc ở những nơi như chuồng súc vật, nhà xí, phân nước dơ, hào rãnh, cho đến hoặc ở mọi nơi chốn bất tịnh, uế tạp. Chúng ít phước, bần cùng đói khát, khổ sở. Châu Đông-tỳ-đềha, Tây-cù-đà-ni cũng có hai thứ quỷ ấy. Châu Bắc-câu-lô chỉ có loại quỷ đại uy đức.

Có thuyết nói: Hoàn toàn không. Do các nẻo quỷ là sự chiêu cảm của tham lam keo kiệt. Châu Bắc-câu-lô là nơi chốn không thâu nhận hữu tình sinh về đó. Ở trời Tứ đại vương chúng và trời Ba mươi ba, tuy có quỷ đại uy đức, nhưng chúng làm các việc giữ cổng, tuần phòng, tháp tùng, theo hầu.

Có thuyết nêu: Phía Tây châu Thiệm bộ có năm trăm bến bãi được phân làm hai để trụ. Nơi hai phần đất ấy có năm trăm thành: Hai trăm năm mươi thành là các quỷ có uy đức ở. Hai trăm năm mươi thành thì dành cho các quỷ không có uy đức ở. Thế nên, xưa có Chuyển luân vương tên là Nhĩ Di, bảo người đánh xe là Ma-đát-lê: Ta muốn du ngoạn khắp, ngươi có thể cho xe đi theo đường kia để ta xem các hữu tình thọ nhận quả thiện ác. Khi đó, Ma-đát-lê theo lời vua đánh xe đi qua hai vùng bến bãi ấy. Bấy giờ, vua thấy các quỷ có uy đức, đầu đội mão gắn tràng hoa, thân mặc áo trời, ăn uống các thứ vật ngon, như là thiên tử. Rồi họ lên xe voi ngựa dạo chơi vui thích. Vua lại thấy các quỷ không có uy đức đầu tóc bù xù, thân không y phục, mặt mày tiều tụy, dùng tóc tự che phủ, tay cầm bình chén đi xin ăn. Thấy như vậy rồi, nhà vua càng tin sâu nơi nghiệp quả thiện ác.

Hỏi: Nẻo quỷ hình dạng của loài ấy như thế nào?

Đáp: Phần nhiều như người, cũng có loại đi theo hướng ngang. Hoặc mặt tợ như heo. Hoặc giống như nhiều thứ cầm thú dữ khác.

Như những bức họa được vẽ hiện có trên tường.

Hỏi: Ngôn ngữ như thế nào?

Đáp: Lúc kiếp mới thành đều nói Thánh ngữ. Về sau tùy theo nơi chốn tạo ra vô số ngôn ngữ.

Có thuyết nói: Tùy theo nơi nào mạng chung sinh vào đó thì có hình tướng và lời nói của nơi đó.

Lời bình: Không nên nói như thế. Nếu từ cõi vô sắc mất lại sinh vào nẻo ấy thì có thể không hình, không lời nói chăng?

Nên nói như vầy: Tùy nơi chốn sinh thì hình dạng và lời nói cũng như vậy.

Hỏi: Thế nào là nẻo người?

Đáp: Người là một loại bạn bè, chúng đồng phần, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao nẻo này gọi là Mạt-nô-sa (Loài người)?

Đáp: Xưa có vị Chuyển luân vương tên Man-đà-đa, nói với nhiều người: Các ngươi muốn có những tạo tác, trước nên tư duy, lường xét, quan sát. Bấy giờ, các ngươi tức như lời vua chỉ dạy, muốn tạo việc làm, đều trước là tư duy quan sát lường xét, nên đối với vô số xứ nghiệp công xảo đều được khéo léo, do có thể dùng ý tư duy quán xét sự việc đang làm, nên gọi là Mạt-nô-sa. Từ đó trở đi truyền lập hiệu ấy. Thời trước, chưa gọi là Mạt-nô-sa, con người hoặc cùng gọi là vân cảnh, hoặc gọi là đa la hĩnh, hoặc gọi là để lạc ca, hoặc gọi là A sa đồ.

Có thuyết cho: Mạt-nô-sa là giả danh, giả tưởng, cho đến nói rộng.

Có thuyết nói: Do trước đã tạo tác làm tăng trưởng hành diệu bậc thấp nơi thân ngữ ý, nên đi đến nẻo ấy, sinh nơi nẻo ấy, khiến sự sinh ở đó nối tiếp, nên gọi là nẻo người.

Có thuyết nêu: Nhiều kiêu mạn nên gọi là người. Do trong năm nẻo, nhiều kiêu mạn không đâu như ở nẻo này.

Có thuyết nói: Có thể làm vắng lặng tâm nên gọi là người. Vì trong năm nẻo, không đâu có thể làm vắng lặng tâm ý như con người. Nên Khế kinh nói: Con người có ba việc hơn đối với chư Thiên: Một là dũng mãnh. Hai là nhớ nghĩ. Ba là phạm hạnh. Dũng mãnh nghĩa là không thấy quả sẽ có nhưng có thể tu các khổ hạnh. Nhớ nghĩ nghĩa là có thể nhớ nghĩ về các việc đã làm từ thời lâu xa. Những sự việc được nêu bày đều phân minh, mạch lạc. Phạm hạnh nghĩa là có thể ngay từ đầu đã gieo trồng căn thiện thù thắng, thuận phần giải thoát, thuận phần quyết trạch, và có thể thọ trì giới biệt giải thoát.

Do các nhân duyên ấy nên gọi là nẻo người.

Hỏi: Loài người trụ nơi xứ nào?

Đáp: Trụ nơi bốn châu lớn: Là châu Thiệm bộ, châu Tỳ đề ha, châu Cù đà ni, châu Câu lô. Cũng trụ nơi tám châu trung: Đó là châu Câu Lô có hai quyến thuộc là châu Củ lạp bà và châu Kiêu lập bà.

Châu Tỳ đề ha có hai quyến thuộc là châu Đề ha và châu Tô đề ha. Châu Cù đà ni có hai quyến thuộc là châu Xá quặc và châu Ốt đát la mạn đát lý noa. Châu Thiệm bộ có hai quyến thuộc là châu Già mạt la và châu Phiệt la già mạt la. Người trong tám châu trung ấy thấp nhỏ như người lùn ở phương này.

Có thuyết nói: Bảy châu là chỗ ở của loài người, còn châu Già mạt la chỉ là nơi ở của loài La sát bà.

Có thuyết cho: Nói tám châu ấy tức là tên gọi khác của bốn đại châu này, vì mỗi mỗi châu đều có hai tên gọi khác.

Nên nói như vầy: Nên nói như thuyết đầu.

Trong tám châu ấy, mỗi mỗi châu lại có năm trăm châu nhỏ làm quyến thuộc. Ở đó, hoặc có người ở, hoặc phi nhân ở, hoặc bỏ không.

Hỏi: Nẻo người hình mạo như thế nào?

Đáp: Hình dáng thì đứng thẳng. Người ở châu Thiệm bộ khuôn mặt như thùng xe. Người ở châu Tỳ-đê-ha khuôn mặt như nửa vầng trăng. Người nơi châu Cù-đà-ni khuôn mặt như trăng tròn. Người nơi châu Câu-lô khuôn mặt như ao vuông.

Hỏi: Về ngôn ngữ như thế nào?

Đáp: Khi thế giới mới thành, tất cả đều nói Thánh ngữ. Về sau do thời gian ăn uống nơi các hữu tình không bình đẳng, rồi lừa dối tăng nhiều, nên có vô số ngôn ngữ, cho đến có loại không thể nói năng.

Hỏi: Thế nào là nẻo trời?

Đáp: Trời là một loại bạn bè, cho đến nói rộng.

Hỏi: Vì sao nẻo ấy gọi là trời?

Đáp: Ở trong các nẻo thì nẻo này là tối thắng, tối lạc, tối thiện, tối diệu, tối cao, nên gọi là nẻo trời.

Có thuyết nói: Do trước đã tạo tác làm tăng trưởng hành diệu bậc thượng nơi thân ngữ ý nên đi đến nẻo ấy, sinh nơi nẻo ấy, khiến sự sống ở đó nối tiếp, nên gọi là nẻo trời.

Có thuyết cho: Trời là giả danh, giả tưởng, cho đến nói rộng.

Có thuyết nêu: Sáng tỏ tăng nên gọi là trời. Do nơi ấy tự nhiên thân có ánh sáng tỏa chiếu luôn cả đêm ngày.

Phái Thanh Luận nói: Có thể chiếu sáng, nên gọi là trời. Quả thù thắng chiếu sáng hiện có là do nhân đã tu từ trước. Lại nữa, vui thích nên gọi là trời, do luôn vui chơi, thọ hưởng an lạc thù thắng.

Hỏi: Chư Thiên trụ ở xứ nào?

Đáp: Trời Tứ đại vương chúng trụ nơi bảy núi vàng và trên bốn tầng cấp của núi Diệu Cao, trụ trong mặt trời, mặt trăng, các vì sao. Trời Ba Mươi Ba trụ nơi đỉnh núi Diệu Cao. Từ trời Dạ ma cho đến trời Sắc cứu cánh đều trụ nơi không trung, trong lớp mây dày kín như đất, đều ở trong cung điện của mình. Về sai biệt đã nói rộng như trong Chương Đại Chủng Uẩn. Các trời nơi cõi vô sắc không có hình sắc, nên không có trụ xứ riêng.

Hỏi: Hình tướng của chư Thiên như thế nào?

Đáp: Hình tướng đứng thẳng.

Hỏi: Về ngôn ngữ như thế nào?

Đáp: Đều nói Thánh ngữ.

Đã nói về năm nẻo, mỗi mỗi có sai biệt, trong ấy có A-tố-lạc (A-tố-lạc), nay sẽ nói. Có Bộ khác lập A-tố-lạc làm nẻo thứ sáu. Không nên nói như vậy, vì Khế kinh chỉ nói có năm nẻo.

Hỏi: Vì sao gọi là A-tố-lạc?

Đáp: Tố-lạc là trời, vì họ không phải là trời nên gọi là A-tố-lạc.

Lại nữa, Tố-lạc gọi là đoan nghiêm. Loại hữu tình kia không đoan nghiêm, nên gọi là A-tố-lạc. Do họ ganh ghét chư Thiên khiến thân hình có được không đoan nghiêm.

Lại nữa, Tố-lạc gọi là đồng loại, vì loài này trước cùng ở gần với chư Thiên, nhưng loại không đồng, nên gọi là A-tố-lạc. Nghĩa là thế giới khi mới thành lập, các A-tố-lạc trước ở trên đỉnh Tô-mê-lô. Về sau, có trời Cực quang tịnh thọ mạng, nghiệp, phước đều hết, nên từ cõi trời kia mất, sinh vào nơi ấy có cung điện thắng diệu tự nhiên hiện ra. Các A-tố-lạc sinh tâm giận ghét, nên liền tránh đi. Sau đấy lại có trời thứ hai sinh vào chốn ấy, nên A-tố-lạc lại dời chỗ ở. Như thế cho đến khi trời Ba Mươi Ba có mặt khắp đỉnh núi Diệu Cao, thứ lớp mà trụ, khiến A-tố-lạc hết sức giận dữ, tức liền thoái lui. Nhưng các Thiên chúng từ lúc mới sinh đều chỉ A-tố-lạc nói: Đó không phải là loại của ta. Đây không phải là loại của ta. Do đó lần lượt gọi là không phải đồng loại. Lại do sinh tâm giận ghét nên hình dáng không đoan nghiêm. Tức do đó nên gọi là không đoan nghiêm.

Hỏi: Các A-tố-lạc thoái lui trụ nơi xứ nào?

Đáp: Có thuyết nói: Trong núi Diệu Cao có một khoảng trống như cái chậu báu úp xuống, bên trong có thành, là trụ xứ của A-tố-lạc.

Hỏi: Vì sao trong kinh nói A-tố-lạc cho là: Chỗ ta ở đồng một vị mặn với biển?

Đáp: Bộ phận làng xóm của họ trụ trong biển mặn, còn vua A-tố-lạc thì trụ trong núi kia.

Có thuyết nói: Trong biển mặn lớn có kim luân, bên trên có đài vàng, cao rộng năm trăm do-tuần, trên đài có thành, đó là chỗ ở của A-tố-lạc.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao Luận Thi Thiết nói: Nơi biển bên trong các Rồng thấy quân của A-tố-lạc mặc áo giáp bằng Phệ-lưu-ly, Phả-chi-ca, vàng, bạc, tay cầm đủ loại binh khí bằng vàng, bạc v.v… từ thành của A-tố-lạc đi ra, liền báo cho chư Thiên?

Đáp: Trời dùng các Rồng ở trên núi vàng để phòng vệ, tuần tra. Khi họ từ xa nhìn xa thấy quân A-tố-lạc từ nơi thành trong biển mặn lớn đi ra, liền báo cho Thiên chúng.

Như trời Ba Mươi Ba có bốn vườn đẹp là Chúng Xa, Thô Ố, Tạp Lâm, Hỷ Lâm, vua A-tố-lạc cũng có bốn vườn là Khánh Duyệt, Hoan Hỷ, Cực Hỷ, Khả Ái.

Như trời Ba Mươi Ba có cây Ba-lợi-dạ-đát-la, vua A-tố-lạc cũng có cây Chất-đát-la-ba-trá-lê.

Như Đế thích làm chủ trời Ba Mươi Ba, Tỳ-ma-chất-đát-la làm chủ các A-tố-lạc.

Hỏi: Hình tướng của A-tố-lạc như thế nào?

Đáp: Thân hình đứng thẳng.

Hỏi: Ngôn ngữ như thế nào?

Đáp: Đều nói Thánh ngữ.

Hỏi: Các A-tố-lạc thuộc về nẻo nào?

Đáp: Có thuyết nói: Thuộc về nẻo trời.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao không thể nhập chánh tánh ly sinh?

Đáp: Do tâm quanh co che lấp.

Hỏi: Sự việc đó như thế nào?

Đáp: A-tố-lạc luôn nghi Phật là cùng bè nhóm với chư Thiên. Nếu Đức Phật vì các A-tố-lạc giảng nói bốn niệm trụ, thì họ nghĩ Đức Phật giảng nói bốn niệm trụ cho chúng ta, tất giảng nói năm niệm trụ cho chư Thiên. Cho đến nếu Đức Phật giảng nói ba mươi bảy pháp trợ đạo cho A-tố-lạc, thì họ nghi là Đức Phật giảng nói cho mình ba mươi bảy, giảng nói cho chư Thiên là ba mươi tám. Do tâm quanh co dối trá như vậy che lấp nên A-tố-lạc không thể nhập chánh tánh ly sinh.

Lại nữa, không thể cho do không có khả năng nhập chánh tánh ly sinh, nên liền cho A-tố-lạc là thuộc về nẻo ác. Như các người Đạtnoa và Miệt-lệ-xa cũng không thể nhập chánh tánh ly sinh, nhưng không thuộc về nẻo ác, thì A-tố-lạc cũng nên như thế.

Nên nói như vầy: Là thuộc về nẻo quỷ.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao kinh nói: Đế thích nói với vua A-tố-lạc Tỳ-ma-chất-đát-la: Ông vốn là trời của xứ này?

Đáp: Đế thích nên nói: Ông vốn là quỷ của xứ này, nhưng nói là trời là do tôn kính nhạc phụ nên nói lời ái ngữ ấy, lại khiến Thiết Chi nghe sinh hoan hỷ.

Hỏi: Nếu là quỷ vì sao cùng với chư Thiên giao thân?

Đáp: Chư Thiên tham sắc đẹp nên không quan tâm tới tộc họ. Như Thiết Chi, con gái của vua A-tố-lạc, xinh đẹp bậc nhất, thế nên Đế thích thâu nạp làm vợ. Cũng như con gái của vua Khẩn-nại-lạc Đại Thọ tên là Đoạt Ý xinh đẹp vô song, tuy thuộc nẻo bàng sinh, nhưng thái tử của vua Tô-mê là Bồ-tát Tô-đạt-na đã cầu hôn làm vợ. Đây cũng như vậy.

Hỏi: Vì sao lại có thể cùng với chư Thiên chiến đấu?

Đáp: Do cũng có sự việc kẻ kém và người hơn cùng tranh nhau, như đầy tớ cùng với chủ tranh chấp v.v…

Hỏi: Cũng có những người được tôn thờ là trời như thần Phiệtlật-đạt-na, thần Chiên-trĩ-ca, thần Chiên-đồ-lý-ca, thần Bố-thíchnoa-bạt-đạt-la, thần Ma-ni-bạt-đạt-la, thần Ha-lợi-để, thần Mạt-độtắc-kiến-đà. Chư vị ấy thuộc về nẻo trời hay nẻo quỷ?

Nếu thuộc về nẻo trời thì vì sao đoạt tinh khí của người, cũng đoạn mạng người, nhận vật tế cúng của người? Vì chư Thiên luôn xem thức ăn uống của loài người như phẩn uế, không nên tham ăn, làm sao cho là thơm ngon.

Nếu là nẻo quỷ thì thần Ha-lợi-để nói tụng làm sao thông? Như nói:

Khả ái, ông nên im

Ốt-đát-la cũng vậy

Nếu khi tôi kiến đế

Cũng khiến ông cùng thấy.

Điều thần Mạt-độ-tắc-kiến-đà đã nói làm sao thông? Như nói: Trưởng giả chớ nên sợ hãi! Đời trước tôi là Mạt-độ-tắc-kiến-đà, là bạn thân với trưởng giả, nay sinh trong trời Tứ đại vương chúng, luôn trụ bên trên cửa Thỉ-phược-ca này để bảo vệ cho mọi người.

Đáp: Có thuyết nói: Họ thuộc về nẻo trời.

Hỏi: Nếu như vậy vì sao đoạt tinh khí của người? Cũng đoạn mạng người? Cũng nhận vật cúng tế của người?

Đáp: Chư vị kia không làm sự việc ấy, chỉ đám quỷ thần do họ nhận lãnh, chúng mới làm các việc như đoạt tinh khí của người v.v…

Nên nói như vầy: Họ thuộc về nẻo quỷ.

Hỏi: Nếu thế lời tụng của thần Ha-lợi-để làm sao thông?

Đáp: Vị kia đối với đế là ngu tối, thật sự không thể thấy, nhưng do tin sâu nên nói ra lời ấy. Lại, bấy giờ nghe nói Tứ đế đã khởi tăng thượng mạn sinh tưởng kiến đế, nên nói như thế.

Hỏi: Còn điều thần Mạt-độ-tắc-kiến-đà đã nói làm sao thông?

Đáp: Vị kia đối với nẻo là ngu tối, thật sự không thể biện giải, nhưng do tự cao nên nói ta sinh nơi trời. Như đời nay, kẻ giàu có đối với đám tôi tớ luôn tự xưng mình là bậc cao quý. Vị kia cũng như vậy. Lại, ông ta thờ phụng trời Tứ đại vương chúng, rồi gồm thâu tự thân đồng với việc làm, nên nói như vậy.

Các thần dựa nơi đất trụ, như Cưu bạn đồ, Dược xoa, La sát bà, Yết trá bố đát na v.v… đều thuộc về nẻo quỷ. Hoặc Khẩn nại lạc, Tất xá già, Hê lô, Sách ca bà lộ ni, Chiết la phả lặc, Lũ la v.v… đều thuộc nẻo bàng sinh, thân hình của những loại này tuy là đứng thẳng, những vẫn còn có tướng bàng sinh, như tai nhọn hoặc có sừng, hoặc cầm trượng hiểm, hoặc mang đầu chim thú, hoặc còn đủ móng vuốt của bàng sinh, cho nên thuộc về nẻo bàng sinh.

Trong đây, bốn nẻo trước chỉ thuộc cõi dục, nên dựa vào định vị chí diệt. Nẻo trời thì dựa nơi bảy, hoặc vị chí diệt, nhưng nẻo trời thuộc chín địa. Thuộc cõi dục là dựa nơi định vị chí diệt. Cho đến thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ là dựa nơi bảy căn bản, định vị chí, tĩnh lự trung gian diệt.

Trong đây đã nói về định: Có thuyết nói: Là vô lậu. Có thuyết nói: Là hữu lậu, vô lậu. Như trước đã phân biệt.

Ở đây đã nói về diệt: Nếu nói ở đây dựa nơi chủng loại diệt để nói, thì thuyết kia nói: Nêu định vị chí là gồm thâu định vị chí, tĩnh lự trung gian, cận phần của bảy địa trên. Ở trong định vị chí gồm thâu hữu lậu, vô lậu, dựa vào đấy có thể diệt nẻo trời thuộc cõi dục cho đến thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Nếu nói ở đây dựa vào cứu cánh diệt để nói, thì thuyết kia nói: Nêu vị chí là gồm thâu định vị chí, tĩnh lự trung gian. Ở trong định vị chí chỉ gồm thâu vô lậu, dựa vào đấy có thể diệt nẻo trời thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

Do vậy nên nói dựa vào bảy, hoặc vị chí diệt.

HẾT – QUYỂN 172